BỘ NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 1045/BC-BNN-KTHT
|
Hà
Nội, ngày 29 tháng 03
năm 2013
|
BÁO CÁO
TỔ CHỨC RÀ SOÁT THỰC
TRẠNG HẠ TẦNG NÔNG THÔN, ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG ĐẤT, RỪNG, TÌNH HÌNH SẢN
XUẤT, ĐỜI SỐNG CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI CHỖ VÀ DÂN DI CƯ TỰ DO CÁC
TỈNH TÂY NGUYÊN”.
Triển khai kế hoạch thực hiện kết
luận số 12.KL/TW về “tiếp tục thực hiện Nghị quyết 10 NQ/TW của Bộ Chính trị
(khoá IX) phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011 - 2020”, năm 2012, Ban Chỉ đạo Tây
nguyên giao Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trì phối hợp với các Bộ ngành liên quan
và các tỉnh Tây Nguyên thực hiện Chuyên đề “Tổ chức rà
soát thực trạng hạ tầng nông thôn, đánh giá tình hình sử dụng đất, rừng; tình
hình sản xuất, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ và dân di cư tự do"; kết quả như sau:
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH CHUNG:
Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia
Lai, Đắk Lắk, Đăk Nông và Lâm Đồng; với
diện tích tự nhiên 54.650 km2 (chiếm 16,5% diện tích của cả nước).
Trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp: 1.993.796 ha, đất lâm
nghiệp: 2.830.311 ha, đất khác: 640.001 ha. Dân số 5.265.800 người. Gồm có 54
dân tộc anh em cùng chung sống, dân tộc Kinh 3.325.511 người, chiếm 63,15%; dân
tộc thiểu số (DTTS) 1.940.289 người, chiếm 36,85% (trong đó DTTS tại chỗ
có 1.280.201 người chiếm 25,52% dân số toàn
vùng). Tây Nguyên là địa bàn giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh
tế xã hội (KTXH), quốc phòng an ninh (QPAN), môi trường sinh
thái của đất nước. Hiện có 61 đơn vị hành chính cấp huyện
(gồm 5 thành phố, 4 thị xã, 52
huyện), 722 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 77 phường, 47
thị trấn và 598 xã), 7.616 thôn, tổ dân phố (trong đó có
2.464 buôn, làng đồng bào DTTS); có 12 huyện và 32 xã biên giới giáp Lào và
Campuchia, có đường biên giới dài khoảng 580 km.
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số
10-NQ/TW, ngày 18 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị (Khóa IX) “về phát triển
kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên
thời kỳ 2001 - 2010” và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các
tỉnh Tây nguyên đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa
quan trọng: Kinh tế toàn vùng không ngừng phát triển. Tốc độ tăng trưởng bình quân chung vùng Tây nguyên giai đoạn 2007-2011,
đạt 13.4% (cao nhất tỉnh Kon Tum 14.81%,
thấp nhất Đăk Lăk:12.42%); thu nhập bình quân đầu người
(giá thực tế) 23,27 triệu đồng/người/năm (thu nhập cao nhất
tỉnh Lâm Đồng: 25.5 triệu/người/năm, thấp nhất tỉnh Kon Tum: 17.76 triệu/người/năm); Cơ cấu kinh tế có
sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành
nông, lâm nghiệp giảm dần; ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ ngày càng
tăng. Sản xuất hàng hóa phát triển theo hướng đa dạng với
quy mô, chất lượng, hiệu quả ngày càng tăng; Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng được đầu
tư tăng dần qua từng năm, nhất là về
lĩnh vực giao thông, trường học, thuỷ lợi, bệnh viện, điện, nước.. .góp phần
quan trọng trong phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng giáo dục, y tế và đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của
người dân; Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định,
quốc phòng được tăng cường, an ninh biên giới được giữ vững.
