BỘ
THỦY LỢI
*******
Số:
31-TL
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 08 tháng 10 năm 1963
|
HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ QUYẾT SỐ 141-CP NGÀY 26-09-1963 CỦA HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ BAN HÀNH “ĐIỀU LỆ QUẢN LÝ, KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ CÁC CÔNG TRÌNH THỦY
NÔNG”
Bản điều lệ
quản lý, khai thác và bảo vệ các công trình thủy nông vừa được Hội đồng Chính
phủ ban hành, là văn bản của Nhà nước, có tính chất pháp lý, tương đối toàn diện,
trong đó quy định những điểm căn bản về công tác quản lý và khai thác các công
trình thủy nông.
Trong khuôn
khổ một bản điều lệ của Chính phủ không thể nói lên và quy định các điểm chi tiết,
vậy chiều theo điều 2 của nghị định số 141-CP ngày 26-09-1963 nói trên, bộ Thủy
lợi giải thích rõ để Ủy ban hành chính tỉnh, thành, các ty thủy lợi, các ban quản
trị nông giang nghiên cứu thi hành đúng với tinh thần của bản điều lệ của Chính
phủ về mọi mặt công tác quản lý, khai thác, bảo vệ các công trình thủy nông, và
về các điểm có liên quan đến các ngành Nông nghiệp, Công an, Giao thông v.v…
I. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA
Điều 1 của bản
điều lệ đã nêu rõ mục đích ý nghĩa ở đây, cần nói rõ thêm:
1.
Nói thủy lợi là biện pháp hàng đầu trong nông nghiệp không những chỉ có
nghĩa là công trình thủy lợi cần có để bảo đảm kế hoạch sản xuất nông nghiệp,
mà còn bao gồm ý nghĩa chế độ và kỹ thuật tưới tiêu, đúng lúc, đúng tiền
lương là biện pháp hàng đầu trong các biện pháp kỹ thuật nông nghiệp liên hoàn,
và từ đó, thấy sự cần thiết có màng lưới kênh mương và công trình nhỏ phụ thuộc
để thực hiện được các chế độ tưới đó, nhằm tăng sản lượng cây trồng kết hợp với
việc cải tạo chất đất từng bước.
2. Chỗ
nào chưa có công trình, thì tất nhiên việc đầu tiên là phải nghĩ tới việc xây dựng
công trình. Nhưng khi đã có công trình, thì cần phải thấy hết các vấn đề cần
thiết để sử dụng tốt các công trình đó, nghĩa là:
a) Tùy nhu cầu
mỗi lúc và của mỗi loại cây trồng của mỗi vụ, của mỗi chất đất, mà áp dụng các
chế độ và kỹ thuật tưới tiêu hợp lý nhất;
b) Đồng thời,
giữ được công trình luôn luôn tốt, phòng ngừa và hạn chế được các hư hỏng có thể
xẩy ra, thường xuyên nghiên cứu cải tiến và phát huy tác dụng công trình.
3. Sau
Đại hội lần thứ III của Đảng, hội nghị thủy lợi toàn miền Bắc họp ở Hưng Yên
tháng 08-1961, đã đề ra đường lối công tác thủy lợi của ta trong giai đoạn này:
“Phát triển đi đôi với củng cố, xây dựng đi đôi với quản lý”. Đường lối
đó đúng, nhưng hiện nay, công tác quản lý và khai thác các công trình đã có
chưa được coi trọng đúng mức và chưa đuổi kịp đã xây dựng công trình mới. Đó là
một việc không hợp lý, ảnh hưởng không tốt đến các kế hoạch sản xuất nông nghiệp
của ta.
4. Việc
Chính phủ ban hành bản điều lệ này nói lên sự quan tâm rất đúng mức của Đảng và
Nhà nước trong công tác quản lý, khai thác và bảo vệ tốt các cơ sở vật chất và
kỹ thuật thủy lợi đã xây dựng, để góp phần đưa nông nghiệp tiến lên nhanh
chóng, mạnh mẽ và vững chắc, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
A. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA BẢN
ĐIỀU LỆ
Điều 2 quy
định rõ: “Điều lệ này áp dụng cho tất cả các loại hệ thống thủy nông có liên
quan đến nhiều địa phương hay nhiều hợp tác xã, bao gồm từ công trình đầu mối
như cống, đập, hồ nước, trạm bơm, v.v… đến màng lưới kênh mương và công trình
phụ thuộc”.
1. Các
loại hệ thống thủy nông nói ở đây gồm cả các hệ thống đại thủy nông, các hệ thống
và các công trình trung thủy nông, tiểu thủy nông.
Phạm vi áp dụng
của bản điều lệ của Chính phủ rất rộng, và việc quản lý, khai thác các công
trình thủy nông loại lớn, loại vừa, loại nhỏ, đều phải theo các quy định cơ bản
của điều lệ; nhưng khi vận dụng vào từng hệ thống từng công trình cần phải có mức
độ khác nhau. Ví dụ: đối với một hệ thống đại thủy nông thì cần phải có đủ quy
định kỹ thuật về quản lý và khai thác chung cho toàn bộ hệ thống và các quy định
kỹ thuật áp dụng riêng cho từng công trình quan trọng trong hệ thống; việc quan
trắc lún, xê dịch nghiêng v.v… có phần làm bằng mắt, nhưng có nhiều phần phải
tiến hành bằng máy v.v… đối với một công trình trung thủy nông chỉ cần có một bản
quy định kỹ thuật đơn giản; còn đối với một công trình tiểu thủy nông chỉ cần một
nội quy quản lý và bảo vệ công trình gọn, dễ hiểu và việc quan trắc thường
xuyên có thể làm bằng mắt v.v…
2.
Riêng đối với các công trình (cống nhỏ, đập nhỏ, mương máng) chỉ liên quan đến
một hợp tác xã, thì việc quản lý và khai thác sẽ do hợp tác xã hoàn toàn phụ
trách; các cơ quan thủy lợi nhất là các cán bộ thủy lợi huyện, xã có nhiệm vụ
tích cực giúp đỡ.
B. QUẢN LÝ CÔNG TRÌNH
Điều 4 của bản
điều lệ quy định 4 điểm rất quan trọng về công tác quản lý công trình.
a) “Trong
quá trình xây dựng công trình, cơ quan quản lý phải cử người chuyên trách theo
dõi thi công để nghiệm thu, đồng thời chuẩn bị bộ máy quản lý để khai thác được
tốt khả năng của công trình ngay sau khi hoàn thành”.
1.
Cử người theo dõi thi công để nghiệm thu: Đối với các công trình bổ sung
cho các hệ thống đang khai thác (như việc xây dựng âu thuyền Neo trong hệ thống
Bắc Hưng Hải, hay cống Lân thuộc hệ thống Thái Bình Nam, v.v… thì cán bộ theo
dõi là cán bộ kỹ thuật chuyên trách về công tác quản lý công trình của các quản
trị hệ thống nông giang sở quan; đối với các công trình mới xây dựng, chưa có
ban quản trị nông giang thì cán bộ theo dõi sẽ do ty thủy lợi sở tại cử và lấy
trong số cán bộ kỹ thuật sẽ bố trí vào bộ máy quản lý sau khi công trình hoàn
thành (như hệ thống Đan hoài ở Hà Đông, hệ thống Nam sông mã ở Thanh Hóa v.v…).
Người cán bộ
theo dõi này phải tham gia nghiệm thu từng bộ phận công trình, có sổ
riêng ghi chép các quyết định về thay đổi đồ án thiết kế và các biến chuyển
công trình trong từng thời gian thi công, đồng thời chuẩn bị từng bước hồ sơ
lý lịch công trình đó để đến lúc công trình hoàn thành thì hồ sơ lý lịch cũng
đã căn bản xong.
2.
Về chuẩn bị bộ máy quản lý: Đối với các công trình bổ sung cho các hệ thống
đại thủy nông đang khai thác, thì việc chuẩn bị bộ máy quản lý sẽ do các ban quản
trị nông giang trực thuộc Bộ (Bắc Hưng Hải, Hà Đông, Hà Nam) hay trực thuộc Ủy
ban hành chính tỉnh, phụ trách. Đối với các hệ thống khác trực thuộc ty thủy lợi
hay các hệ thống công trình mới xây dựng thì việc chuẩn bị bộ máy quản lý sẽ do
ty thủy lợi sợ tại phụ trách. Riêng các hệ thống lớn mới xây dựng thì do Ủy ban
hành chính tỉnh chuẩn bị bộ máy quản lý.
