HIẾN PHÁP
NƯỚC
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 1980
LỜI NÓI ĐẦU
Trải qua bốn nghìn năm lịch sử,
nhân dân Việt Nam lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm để dựng nước và giữ nước.
Cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ vì độc lập, tự do đã hun đúc nên truyền thống
kiên cường, bất khuất của dân tộc ta.
Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đi con đường
của Cách mạng tháng Mười Nga, nhân dân ta đã lần lượt chiến thắng bọn đế quốc
Nhật, Pháp, Mỹ và bè lũ tay sai của chúng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nước ta từ một nước thuộc địa và nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, thống
nhất và xã hội chủ nghĩa, một thành viên của Cộng đồng xã hội chủ nghĩa thế giới.
Năm 1945, sau khi quân đội Liên
Xô đánh thắng chủ nghĩa phát xít, nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng Tám thành
công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập. Nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á, ra đời.
Nhưng thực dân Pháp, được đế quốc
Mỹ giúp sức, đã xâm lược nước ta một lần nữa. "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", nhân dân ta
kháng chiến lâu dài chống quân xâm lược, thực hiện cải cách ruộng đất. Chiến thắng
vĩ đại Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết trên cơ sở công nhận độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám và của cuộc kháng chiến chống Pháp mở đầu thời kỳ sụp đổ của chủ
nghĩa thực dân cũ trên thế giới.
Thay chân thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, âm
mưu chia cắt lâu dài nước ta, đặt miền Nam Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia vào phòng
tuyến phản cách mạng của Mỹ. Để thực hiện kế hoạch đó, đế quốc Mỹ đã tiến hành
một cuộc chiến tranh xâm lược cực kỳ man rợ đối với nước ta. Thấm nhuần chân lý
"không có gì quý hơn độc lập, tự do", nhân dân ta chiến đấu anh dũng,
quyết giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Chiến thắng dồn
dập của nhân dân Việt Nam, cùng với chiến thắng của nhân dân Lào và nhân dân
Cam-pu-chia, đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri năm 1973 về Việt Nam.
Mùa xuân năm 1975, nhân dân Việt
Nam giành được thắng lợi trọn vẹn trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mà đỉnh
cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau ba mươi năm chiến đấu gian khổ, miền
Nam, thành đồng Tổ quốc, được hoàn toàn giải phóng.
Trong khi toàn dân ta kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã đạt được những
thành tựu to lớn: thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ
người bóc lột người, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hoá, vừa xây dựng vừa chiến đấu,
làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ đối với miền Nam
anh hùng.
Thắng lợi của nhân dân ba nước
Đông Dương nói chung và thắng lợi của nhân dân Việt Nam nói riêng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ báo hiệu sự phá sản hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân mới,
góp phần củng cố và mở rộng hệ thống thế giới của chủ nghĩa xã hội, cổ vũ phong
trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và dân chủ, đẩy mạnh thế tiến
công của ba dòng thác cách mạng của thời đại.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải
phóng, nhân dân ta tiến hành tổng tuyển cử tự do trong cả nước, thực hiện thống
nhất Tổ quốc. Tháng 7 năm 1976, nước ta lấy tên là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Vừa trải qua ba mươi năm chiến
tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hoà bình để xây dựng Tổ quốc,
nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay
sai của chúng ở Cam-pu-chia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và
dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc chống bọn phản động Cam-pu-chia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền
Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của mình.
Cách mạng Việt Nam liên tiếp
giành được thắng lợi to lớn là do Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng một cách sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch ra đường lối đúng đắn để lãnh đạo cách mạng nước
ta; giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; củng cố liên
minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo; đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp
nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng và phát triển lực lượng vũ
trang nhân dân; không ngừng củng cố chính quyền cách mạng; kết hợp chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, phối hợp sức mạnh của nhân dân ta với
phong trào cách mạng của nhân dân thế giới; kết hợp đấu tranh chính trị, đấu
tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao.
Đó là thắng lợi của lòng yêu nước
nồng nàn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần hy sinh không bờ bến của đồng
bào và chiến sĩ cả nước một lòng một dạ vì sự nghiệp giải phóng, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Đó là thắng lợi của tình đoàn kết
chiến đấu và quan hệ hợp tác giúp nhau giữa nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và
Cam-pu-chia; thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu, sự viện trợ to lớn và có hiệu
quả của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đối với cách mạng Việt
Nam; thắng lợi của các lực lượng độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình trên thế
giới đã tích cực ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Đồng bào ta trải qua biết bao hy
sinh, gian khổ mới có ngày nay! Tiền đồ hết sức vẻ vang, nhưng nhiệm vụ rất nặng
nề. Toàn dân ta quyết tăng cường đoàn kết, thực hiện Di chúc thiêng liêng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, hăng hái tiến lên theo đường lối mà Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra:
"Nắm vững chuyên chính vô sản,
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc
cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng
tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc
hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an
ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà
bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội".
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam cần có một bản Hiến pháp thể chế hoá đường lối của Đảng cộng sản Việt
Nam trong giai đoạn mới. Đó là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trong phạm vi cả nước.
Kế thừa và phát triển Hiến pháp
năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp này tổng kết và xác định những thành
quả đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỷ qua, thể hiện ý
chí và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, bảo đảm bước phát triển rực rỡ của xã
hội Việt Nam trong thời gian tới.
Là luật cơ bản của Nhà nước, Hiến
pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của các cơ quan
Nhà nước. Nó thể hiện mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà
nước quản lý trong xã hội Việt Nam.
Toàn thể nhân dân Việt Nam đoàn
kết chặt chẽ dưới lá cờ bách chiến bách thắng của Đảng cộng sản Việt Nam, ra sức
thi hành Hiến pháp, giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chương
1:
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM - CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
Điều 1
Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo.
Điều 2
Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử
của Nhà nước đó là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động
viên và tổ chức nhân dân tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về
quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá,
trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; xoá bỏ chế độ người bóc lột
người; đập tan mọi sự chống đối của bọn phản cách mạng trong nước, mọi hành động
xâm lược và phá hoại của kẻ thù bên ngoài; xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội,
tiến tới chủ nghĩa cộng sản; góp phần củng cố hoà bình và đẩy mạnh sự nghiệp
cách mạng của nhân dân thế giới.
Điều 3
Ở nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người chủ tập thể là nhân dân lao động bao gồm
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ
nghĩa và những người lao động khác, mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai
cấp công nhân lãnh đạo. Nhà nước bảo đảm không ngừng hoàn chỉnh và củng cố chế
độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động về các mặt chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội; làm chủ trong phạm vi cả nước, từng địa phương, từng
cơ sở; làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân.