Tuy nhiên, xét trên tổng thể, những
thành tựu mà nhân dân các tỉnh Tây Nguyên đã đạt được chưa
tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của vùng. Kinh tế- xã
hội vẫn trong tình trạng chậm phát triển và mất cân đối. Nhiều vấn đề xã
hội còn bức xúc như: chênh lệch giàu nghèo giữa đô thị và
nông thôn, giữa đồng bào Kinh với đồng
bào DTTS ngày càng tăng. Công tác xóa đói, giảm nghèo ở
nhiều nơi kết quả đạt thấp, chưa vững chắc; việc quản lý
đất đai, khai thác khoáng sản và quản lý bảo vệ rừng còn nhiều thiếu sót nghiêm
trọng; tình trạng tranh chấp, khiếu kiện (TCKK) về đất đai giữa người dân sở
tại với người dân DCTD, giữa người dân với các doanh nghiệp và
các doanh nghiệp với nhau. Đặc biệt trong vùng đồng bào
DTTS tại chỗ diễn ra ở nhiều nơi nhưng chưa được xem xét giải quyết kịp thời,
có nơi, có lúc đã hình thành “điểm nóng” về an ninh nông thôn (ANNT) tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định về an ninh chính trị.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN MỘT SỐ LĨNH VỰC ĐẾN NĂM
2011:
1. Hệ
thống cơ sở hạ tầng nông thôn:
Trong những năm qua, được sự quan tâm
đầu tư của Chính phủ theo tinh thần Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 18/01/2002 của Bộ
Chính trị về tập trung phát triển kinh tế - xã hội vùng
Tây Nguyên, cùng với quan tâm chỉ đạo của các cấp, ngành, sự hưởng ứng của các thành phần kinh tế. Nhờ đó, kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn ngày càng được nâng cấp và hoàn thiện. Tính đến
thời điểm ngày 31/12/2011 hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn trên địa bàn các
tỉnh Tây Nguyên đạt được kết quả như sau:
- Giao thông: Toàn vùng Tây Nguyên có
12.277 km đường giao thông nông thôn phục vụ cho sản xuất, lưu thông hàng hoá
và đi lại của người dân: Trong đó 598 xã có đường xe ô tô về đến trung tâm xã, đạt 100% số xã; số xã có đường ô tô đi lại thuận lợi quanh
năm có 588 xã đạt 98.3% so với tổng số xã (tỷ lệ của cả nước là 97,1%). Số xã có đường nhựa, bê tông hóa đến trụ sở UBND có
517 xã đạt 86,5% (tỷ lệ của cả nước 87.3%)
Đường trục thôn, buôn có đường ô tô
đi đến được 5870 buôn thôn, đạt 96,7% (tỷ lệ cả nước 89,5%).
Mục tiêu của các tỉnh đến năm 2015:
tiếp tục đầu tư mở mới 3.294 km và nâng cấp nhựa hóa hoặc bê tông hóa đến trụ
sở UBND các xã còn lại 50%; đường
trục thôn, buôn, đường trục chính nội đồng được cứng hóa đạt chuẩn 30% đảm bảo xe cơ giới đi lại
thuận tiện.
- Thủy lợi: Trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên có 2038 công
trình hồ đập, 4989 km kênh mương cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống cho người dân (không kể các công trình trình tự
tạo của người dân: như giếng đào, đập dâng . . .) mới đáp ứng được trên 50%
diện tích có nhu cầu tưới.
Nông nghiệp hiện nay vẫn là ngành sản xuất chủ lực ơ các tỉnh Tây
Nguyên. Trong thời gian tới nhu cầu đầu tư hồ đập 1149 công trình và 3191 km kênh mương để đáp ứng nhu cầu tưới cho khoảng trên 75% diện tích canh tác toàn vùng.
- Điện: Theo báo cáo toàn vùng có khoảng 1822 trạm biến áp các loại và 3983 km
đường dây điện, đảm bảo 100% số xã có lưới điện quốc gia;
5966 thôn, bon có điện chiếm 98,3% tổng
số thôn, bon, có khoảng 96% trong tổng
số hộ ở nông thôn được sử dụng điện; trong đó, số hộ được sử dụng điện thường xuyên, an toàn khoảng 90% số hộ. Để
đáp ứng được nhu cầu phục vụ 100% hộ dân
được sử dụng thường xuyên và an toàn, trong thời gian tới tiếp tục đầu tư 627
trạm biến áp và 2447 km đường dây dẫn điện các loại.
- Nước sinh hoạt: Nhu cầu sử dụng nước hợp vệ sinh toàn vùng Tây Nguyên mới đáp ứng được
70.75% tổng số hộ, những năm tiếp theo các tỉnh tiếp tục xây dựng công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, giếng, khoan, bể chứa . . .