Bộ máy quản
lý chuẩn bị đây không cần phải đầy đủ ngay trước khi hoàn thành công trình,
nhưng điểm quan trọng là trước khi tiếp thu công trình ít nhất là ba tháng, Hội
đồng quản trị liên tỉnh hay Ủy ban hành chính tỉnh, thành, phải quy định hay đề
nghị Bộ quy định số biên chế mới cần thiết, và trên cơ sở đó, tuyển dụng hay
xin chuyển dần số cán bộ và công nhân đã được duyệt để chậm nhất là 15 ngày
trước khi tiếp thu toàn bộ công trình, bộ máy quản lý căn bản có đủ số người cần
thiết và đã phải chuẩn bị xong các mặt để có thể sử dụng tốt công trình.
b) và c) -
Điều b và c quy định thời gian phải xây dựng xong lý lịch công trình và các quy
định kỹ thuật về quản lý và khai thác; đối với các công trình mới 3 tháng sau khi
nghiệm thu toàn bộ công trình; đối với các công trình cũ, ba tháng sau khi ban
hành điều lệ này:
1.
Về lý lịch công trình: Lý lịch một hệ thống nông giang hay công trình thủy
nông là một hồ sơ tổng hợp các tài liệu dưới đây:
- Tài liệu
về thiết kế: Các bản nhiệm vụ thiết kế, các tài liệu cơ bản về thủy văn, về
địa chất, về diện tích, về yêu cầu tưới tiêu, yêu cầu giao thông vận tải v.v…
đã sử dụng trong khi xây dựng đồ án, các bản thuyết minh kỹ thuật và các bản đồ
1/25.0000 hay 1/100.000 ghi rõ vị trí các công trình, các kênh mương, diện tích
tưới, tiêu từng khu vực v.v…
- Tài liệu
về thi công: Các bản về chi tiết các bộ phận công trình, lập thêm trong quá
trình thi công như khớp nối bộ máy đóng mở v.v… các sổ ghi chép, các biểu đồ chỉ
rõ các biến chuyển trong khi thi công và các bản vẽ bổ sung hay thay đổi đồ án
thiết kế; các biên bản nghiệm thu từng bộ phận và toàn bộ công trình cùng các bản
phụ lục v.v…
- Tài liệu
về quá trình quản lý công trình: Đối với các công trình đã khai thác, ngoài
các tài liệu về thiết kế và thi công nói trên, hồ sơ lý lịch còn gồm cả các tài
liệu về quá trình quản lý. Các tài liệu này là: các hồ sơ và đồ án tu sửa công
trình; các biên bản, các tờ trình về kiểm tra công trình kèm theo các bản vẽ và
các phụ bản khác; các tài liệu về quan trắc theo dõi công trình, các tài liệu tổng
hợp về thủy văn và về khí tượng (Mức nước lưu lượng, lượng mưa, cao nhất, thấp
nhất, bình quân từng thời gian, v.v…) Các kế hoạch phân phối nước; các bản đồ
công trình, bản đồ phân khu tưới tiêu, bản đồ hành chính có địa giới huyện, xã,
sông ngòi, đường giao thông địa phương v.v… các bản sơ kết công tác hàng quý và
tổng kết hàng năm v.v…
2.
Về quy định kỹ thuật.
Bộ đã ban
hành các quy định kỹ thuật sau đây:
- Quy phạm kỹ
thuật tạm thời về quản lý về khai thác chung cho các hệ thống nông giang (quyết
định số 611-TL-TN ngày 16-05-1962);
- Quy trình kỹ
thuật tạm thời về quản lý và khai thác chung cho các cống dập trên các hệ thống
nông giang (quyết định số 1145-TLĐL-TN ngày 29-09-1962);
- Quy trình kỹ
thuật tạm thời về quản lý và khai thác chung cho các trạm bơm lớn (cố định)
(quyết định số 854-TLĐL ngày 18-07-1962);
- Quy trình kỹ
thuật tạm thời về quản lý và khai thác chung cho các công trình trên hồ nước của
các hệ thống nông giang (quyết định số 549-TL-TN ngày 09-09-1963).
Dựa vào các bản
quy phạm và quy trình tạm thời đó (từ nay thống nhất gọi là quy định kỹ thuật),
các ty thủy lợi và các ban quản trị nông giang sẽ xây dựng các bản quy định kỹ
thuật áp dụng riêng cho từng hệ thống và từng công trình đơn vị mình phụ trách.
Các bản quy định kỹ thuật của từng hệ thống phải quy định cụ thể: những công
trình quan trọng cần có quy định kỹ thuật riêng (như công trình đầu mối, đập điều
tiết trên kênh chính, cống tiêu lớn v.v…) các công trình loại vừa (như cống lấy
nước các kênh nhánh, đập điều tiết nhỏ v.v…) cần một nội quy đóng mở và bảo vệ
công trình; còn các công trình nhỏ khác chỉ cần một nội quy quản lý giản đơn.
Các bản quy định kỹ thuật này sẽ do các hội đồng quản trị duyệt và ban hành đối
với các hệ thống liên tỉnh và Ủy ban hành chính các tỉnh, thành trực thuộc
Trung ương, duyệt và ban hành đối với các hệ thống nằm trong một địa phương,
theo như quy định ở điều 8 và 14 của điều lệ.
3. Muốn
xây dựng tốt các quy định kỹ thuật về quản lý và khai thác các hệ thống nông
giang, các công trình thủy nông, cần quán triệt các điểm xuất phát sau này:
- Phục vụ tốt
sản xuất nông nghiệp, cụ thể là thực hiện được các kế hoạch tưới, tiêu từng vụ
của mỗi địa phương nhằm bảo đảm các chỉ tiêu về sản lượng và về diện tích;
- Bảo đảm an
toàn của công trình, quy định các chế độ đóng mở, kiểm tra, theo dõi, tu sửa, để
công trình luôn luôn được tốt, sử dụng được lâu dài;
- Góp phần
vào việc nghiên cứu khoa học để cải tiến thêm công tác quản lý và khai thác
công trình; đồng thời góp thêm tài liệu về thủy học, về thủy văn v.v… bổ sung
cho công tác thiết kế.
Lệch về bảo đảm
tưới tiêu, mà không dựa trên cơ sở tính toán khả năng thực tế của từng công
trình, của từng đoạn kênh mương, là chỉ thấy nhiệm vụ bảo đảm sản xuất mà không
thấy nhiệm vụ bảo đảm an toàn công trình; nhưng ngược lại, áp dụng máy móc các
bản tính toán kỹ thuật mà không nghĩ đến việc phát huy tác dụng công trình, để
có thể vừa phục vụ sản xuất tốt hơn, vừa bảo đảm không xảy ra hư hỏng, tác hại
cho công trình, thì cũng là một sai lầm cần tránh.
Phải tìm cách
lợi dụng hiệu ích tối đa nhưng không được vượt quá giới hạn bảo đảm an toàn, muốn
vậy phải làm chủ được kỹ thuật, phải nắm chắc được thực trạng thì quản lý mới tốt,
quản lý có nghĩa là sử dụng sao cho hợp lý chứ không phải chỉ có nghĩa là làm
thế nào không hỏng là được.
4.
Trong khi nghiên cứu các bản quy định kỹ thuật chung mà Bộ đã ban hành để xây dựng
các bản quy định kỹ thuật áp dụng cho từng hệ thống, từng công trình, cần chú
ý vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo, nhưng tuyệt đối phải tôn trọng các
quy định kỹ thuật có tính chất cơ bản; đồng thời phải cụ thể hóa vào từng hệ
thống, từng công trình các quy định chung của Bộ. Ví dụ:
- Quy định thời
gian quan trắc lún, xê dịch, nghiêng phải tùy theo tình hình cụ thể từng công
trình: có hiện tượng lún, xê dịch, nghiêng hay không; hiện tượng nặng hay nhẹ:
mà quy định cụ thể 15 ngày, một tháng, ba tháng hay một năm quan trắc một lần. Điểm
quy định cơ bản có tính chất nguyên tắc mà phải tôn trọng ở đây là: phải
quan trắc lún, xê dịch, nghiêng; và dù công trình đã được ổn định rồi, một năm
cũng cần quan trắc một lần (mục 28, bản quy định kỹ thuật tạm thời về quản lý
và khai thác chung cho các hệ thống nông giang của Bộ). Cần nhận rõ đây là một
kỷ luật bắt buộc, là một trọng trách của các ty thủy lợi, các bản quản trị nông
giang, không thể coi thường và làm tùy tiện như trước được. Đến thời hạn kiểm
tra mà ty thủy lợi hoặc ban quản trị không kiểm tra thì phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm.