Điều
4
Đảng cộng
sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt
Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo
Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.
Các tổ chức của Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp.
Điều
5
Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt nam, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng
cố khối đại đoàn kết dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng
nói, chữ viết, giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và
văn hoá tốt đẹp của mình.
Nhà nước có kế hoạch xoá bỏ từng
bước sự chênh lệch giữa các dân tộc về trình độ phát triển kinh tế và văn hoá.
Điều
6
Ở nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà
nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân.
Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp là cơ sở chính trị của hệ thống cơ quan Nhà nước.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ.
Điều
7
Việc bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành theo nguyên tắc
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự
tín nhiệm của nhân dân.
Điều
8
Tất cả các
cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân,
liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân
dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền.
Điều
9
Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam - bao gồm các chính đảng, Tổng công đoàn Việt Nam, tổ chức liên
hiệp nông dân tập thể Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam và các thành viên khác của Mặt trận - là chỗ dựa vững chắc
của Nhà nước.
Mặt trận phát huy truyền thống
đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân
dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, giáo dục và động viên
nhân dân đề cao ý thức làm chủ tập thể, ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc.
Điều
10
Tổng công
đoàn Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng lớn nhất của giai cấp công nhân Việt
Nam, là trường học chủ nghĩa cộng sản, trường học quản lý kinh tế, quản lý Nhà
nước.
Trong phạm vi chức năng của
mình, công đoàn tham gia công việc Nhà nước và kiểm tra hoạt động của cơ quan
Nhà nước, tham gia quản lý xí nghiệp; giáo dục công nhân, viên chức; tổ chức
phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa; cùng với cơ quan Nhà nước chăm lo đời sống
và bảo đảm quyền lợi của công nhân, viên chức.
Điều
11
Tập thể
nhân dân lao động ở cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã, khu dân cư và các đơn vị cơ
sở khác tham gia công việc của Nhà nước và xã hội, xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế và văn hoá, bảo vệ của công, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng ở cơ sở.
Điều
12
Nhà nước
quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội, nhân viên Nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều
phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, kiên quyết đấu tranh để phòng
ngừa và chống các tội phạm, các việc làm vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Điều
13
Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa là thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
Mọi âm mưu và hành động chống lại
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đều bị nghiêm trị.
Điều
14
Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tăng cường tình hữu nghị anh em, tình đoàn kết
chiến đấu và quan hệ hợp tác về mọi mặt với Liên Xô, Lào, Cam-pu-chia và các nước
xã hội chủ nghĩa khác trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô
sản; bảo vệ và phát triển quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, đoàn kết với
nhân dân các nước đang đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; thực hiện
chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội
khác nhau trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng
có lợi; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống
chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Chương
2:
CHẾ ĐỘ KINH TẾ
Điều
15
Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ một xã hội mà nền kinh tế phổ biến là sản xuất
nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ quan giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa, xây dựng một xã hội có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và
khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh và hạnh
phúc.
Mục đích chính sách kinh tế của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật
chất và văn hoá ngày càng tăng của cả xã hội bằng cách không ngừng phát triển sản
xuất, tăng năng suất lao động xã hội, trên cơ sở chế độ làm chủ tập thể xã hội
chủ nghĩa và nền khoa học, kỹ thuật hiện đại.
Điều
16
Nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa nước nhà.
Nhà nước ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
kết hợp công nghiệp với nông nghiệp trong cả nước thành một cơ cấu công - nông
nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết
hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với thiết lập và hoàn thiện
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường
quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước anh em trong Cộng đồng xã hội chủ nghĩa
theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ
kinh tế với các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau,
bình đẳng và các bên cùng có lợi.
Điều
17
Nhà nước
quy định chế độ và thi hành những biện pháp cần thiết bảo đảm cho nhân dân lao
động sử dụng đầy đủ quyền làm chủ tập thể về tư liệu sản xuất và lực lượng lao
động, về sản xuất và phân phối, về khoa học và kỹ thuật, làm cho sự nghiệp phát
triển kinh tế thật sự là sự nghiệp của toàn dân.
Điều
18
Nhà nước
tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã
hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu
có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành
phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Kinh tế quốc doanh giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên.
Điều
19
Đất đai,
rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển
và thềm lục địa, các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
thương nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi
ích công cộng; hệ thống đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, đường
không; đê điều và công trình thuỷ lợi quan trọng; cơ sở phục vụ quốc phòng; hệ
thống thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, điện ảnh; cơ sở nghiên cứu
khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn hoá và xã hội cùng các tài sản khác mà pháp luật
quy định là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu toàn dân.
Điều
20
Nhà nước
thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng
hợp lý và tiết kiệm.
Những tập thể và cá nhân đang sử
dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy
định của pháp luật.
Tập thể hoặc cá nhân sử dụng đất
đai đều có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ và khai thác theo chính sách và kế hoạch
của Nhà nước.
Đất dành cho nông nghiệp và lâm
nghiệp không được dùng vào việc khác, nếu không được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cho phép.
Điều
21
Nhà nước
giữ độc quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác với nước ngoài.
Điều
22
Các cơ sở
kinh tế quốc doanh hoạt động theo phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước;
thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, chế độ thủ trưởng và chế độ trách nhiệm cá
nhân; bảo đảm việc công nhân, viên chức tham gia quản lý; nâng cao chất lượng sản
phẩm, chất lượng phục vụ và hiệu quả kinh tế; thực hành tiết kiệm; bảo đảm tích
luỹ cho Nhà nước và xí nghiệp; bảo vệ nghiêm ngặt tài sản Nhà nước; chăm lo cải
thiện điều kiện làm việc và đời sống của công nhân, viên chức.
Điều
23
Nhà nước
hướng dẫn và giúp đỡ kinh tế hợp tác xã phát triển.
Tài sản của hợp tác xã và các tổ
chức tập thể khác của nhân dân lao động được Nhà nước bảo vệ theo pháp luật.
Hợp tác xã kinh doanh theo
phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch của cả nước và của địa phương, bảo đảm không ngừng
phát triển sản xuất và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng thu nhập
và cải thiện đời sống của xã viên, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, đồng thời
tăng tích luỹ cho hợp tác xã.
Quyền làm chủ tập thể của xã
viên trong việc quản lý hợp tác xã phải được tôn trọng và phát huy.
Kinh tế phụ gia đình xã viên được
Nhà nước thừa nhận và bảo hộ theo pháp luật.
Điều
24
Nhà nước
khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nông dân cá thể, người làm nghề thủ công và
những người lao động riêng lẻ khác tiến lên con đường làm ăn tập thể, tổ chức hợp
tác xã sản xuất và các hình thức hợp tác, tương trợ khác theo nguyên tắc tự
nguyện.