Việc được tiếp cận với nguồn nước hợp
vệ sinh đã giúp cải thiện đáng kể tình trạng vệ sinh môi
trường ở khu vực nông thôn, hạn chế các bệnh liên quan đến nguồn nước không hợp vệ sinh, tiết kiệm được ngân sách cho y tế, nâng cao
sức khỏe và những tác động tích cực khác, góp phần nâng cao đời sống người dân
và phát triển kinh tế xã hội khu vực
nông thôn. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ hộ dân chưa được tiếp
cận nguồn nước hợp vệ sinh ở vùng nông thôn các tỉnh còn khá lớn 14.25 %. Để
giảm tỷ lệ này, trong thời gian tới các tỉnh cần đầu tư xây dựng
thêm một số công trình cấp nước sinh
hoạt hợp vệ sinh để đến năm 2015 tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước
sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 85%, trong đó nước sạch đạt từ 75% trở lên phù hợp
với tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
- Trường học: Toàn vùng hiện có 1.094.067 m2 trường học, nhu cầu đến 2015
đầu tư mở mới 446.786 m2, xã có trường có trường tiểu học đạt 98,5%,
xã có trường THCS đạt 95,3%, xã có THPT đạt 13,9%. Mục tiêu về tỷ lệ trường học
các cấp đạt chuẩn quốc gia đến năm 2015 của các tỉnh: nhà trẻ, trường mầm non
đạt 20- 25%; trường tiểu học đạt 50-55%; trường trung học cơ sở đạt 20-25%;
trường trung học phổ thông đạt 15-20%
- Trạm y tế: Toàn vùng hiện có 57.128 m2 trạm xá, nhu cầu đến 2015 đầu
tư mở mới 1519 m2; xã có
trạm y tế đạt 99,8%, trong đó xã đạt chuẩn quốc gia về y tế: 59,2%; thôn bản có cán bộ y tế đạt: 91%. Mục
tiêu của các tỉnh đến năm 2015 là từ 90-100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
- Các hạ tầng khác như thông tin liên
lạc, văn hóa thể
thao... nhìn chung đã đáp ứng được nhu cầu tối thiểu thiểu
của người dân. Để từng bước nâng cao nhu cầu văn hóa của
đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng và người dân nói
chung các địa phương đã qui hoạch, tiếp tục đầu tư cho các năm tiếp theo, nhằm
đạt chuẩn theo qui định của bộ tiêu chí Quốc gia nông thôn mới.
2. Tình
hình sản xuất và đời sống của đồng bào dân tộc thiểu
số tại chỗ:
Trong những năm qua, được sự quan tâm
của Trung ương và địa phương thông qua các chương trình, chính sách...đã đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo với nhiều giải
pháp, mô hình có hiệu quả như: phát triển cao su tiểu điền, tăng cường khuyến nông, đưa giống, cây trồng, vật nuôi năng suất cao vào sản xuất tại các buôn làng; giao đất, giao rừng, giao
khoán bảo vệ rừng; đào tạo nghề, giải quyết việc làm ở
nông thôn, làm cho đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số
tại chỗ đã từng bước được cải thiện, trình độ dân trí của đồng bào DTTS được
nâng lên, bà con tích cực trong lao động sản xuất, biết áp
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật...thu nhập bình quân
đầu người DTTS ngày càng cao (giá thực tế): 9.78 triệu/người/năm (cao nhất tỉnh Đăk Lăk
15.28 triệu đồng, thấp nhất Đăk Nông 6.06 triệu); tỷ lệ hộ nghèo trong vùng DTTS đã giảm từ
44,49% xuống còn 38.02% .
Tuy nhiên, do phần lớn đồng bào các
dân tộc thiểu số sinh sống tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,
điều kiện cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, trình độ sản xuất, khả năng nắm bắt các
tiến bộ khoa học- kỹ thuật còn hạn chế, nên nhìn chung sản
xuất, đời sống của bà con vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa việc tổ
chức sản xuất, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, dạy nghề, giải quyết việc làm còn nhiều hạn chế; việc bảo
đảm không gian sinh sống cho các buôn làng, giữ gìn và
phát huy tinh hoa và bản sắc văn hóa các dân tộc còn nhiều vấn đề bất cập. Qua rà
soát, toàn vùng hiện còn 149.578 hộ đồng bào DTTS tại chỗ, các hộ dân di cư tự do (DCTD) là hộ
nghèo và một bộ phận lớn thuộc diện cận nghèo. Sự chênh lệch mức sống, trình độ
dân trí, điều kiện hưởng thụ văn hóa, giáo dục, chăm sóc
sức khoẻ giữa đồng bào DTTS tại chỗ với các bộ phận dân cư
khác ngày càng cách xa hơn đang trở thành vấn đề đáng quan tâm.
Hiện nay, còn khoảng 31.069 hộ đồng
bào DTTS thiếu 17.516 ha đất sản xuất. Mặc dù các tỉnh đã vận dụng nhiều chính sách, lồng ghép các
chương trình mục tiêu quốc gia để hỗ trợ đào tạo nghề,
giải quyết việc làm, phát triển chăn nuôi, giao khoán rừng
để giảm áp lực về đất sản xuất...
nhưng vẫn chưa giải quyết được nhu cầu sử dụng đất của đồng bào DTTS tại chỗ.
Do phong tục tập quán, thói quen
trong đời sống sản xuất, đại bộ phận đồng bào DTTS mang nặng tâm lý thụ động,
thoả mãn với cuộc sống hiện tại, do đó nhiều chương trình mục tiêu phát triển
KTXH vùng dân tộc được triển khai nhưng chỉ mang tính “ban đầu”, thiếu đất sản
xuất, thiếu lao động, khó khăn trong việc tiếp cận với các dịch vụ về vốn, thị
trường, tiêu thụ sản phẩm và các dịch vụ xã hội cơ bản.