5.
Trong quá trình nghiên cứu các bản quy định kỹ thuật chung của Bộ để vận dụng
và xây dựng các bản quy định áp dụng riêng cho từng hệ thống, từng công trình,
các ty và ban quản trị nông giang thấy có điểm nào có tính chất nguyên tắc cơ bản
mà xét không áp dụng được thì cần phải thinh thị Bộ theo tinh thần mục “quy định
chung của bản quy định kỹ thuật của Bộ ban hành ngày 16-05-1962”.
6.
Riêng đối với các hệ thống nông giang cũ xây dựng trước cách mạng tháng 8, mà
hiện nay phần lớn các hồ sơ thiết kế, thi công và một phần tài liệu về quản lý
còn đang bị phân tán, thì trước mắt cần kiên quyết tập trung một số cán bộ sưu
tầm gấp các tài liệu cơ bản về tình hình và đặc điểm hệ thống nông giang hay
công trình, cần có để xây dựng các quy định kỹ thuật về quản lý và khai thác
như: yêu cầu về mức nước, về lưu lượng qua từng công trình, từng đoạn kênh
mương để bảo đảm tưới tiêu; các bản đồ và các bản vẽ chủ yếu các tài liệu về
tính toán an toàn công trình, về kiểm tra về quan trắc và theo dõi công trình
v.v… Các tài liệu khác sẽ tiếp tục thu thập sau để hồ sơ lý lịch được đầy đủ.
7. Việc
xây dựng xong hồ sơ lý lịch công trình và các quy định kỹ thuật về quản lý và
khai thác trong thời hạn quy định trên đây là một khó khăn cần phải hết sức
tích cực mới khác phục được. Trong công tác khẩn trương này, cần tránh hai loại
tư tưởng không đúng: “tư tưởng làm qua loa cho xong và tư tưởng cầu toàn”.
Yêu cầu
chính là cố gắng làm cho tốt, cho xong các bản quy định kỹ thuật, tổ chức học tập
cho cán bộ và công nhân hiểu rõ ý nghĩa và nội dung để nghiêm chỉnh thi hành; rồi
trong quá trình thực hiện chú ý nghiên cứu thêm, bổ sung dần để các quy định đó
ngày càng hoàn chỉnh. Trong quá trình xây dựng và thực hiện các quy định kỹ
thuật, thấy có điểm gì khó khăn, cần phản ảnh và thỉnh thị kịp thời cấp trên.
8.
Cũng cần chú ý rằng, mặc dầu chưa có các quy định áp dụng riêng cho từng hệ thống,
từng công trình; nhưng các quy định kỹ thuật chung của Bộ đã ban hành có đầy đủ
giá trị thi hành đối với tất cả các hệ thống, tất cả các công trình. Ví dụ:
không thể vì chưa có quy định quản lý một hệ thống mà không chấp hành chế độ kiểm
tra, chế độ quan trắc, hoặc không thể vì chưa có quy định quản lý một công
trình mà đóng; mở cửa cống không theo nguyên tắc đối xứng v.v…
9. Một
việc nữa cần chú ý là: xây dựng các quy định kỹ thuật về quản lý và khai thác
là việc rất cần thiết, nhưng nếu không thường xuyên kiểm tra thực hiện, uốn
nắn kịp thời các thiếu sót thì kết quả của việc xây dựng quy định kỹ thuật
không thể gọi là tốt được. Việc kiểm tra này cần chủ yếu phải do trưởng,
phó ty thủy lợi, trưởng phó ban quản trị nông giang trực tiếp phụ trách, mỗi lần
kiểm tra phải có nhận xét ghi vào sổ theo dõi công trình.
d) Ngoài
việc thường xuyên theo dõi và tu bổ công trình, hàng năm phải tiến hành 2 đợt
kiểm tra trước và sau mùa lũ, kịp thời đặt kế hoạch bảo quản sửa chữa.
1.
Nội dung và yêu cầu là kiểm tra toàn bộ hệ thống (công trình kênh mương).
Kiểm tra tất cả các bộ phận héton, bằng đá, bằng đất, các cánh cống, các thiết
bị máy móc của công trình v.v…, các đoạn đê xung quanh công trình, các kênh
chính, kênh nhánh v.v… trong hệ thống.
2.
Thời gian tiến hành kiểm tra quy định cụ thể như sau:
- Kiểm tra
trước mùa lũ: đối với các hệ thống và công trình thuộc các tỉnh ở Bắc bộ; từ
16-04 đến 15-05; đối với các hệ thống và công trình thuộc các tỉnh ở liên khu 4
cũ từ 01-05-đến 31-05 hàng năm.
- Kiểm tra
sau mùa lũ: Đối với các hệ thống và công trình thuộc các tỉnh ở Bắc bộ: từ
01-10 đến 30-10; đối với các hệ thống và công trình thuộc các tỉnh ở liên khu 4
cũ: từ 16-10 đến 15-11 hàng năm.
3. Trưởng
đoàn kiểm tra là đại diện Hội đồng quản trị đối với các hệ thống nông giang
liên tỉnh; hoặc là đại diện của Ủy ban hành chính tỉnh đối với các hệ thống đại
thủy nông nằm trong một tỉnh.
Tham gia đoàn
kiểm tra còn có các cán bộ và nhân viên kỹ thuật sau này: Trưởng ban quản trị
nông giang, cán bộ kỹ thuật chủ chốt về công tác quản lý công trình ở ban quản
trị và khi tới một địa phương, mỗi công trình, các trưởng hạt; các cán bộ và
công nhân kỹ thuật phụ trách quản lý công trình.
4.
Ngoài các thành phần trên, và tùy yêu cầu của từng đợt kiểm tra, bộ Thủy lợi sẽ
cử thêm đại diện của cục Thủy nông và của viện Thiết kế tham gia kiểm tra các
công trình mấu chốt quan trọng, thuộc các hệ thống đại thủy nông lớn, bị hư hỏng
tương đối nặng, cần theo dõi thật sát các biến chuyển, để kịp thời đề ra các biện
pháp quan trắc, xử lý.
5. Để
các đoàn kiểm tra có tài liệu chính xác nhận xét công trình, các công tác quan
trắc lún, xê dịch, nghiêng, quan trắc bồi lấp, xói lở v.v… phải làm xong trước
khi đoàn kiểm tra tới.
Sau khi kiểm
tra mỗi công trình, ty thủy lợi hoặc ban quản trị nông giang sở quan cần lập
ngay biên bản có ghi rõ những nhận xét và đề nghị của đoàn, có kèm theo các bản
quan trắc; các bản đồ, bản vẽ, bản sơ họa cần thiết.
C. QUẢN LÝ NƯỚC
a) Xây dựng
màng lưới kênh mương, bờ vùng và các công trình phụ thuộc.
Điểm a) - Điểm
5 quy định: “Ủy ban hành chính các cấp địa phương phải khẩn trương lãnh đạo
xây dựng màng lưới kênh mương, bờ vùng và các công trình phụ thuộc theo quy hoạch
phát huy tác dụng hệ thống của địa phương. Thời hạn hoàn thành màng lưới này chậm
nhất là một năm, kể từ khi xây dựng xong các công trình mấu chốt, đối với các
công trình cũ thì kể từ ngày ban hành điều lệ này”. Muốn quán triệt được
tinh thần điểm quy định rất quan trọng này của Chính phủ, cần chú ý các điểm
sau đây:
1. Quản
lý nước tốt trên một hệ thống nông giang có nghĩa vụ cụ thể là thực hiện được
tưới tiêu theo khoa học trên phạm vi rộng lớn đồng ruộng các xã, các hợp tác xã
được hưởng lợi. Muốn đạt được kết quả đó, sau khi Nhà nước, hoặc Nhà nước
cùng với nhân dân đã xây dựng các công trình mấu chốt, các kênh chính, kênh
nhánh, việc căn bản nhất là phải có màng lưới kênh mương tưới tiêu bờ vùng, bở
thửa đầy đủ và các công trình phụ thuộc. Trên cơ sở có màng lưới kênh mương và
công trình này, mới tổ chức được việc phân phối nước một cách hợp lý.