Những người buôn bán nhỏ được hướng
dẫn và giúp đỡ chuyển dần sang sản xuất hoặc làm những nghề thích hợp khác.
Pháp luật quy định phạm vi được phép
lao động riêng lẻ trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công
nghiệp, mỹ nghệ, dịch vụ.
Điều
25
Ở nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tư
sản mại bản đều bị quốc hữu hoá không bồi thường.
Điều 26
Nhà nước
tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa ở
thành thị và nông thôn bằng những hình thức thích hợp.
Điều
27
Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở,
tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép
lao động riêng lẻ.
Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế
tài sản của công dân.
Điều
28
Khi thật
cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước có thể trưng mua, trưng dụng hoặc trưng
thu có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc của tập thể.
Thể thức trung mua, trưng dụng,
trưng thu do pháp luật quy định.
Điều
29
Nhà nước
căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá và củng cố quốc phòng mà phân bố
và sử dụng hợp lý lực lượng lao động xã hội trong cả nước, ở từng địa phương và
cơ sở.
Điều 30
Nhà nước
giáo dục và vận động toàn dân cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội; quy định và
kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng lực lượng lao động, vật tư và tiền vốn trong mọi
hoạt động kinh tế và quản lý Nhà nước.
Điều
31
Nhà nước
và các tổ chức kinh tế tập thể áp dụng nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, đồng thời tăng dần phúc lợi xã hội theo trình độ phát triển của nền
kinh tế quốc dân.
Điều
32
Nhà nước
phối hợp với công đoàn và các đoàn thể nhân dân khác, kết hợp giáo dục chính trị,
đề cao kỷ luật lao động với khuyến khích bằng lợi ích vật chất để đẩy mạnh
phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa.
Điều
33
Nhà nước
lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất; đề cao tinh thần trách
nhiệm, phát huy tính chủ động và tính sáng tạo của các cấp, các ngành, các đơn
vị cơ sở và cá nhân, để xây dựng và thực hiện kế hoạch Nhà nước; huy động mọi lực
lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên và cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước,
bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện, cân đối, vững chắc, với
nhịp độ nhanh và hiệu quả cao.
Điều
34
Nhà nước
tổ chức nền sản xuất xã hội theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; xây dựng
và hoàn thiện không ngừng hệ thống quản lý kinh tế; vận dụng đúng đắn các quy
luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội; áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ và
nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh
thổ; kết hợp lợi ích của Nhà nước, của tập thể và của người lao động; xây dựng
và bảo đảm tôn trọng pháp luật kinh tế.
Điều
35
Mọi hoạt
động đầu cơ, tích trữ, kinh doanh bất hợp pháp, làm rối loại thị trường, phá hoại
kế hoạch Nhà nước, tham ô, trộm cắp, hối lộ hoặc lãng phí, vô trách nhiệm gây
thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân đều bị pháp luật
nghiêm trị.
Điều
36
Các cơ
quan Nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều
có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống.
Chương
3:
VĂN HOÁ, GIÁO DỤC, KHOA
HỌC, KỸ THUẬT
Điều
37
Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá, xây dựng
nền văn hoá mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng
và tính nhân dân; xây dựng con người mới có ý thức làm chủ tập thể, yêu lao động,
quý trọng của công, có văn hoá, có kiến thức khoa học, kỹ thuật, có sức khoẻ,
yêu nước xã hội chủ nghĩa và có tinh thần quốc tế vô sản.
Điều
38
Chủ nghĩa
Mác - Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Nhà nước tuyên truyền, giáo dục
sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt
Nam, Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ
và phát triển những giá trị văn hoá và tinh thần của dân tộc, tiếp thụ tinh hoa
văn hoá thế giới; chống các tư tưởng phong kiến, tư sản và ảnh hưởng của văn
hoá đế quốc, thực dân; phê phán tư tưởng tiểu tư sản; xây dựng nếp sống xã hội
chủ nghĩa, xoá bỏ nếp sống lạc hậu, bài trừ mê tín dị đoan.
Điều
39
Nhà nước
chăm lo việc tăng cường cơ sở vật chất, quy định chế độ và thi hành những biện
pháp cần thiết nhằm bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về văn
hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật; phát huy tính tích cực và tính sáng tạo của
nhân dân; làm cho sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới và con người mới thật sự
là của toàn dân và tạo điều kiện để toàn dân được hưởng những thành tựu tốt đẹp
của văn hoá dân tộc và văn hoá thế giới.
Điều
40
Nền giáo
dục Việt Nam không ngừng được phát triển và cải tiến theo nguyên lý học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội,
nhằm đào tạo có chất lượng những người lao động xã hội chủ nghĩa và bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau.
Điều
41
Sự nghiệp
giáo dục do Nhà nước thống nhất quản lý.
Nhà nước chăm lo phát triển cân
đối hệ thống giáo dục: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên
nghiệp, giáo dục đại học; phát triển các trường dạy nghề, trường vừa học vừa làm,
hệ thống học tại chức; hoàn thành thanh toán nạn mù chữ, tăng cường công tác bổ
túc văn hoá, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và nghề nghiệp của toàn dân.
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, gia đình và xã hội cùng với nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng.
Điều
42
Nhà nước
đẩy mạnh cách mạng khoa học - kỹ thuật nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tăng
năng suất lao động, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, nâng
cao đời sống nhân dân và củng cố quốc phòng, xây dựng nền khoa học, kỹ thuật
tiên tiến của nước ta.
Điều
43
Khoa học
xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật được phát triển mạnh mẽ.
Nhà nước chăm lo việc phổ biến
và giáo dục khoa học và kỹ thuật; gắn liền việc giảng dạy, nghiên cứu với sản
xuất, đời sống và quốc phòng; phát triển và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ quản
lý, cán bộ khoa học, cán bộ và công nhân kỹ thuật; khuyến khích nghiên cứu,
sáng chế, phát minh; chú trọng nghiên cứu ứng dụng; phát huy tinh thần tự lực tự
cường, chủ động, sáng tạo, đồng thời vận dụng những thành tựu khoa học và kỹ
thuật tiên tiến của thế giới; tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học, kỹ thuật.
Điều
44
Văn học,
nghệ thuật Việt Nam được xây dựng trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin và theo đường lối văn nghệ của Đảng cộng sản Việt Nam.
Các hoạt động văn nghệ chuyên
nghiệp và không chuyên nghiệp đều được khuyến khích phát triển, nhằm giáo dục
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm
cách mạng, nâng cao trình độ thẩm mỹ và thoả mãn nhu cầu về văn hoá của nhân
dân.