Trình độ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún,
kỹ thuật lạc hậu, năng suất cây trồng, vật nuôi thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh
tế chậm, thiên về thuần nông (trên 75%), sản xuất phân tán, chưa theo kịp nhu cầu
của thị trường nên khả năng cạnh tranh hàng hoá, tiêu thụ nông sản là một thách
thức lớn. Giá trị hàng hoá nông nghiệp không cao, thu nhập thấp nên khoảng cách
chênh lệch ngày càng rõ rệt giữa khu vực thành thị và nông thôn. Một số nơi, do
công tác quản lý lỏng lẻo đã có một số hộ sau khi được giải
quyết đất sản xuất, vin vào khó khăn đã sang nhượng cho người Kinh lấy tiền chi
dùng, góp phần tăng “áp lực ảo” về thiếu đất trong đồng
bào DTTS, làm tiềm ẩn nguy cơ người Kinh chiếm đất của đồng bào. Đây thực sự là
vấn đề cấp thiết trong chiến lược ổn định và phát triển
bền vững vùng Tây Nguyên.
3. Tình hình sản xuất và đời sống của dân di cư
tự do
Theo kết quả khảo sát tổng số dân di
cư tự do (DCTD) đến Tây Nguyên trong hơn 15 năm qua là
44.799 hộ/206.328 khẩu[1]. Với sự nỗ lực của các địa phương, đến nay đã
bố trí đất ở, đất sản xuất, thực hiện nhiều dự án, sắp xếp
cho 18.695 hộ, hơn 80.000 khẩu, từng bước ổn định. Hiện còn 22.868 hộ/hơn 110.000 khẩu chưa được bố trí[2].
Nhìn chung việc thực hiện các dự án bố trí ổn định dân DCTD trong thời gian qua đã hình thành được các khu dân cư
mới theo tiêu chí phát triển bền
vững. Qua đánh giá của các tỉnh, dân DCTD trước mắt đã bổ
sung nguồn lực lao động, truyền đạt phương pháp, kinh nghiệm và
kỹ thuật sản xuất cho đồng bào DTTS
tại chỗ, góp phần tăng khối lượng sản phẩm hàng hoá, đời sống của
người dân từng bước được cải thiện, ổn định an ninh chính
trị tại địa phương.
Tuy nhiên, dân DCTD đến phần lớn ở
trong rừng sâu dựng lán trại hình thành những điểm dân cư tự phát, điều kiện đi
lại và sinh hoạt hết sức khó khăn, đau ốm, đói nghèo, phá
rừng, săn bắn trái phép, tệ nạn xã hội, ma tuý...ảnh hưởng đến an ninh trật tự
(ANTT) mà hầu hết chính quyền sở tại không thể quản lý
được. Họ đã phá rừng sau đó sang nhượng, cho thuê, một số nơi
đã xảy ra tình trạng tranh chấp với đồng bào DTTS tại chỗ. Phần lớn dân DCTD
đều theo tôn giáo, làm gia tăng tình trạng truyền đạo, sinh hoạt tôn giáo trái
phép, nhất là cộng đồng người Mông; tăng tỉ lệ hộ nghèo, cùng với gia tăng các
nhu cầu bảo đảm y tế, giáo dục...ảnh hưởng kế hoạch phát triển
KTXH của các địa phương. Thời gian qua, cơ quan chức năng đã phát hiện và đấu
tranh với một số đối tượng liên quan
đến hoạt động của tổ chức phản động
Mông thuộc các tỉnh phía Bắc di cư đến Tây Nguyên.
4. Về quản lý sử dụng đất,
rừng
- Giao đất: Thực hiện Quyết định số
132/2002/QĐ-TTg ngày 08/10/2002 và Quyết định số
134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004, Quyết định số 1592/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ; đến nay, các tỉnh Tây nguyên đã
giải quyết đất ở và đất sản xuất cho 59.164 hộ, diện tích
26.376 ha, trong đó: đất ở 14.184 hộ
diện tích 474.2ha, cụ thể:
+ Thực hiện theo Quyết định số 132,
các tỉnh đã giao 19.126 ha cho 42.593 hộ, trong đó: đất
sản xuất 18819 ha, cấp cho 34655 hộ; đất làm nhà ở 306.72 ha, cho 7938 hộ. Số hộ còn lại, được chuyển sang thực hiện theo
Chương trình 134.
+ Thực hiện theo Quyết định số 134,
các tỉnh đã giao 5610 ha đất cho 14241 hộ; trong đó: giao đất ở 167.3 ha cho
6246 hộ, giao đất sản xuất 5443 ha cho 7955 hộ.
+ Thực hiện theo Quyết định số 1592,
giao 1640 ha đất sản xuất cho 2330 hộ.
