|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
508/QĐ-UBND
|
|
Loại văn bản:
|
Quyết định
|
Nơi ban hành:
|
Tỉnh Cao Bằng
|
|
Người ký:
|
Trịnh Trường Huy
|
Ngày ban hành:
|
10/05/2023
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH CAO BẰNG
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 508/QĐ-UBND
|
Cao Bằng, ngày 10
tháng 5 năm 2023
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN
HÀNH NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG
Căn cứ Luật Tổ chức chính
quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ
chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019;
Căn cứ Nghị định số
91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt
tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;
Căn cứ Thông tư số
36/2006/TT-BVHTT ngày 20/3/2006 của Bộ Văn hóa- Thông tin (nay là Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch) Hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt
tên, đổi tên đường phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số
91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ;
Căn cứ Quyết định số
21/2022/QĐ-UBND ngày 15/7/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng Ban hành Quy
chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Cao
Bằng.
Theo đề nghị của Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm
theo Quyết định này Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng.
Điều 2. Quyết định này
có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Điều 3. Chánh Văn phòng
Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Thủ trưởng các
sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và
các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Trịnh Trường Huy
|
NGÂN
HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG
(Kèm
theo Quyết định số 508/QĐ-UBND ngày 10 tháng 5 năm 2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Cao Bằng)
A. Lựa chọn địa danh, danh
nhân vào Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Cao
Bằng
1. Tên địa danh nổi tiếng, có ý
nghĩa và có giá trị tiêu biểu về lịch sử - văn hóa của đất nước hoặc địa phương;
địa danh đã quen dùng từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân; tên địa
phương kết nghĩa hoặc có mối quan hệ đặc biệt.
2. Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu
về chính trị, văn hóa, xã hội.
3. Tên di tích lịch sử - văn
hóa, danh lam thắng cảnh có giá trị tiêu biểu của quốc gia hoặc địa phương và
đã được xếp hạng theo quy định của Luật Di sản văn hóa.
4. Tên phong trào cách mạng, sự
kiện lịch sử, chiến thắng chống xâm lược có giá trị tiêu biểu của quốc gia hoặc
địa phương.
5. Tên danh nhân bao gồm cả
danh nhân nước ngoài. Danh nhân đó phải là người nổi tiếng, có đức, có tài, có
đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như của địa
phương hoặc có đóng góp đặc biệt cho đất nước, có công lớn trong hoạt động văn
hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, phát triển tình hữu nghị giữa các dân tộc,
được Nhân dân suy tôn và thừa nhận.
6. Ngoài lựa chọn các tên đã có
trong danh mục Ngân hàng tên, có thể lựa chọn tên các huyện, xã, phường, thị trấn
trong tỉnh đã được cấp có thẩm quyền quyết định thành lập để xem xét đặt tên
đường, phố và công trình công cộng.
Những nhân vật lịch sử còn có ý
kiến đánh giá khác nhau hoặc chưa rõ ràng về mặt lịch sử thì chưa xem xét đặt
tên cho đường, phố và công trình công cộng.
B. Danh mục tên đường, phố
và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng: 259 tên
I. Tên địa danh nổi tiếng,
có ý nghĩa và giá trị tiêu biểu về lịch sử - văn hóa; địa danh đã quen dùng từ
xa xưa, tên địa phương kết nghĩa hoặc có quan hệ đặc biệt: 77 tên
TT
|
Tên
|
Địa bàn
|
Tóm tắt nội dung, sự kiện, địa danh, nhân vật
|
(1)
|
Thành phố Cao Bằng
|
|
1
|
Bản Phủ
|
Xã Hưng Đạo
|
Bản Phủ là tên gọi dân gian
về tòa thành cổ gắn với truyền thuyết “Cẩu chủa cheng vùa” (Chín chúa tranh
vua) từ thời Thục Phán, thủ lĩnh người Tày Cổ (Tây Âu, tương truyền là con
Thục Chế - vua nước Nam Cương, cùng thời với nước Văn Lang). Những dấu tích
về tòa thành đến nay là tường thành, Bó Phủ (giếng Ngọc), hồ Sen...
|
2
|
Cao Tiên
|
Phường Hợp Giang
|
Đền Cao Tiên thờ công chúa
thứ hai của Vua Mạc Kính Vũ là Mạc Thị Cao Tiên. Sau khi nhà Mạc bị nhà Lê
đánh bại, để giữ khí tiết và lòng trung thành với nhà Mạc, khi bị quân nhà Lê
truy đuổi hoàng hậu và hai công chúa của nhà Mạc đã trẫm mình xuống sông, xác
của công chúa thứ 2 đã trôi theo dòng sông Mãng, Nhân dân thương xót đã đem
chôn cất và lập miếu thờ.