Điều
45
Công tác
thông tin, báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình, điện ảnh được
phát triển và không ngừng nâng cao về trình độ chính trị, tư tưởng và nghệ thuật,
nhằm hướng dẫn dư luận xã hội, giáo dục chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật
và động viên toàn dân ra sức thi đua xã hội chủ nghĩa.
Điều
46
Các di
tích lịch sử và văn hoá, các công trình mỹ thuật công cộng, các danh lam, thắng
cảnh được tu bổ và bảo vệ.
Công tác bảo tồn, bảo tàng được
chú trọng.
Điều
47
Nhà nước
chăm lo bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân; xây dựng nền y học Việt nam
theo phương hướng dự phòng; kết hợp y học, dược học hiện đại với y học, dược học
cổ truyền của dân tộc, kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh, lấy phòng bệnh là
chính; kết hợp phát triển y tế Nhà nước với phát triển y tế nhân dân đến tận cơ
sở.
Nhà nước và xã hội bảo vệ bà mẹ
và trẻ em; vận động sinh đẻ có kế hoạch.
Điều
48
Nền thể dục,
thể thao Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và nhân dân, được phát triển mạnh
mẽ, cân đối, nhằm tăng cường sức khoẻ và bồi dưỡng thể lực của nhân dân để xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 49
Du lịch
được khuyến khích và tổ chức chu đáo.
Chương
4:
BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
Điều
50
Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện
đại trên cơ sở kết hợp xây dựng Tổ quốc với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của
lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền
thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Điều
51
Các lực
lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ những
thành quả của cách mạng, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tự do, hạnh phúc và lao
động hoà bình của nhân dân, cùng toàn dân xây dựng nước nhà.
Điều
52
Nhà nước
phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, thực
hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp quốc phòng, huy động nhân lực,
vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng
cường khả năng bảo vệ đất nước.
Tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp
luật quy định.
Chương
5:
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN
CỦA CÔNG DÂN
Điều
53
Công dân
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam theo luật
định.
Điều 54
Quyền và
nghĩa vụ của công dân thể hiện chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kết
hợp hài hoà những yêu cầu của cuộc sống xã hội với tự do chân chính của cá nhân,
bảo đảm sự nhất trí về lợi ích giữa Nhà nước, tập thể và cá nhân theo nguyên tắc
mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người.
Quyền của công dân không tách rời
nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước bảo đảm các quyền của
công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội.
Điều
55
Mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Điều
56
Công dân
có quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội.
Điều
57
Công dân
không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình
độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền
bầu cử và từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Toà
án nhân dân tước các quyền đó.
Điều
58
Lao động
là quyền, nghĩa vụ và vinh dự hàng đầu của công dân.
Công dân có quyền có việc làm.
Người có sức lao động phải lao động theo quy định của pháp luật.
Nhà nước dựa vào kế hoạch phát
triển kinh tế và văn hoá mà tạo thêm việc làm, sắp xếp công việc căn cứ vào
năng lực, nguyện vọng cá nhân và yêu cầu của xã hội, nâng cao trình độ nghề
nghiệp, bồi dưỡng sức lao động, không ngừng cải thiện điều kiện làm việc của
lao động chân tay và lao động trí óc.
Nhà nước quy định và bảo đảm thực
hiện các chế độ nhằm đề phòng tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Điều 59
Người lao
động có quyền nghỉ ngơi.
Nhà nước quy định thời gian lao
động, chế độ an dưỡng và nghỉ ngơi của công nhân, viên chức.
Công nhân, viên chức khi về hưu,
già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.
Nhà nước mở rộng dần sự nghiệp bảo
hiểm xã hội theo trình độ phát triển của nền kinh tế quốc dân và bảo đảm cho
người lao động được hưởng quyền lợi đó.
Nhà nước hướng dẫn các hợp tác
xã thực hiện từng bước chế độ bảo hiểm xã hội đối với xã viên.
Điều
60
Học tập
là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước thực hiện từng bước chế
độ giáo dục phổ thông bắt buộc, thực hiện chế độ học không phải trả tiền và
chính sách cấp học bổng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân học tập.
Điều
61
Công dân
có quyền được bảo vệ sức khoẻ.
Nhà nước thực hiện chế độ khám bệnh
và chữa bệnh không phải trả tiền.
Điều
62
Công dân
có quyền có nhà ở.
Nhà nước mở rộng việc xây dựng
nhà ở, đồng thời khuyến khích, giúp đỡ tập thể và công dân xây dựng nhà ở theo
quy hoạch chung, nhằm thực hiện từng bước quyền đó. Việc phân phối diện tích
nhà ở do Nhà nước quản lý phải công bằng, hợp lý.
Điều
63
Phụ nữ và
nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và
gia đình.
Nhà nước và xã hội chăm lo nâng
cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ,
không ngừng phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội.
Nhà nước có chính sách lao động
phù hợp với điều kiện của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới việc làm như nhau thì tiền
lương ngang nhau. Phụ nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng
nguyên lương nếu là công nhân, viên chức, hoặc hưởng phụ cấp sinh đẻ nếu là xã
viên hợp tác xã.
Nhà nước và xã hội chăm lo phát
triển các nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà ăn công cộng và những cơ sở
phúc lợi xã hội khác, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ sản xuất, công tác, học
tập và nghỉ ngơi.
Điều 64
Gia đình
là tế bào của xã hội.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia
đình.
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện,
tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con
cái thành những công dân có ích cho xã hội. Con cái có nghĩa vụ kính trọng và
chăm sóc cha mẹ.
Nhà nước và xã hội không thừa nhận
sự phân biệt đối xử giữa các con.
Điều
65
Nhà nước
và xã hội chú trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng, mở rộng
dần việc đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho sinh hoạt, học tập và trưởng thành
của trẻ em được bảo đảm.
Điều
66
Nhà nước
và xã hội tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động và giải trí, phát triển
trí tuệ, năng khiếu và thể lực; chăm lo bồi dưỡng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên.
Thanh niên phải làm tròn nhiệm vụ
lực lượng xung kích trong phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, trong cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật,
cách mạng tư tưởng và văn hoá.
Điều
67
Công dân
có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự
do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân.
Nhà nước tạo điều kiện vật chất
cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó.
Không ai được lợi dụng các quyền
tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.
Điều
68
Công dân
có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Không ai được lợi dụng tôn giáo
để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Điều
69
Công dân
có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
Không ai có thể bị bắt, nếu
không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân.
Việc bắt và giam giữ người phải
theo đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức,
nhục hình.
Điều 70
Công dân
có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm.
Điều
71
Công dân
có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở của
người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.