Màng lưới
kênh mương và công trình nhỏ này càng hoàn chỉnh, thì càng thuận tiện cho việc
tưới tiêu chủ động, càng phát huy được tác dụng của hệ thống đã xây dựng. Xây dựng
được tốt màng lưới thủy lợi này, tức là thực hiện tốt phương châm kết hợp công
trình loại nhỏ với công trình loại vừa và loại lớn; kết hợp các công trình do
nhân dân tự làm với công trình do Nhà nước và nhân dân cùng làm hay do Nhà nước
làm; kết hợp được giữ nước với tưới nước, tháo nước hợp lý trên phạm vi rộng lớn
các đồng ruộng của xã, của hợp tác xã.
2. Muốn
làm màng lưới thủy lợi này được tốt, đáp ứng được yêu cầu hiện tại, nhưng không
mâu thuẫn với tương lai, tốn công ít, thu lợi nhiều, thì trước hết phải xây dựng
quy hoạch phát huy tác dụng của hệ thống.
Ở một số địa
phương, hiện nay đã xây dựng xong quy hoạch vùng nông giang Ủy ban hành
chính các cấp, từ tỉnh xuống đến xã, cần tích cực thực hiện việc đào đắp kênh
mương để hoàn thành trước thời hạn quy định là một năm, trước mắt phục vụ
ngay vụ Đông xuân 1963-1964 này.
Đối với
các hệ thống chưa có quy hoạch, các ty thủy lợi và ban quản trị nông giang
cần hết sức tích cực xây dựng xong quy hoạch để sớm trình Hội đồng quản trị
liên tỉnh hoặc Ủy ban hành chính tỉnh, thành trực thuộc Trung ương thông qua. Việc
thực hiện đào đắp kênh mương theo các quy hoạch này cũng phải hoàn thành chậm
nhất là một năm, như đã quy định.
3. Đối
với các hệ thống đang xây dựng ví dụ như Bắc Bắc ninh, Đức thọ v.v… cũng như đối
với các hệ thống sẽ xây dựng thêm về sau, các ty thủy lợi cần xúc tiến gấp việc
xây dựng quy hoạch và Ủy ban hành chính các tỉnh, thành trực thuộc Trung ương,
lãnh đạo thực hiện dần màng lưới thủy lợi, để khi các công trình mấu chốt hoàn
thành, có thể tận dụng sớm khả năng tưới, tiêu của hệ thống.
4. Các
màng lưới kênh mương, bờ vùng, các công trình phụ thuộc, xây dựng theo quy hoạch
vùng nông giang trên đây có tính chất liên xã, hay liên hợp tác xã, nhưng muốn
thực hiện được tưới tiêu theo khoa học trên từng thửa ruộng của hợp tác xã, thì
mỗi hợp tác xã cần đào đắp các mương, các máng nhỏ, các bờ vùng, bờ thửa,
xây dựng các cống lấy nước, tiêu nước các đập điều nước đơn giản, trong phạm
vi hợp tác xã mình. Việc xây dựng các màng lưới kênh mương nhỏ ở hợp tác xã
này, cần phải tiến hành song song với việc thực hiện quy hoạch phát huy tác dụng
của hệ thống nói ở các điểm trên.
b) Điểm b, Điều
5 quy định ba việc rất quan trọng:
- Thứ nhất:
Xây dựng kế hoạch phân phối: “Việc xây dựng kế hoạch phân phối nước cho từng
vụ gieo trồng phải dựa vào kế hoạch sản xuất có kèm theo yêu cầu về tưới, tiêu
cho từng vụ từng loại cây. Kế hoạch này phải được Ủy ban hành chính các xã
trong hệ thống nông giang, tham gia ý kiến và được Hội đồng quản trị hệ thống
liên tỉnh hoặc Ủy ban hành chính tỉnh, thành trực thuộc Trung ương xét duyệt
theo như quy định ở điều 8, 9 và 14 dưới đây. Sau khi đã xét duyệt, cần phổ biến
rộng rãi cho các hợp tác xã trước khi làm đất và gieo mạ. Việc điều chỉnh kế hoạch
phân phối nước do tình hình biến chuyển của thời tiết phải được cơ quan đã xét
duyệt thông qua và phổ biến kịp thời”.
Các việc cụ
thể cần chú ý để xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch phân phối được là:
1. Dựa
vào kế hoạch sản xuất có nghĩa là dựa trên cơ sở diện tích canh tác từng vùng
cây trồng khác nhau, mỗi vùng đất đai khác nhau lại có một yêu cầu về chế độ tưới,
tiêu khác nhau.
Việc đề ra
các yêu cầu về chế độ tưới nước cho từng vụ, từng vừng, từng loại cây trồng sẽ
do ngành nông nghiệp phụ trách như quy định ở điều 10 của bản điều lệ và nói rõ
thêm ở chương III bản thông tư này.
2. Dựa
vào yêu cầu tưới nước của từng vùng từng thời gian, cơ quan quản lý nông giang,
phải cân đối lại với khả năng cung cấp nước của hệ thống. Hiện nay, vì các hệ
thống của ta chưa được hoàn chỉnh, nên yêu cầu tưới vụ chiêm thường quá khả
năng nguồn nước, do đó chưa bảo đảm tưới đồng loạt, với yêu cầu đầy đủ, nên phải
nghiên cứu, điều hòa bằng các biện pháp quản lý nước, như tưới luân phiên, tăng
cường trữ nước đầu vụ chiêm v.v… hoặc bằng các biện pháp canh tác khác (như đổi
giống cây trồng…) để có cơ sở lập một dự án kế hoạch phân phối nước tương đối vững
chắc, trong những điều kiện thời tiết bình thường.
3. Để
các xã xác định lại kế hoạch sản xuất của địa phương mình và cân đối các yêu cầu
về giống, về mạ, về sức kéo, và nhân lực v.v… với từng thời gian cung cấp nước,
bản dự án kế hoạch phân phối nước, trước khi xét duyệt nên căn cứ vào yêu cầu
các xã trong hệ thống nông giang, và sau khi được xét duyệt, cần phổ biến rộng
rãi xuống đến tận các hợp tác xã trước khi làm đất và gieo mạ. Việc phổ biến
này càng làm sớm càng hay, nhưng chậm nhất, cũng phải trước 10 ngày hợp tác xã
gieo mạ.
4.
Cũng cần nhận rõ rằng mặc dù đã có cơ sở tính toán như trên, kế hoạch phân phối
nước này, cũng chỉ là một phương án chỉ đúng với những điều kiện thời tiết đã
tính. Trong thực tế, các điều kiện nắng mưa, nóng lạnh, luôn luôn thay đổi, do
đó, cho nên việc theo dõi các dự báo khí tượng để điều chỉnh kịp thời các kế
hoạch phân phối nước đã được xét duyệt là một việc rất quan trọng.
Một yếu tố nữa
cũng có thể làm thay đổi kế hoạch phân phối nước, là khi các hợp tác xã thay đổi
kế hoạch sản xuất ví dụ: vùng này trước định trồng lúa nay lại trồng mầu, vùng
kia trước định cấy dấm, nay lại làm ải v.v… Trong trường hợp này, các hợp tác
xã cũng phải báo cao kịp thời lên cơ quan quản lý nông giang.
Việc điều chỉnh
cũng phải được cơ quan đã xét duyệt kế hoạch thông qua. Riêng đối với các hệ
thống liên tỉnh, để bảo đảm điều chỉnh tưới tiêu kịp thời, khỏi ảnh hưỏng xấu đến
sản xuất và nếu Hội đồng quản trị hệ thống chưa có điều kiện họp ngay thì chủ tịch
Hội đồng có thể tạm duyệt rồi trình Hội đồng quản trị hệ thống sau.