Tuy nhiên do một số diện tích đất sản
xuất cấp cho các hộ cách xa nơi ở; đất có tầng canh tác mỏng, tỷ lệ đá cao,
không có nguồn nước tưới; công tác khuyến nông chưa được quan tâm … nên hiệu quả sử dụng đất chưa cao, có một số diện tích còn bỏ hoang và
sang nhượng cho người khác.
- Tình hình đồng bào DTTS thiếu đất
sản xuất: Công tác giải quyết đất ở, đất sản xuất cho hộ đồng bào DTTS nghèo,
đời sống khó khăn trên địa bàn các tỉnh chỉ mới dừng lại ở Chương trình 134 đã
kết thúc vào năm 2009 và tiếp tục thực hiện Quyết định 1592. Tính đến nay, số
hộ thiếu đất phát sinh mới là 31.069 hộ, với nhu cầu đất sản xuất là 17.516 ha
(theo định mức đất sản xuất của Quyết định số 134 và theo Đề án 1592 của các
tỉnh). Trong số diện tích đất còn thiếu, các địa phương có thể giải quyết được
3707 ha cho 6576 hộ (từ các nguồn: mua đất dân doanh, khai hoang, thu hồi đất doanh nghiệp, giao khoán bảo vệ và trồng
rừng, hộ tự san sẻ) Số hộ còn lại thiếu đất sản xuất các địa
phương đang nghiên cứu các giải pháp thay thế như: hỗ trợ
học nghề; đi xuất khẩu lao động; hỗ trợ máy móc, nông cụ chuyển đổi ngành nghề.
- Giao rừng, khoán bảo vệ rừng: Thực
hiện Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg ngày 23/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình
và cộng đồng trong buôn, làng là đồng bào dân tộc thiểu số của
các tỉnh Tây nguyên từ năm 2006 đến nay, các tỉnh đã giao 610.683 ha cho 47.485
hộ gia đình. Bao gồm:
+ Giao đất rừng cho 4694 hộ/ 87.199
ha.
+ Trồng rừng cho 16.461 hộ / 11.801
ha.
+ Giao khoán bảo vệ 26.330 hộ
/511.682 ha.
Về cơ bản các đối tượng nhận rừng
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được hưởng lợi
theo quy định của Luật đất đai và quy định của Quyết định
số 178/2001/QĐ-TTg ngày 21/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Nhưng chưa đạt được
hai mục đích là giữ rừng và nâng cao đời sống cho đồng bào.
III. MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ TỒN TẠI TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN CÁC CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH:
1. Về
cơ sở hạ tầng phát triển sản xuất và phúc lợi xã hội:
Nhìn chung hạ tầng khu vực nông thôn
vẫn còn nhiều yếu kém, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất
và đời sống của người dân. Hạ tầng xã hội chưa đáp ứng nhu cầu học tập, khám
chữa bệnh, vui chơi giải trí của nhân dân; ở vùng sâu, vùng xa và biên giới càng khó khăn hơn. Cơ sở hạ tầng ở nông thôn chưa đồng đều, các huyện nghèo và
huyện biên giới vẫn gặp rất nhiều khó khăn (như giao thông còn khoảng 3% số xã
gặp khó khăn đi lại trong mùa mưa và 14% số xã chưa được nhựa hóa
hoặc bê tông hóa đến trung tâm xã).
2. Về Văn hóa - Xã hội
- Công tác xóa đói giảm nghèo tuy đã
đạt được nhiều kết quả, song tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên đến nay vẫn còn 226.315 hộ chiếm
18,9%; trong đó hộ đồng bào DTTS 149.578 chiếm 38.02% và đang là một vấn đề tồn
tại lớn, khoảng cách giàu nghèo giữa nhóm cộng đồng dân cư
đồng bào dân tộc thiểu số với mặt bằng chung và nhóm dân
cư khác chưa được thu hẹp, thậm chí có xu hướng dãn ra.
Ngoài ra việc tiếp cận với các dịch
vụ y tế, giáo dục cũng như cơ hội việc làm cho người dân nông thôn còn thấp,
nhất là đồng bào dân lộc thiểu số và đồng bào di cư tự do.
- Công tác sắp xếp, ổn định dân di
cư: tình hình dân di cư diễn biến còn rất phức tạp, đến nay các tỉnh Tây nguyên
còn khoảng 22.868 hộ, 110.000 khẩu chưa được sắp xếp, ổn định. Do vốn hỗ trợ của TW không đáp ứng
được nhu cầu của các địa phương, bên cạnh đó tình trạng
dân di cư tự do từ các tỉnh phía Bắc
vẫn tiếp tục diễn ra, gây khó khăn
cho các địa phương cũng như ảnh hưởng đến quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội.