Việc khám xét chỗ ở phải do đại diện cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành,
theo quy định của pháp luật.
Bí mật thư tín, điện thoại, điện
tín được bảo đảm.
Quyền tự do đi lại và cư trú được
tôn trọng, theo quy định của pháp luật.
Điều
72
Công dân
có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, sáng tác văn học, nghệ thuật và tham
gia các hoạt động văn hoá khác.
Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ
công dân theo đuổi sự nghiệp khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật nhằm phục
vụ đời sống, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bồi
dưỡng, phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân.
Quyền lợi của tác giả và của người
sáng chế, phát minh được bảo đảm.
Điều
73
Công dân
có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc
làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó.
Các điều khiếu nại và tố cáo phải
được xem xét và giải quyết nhanh chóng.
Mọi hành động xâm phạm quyền lợi
chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người
bị thiệt hại có quyền được bồi thường.
Nghiêm cấm việc trả thù người
khiến nại, tố cáo.
Điều
74
Nhà nước
thực hiện chính sách ưu đãi đối với thương binh và gia đình liệt sĩ, tạo điều
kiện cho thương binh phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức
khoẻ và có cuộc sống ổn định.
Những người và những gia đình có
công với cách mạng được khen thưởng và chăm sóc.
Người già và người tàn tật không
nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.
Trẻ mồ côi được Nhà nước và xã hội
nuôi dạy.
Điều
75
Nhà nước
bảo hộ quyền lợi chính đáng của Việt kiều.
Điều
76
Công dân
phải trung thành với Tổ quốc.
Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất
đối với dân tộc.
Điều
77
Bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.
Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ
quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.
Điều
78
Công dân
có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, bảo vệ an ninh chính
trị và trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật Nhà nước, tôn trọng những quy tắc
của cuộc sống xã hội chủ nghĩa.
Điều
79
Tài sản
xã hội chủ nghĩa là thiêng liêng, không ai được xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ
tôn trọng và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.
Điều
80
Công dân
có nghĩa vụ đóng thuế và tham gia lao động công ích theo quy định của pháp luật.
Điều
81
Những người
nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ
và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phép cư trú.
Chương
6:
QUỐC HỘI
Điều
82
Quốc hội
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính
sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn
hoá, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan
hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Điều
83
Quốc hội
có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến
pháp.
2- Làm luật và sửa đổi luật.
3- Thực hiện quyền giám sát tối
cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
4- Quyết định kế hoạch Nhà nước
và phê chuẩn việc thực hiện kế hoạch Nhà nước.
5- Quyết định dự toán ngân sách
Nhà nước và phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước.
6- Quy định tổ chức của Quốc hội,
Hội đồng Nhà nước, Hội đồng bộ trưởng, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân,
Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân.
7- Bầu và bãi miễn Chủ tịch, các
Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Nhà nước; Chủ tịch, các Phó Chủ
tịch và các thành viên khác của Hội đồng bộ trưởng; Chánh án Toà án nhân dân tối
cao; Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
8- Quyết định việc thành lập hoặc
bãi bỏ các bộ, các Uỷ ban Nhà nước.
9- Xét báo cáo công tác của Hội đồng
Nhà nước, của Hội đồng Bộ trưởng, của Toà án nhân dân tối cao và của Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
10- Quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ
các thứ thuế.
11- Quyết
định việc phân vạch địa giới các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị
hành chính tương đương.
12- Quyết định đại xá.
13- Quyết định vấn đề chiến
tranh và hoà bình.
14- Quyết định giao cho các tổ
chức xã hội việc thực hiện một số nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý của Nhà nước.
15- Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những
hiệp ước quốc tế theo đề nghị của Hội đồng Nhà nước.
Quốc hội có thể định cho mình những
nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết.
Điều
84
Nhiệm kỳ
của mỗi khoá Quốc hội là năm năm.
Hai tháng trước khi Quốc hội hết
nhiệm kỳ, phải bầu xong Quốc hội khoá mới. Thể lệ bầu cử và số đại biểu Quốc hội
do luật định.
Trong trường hợp đặc biệt, Quốc
hội có thể quyết định kéo dài nhiệm kỳ của mình và quyết định những biện pháp cần
thiết bảo đảm hoạt động của Quốc hội.
Điều
85
Quốc hội
họp thường lệ mỗi năm hai kỳ, do Hội đồng Nhà nước triệu tập.
Hội đồng Nhà nước có thể triệu tập
Quốc hội họp bất thường theo quyết định của mình, theo yêu cầu của Hội đồng bộ
trưởng hoặc của ít nhất là một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội.
Quốc hội khoá mới được triệu tập
chậm nhất là hai tháng sau cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội.
Kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc
hội do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước khai mạc. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước chủ toạ
các phiên họp cho đến khi bầu Chủ tịch Quốc hội khoá mới.
Điều
86
Hội đồng
Nhà nước, Hội đồng bộ trưởng, Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng quốc phòng, Hội đồng
dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, Toà án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
chính đảng, Tổng công đoàn Việt Nam, tổ chức liên hiệp nông dân tập thể Việt
Nam, Đoàn thành niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam có quyền
trình dự án luật ra trước Quốc hội.
Điều
87
Các luật
và nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết
tán thành, trừ trường hợp sửa đổi Hiến pháp quy định ở Điều 147.
Các luật phải được công bố chậm
nhất là mười lăm ngày sau khi đã được Quốc hội thông qua.
Điều
88
Quốc hội
bầu ra Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội và căn cứ vào báo cáo của Uỷ
ban đó mà quyết định xác nhận tư cách đại biểu của các đại biểu Quốc hội.
Điều
89
Quốc hội
bầu ra Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội. Số Phó Chủ tịch do Quốc hội định.
Chủ tịch Quốc hội chủ toạ các
phiên họp của Quốc hội; bảo đảm việc thi hành nội quy của Quốc hội; giữ quan hệ
với các đại biểu Quốc hội; điều hoà và phối hợp hoạt động của các Uỷ ban của Quốc
hội; chứng thực những luật và những nghị quyết đã được Quốc hội thông qua; thực
hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.
Các Phó Chủ tịch giúp Chủ tịch
Quốc hội thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn trên đây.
Chủ tịch Quốc hội có quyền tham
dự các phiên họp của Hội đồng Nhà nước.
Điều
90
Quốc hội
bầu ra Hội đồng quốc phòng.
Hội đồng quốc phòng động viên mọi
lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc.
Trong trường hợp có chiến tranh,
Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước có thể giao cho Hội đồng quốc phòng những nhiệm
vụ và quyền hạn đặc biệt.
Điều
91
Quốc hội
bầu ra Hội đồng dân tộc.