- Một điểm
nữa cần chú ý là: xây dựng một quan niệm mới và tác phong chỉ đạo các hệ thống
nông giang. Có kế hoạch phân phối nước chưa đủ, mà điều quan trọng là phải
có công tác chỉ đạo rất chặt chẽ để thực hiện kế hoạch đó một cách hợp lý. Việc
đó đòi hỏi các cán bộ lãnh đạo chính trị và kỹ thuật, từ trên xuống dưới, phải
đi thật sát, nắm được tình hình từng khu vực, từng công trình và phải xử lý kịp
thời. Cần thay đổi quan niệm cũ về công tác quản lý nông giang, không nên cho
đó là một công tác quá đơn giản mà làm theo tác phong hành chính, phải coi đó
là một cuộc chiến đấu rất phức tạp, đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao, chịu đựng
vất vả, mệt nhọc.
- Thứ nhì:
“Cần mau
chóng tạo điều kiện chủ động về nước để áp dụng ngay các chế độ và kỹ thuật tưới
tiêu nước khoa học”.
1. Hiện
nay, nhiều tỉnh, huyện đã có các cơ sở rượng thực nghiệm tưới khoa học. nhưng
muốn đẩy mạnh nền sản xuất nông nghiệp của ta lên theo tinh thần nghị quyết
VIII của Trung ương không thể chỉ áp dụng tưới theo phương pháp khoa học
trên các diện tích nhỏ bé của các cơ sở ruộng thực nghiệm mà phải tiến hành
trên các diện tích rộng lớn của mọi hợp tác xã.
Muốn làm được,
việc đầu tiên là phải có các cơ sở vật chất để chủ động được về nước.
2. Đối
với các vùng, các hợp tác xã đã có màng lưới kênh mương, bờ vùng, bờ thửa
và các công trình nhỏ phụ thuộc thì nhất thiết phải áp dụng rộng rãi ngay
các chế độ tưới theo phương pháp khoa học. Đối với các nông giang chưa có
điều kiện chủ động về nước, thì một mặt phải tích cực gấp rút thực hiện màng lưới
thủy lợi, mặt khác tranh thủ tạo ngay điều kiện chủ động về nước trên vùng
nhỏ một bằng cách đắp bờ, có kế hoạch dùng gầu, dùng guồng, dùng máy bơm
v.v… để áp dụng ngay các chế độ tưới theo phương pháp khoa học nhằm ổn định và
không ngừng nâng cao năng suất cây trồng kết hợp với việc cải tạo chất từng bước.
- Cần chú
ý thêm là, việc áp dụng các chế độ tưới theo phương pháp khoa học, không những
chỉ áp dụng trên các ruộng lúa, mà còn phải tiến hành ở các vùng trồng hoa
màu và cây công nghiệp nữa. Đối với các vùng trọng điểm trồng hoa màu và
cây công nghiệp lại càng phải được đặc biệt chú ý.
- Thứ ba:
“Mỗi hệ thống nông giang phải có những khu thí nghiệm để cải tiến các chế độ và
kỹ thuật tưới cho thích hợp với từng loại cây trồng, từng vụ, từng loại đất và
khí hậu của địa phương”.
1. Hiện
nay, viện Nghiên cứu khoa học Thủy lợi đã có một số trạm thí nghiệm tưới. Đó là
các trung tâm nghiên cứu các chế độ tưới và kỹ thuật tưới cho các loại cây trồng
chủ yếu và các vùng đất đai rộng lớn.
Muốn vận dụng
được tốt các kết quả nghiên cứu được ở các trạm thí nghiệm của Viện, mỗi
quan quản trị nông giang hoặc mỗi ty thủy lợi nơi chưa có ban quản trị nông
giang, tùy theo tình tình hình thực tế của đất đai, giống cây trồng, tập
quán canh tác, thời tiết v.v… của địa phương mình, mà tìm ra những công thức tưới
hợp lý nhất để phổ biến cho các hợp tác xã áp dụng.
2. Các
công thức tưới của các khu thí nghiệm phổ biến đó, tuy đã có một giá trị cụ thể
nhất định nhưng việc vận dụng vào từng hợp tác xã cũng cần hết sức linh hoạt,
và cũng tùy theo điều kiện cụ thể về đất đai, cây trồng, biện pháp canh tác của
hợp tác xã, do đó mỗi hợp tác xã cần có một cơ sở thực nghiệm tưới, khoảng từ
0 ha 200 đến 0 ha 500.
Về diện tích
phải bảo đảm tưới, tiêu theo phương pháp khoa học cho từng tỉnh, thành trực thuộc
Trung ương, bộ Thủy lợi sẽ có thông tư sau.
D. QUẢN LÝ KINH DOANH
a) Điểm a, Điều
6 của bản điều lệ đã quy định: “Đối với các hệ thống đại thủy nông, trung thủy
nông việc thu thủy lợi phí phải nhằm mục đích dùng vào việc quản lý tu bổ khai
thác công trình và phải theo đúng điều lệ thu thủy lợi phí ban hành theo nghị định
số 66-CP ngày 05-06-1962 của Hội đồng Chính phủ”.
Bộ không nhắc
lại đây các điều đã quy định ở bản điều lệ thu thủy lợi phí của Chính phủ và
thông tư hướng dẫn thi hành số 67-TT-TLĐL-TN ngày 29-10-1962 của Bộ, nhưng với
tinh thần điểm quy định mới này, Bộ cụ thể mấy điểm dưới đây:
1. Phải
tập trung các khoản thu thủy lợi phí vào công tác quản lý và tu bổ các hệ thống
đại thủy nông, trung thủy nông, tuyệt dối không được dùng tiền thu thủy lợi phí
đem làm việc khác, Ủy ban hành chính các tỉnh, thành trực thuộc Trung ương sẽ
chịu trách nhiệm về các hư hỏng trong hệ thống mà không sửa chữa, trong khi đó
lại sử dụng các khoản thu, hay một phần các khoản thu thủy lợi phí, vào các
công tác khác của địa phương.
2.
Ngoài điểm đã quy định trong thông tư thi hành nhắc trên: “Biểu thu riêng của mỗi
tỉnh phải được liên bộ Tài chính và Thủy lợi duyệt trước khi thi hành…”, từ
nay mỗi khi Hội đồng quản trị các hệ thống liên tỉnh hay Ủy ban hành chính các
tỉnh, thành trực thuộc Trung ương đề nghị Bộ cấp kinh phí đại tu bổ cho các hệ
thống đại thủy nông thì phải có báo cáo cụ thể về các khoản thu và chi về thủy
lợi phí.
3.
Cũng cần chú ý rằng hiện nay một số hệ thống còn nhiều công trình hư hỏng, chưa
sữa chữa được mấy, bộ máy quản lý cũng chưa được chặt chẽ; do đó chi phí về tu
bổ và về lương cán bộ công nhân tương đối còn ít. Nếu căn cứ vào các khoản chi
đó quy định mức thu thì không đúng, nhất là khi mức thu quy định còn thấp nhiều
hơn mức thu tối đa cho phép. Đối với các trường hợp này, cần nghiên cứu điều chỉnh
hợp lý các mức thu trong phạm vi mà điều lệ cho phép để có đủ kinh phí tu sửa
công trình hoàn chỉnh hệ thống.
b) Điểm b, điều
6 quy định 2 việc mới cần chú ý:
Một là: “Đối
với các hệ thống đại thủy nông đã thu thủy lợi phí, sau một năm ban hành điều lệ
này phải thực hiện việc quản lý theo chế độ hạch toán kinh tế”.
- Việc quản
lý các hệ thống nông giang theo chế độ hạch toán kinh tế đã được đề ra trong bản
điều lệ thu thủy lợi phí ban hành theo nghị định số 66-CP ngày 05-06-1962 của Hội
đồng Chính phủ.
Điểm mới ở
đây là thời gian quy định phải thực hiện, nhận rõ là thực hiện được quản lý
theo chế độ hạch toán kinh tế là tạo điều kiện tốt để đưa công tác quản lý và
khai thác các hệ thống nông giang vào nền nếp, làm đà tiến lên để phục vụ tốt
hơn nữa kế hoạch sản xuất nông nghiệp, chúng ta phải coi thời gian quy định
một năm là thời gian tối đa, và hết sức thực hiện được càng sớm càng hay.