(Nguồn: Nguyễn Xuân Toàn, Vương Triều Mạc ở Cao Bằng một thời hưng
thịnh. Nxb Dân Trí, năm 2011)
|
3
|
Cao Bình
|
Xã Hưng Đạo
|
Là tên gọi quen thuộc của khu
vực xã Vu Tuyền, châu Thạch lâm, nay thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng.
Năm 1435, địa danh Cao Bằng (Cao Bình), lần đầu tiên xuất hiện trong sách Dư
địa chí của Nguyễn Trãi. Theo Nguyễn Trãi, hồi bấy giờ Cao Bằng đã ở hàng cấp
lộ. Trong Quốc sử quán triều Nguyễn, khi chép về diên cách Cao Bằng ghi rõ:
"Đời Hùng Vương xưa là bộ Vũ Định, đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc
quận Giao Chỉ... đời Lý về sau là đất Thái Nguyên. Đời Lê năm Thuận Thiên thứ
nhất (1428) thuộc Bắc đạo, năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt thừa tuyên Thái
Nguyên gọi là phủ Bắc Bình, năm Quang Thuận thứ 10 (1469) đổi làm Ninh Sóc
thừa tuyên; đời Hồng Đức (1470- 1497) lại đổi làm Thái Nguyên thừa tuyên, gọi
là phủ Cao Bình gồm 4 châu là: Thái Nguyên, Lộng Nguyên Thượng, Lang, Hạ
Lang...
Đến đầu thế kỷ XVI, triều Lê
suy yếu. Năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất triều Lê, lập nên triều Mạc. Năm
1592 nhà Mạc bị đánh bật khỏi Thăng Long và chạy lên Cao Bằng cố thủ. Năm
1594, Mạc Kính Cung tự xưng Vua là Càn Thống Hoàng Đế, đặt Vương phủ ở Cao
Bình.
Dưới thời Tây Sơn, năm 1789,
để tránh tên húy của vua Quang Trung là Nguyễn Quang Bình, các vùng đất có
tên là Bình đều phải đổi tên, trấn Cao Bình đổi thành Cao Bằng. Vào đầu triều
Nguyễn đặt lại tên cũ là Cao Bình, nhưng do thói quen kiêng kỵ nên sử sách và
dân gian cho đến nay vẫn gọi là Cao Bằng.
(Nguồn: Tổng tập Dư địa
chí Việt Nam, Nxb Thanh niên, năm 2012; Nguyễn Xuân Toàn, Vương Triều Mạc ở
Cao Bằng một thời hưng thịnh. Nxb Dân Trí, năm 2011)
|
4
|
Đà Quận
|
Xã Hưng Đạo
|
Tên gọi quen thuộc của làng
Đà Quận thuộc châu Thạch Lâm xưa, nay thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng.
Địa danh này đã có từ lâu đời, trong minh chuông chùa Đà Quận (tên chữ: Viên
Minh tự) có đoạn: Trời mở Nam Việt/đất lập Cao Bằng/ Ở giữa Bản Phủ/ đất vững
thành vua/Thạch châu kiên cố/ Đà Quận đất thiêng...