Hội đồng dân tộc nghiên cứu và
kiến nghị với Quốc hội và Hội đồng Nhà nước những vấn đề dân tộc; giúp Quốc hội
và Hội đồng Nhà nước giám sát việc thi hành chính sách dân tộc.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc có quyền
tham dự các phiên họp của Hội đồng Nhà nước.
Điều
92
Quốc hội
thành lập các Uỷ ban thường trực của Quốc hội.
Các Uỷ ban thường trực nghiên cứu,
thẩm tra những dự án luật, dự án pháp lệnh và dự án khác hoặc những báo cáo mà
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước giao cho; kiến nghị với Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ ban; giúp Quốc hội và Hội đồng
Nhà nước thực hiện quyền giám sát.
Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội
và Hội đồng Nhà nước có thể thành lập các Uỷ ban lâm thời để làm những nhiệm vụ
nhất định.
Điều
93
Hội đồng
quốc phòng, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội có quyền yêu cầu các
thành viên của Hội đồng bộ trưởng và những nhân viên hữu quan khác trình bày hoặc
cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Những người được yêu cầu có trách
nhiệm đáp ứng yêu cầu đó.
Điều
94
Đại biểu
Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện
chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội, trả
lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri, xem xét và giúp giải quyết những điều
khiếu nại và tố cáo của nhân dân.
Đại biểu Quốc hội tuyên truyền,
phổ biến pháp luật và chính sách của Nhà nước, động viên nhân dân tham gia quản
lý Nhà nước.
Điều
95
Đại biểu
Quốc hội có quyền chất vấn Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên của Hội đồng Bộ
trưởng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao.
Cơ quan hoặc người bị chất vấn
phải trả lời trước Quốc hội trong kỳ họp của Quốc hội. Trong trường hợp cần điều
tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Hội đồng Nhà nước hoặc tại
kỳ họp sau của Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội có quyền kiến
nghị với các cơ quan Nhà nước. Những người phụ trách các cơ quan này có trách
nhiệm tiếp đại biểu, xem xét và giải quyết những kiến nghị của đại biểu.
Điều
96
Không có
sự đồng ý của Quốc hội và, trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng
ý của Hội đồng Nhà nước, thì không được bắt giam và truy tố đại biểu Quốc hội.
Nếu vì phạm pháp quả tang mà đại
biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội
hoặc Hội đồng Nhà nước xét và quyết định.
Điều
97
Các cơ
quan Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để đại biểu Quốc hội làm
nhiệm vụ đại biểu.
Chương 7:
HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
Điều
98
Hội đồng
Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập
thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hội đồng Nhà nước thực hiện những
nhiệm vụ và sử dụng những quyền hạn được Hiến pháp, các luật và nghị quyết của
Quốc hội giao cho, quyết định những vấn đề quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc, giám sát việc thi hành Hiến pháp, các luật, pháp lệnh,
nghị quyết của Quốc hội và của Hội đồng Nhà nước, giám sát hoạt động của bộ máy
Nhà nước.
Hội đồng Nhà nước, thông qua Chủ
tịch Hội đồng, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối
ngoại.
Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Điều
99
Hội đồng
Nhà nước, được bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, gồm có:
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước,
Các Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước,
Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước,
Các uỷ viên Hội đồng Nhà nước.
Số Phó Chủ tịch và uỷ viên Hội đồng
Nhà nước do Quốc hội định.
Thành viên của Hội đồng Nhà nước
không thể đồng thời là thành viên của Hội đồng Bộ trưởng.
Điều
100
Hội đồng
Nhà nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Tuyên bố và chủ trì việc bầu
cử đại biểu Quốc hội.
2- Triệu tập các kỳ họp của Quốc
hội.
3- Công bố luật.
4- Ra Pháp lệnh.
5- Giải thích Hiến pháp, luật và
pháp lệnh.
6- Quyết định việc trưng cầu ý
kiến nhân dân.
7- Giám sát công tác của Hội đồng
bộ trưởng, của Toà án nhân dân tối cao và của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao.
8- Đình chỉ việc thi hành và sửa
đổi hoặc bãi bỏ những Nghị quyết, Nghị định, Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng
trái với Hiến pháp, Luật và Pháp lệnh.
9- Giám sát và hướng dẫn hoạt động
của Hội đồng nhân dân các cấp, nhằm phát huy chức năng cơ quan đại biểu nhân
dân của Hội đồng nhân dân.
10- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những
nghị quyết không thích đáng của các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và cấp tương đương; giải tán các Hội đồng nói trên trong trường hợp
các Hội đồng đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của nhân dân.
11- Trong thời gian Quốc hội
không họp, quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, các Uỷ ban Nhà nước.
12- Trong thời gian Quốc hội
không họp, cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng,
các Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước.
13- Cử và bãi miễn các Phó Chánh
án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân tối cao; cử và bãi miễn
các Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
14- Bổ nhiệm, bãi miễn và triệu
hồi các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ở nước ngoài và ở các tổ chức quốc tế.
15- Tiếp nhận các đại diện toàn
quyền ngoại giao của nước ngoài.
16- Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những
hiệp ước quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần trình Quốc hội quyết định.
17- Quy định hàm và cấp quân sự,
ngoại giao và những hàm và cấp khác.
18- Quy định và quyết định việc
tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước.
19- Quyết định đặc xá.
20- Trong thời gian Quốc hội
không họp, tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược.
21- Quyết định việc tổng động
viên hoặc động viên cục bộ, việc giới nghiêm trong toàn quốc hoặc từng địa
phương.
Những quyết định của Hội đồng
Nhà nước nói ở các điểm 11, 12 và 20 phải trình Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp
gần nhất của Quốc hội.
Quốc hội có thể giao cho Hội đồng
Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết.
Điều
101
Nhiệm kỳ
của Hội đồng Nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Hội đồng
Nhà nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Hội đồng
Nhà nước mới.
Điều
102
Các pháp
lệnh và nghị quyết của Hội đồng Nhà nước phải được quá nửa tổng số thành viên của
Hội đồng Nhà nước biểu quyết tán thành.
Điều
103
Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân toàn quốc và giữ
chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng.
Chương
8:
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Điều
104
Hội đồng
bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan
chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Hội đồng Bộ trưởng thống nhất quản
lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc
phòng và đối ngoại của Nhà nước; tăng cường hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành pháp luật; phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân; bảo đảm xây dựng chủ nghĩa xã hội, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Hội đồng Bộ trưởng chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp
thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước.
Điều
105
Hội đồng
Bộ trưởng gồm có:
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
Các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
Các bộ trưởng và Chủ nhiệm Uỷ
ban Nhà nước.
Điều
106
Chủ tịch
Tổng công đoàn Việt Nam có quyền tham dự hội nghị Hội đồng Bộ trưởng.
Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và người phụ trách chính của các đoàn thể nhân dân trong Mặt
trận được mời tham dự hội nghị Hội đồng bộ trưởng khi cần thiết.
Điều
107
Hội đồng
Bộ trưởng có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Bảo đảm việc thi hành Hiến
pháp và pháp luật.
2- Trình dự án luật, dự án pháp
lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
3- Lập dự án kế hoạch Nhà nước
và dự toán ngân sách Nhà nước trình Quốc hội; tổ chức thực hiện kế hoạch Nhà nước
và ngân sách Nhà nước.
4- Thống nhất quản lý việc cải tạo,
xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân, việc xây dựng và phát triển văn
hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật.
5- Chăm lo cải thiện đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân.
6- Bảo hộ quyền lợi chính đáng của
công dân và tạo điều kiện cho công dân hưởng quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ của
mình.
7- Tổ chức quốc phòng toàn dân
và xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân.
8- Bảo đảm an ninh chính trị và
trật tự, an toàn xã hội.
9- Thi hành việc động viên, giới
nghiêm và mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ Tổ quốc.
10- Thi hành những biện pháp nhằm
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của xã hội.
11- Thống nhất quản lý tài
chính, tiền tệ và tín dụng.
12- Tổ chức và lãnh đạo công tác
kiểm kê và thống kê của Nhà nước.
13- Tổ chức và lãnh đạo công tác
trọng tài Nhà nước về kinh tế.
14- Tổ chức và lãnh đạo công tác
bảo hiểm Nhà nước.
15- Tổ chức và lãnh đạo công tác
thanh tra và kiểm tra của Nhà nước.
16- Tổ chức và quản lý công tác
đối ngoại của Nhà nước; chỉ đạo việc thực hiện các hiệp ước và hiệp định đã ký
kết.
17- Xây dựng và kiện toàn bộ máy
quản lý Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng
đội ngũ cán bộ Nhà nước.
18- Lãnh đạo công tác của các bộ
và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng.
19- Bảo đảm cho Hội đồng nhân
dân các cấp thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương.
20- Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân các
cấp.
21- Tạo điều kiện thuận lợi cho
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận hoạt động.
22- Tổ chức và lãnh đạo công tác
tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân.
23- Đình chỉ việc thi hành và sửa
đổi hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư không thích đáng của các bộ
và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng.
24- Đình chỉ việc thi hành những
nghị quyết không thích đáng của các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và cấp tương đương, đồng thời đề nghị Hội đồng Nhà nước sửa đổi hoặc
bãi bỏ những nghị quyết đó.
25- Đình chỉ việc thi hành và sử
đổi hoặc bãi bỏ những quyết định và chỉ thị không thích đáng của Uỷ ban nhân
dân các cấp.
26- Quyết định việc phân vạch địa
giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
đơn vị hành chính tương đương.
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước có
thể giao cho Hội đồng bộ trưởng những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy
cần thiết.
Điều
108
Nhiệm kỳ
của Hội đồng Bộ trưởng theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Hội đồng
Bộ trưởng tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Hội đồng Bộ
trưởng mới.
Điều
109
Hội đồng
Bộ trưởng căn cứ vào Hiến pháp, các luật và pháp lệnh, ra những Nghị quyết, Nghị
định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó.
Các Nghị quyết, Nghị định và Quyết
định của Hội đồng Bộ trưởng phải được quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng Bộ
trưởng biểu quyết tán thành.
Điều
110
Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng lãnh đạo công tác của Hội đồng Bộ trưởng, đôn đốc, kiểm tra
việc thi hành những quyết định của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng
và thay mặt Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo công tác đối với các bộ, các cơ quan
khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng và Uỷ ban nhân dân các cấp.
Các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
giúp Chủ tịch và có thể được uỷ nhiệm thay Chủ tịch khi Chủ tịch vắng mặt.
Điều 111
Dưới sự
lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng và thủ trưởng các cơ
quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo ngành
mình trong phạm vi cả nước.
Các Bộ trưởng và Thủ trưởng các
cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng căn cứ vào Luật của Quốc hội, pháp lệnh của
Hội đồng Nhà nước và Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Hội
đồng Bộ trưởng, ra những Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và kiểm tra việc thi
hành những văn bản đó.
Điều
112
Mỗi
thành viên Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của
mình trước Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, và cùng với các
thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Hội đồng Bộ trưởng
trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
Chương
9:
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ
BAN NHÂN DÂN
Điều 113
Các đơn
vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như
sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương đương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố
thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và
thị xã;
Huyện chia thành xã và thị trấn;
thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Các đơn vị hành chính kể trên đều
thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
Điều
114
Hội đồng
nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và chính quyền cấp trên.
Hội đồng nhân dân quyết định và
thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng địa phương về mọi mặt, bảo đảm phát triển
kinh tế và văn hoá, nâng cao đời sống của nhân dân địa phương và hoàn thành nhiệm
vụ cấp trên giao cho.
Trong hoạt động của mình, Hội đồng
nhân dân dựa vào sự cộng tác chặt chẽ của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và sự
tham gia rộng rãi của công dân.
Điều
115
Hội đồng
nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Bảo đảm cho Hiến pháp và pháp
luật được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh ở địa phương; quyết định các biện
pháp thi hành chính sách của Nhà nước và nhiệm vụ do cấp trên giao cho.
2- Quyết định kế hoạch và dự
toán ngân sách của địa phương, phê chuẩn việc thực hiện kế hoạch và quyết toán
ngân sách của địa phương.
3- Quyết định các vấn đề về sản
xuất, phân phối, lưu thông, văn hoá, xã hội và dịch vụ ở địa phương.
4- Bảo đảm việc xây dựng quốc
phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương.
5- Bảo đảm an ninh chính trị và
trật tự, an toàn xã hội.
6- Bảo vệ tài sản xã hội chủ
nghĩa.
7- Bảo đảm quyền bình đẳng của
các dân tộc.
8- Bảo đảm cho công dân được hưởng
quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ của mình.
9- Bầu và bãi
miễn các thành viên của Uỷ ban nhân dân và các thành viên của Toà án nhân dân
cùng cấp.
10- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những
quyết định không thích đáng của Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoặc của Hội đồng nhân
dân cấp dưới trực tiếp.
11- Giải tán Hội đồng nhân dân cấp
dưới trực tiếp khi Hội đồng nhân dân này làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi
của nhân dân.
Nghị quyết giải tán đó phải được
sự phê chuẩn của Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp trước khi thi hành. Nghị
quyết giải tán của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp
tương đương phải được sự phê chuẩn của Hội đồng Nhà nước trước khi thi hành.