Hiện nay, Bộ
đang làm thí điểm ở hệ thống Sơn tây, Chương Mỹ và sẽ có chỉ thị riêng về điểm
này; trong khi chờ đợi, yêu cầu các ban quản trị các hệ thống đại thủy nông
tích cực chuẩn bị các tài liệu cần thiết về công tác này như: kiểm tra và đánh
giá công trình, xác minh các diện tích hưởng lợi, xét lại các khoản thu chi
hàng năm v.v…
Hai là; “Trong
thời gian chưa thu thủy lợi phí, các chi phí về quản lý, tu bổ và khai thác đều
do ngân sách địa phương đài thọ”.
- Điều 9 của
điều lệ thu thủy lợi phí có quy định: “Các hệ thống nông giang mới xây dựng sẽ
được miễn thủy lợi phí từ một năm đến hai năm kể từ ngày được khai thác sử dụng”.
1.
Đối với các hệ thống đã khai thác trên một năm mà chưa thu thủy lợi phí, cần
phải điều tra, nắm vững ngay các diện tích thực tế đã hưởng lợi để trên cơ sở
đó, nghiên cứu các mức thu và biểu thu cần thiết.
Việc này cần
tiến hành gấp để nếu xét có thể được, thì tiến hành thu ngay thủy lợi phí từ đầu
1964, bớt được một phần gánh vác cho ngân sách Nhà nước.
2.
Đối với các hệ thống mới khai thác mà xét, đến 1964 chưa có đủ điều kiện thu thủy
lợi phí, thì Ủy ban hành chính các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sở
tại phải ghi vào ngân sách 1964 của địa phương mình mọi khoản chi phí về quản
lý và tu bổ như: lương cán bộ, công nhân, các chi phí về tu sửa công trình, về
dầu mỡ và điều kiện cho các trạm bơm điện v.v…
Riêng đối với
các hệ thống liên tỉnh, thì sau khi Hội đồng quản trị hệ thống xét duyệt kế hoạch
chỉ 1964 do Ban quản trị lập, thì Ủy ban hành chính các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có ruộng đất nằm trong hệ thống, phải ghi vào ngân sách 1964 của
địa phương mình phần của Hội đồng quản trị đã phân bổ cho.
3. Đối
với các hệ thống đang xây dựng: như Bắc Ninh, trạm bơm Yên Dũng, trạm bơm Đức
Thọ, v.v… Ủy ban hành chính các tỉnh cần nắm vững thời gian hoàn thành, ghi
trước vào Ngân sách địa phương mình các khoản chi cần thiết để có điều kiện sử
dụng ngay công trình.
c) “Đối với
các hệ thống trung thủy nông loại nhỏ và tiểu thủy nông có liên quan đến nhiều
hợp tác xã trở lên, các chi phí về quản lý, tu bổ, khai thác đều do các hợp tác
xã và nông dân có ruộng hưởng nước cùng nhau thỏa thuận đóng góp”.
Sự đóng góp
này cũng phải dựa trên cơ sở các yêu cầu về chi phí cần thiết về lương hay thù
lao cho nhân viên quản lý, về tu sửa và phát triển công trình, để việc khai
thác các công trình được tốt, việc tưới tiêu đồng ruộc được bảo đảm; việc phân
bổ các khoản đóng góp cho mỗi đơn vị hoặc cá nhân được hưởng lợi cũng phải được
công bằng hợp lý; hưởng nhiều, đóng nhiều, hưởng ít, đóng ít, tránh suy bì mất
đoàn kết.
Còn đối với
công trình tiểu thủy nông chỉ liên quan đến một hợp tác xã, thì các khoản chi
phí sẽ do hợp tác xã đó đảm nhiệm.
TRÁCH NHIỆM VÀ QUYỀN HẠN
CỦA CÁC CẤP, CÁC NGÀNH
CÓ LIÊN QUAN VÀ CỦA NHÂN DÂN
a) Điều 10 của
bản điều lệ quy định: Ngành nông nghiệp có nhiệm vụ dựa vào kế hoạch sản xuất
và các biện pháp canh tác liên hoàn, đặt ra yêu cầu về chế độ tưới nước cho từng
vụ, từng vùng, từng loại cây trồng và tham gia cùng ngành thủy lợi chỉ đạo việc
tưới, tiêu nước theo khoa học và cải tạo đất bằng biện pháp thủy lợi”.
Đây là quy định
cụ thể sự phối hợp giữa ngành thủy lợi và ngành nông nghiệp trong việc nghiên cứu
các chế độ tưới và biện pháp tưới, cũng như trong việc xây dựng và thực hiện
các kế hoạch phân phối nước thích hợp nhất cho từng vụ chiêm, thu, mùa, từng
vùng đất đai khác nhau, và từng loại cây trồng khác nhau. Cần phải thấy rõ rằng
các yêu cầu về nước cho từng thời gian sinh trưởng của cây trồng, có liên quan
mật thiết đến các biện pháp canh tác liên hoàn khác; cấy sâu hay nông, cấy đầy
hay thưa, bón nhiều phân hay ít phân, thời gian nào bón phân, giống lúa này hay
giống lúa khác v.v… đều có ảnh hưởng đến lượng nước cần cả.
Việc phối hợp
giữa các ty thủy lợi, các ban quản trị nông giang và các ty nông nghiệp phải được
rất chặt chẽ dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ủy ban hành chính các tỉnh, thành.
b) Điều 11 của
bản điều lệ cũng quy định sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành thủy lợi và các ngành
khác có liên quan “nhằm sử dụng tổng hợp nguồn nước trong việc phát triển giao
thông vận tải, làm thủy điện, nuôi cá, v.v…
Trong việc chỉ
đạo sự phối hợp giữa các ngành, Ủy ban hành chính các tỉnh, thành trực thuộc
Trung ương cần chú ý:
1.
Lợi dụng tổng hợp nguồn nước: là một việc rất cần nhưng cũng cần nhận thức
rõ là công trình thủy nông, chủ yếu để bảo đảm tưới tiêu, nhằm phục vụ tốt cho
việc trồng cây. Do đó, cho nên việc làm thủy điện, nuôi cá, trồng cây v.v…,
trên các hệ thống thủy nông, không được trở ngại cho các kế hoạch phân phối nước
của hệ thống đồng thời không ảnh hưởng đến an toàn của công trình, bờ kênh, bờ
mương.
2.
Về việc phối hợp giữa ngành giao thông vận tải và thủy lợi và theo tinh thần
thông tư số 68-TTg ngày 26-06-1962 của Thủ tướng Chính phủ, cần chú ý các điểm
sau này:
- Những công
trình giao thông phải bảo đảm đáp ứng yêu cầu thủy lợi, hoặc không làm trở ngại
đến công tác thủy lợi, và ngược lại.
Trường hợp
ngành nào xây dựng công trình mới làm trở ngại đến tác dụng sẵn có của ngành bạn,
thì phải được nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận, thống nhất ý kiến giữa hai ngành
và ngành xây dựng công trình mới phải chịu trách nhiệm đài thọ số kinh phí dùng
vào việc phục hồi những điều kiện sẵn có trước kia của công trình thuộc ngành bạn.
- Về việc vận
tải trên các công trình và hệ thống kênh mương, cũng như về việc vận chuyển
thuyền bè trong các hệ thống nông giang, sẽ nói rõ ở chương V.
3. Về
việc phối hợp với ngành Công an trong việc bảo vệ công trình nông, cũng sẽ nói
rõ ở chương V.
TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÁC HỆ
THỐNG NÔNG GIANG
Các điểm quy
định từ điều 13 đến điều 17 của bản điều lệ quản lý, khai thác và bảo vệ công
trình thủy nông mới ban hành này, về căn bản không có chỗ nào mâu thuẫn với bản
điều lệ tạm thời tổ chức bộ máy quản lý nông giang đã ban hành theo quyết định
số 359-QĐ-TLĐL ngày 23-03-1962 của Bộ. Các điểm quy định trong bản điều lệ tạm
thời tổ chức bộ máy quản lý nông giang nói trên vẫn hoàn toàn có giá trị thi
hành trừ các điểm mới bổ sung dưới đây:
1.