3. Về giao khoán bảo vệ rừng
- Công tác bảo vệ và phát triển rừng
còn gặp nhiều khó khăn, theo số liệu thống kê năm 2011,
diện tích rừng các tỉnh Tây Nguyên bị suy giảm với tổng
diện tích 16.397 ha chủ yếu do phá rừng và chuyển đổi rừng sang mục đích sử dụng không phải là lâm nghiệp (không kể diện
tích rừng chuyển đổi sang mục đích trồng cao su).
- Hiện chưa có cơ chế chính sách đồng
bộ, hiệu quả để bảo vệ và phát triển bền vững rừng sản
xuất là rừng tự nhiên.
- Việc giao rừng, khoán bảo vệ rừng
theo Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đạt hiệu quả thấp, kết quả rừng vẫn mất, đời sống của đồng bào không được cải thiện, do mức
khoán quá thấp, không gắn được lợi
ích và trách nhiệm của người được khoán; người dân tham gia rất khó khăn nhất là trong giai đoạn khó khăn về tài chính hiện nay.
- Các hộ gia đình nhận rừng, hầu hết thiếu nghĩa vụ, trách nhiệm trong công tác tuần tra bảo
vệ rừng và tổ chức kinh doanh rừng theo phương án để rừng
bị phá, lấn chiếm không báo cáo kịp thời cho các cơ quan chức năng xử lý.
4. Về
hệ thống các chính sách:
Mặc dù hệ thống các chính sách trong
thời gian qua đã kịp thời giải quyết được những khó khăn vướng mắc cho đồng bào
DTTS và dân DCTD. Đóng vai trò quan trọng trong việc xóa
đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập, đời sống
cho người dân và góp phần giữ vững
quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên một số chính sách không còn phù hợp nhưng chậm
được sửa đổi, bổ sung, chính sách còn
manh mún, thiếu đồng bộ, chưa tập trung một đầu mối, giữa
nguồn lực và chính sách không tương xứng, nguồn lực chỉ đáp ứng được từ 30 -
50% nhu cầu. Một số cơ chế chính sách
chưa có tác dụng khuyến khích sự phấn đấu vươn lên của đồng bào DTTS , mà tạo ra tư tưởng trông chờ ỷ lại.
Về chuẩn nghèo: Với mức qui định hiện
nay 400.000đ/ người/tháng đối với khu vực miền núi như
hiện nay, chưa đánh giá đúng thực trạng nghèo của khu vực này.
5. Về
cấp đất sản xuất còn thiếu cho đồng bào DTTS:
Hạn chế trong công tác này là chưa
xác định được mức hạn điền bao nhiêu ha/ hộ đồng bào dân tộc, để từ đó xác định diện tích thiếu cần cấp bổ sung;
nguyên nhân đến nay vẫn còn trên 31.069 hộ, thiếu 17.516
ha đất sản xuất, là do: Công tác thống kê ban đầu của các
địa phương thiếu chính xác, do hộ đồng bào ở chung với cha mẹ nay tách hộ để
hưởng các chế độ chính sách, các hộ đã được cấp nhưng đã
sang nhượng, cấp đất xấu, xa nơi ở và một phần cấp chồng lấn đất có chủ nên hộ
dân không nhận được.
6. Về
đào tạo nghề cho đồng bào DTTS:
- Về đào tạo nghề và giải quyết việc
làm: Do trình độ dân trí thấp, tập quán sinh hoạt của đồng bào nên việc đào tạo
nghề và giải quyết việc làm không hiệu quả. Nguyên nhân:
+ Thời lượng đào tạo, chính sách hỗ
trợ trong thời gian đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc chưa phù hợp.
+ Tập quán của đồng bào chưa thích
nghi với môi trường lao động công nghiệp.
+ Các Doanh nghiệp
cũng không mặn mà để tuyển dụng công nhân là đồng bào DTTS vào làm việc lâu dài
trong doanh nghiệp, chủ yếu tuyển
dụng theo thời vụ trong ngành cao su, cà phê . . .
IV. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ CƠ CHẾ, CHÍNH
SÁCH:
Nhằm khắc phục
những hạn chế, tồn tại góp phần giải quyết các khó khăn,
thách thức nêu trên, các địa phương và Đoàn công tác đề xuất một số cơ chế chính sách như sau:
1. Về
cơ sở hạ tầng:
- Cần có thêm các chính sách để tăng
cường đầu tư cơ sở hạ tầng như giao thông thủy lợi, trường học, y tế...cho vùng
nông thôn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên
giới.