12- Trong phạm vi nhiệm vụ và
quyền hạn của mình, giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, xí nghiệp
và các tổ chức khác của cấp trên ở địa phương.
Điều
116
Nhiệm kỳ
của mỗi khoá Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp
tương đương là bốn năm.
Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng
nhân dân các cấp khác là hai năm.
Điều
117
Hội đồng
nhân dân, căn cứ vào pháp luật của Nhà nước và quyết định của cấp trên, ra những
nghị quyết và kiểm tra việc thi hành những nghị quyết đó.
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
phải được quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành.
Điều
118
Hội đồng
nhân dân thành lập các ban cần thiết để giúp Hội đồng trong việc quyết định những
chủ trương, biện pháp công tác ở địa phương và kiểm tra việc thi hành pháp luật,
chính sách của Nhà nước và nghị quyết của Hội đồng.
Điều
119
Đại biểu
Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử
tri, thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của
Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri, xem xét và
giúp giải quyết những điều khiếu nại và tố cáo của nhân dân.
Đại biểu Hội đồng nhân dân tuyên
truyền, phổ biến pháp luật, chính sách của Nhà nước và nghị quyết của Hội đồng
nhân dân, động viên nhân dân địa phương tham gia quản lý Nhà nước.
Điều
120
Đại biểu
Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Uỷ ban nhân dân và các cơ quan Nhà nước
khác của địa phương. Cơ quan bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân
trong thời hạn do luật định.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có
quyền kiến nghị với các cơ quan Nhà nước ở địa phương. Những người phụ trách
các cơ quan này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét và giải quyết kiến nghị của
đại biểu.
Điều
121
Uỷ ban nhân
dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là cơ quan hành chính Nhà nước ở
địa phương.
Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước Uỷ ban nhân dân cấp
trên trực tiếp; Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp
tương đương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp
và trước Hội đồng Bộ trưởng.
Mỗi thành viên Uỷ ban nhân dân
chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của mình trước Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân, và cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt
động của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân.
Điều
122
Uỷ ban
nhân dân gồm có Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch, uỷ
viên thư ký và các uỷ viên khác.
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và người phụ trách chính của các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận ở địa
phương được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cấp mình khi cần thiết.
Điều
123
Uỷ ban
nhân dân triệu tập hội nghị Hội đồng nhân dân cùng cấp;
chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết
định, chỉ thị của các cơ quan hành chính cấp trên; quản lý công tác hành chính ở
địa phương; chỉ đạo các ngành, các cấp thuộc quyền mình nhằm hoàn thành kế hoạch
Nhà nước, phát triển kinh tế và văn hoá, củng cố quốc phòng, cải thiện đời sống
nhân dân; xét và giải quyết các điều khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của nhân
dân.
Điều
124
Uỷ ban
nhân dân các cấp, chiếu theo quyền hạn do luật định, ra những quyết định, chỉ
thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó.
Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ
việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của các
ngành thuộc quyền mình và của Uỷ ban nhân dân cấp dưới, đình chỉ việc thi hành
những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp, đồng
thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết
đó.
Điều
125
Uỷ ban
nhân dân tạo điều kiện cho các đại biểu Hội đồng nhân dân và các ban của Hội đồng
hoạt động.
Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân chịu trách nhiệm điều hoà, phối hợp hoạt động của các ban do Hội đồng
nhân dân lập ra.
Điều
126
Nhiệm kỳ
của Uỷ ban nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân.
Khi Hội đồng nhân dân hết nhiệm
kỳ, Uỷ ban nhân dân tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân khoá mới
bầu ra Uỷ ban nhân dân mới.
Trong trường hợp Hội đồng nhân
dân bị giải tán, Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp chỉ định Uỷ ban nhân dân
lâm thời để đảm nhiệm công tác cho đến khi Hội đồng nhân dân khoá mới bầu ra Uỷ
ban nhân dân mới. Trong trường hợp Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương hoặc cấp tương đương bị giải tán thì Hội đồng bộ trưởng chỉ định Uỷ
ban nhân dân lâm thời.
Chương
10:
TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Điều
127
Toà án
nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự
do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính đáng của công dân đều phải được xử lý
theo pháp luật.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Điều
128
Toà án
nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự là những
cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong tình hình đặc biệt hoặc
trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước
có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.
ở cơ sở, thành lập các tổ chức
thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp
nhỏ trong nhân dân, theo quy định của pháp luật.
Điều
129
Chế độ bầu
cử thẩm phán được thực hiện ở Toà án nhân dân các cấp.
Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh
án và thẩm phán Toà án nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra mình.
Điều
130
Việc xét
xử ở Toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia, theo quy định của pháp luật.
Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.
Chế độ bầu cử hội thẩm nhân dân
được thực hiện ở Toà án nhân dân các cấp. Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân Toà án
nhân dân tối cao là hai năm rưỡi; nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân Toà án nhân
dân địa phương là hai năm.
Điều
131
Khi xét
xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Điều
132
Toà án
nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Điều
133
Toà án
nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định.
Quyền bào chữa của bị cáo được bảo
đảm.
Tổ chức luật sự được thành lập để
giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý.
Điều 134
Toà án
nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các
dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án.
Điều 135
Toà án
nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Toà án nhân dân tối cao giám đốc
việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự.
Toà án nhân dân tối cao giám đốc
việc xét xử của Toà án đặc biệt, trừ trường hợp Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước
quy định khác khi thành lập các Toà án đó.
Điều
136
Toà án
nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời
gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng
Nhà nước.
Toà án nhân dân địa phương chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Điều
137
Các bản
án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn
vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Điều
138
Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của các bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan
chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân
viên Nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện Kiểm sát nhân dân địa
phương, các Viện Kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành
quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình.
Điều
139
Nhiệm kỳ
của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Điều 140
Viện Kiểm
sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên;
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân các địa phương chịu sự lãnh đạo thống nhất của
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện trưởng, các Phó Viện trưởng
và kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao bổ nhiệm và bãi miễn.
Điều
141
Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Hội đồng Nhà nước.
Chương
11:
QUỐC KỲ, QUỐC HUY, QUỐC
CA, THỦ ĐÔ
Điều 142
Quốc kỳ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần
ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
Điều
143
Quốc huy
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao
vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều
144
Quốc ca
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội thông qua.
Điều 145
Thủ đô
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.
Chương
12:
HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP
VÀ VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Điều
146
Hiến
pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu
lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải
phù hợp với Hiến pháp.
Điều
147
Chỉ Quốc
hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là
hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Bản Hiến pháp này
đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 7,
nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 18 tháng 12 năm 1980, hồi 15 giờ 25
phút.