Đối với các hệ thống đại thủy nông loại lớn: Bắc Hưng Hải và Hà Đông, Hà Nam,
Hội đồng quản trị hệ thống gồm đại diện bộ Thủy lợi làm chủ tịch và đại diện Ủy
ban hành chính các tỉnh, thành trực thuộc Trung ương có ruộng đất trong hệ thống,
làm ủy viên.
2.
Đối với các hệ thống đại thủy nông liên tỉnh loại vừa và nhỏ như: Sông Cầu, Sơn
Tây, Chương Mỹ, An Kim Hải; Hội đồng quản trị hệ thống gồm đại diện Ủy ban hành
chính các tỉnh, thành và đại diện Ủy ban hành chính các huyện trong hệ thống.
Chủ tịch Hội đồng là đại diện Ủy ban hành chính tỉnh hoặc thành trực thuộc
Trung ương có nhiều diện tích ruộng đất hưởng nước trong hệ thống.
Như vậy các trưởng
ty thủy lợi không phải đương nhiên là chủ tịch hoặc là ủy viên Hội đồng quản
trị hệ thống, theo như quy định cũ, mà chỉ có thể tham gia Hội đồng với tư
cách là đại diện Ủy ban hành chính tỉnh, thành.
Một điểm nữa
cần chú ý là: do thành phần Hội đồng quản trị hệ thống là các đại diện Ủy ban
hành chính các tỉnh, thành cho nên nghị quyết của Hội đồng, không phải thông
qua các ủy ban hành chính đó mà có ngay giá trị thi hành trong toàn bộ hệ thống.
3. Điều
15 của bản điều lệ mới ban hành này cũng quy định cụ thể:
a) Ban quản
trị hệ thống đại thủy nông liên tỉnh loại lớn trực thuộc bộ Thủy lợi.
b) Ban quản
trị hệ thống đại thủy nông liên tỉnh loại vừa và nhỏ trực thuộc tỉnh, hoặc
thành làm chủ tịch Hội đồng quản trị nông giang.
c) Ban quản
trị hệ thống đại thủy nông trong một tỉnh trực thuộc Ủy ban hành chính sở tại.
Để áp dụng dễ
dàng điểm c mới quy định này, Bộ thấy cần nói rõ thêm:
- Hiện nay,
chúng ta có một số hệ thống nông giang mà thông thường gọi là đại thủy nông, vì
là do kinh phí trung ương đài thọ các khoản chi về xây dựng; về phương diện quản
lý và khai thác, chưa có văn bản nào của Bộ quy định thế nào và hệ thống nào là
đại thủy nông, hệ thống nào là trung thủy nông v.v…
- Trong khi
chờ đợi có một quy định chính thức về việc này, dựa vào tình hình thực tế của
các hệ thống ta hiện nay, Bộ tạm thời quy định các hệ thống sau này là hệ thống
đại thủy nông trong một tỉnh trực thuộc Ủy ban hành chính tỉnh sở tại Liên sơn,
(Vĩnh phúc); Bắc và Nam Thái bình (Thái bình); Nam định Đông và Ngô đồng (Nam định);
sông Chu, Nam sông Mã (Thanh hoá); Bắc Nghệ an, Nam Nghệ an (Nghệ an).
- Đối với
các hệ thống nông giang khác, tương đối bé hơn các hệ thống trên như: Cầu
Sơn (Hà Bắc), Lâm Thao; Hà Mão (Phú Thọ), Đại Lãi (Vĩnh Phúc), Suối Hai (Sơn
Tây), Nam Sách Chí Linh (Hải Dương), Gia Thượng (Hà Nội), Thủy Nguyên (Hải
Phòng) v.v… thì mỗi hệ thống thành lập một bộ phận quản lý trực thuộc Ủy ban
hành chính tỉnh nếu liên quan đến nhiều huyện, hoặc trực thuộc Ủy ban hành
chính huyện nếu chỉ liên quan đến nhiều xã trong một huyện. Để tổ chức được
gọn gàng, Ủy ban hành chính các tỉnh, thành nếu xét cần, có thể ủy nhiệm cho ty
thủy lợi trực tiếp chỉ đạo công tác quản lý và khai thác các hệ thống liên quan
đến nhiều huyện; và kiểm tra, đôn đốc; hướng dẫn về mặt kỹ thuật; đối với các hệ
thống nằm trong một huyện do Ủy ban hành chính huyện phụ trách.
4. Điều 16
cũng có quy định thêm “ở mỗi hệ thống trung thủy nông loại nhỏ hoặc tiểu thủy
nông chỉ liên quan đến một vài xã hoặc nhiều hợp tác xã thì giữa các xã hoặc hợp
tác xã hưởng nước thỏa thuận cử người phụ trách hoặc phân công quản lý.
Đây cũng là một
điểm mới và rất quan trọng kinh nghiệm vừa qua cho thấy rõ, có nhiều công trình
trung thủy nông, tiểu thủy nông, xây dựng xong, không có người chuyên trách về
công tác quản lý, do đó, có nhiều hư hỏng không phát hiện và sửa chữa kịp thời,
kết quả là đã xẩy ra tác hại quan trọng.
Lương hoặc
thù lao người chuyên trách này, tùy theo tầm quan trọng của công trình và điều
kiện sinh hoạt ở mỗi địa phương mà ấn định cho sát, và sẽ trả vào khoản chi phí
về quản lý, tu bổ và khai thác công trình mà “các hợp tác xã và nông dân có ruộng
hướng nước cùng nhau thỏa thuận đóng góp” (xem điểm c, mục D, chương II ở
trên).
5. Một điểm nữa
cần chú ý là: “Ở mỗi xã trong vùng hưởng nước của các hệ thống này (đại
thủy nông, trung thủy nông loại lớn) có từ một đến hai cán bộ thủy lợi xã chịu
trách nhiệm trước Ban quản trị hay bộ phận quản lý nông giang về việc thi hành
và hướng dẫn thực hiện các chế độ tưới, tiêu theo phương pháp khoa học và quy định
kỹ thuật về quản lý nông giang; được hưởng một khoản thù lao do quỹ thủy lợi
phi đài thọ. Khoản thù lao này sẽ tùy điều kiện công tác và sinh hoạt từng nơi
mà ấn định, tối thiểu là 10đ và tối đa là 20đ.
- Về tiêu chuẩn
để lựa chọn cán bộ, thì ngoài yêu cầu là người nông dân tốt, khỏe mạnh, cần chọn
các người có trình độ văn hóa lớp 3 hay lớp 4 đã có một số kinh nghiệm về đào đắp
kênh mương, tưới tiêu khoa học để có điều kiện dự các lớp bổ túc nghiệp vụ sau
này.
- Về thù lao,
thì phải rất linh hoạt, từ mức tối thiểu là 10đ đến mức tối đa là 20đ, có thể
tùy theo mức thu hoạch của nông dân địa phương, tùy theo công việc nhiều hay
ít, người cán bộ cần thoát ly sản xuất nhiều hay ít v.v… mà ấn định cho sát.
BẢO VỆ CÔNG TRÌNH THỦY
NÔNG
a) Điểm a điều
18 của bản điều lệ quy định rõ: “Ở mỗi vị trí công trình quan trọng, Ủy ban
hành chính tỉnh, thành trực thuộc Trung ương, niêm yết nội quy ra vào, tham
quan và cấm những việc làm có phương hại đến việc bảo vệ công trình”.