- Để tạo điều kiện cho sản xuất nông
nghiệp phát triển bền vững và cung cấp nước sinh hoạt cho khu vực Tây nguyên Bộ
Nông nghiệp tập trung rà soát thực hiện các quy hoạch thủy lợi đã phê duyệt
trên địa bàn: Quy hoạch sử dụng nguồn
nước lưu vực sông Sê San, sông Ba, sông Srepok và tiến tới “Quy hoạch tổng thể thủy lợi
vùng Tây Nguyên thích ứng biến đổi khí hậu” nhằm đề xuất
các giải pháp tổng thể về thủy lợi phù hợp, ứng phó với
diễn biến phức tạp của khí hậu làm căn cứ đầu tư xây dựng
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
vùng Tây Nguyên.
- Điều chỉnh Luật Ngân sách nhà nước
(khoản 3 điều 8) theo hướng các tỉnh Tây Nguyên được phép huy động vốn trong
nước để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 100% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách
cấp tỉnh.
2. Về
kinh tế:
- Do vị trí địa lý của các tỉnh Tây
nguyên các lợi thế về kinh tế kém hơn so với các vùng khác, hơn nữa đây là khu vực nhạy cảm về an ninh quốc phòng nên khả năng thu hút vốn đầu tư kém, nhất là thu hút vốn FDI, cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư đặc thù đối với khu vực Tây
Nguyên nhằm phát triển KTXH khu vực này.
- Chính sách phát triển các Khu kinh
tế cửa khẩu khu vực Tây Nguyên, nhằm giao thương, mở rộng hợp tác với các địa
phương trong Tam giác phát triển Việt Nam- Lào- Cam phu chia.
- Kinh tế các tỉnh Tây nguyên chủ yếu
là sản xuất nông nghiệp và tập trung vào các cây trồng chủ
lực như cà phê, hố tiêu, cao su... Trong những năm qua, tình hình giá cả các mặt hàng nông sản thường xuyên biến động đã làm ảnh hưởng rất lớn đến
sản xuất và đời sống của người dân. Vì vậy, cần có chính
sách hỗ trợ bình ổn giá đối với các mặt hàng nông sản chủ lực này, thực hiện
chính sách bảo hiểm ngành hàng xuất khẩu. Hỗ trợ cho các
doanh nghiệp xuất khẩu. Hỗ trợ xây dựng chiến lược phát
triển bền vững đối với các cây trồng chủ lực cho vùng Tây
nguyên.
- Trong lĩnh vực Lâm nghiệp, cần xây
dựng cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích các thành phần kinh tế, các chủ
rừng đầu tư bảo vệ, phát triển bền vững rừng sản xuất là
rừng tự nhiên.
- Rà soát toàn bộ diện tích khoán bảo
vệ rừng; khoán đất lâm nghiệp theo quy định tại Nghị định số 01/NĐ-CP ngày 15
tháng 01 năm 1995 và Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của
Chính phủ về việc giao khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản trong các nông trường quốc doanh, lâm
trường quốc doanh và các quy định khác của Nhà nước. Kiên quyết thanh lý hợp đồng
khoán bảo vệ rừng, khoán đất lâm nghiệp không đúng đối tượng hoặc tổ chức, cá
nhân đã nhận khoán bảo vệ rừng nhưng thiếu trách nhiệm, vi phạm quy định của Nhà
nước về bảo vệ rừng.
- Tổng kết thực tiễn, đề xuất hoàn
thiện cơ chế, chính sách trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để các công ty lâm nghiệp đủ năng lực, nguồn lực đầu tư cho công tác bảo
vệ và phát triển rừng, kinh doanh rừng có hiệu quả; nâng cao và gắn trách
nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của các chủ rừng với kết quả
bảo vệ rừng.
3. Về xã hội cần có các chính sách:
- Các Bộ ngành Trung ương cần nghiên cứu một Chính sách tổng thể về giảm nghèo bền vững cho khu vực Tây nguyên (chú trọng chuyển đổi nghề đề giảm “áp lực ảo” về thiếu đất trong đồng bào DTTS), phải đảm bảo hạn chế những mặt khiếm khuyết của các chính sách nêu trên.
- Các Bộ ngành liên quan cần nghiên
cứu điều chỉnh chuẩn nghèo để phù hợp tình hình thực tế nhằm đánh giá đúng thực trạng nghèo trong phạm vi cả nước.
- Về ổn định dân
di cư tự do: Hiện nay còn 23.565 hộ, 106.000 khẩu chưa được
sắp xếp, ổn định, bên cạnh đó diễn biến dân từ các tỉnh di
cư tự do đến địa bàn còn rất phức tạp. Vì vậy, đề nghị Trung ương:
+ Cấp bổ sung
kinh phí ổn định dân di cư tự do theo đề án đã được phê duyệt
+ Sớm tổ chức hội thảo giữa các địa
phương có dân đi và địa phương có dân đến nhằm đưa ra phương hướng chung trong
việc giải quyết vấn đề dân di cư tự
do.
+ Những năm gần đây, nhà nước luôn bị
động trong việc ổn định dân di cư tự do; dẫn đến nhiều hậu quả xấu. Vì vậy, cần có cơ chế điều hòa dân cư
trong phạm vi cả nước.
+ Về quỹ đất để bố trí sắp xếp dân di cư tự do: Hầu hết dân di cư tự do đến các tỉnh Tây nguyên hiện đang cư trú và sinh sống trên đất lâm
nghiệp, vấn đề chuyển đổi mục đích sử
dụng đất rừng sang đất nông nghiệp là rất khó khăn, do vậy nếu các vùng dân di cư tự do đến đã được lập dự án
quy hoạch bố trí sắp xếp ổn định dân cư, thì đề nghị Trung ương thống nhất chủ
trương được chuyển đổi mục đích sử
dụng đất mà dân di cư tự do khai phá hiện đang canh tác, có khả năng phát triển
sản xuất nông nghiệp để giải quyết kịp thời việc sắp xếp các
khu dân cư và bố trí đất sản xuất ổn định, lâu dài.
+ Chính phủ cần kiểm tra việc thực
hiện Nghị quyết 30a của các tỉnh biên giới phía Bắc về
tính hiệu quả. Vì tình hình dân DCTD của các huyện nghèo
phía Bắc vẫn tiếp tục di cư vào Tây nguyên.
- Về Chính sách đối với đồng bào dân
tộc:
+ Tổ chức điều tra tổng thể kinh tế - xã hội đồng bào DTTS tại chỗ trên
địa bàn các tỉnh Tây nguyên; để các Bộ, ngành TW có thông
tin chính xác về đồng bào DTTS tại
chỗ, tham mưu Chính phủ có giải pháp giải quyết cho vấn đề
dân tộc Tây nguyên.
+ Phân cấp cho địa phương chủ động về
hình thức đầu tư của Chương trình đầu tư trực tiếp cho hộ nghèo theo Quyết định
số 102/2009/QĐ-TTg là: mỗi hộ được
đầu tư một lần, mức đầu tư là 7-10 triệu đồng/hộ nghèo,
5-6 triệu đồng/hộ cận nghèo; có chính sách hỗ trợ trực
tiếp cho hộ cận nghèo để thoát nghèo bền vững, tránh tình trạng tái nghèo, nhất là hỗ trợ cây giống, con giống.
+ Tăng cường hơn nữa các chính sách khuyến nông, khuyến lâm, tập huấn tri thức bản địa để nâng cao nhận thức của hộ đồng
bào dân tộc thiểu số.
+ Bổ sung thêm đối tượng được thụ
hưởng chính sách định canh định cư theo Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg: Số hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ đã được hỗ
trợ theo Chương trình 132, 134 nhưng đang thiếu cơ sở hạ
tầng thiết yếu; Số hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ đang sống trong các nhà
dài cần tách hộ, đang thiếu đất sản
xuất, đất ở, đời sống gặp nhiều khó khăn, có nguy cơ du
canh du cư. Tuy nhiên, nội dung hỗ trợ để đảm bảo bền vững
vẫn ưu tiên cho đào tạo nghề; khoán quản lý bảo vệ rừng theo hình thức đồng
quản lý (cả hộ dân và lực lượng của chủ rừng), đồng hưởng
lợi, tạo sự gắn kết trách nhiệm và kỹ năng trong tuần tra,
xử lý vi phạm Lâm luật.
+ Tiếp tục đầu tư Chương trình 135
giai đoạn 2013 - 2015 với mức đầu tư cao hơn.
+ Đề nghị Chính
phủ tiếp tục cho kéo dài thời gian thực hiện Quyết định số 1592/QĐ-TTg theo các
nội dung sửa đổi mới đến năm 2015; hỗ trợ kinh phí để địa
phương triển khai thực hiện các chính sách trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng đặc biệt khó khăn theo Đề án đã được phê duyệt.
Trên đây, là nội dung báo cáo rà soát
thực trạng hạ tầng nông thôn, tình hình sử dụng đất, rừng;
tình hình sản xuất, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ và dân di cư tự do trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên và một số ý
kiến đề xuất của địa phương về cơ chế chính sách để tiếp
tục thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị; kính đề nghị
Ban Chỉ đạo Tây nguyên xem xét, tổng hợp, báo cáo Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính
phủ./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ (để B/c);
- Bộ trưởng Cao Đức Phát (để B/c);
- Ban Chỉ đạo Tây Nguyên;
- Lãnh đạo Bộ;
- Các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Lao động-Thương binh và
Xã hội;
- Ủy ban Dân tộc;
- UBND các tỉnh Tây Nguyên;
- Đảng Ủy Bộ;
- Lưu VT, Cục KTHT, VP Bộ, VP BCĐ TN.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỦ TRƯỞNG
Nguyễn Đăng Khoa
|