Các công
trình quan trọng là: các công trình đầu mối các hệ thống nông giang, các đập điều
tiết, các cống tiêu, có ảnh hưởng đến nhiều huyện. Tùy tình hình mỗi địa phương
và vị trí của mỗi công trình mà quy định cụ thể các việc cấm làm có phương hại
đến an toàn của công trình, ví dụ: cấm dùng thuốc nổ trong phạm vi 500m xung
quanh công trình như quy định ở điều 21, cấm đánh cá hay cuốc trong phạm vi
200m đối với các công trình đặc biệt quan trọng và 100m đối với các công trình
khác, v.v…
b) Điểm b, điều
18 quy định: “Dưới sự chỉ đạo của Ủy ban hành chính các tỉnh, thành trực thuộc
Trung ương, Ban quản trị nông giang phối hợp với công an và dân quân địa phương
để đặt kế hoạch bảo vệ các công trình trong toàn bộ hệ thống. Riêng đối với các
công trình quan trọng ảnh hưởng đến nhiều huyện, Ủy ban hành chính các tỉnh,
thành trực thuộc Trung ương phải trực tiếp tổ chức các lực lượng bảo vệ. Đối với
các công trình khác, thì ở địa phận huyện, xã nào thì Ủy ban hành chính huyện
xã ấy có trách nhiệm lãnh đạo các cơ quan công an và dân quân huyện, xã canh
phòng, bảo vệ. Việc canh phòng, bảo vệ các công trình cần được tăng cường và đặc
biệt chú trọng mùa lũ nhất là những lúc có lũ hoặc bão”.
Điểm quy định
trên rất rõ, trong lúc chỉ đạo thực hiện cần chú ý:
- Bản kế hoạch
bảo vệ công trình trong toàn bộ hệ thống, do Ban quản trị nông giang phối hợp với
công an và dân quân địa phương lập, phải cụ thể: các công trình quan trọng do Ủy
ban hành chính tỉnh hoặc thành trực tiếp tổ chức các lực lượng bảo vệ; các công
trình nào thuộc địa phận huyện, xã nào do Ủy ban hành chính các huyện, xã đó phụ
trách; lực lượng cần thiết bố trí ở mỗi công trình, ban ngày, ban đêm, thời kỳ
bình thường, lúc có mưa, có bão v.v…; các chi tiết về phân công giữa các lực lượng
canh phòng bảo vệ và tổ chức quản lý; các kế hoạch kiểm tra thực hiện nhất là đối
với các công trình đầu mối, các hệ thống đại thủy nông như đập Bái Thượng, đập
Đô Lương v.v… và các công trình lớn lấy nước hay tiêu nước dưới đê như Xuân
Quan, Liên Mạc, Lương Cổ, Trà Linh v.v…
Đối với các hệ
thống nằm trong một tỉnh, thì bản kế hoạch này phải được Ủy ban hành chính tỉnh
thông qua; trước khi thi hành. Đối với các hệ thống liên tỉnh, thì bản kế hoạch
này phải được mỗi Ủy ban hành chính tỉnh, thành sở quan thông qua, trước khi
trình Hội đồng quản trị xét duyệt.
- Các bản kế
hoạch bảo vệ và canh phòng này cần phải được thường xuyên (6 tháng, 1 năm) xét
lại và điều chỉnh cho sát với mọi biến chuyển có thể xảy ra.
c) Về vận tải trên các
công trình và hệ thống bờ kênh mương và về vận chuyển thuyền bè trong các hệ thống
nông giang.
Điều 19 và 20
của bản điều lệ đã quy định cụ thể. Trong việc thực hiện, cần chú ý:
1. Ở mỗi địa
phương, ty thủy lợi hoặc ban quản trị hệ thống nông giang cần bàn bạc và thống
nhất ý kiến với ty giao thông về trọng tải và tốc độ cho các loại xe được phép
chạy trên các bờ kênh dùng làm đường giao thông có rải đá hoặc tráng nhựa, cũng
như trên các bờ kênh mương không có rải đá hoặc tráng nhựa, và trên các công
trình xây dựng ở các đường đó.
Sau khi được Ủy
ban hành chính tỉnh, thành thông qua, phải niêm yết các trọng tải và tốc độ cho
phép ở hai đầu đoạn bờ kênh dương làm đường giao thông và ở hai bên đầu công
trình. Các bảng niêm yết này phải đạt theo thể lệ giao thông.
2. Để thi
hành đúng tinh thần điều 20 về việc hạn chế số lần đóng mở âu thuyền trong mùa
cạn và mỗi khi cần, và để nhằm một mặt tiết kiệm nước để tưới cho đồng ruộng, mặt
khác hạn chế khó khăn cho việc vận chuyển thuyền bè trong hệ thống; trong mùa cạn,
các Ban quản trị nông giang cần theo dõi thật sát yêu cầu tưới của từng thời
gian đối chiếu với tình hình biến chuyển của thời tiết (nắng, hạn v.v…) đề ra kịp
thời với Hội đồng quản trị hệ thống liên tỉnh hoặc Ủy ban hành chính tỉnh,
thành (đối với hệ thống nằm trong 1 địa phương) số lần đóng mở âu thuyền cần hạn
chế mỗi ngày và thời gian hạn chế, đồng thời thông báo cho các cơ quan, đơn vị
thường dùng đường vận tải thủy trong nông giang biết để điều chỉnh kế hoạch.
KHEN THƯỞNG VÀ KỶ LUẬT
Điều 22 và 23
quy định cụ thể các trường hợp khen thưởng và kỷ luật. Cần chấp hành nghiêm chỉnh.
Điểm cần chú
ý ở đây là: “Trưởng phó ban quản trị nông giang và cán bộ quản lý nông giang
được ủy nhiệm, lập biên bản và có ý kiến đề nghị mức xử lý để Ủy ban hành chính
địa phương quyết định”.
Thi hành điều
này, thì ngoài các trưởng phó ban quản trị là các người đương nhiên có quyền lập
biên bản, Ủy ban hành chính các tỉnh, thành theo đề nghị của các ban quản trị
nông giang, có thể ủy nhiệm cho một số cán bộ quyền lập biên bản. Số cán bộ được
ủy nhiệm này nên hạn chế trong phạm vi các cán sự bậc 3 trở lên, hoặc cán bộ kỹ
thuật cao cấp đã công tác được 2 năm trở lên, và cán bộ kỹ thuật trung cấp đã
công tác được 5 năm trở lên.
Đối với các hệ
thống liên tỉnh, thì cán bộ hoạt động ở địa phương nào, cần phải được ủy nhiệm
của Ủy ban hành chính tỉnh, thành đó.
Chương VII
KẾ HOẠCH HỌC TẬP VÀ CHỈ
ĐẠO THỰC HIỆN
Thực hiện được
đầy đủ bản “điều lệ quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thủy nông” do Hội đồng
Chính phủ mới ban hành đây sẽ có một tác dụng rất lớn đối với việc đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp, và trước mắt, đối với việc cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật
ở các hợp tác xã nông nghiệp.
Muốn thực hiện
được tốt, bước đầu là cần tổ chức học tập, phổ biến rộng rãi cho cán bộ các
ngành từ tỉnh xuống đến huyện, xã, mỗi tỉnh cần có một kế hoạch học tập cụ thể
riêng: học tập đối với cán bộ ngành thủy lợi và đối với các ngành có liên quan,
như Nông nghiệp, Giao thông vận tải; Công an v.v… học tập từ tỉnh xuống đến các
huyện; xã. Sau đợt học tập cho toàn thể cán bộ, cần có một đợt tuyên truyền cho
toàn thể đảng viên và quần chúng quán triệt mục đích ý nghĩa và những quy định
cơ bản của bản điều lệ.
Đối với ngành
thủy lợi, các ty và ban quản trị nông giang, cần có một kế hoạch học tập riêng:
học tập và phổ biến chung cho toàn thể cán bộ, nhân viên về bản điều lệ của
Chính phủ và thông tư hướng dẫn thi hành của Bộ. Riêng đối với các ty có hệ thống
nông giang và các ban quản trị nông giang, lại cần tổ chức cho các bộ phận quản
lý công trình kể cả các thủ công học tập và thảo luận về các bản quy định kỹ
thuật của Bộ đã ban hành để xây dựng các bản quy định riêng cho hệ thống và cho
các công trình của địa phương.
Thời gian
học tập cần cố gắng làm xong với công tác chuẩn bị phục vụ Đông – Xuân 1963 –
1964.
Trong thời
gian học tập và có điểm gì chưa rõ, xin cho Bộ biết ngay và sau khi học tập, Bộ
yêu cầu các Ủy ban hành chính tỉnh; thành báo cáo kết quả; các ty thủy lợi và
ban quản trị nông giang phải gửi báo cáo riêng về học tập ở đơn vị mình, chậm
nhất là cuối tháng 12-1963 báo cáo phải gửi về tới Bộ.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ THỦY LỢI
THỨ TRƯỞNG
Trần Quý Kiên
|