(Nguồn: Hồ sơ bảo vật quốc
gia, Bảo tàng tỉnh Cao Bằng, 2017)
|
5
|
Đồi Mát
|
Phường Tân Giang
|
Đồi Mát là tên gọi cũ khu dân
cư thuộc Nà Phía trước kia (nay thuộc tổ dân phố số 15 của phường Tân Giang).
|
6
|
Đồng Tâm
|
Phường Sông Hiến
|
Đồng Tâm là tên gọi khu dân
cư thuộc phường Sông Hiến, tiếp giáp với khu dân cư Bản Mới của xã Đề Thám
trước kia; một khu dân cư văn hóa có truyền thống đoàn kết, gắn bó, anh em
hàng xóm luôn đùm bọc lẫn nhau.
|
7
|
Đức Chính
|
Xã Vĩnh Quang
|
Đức Chính là tên gọi khu dân
cư thuộc khu vực xóm 1 hiện nay; đây là địa danh truyền thống về địa chỉ chăn
nuôi lợn giống của Thành phố và Tỉnh. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương, đơn vị - Xóm dân cư số 1 sẽ trở thành xóm điểm nông thôn
mới với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lấy phát triển nông nghiệp gắn với
du lịch sinh thái bền vững
|
8
|
Gia Cung
|
Phường Ngọc Xuân
|
Gia Cung là tên gọi quen
thuộc của người dân thị xã Cao Bằng (làng Gia Cung) - khu dân cư bên bờ sông
Bằng trải khá dài từ đầu cầu Gia Cung lên đến cầu Nà Cáp.
Trong giai đoạn 1933-1936:
Gia Cung là nơi xây dựng cơ sở cách mạng, chỉ đạo các hoạt động cách mạng; là
trạm đón tiếp và cất giấu tài liệu (hòm thư bí mật đặt dưới gốc cây đầu làng và
thường xuyên liên lạc với xứ ủy Bắc Kỳ); Nơi thành lập chi bộ Gia Cung (1932)
|
9
|
Khuổi Ngùa
|
Xã Chu Trinh
|
Tên gọi hai xóm dân cư thuộc
xã Chu Trinh; nơi có tuyến đường liên xóm kết nối các xóm dân cư số 3, số 4
và số 5. (“Khuổi Ngùa” tiếng Tày nghĩa là “suối tép”; “Nà Dìa” là “ruộng chia/ruộng
để dành”do ông cha để lại).
|
10
|
Khau Cuốn
|
Phường Sông Hiến
|
Khau Cuốn là tên gọi khu vực
dân cư này; còn có tên Kho Cuốn gắn với Kho lương thực thời kháng chiến của
Nhân dân thị xã Cao Bằng.
|
11
|
Khau Roọc
|
Phường Đề Thám
|
Xóm dân cư Khau Roọc, phường
Đề thám, nơi có di tích lịch sử Miếu Khau Roọc (Tiếng Tày, Nùng nghĩa là “Khe
núi”): Nơi Hồ Chủ Tịch nói chuyện với cán bộ, lãnh đạo tỉnh Cao Bằng về Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ II (2/1951).
Năm 2001, Miếu Khau Roọc được
xếp hạng là di tích cấp tỉnh.
|
12
|
Khau Thúa
|
Phường Ngọc Xuân
|
Khau Thúa là tên gọi khu dân
cư liền kề khu vực Trụ sở Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng; nơi có trường học (Trường
Tiểu học và Trung học cơ sở Ngọc Xuân) cùng với số cơ quan thuộc Sở Nông
nghiệp, Chi Cục kiểm lâm tỉnh trước kia.
|
13
|
Mỏ Muối
|
Phường Tân Giang
|
Mỏ Muối là tên gọi dân gian
quen thuộc với người dân khu vực này; tính từ ngã ba đền Ngọc Thanh đến dốc
lên ngã tư Công an Tỉnh thuộc tổ dân phố số 8 và tổ 9 phường Tân Giang.
|
14
|
Nà Cạn
|
Phường Sông Bằng
|
Nà Cạn là tên gọi dân gian
quen thuộc của Nhân dân thị xã Cao Bằng đối với toàn bộ khu vực sân bay trước
kia, trải dài từ chân cầu Bằng Giang đến chân cầu Hoàng Ngà. (“Nà Cạn” tiếng
Tày, Nùng nghĩa là “ruộng khô”).
|
15
|
Nà Cáp
|
Phường Sông Hiến,
|
Tên gọi dân gian quen thuộc
khu dân cư thuộc phường Sông Hiến.
|
16
|
Nà Hoàng
|
Phường Hòa Chung
|
Tên gọi khu dân cư bên bờ
sông Hiến thuộc phường Hòa Chung; kết nối từ đường liên tổ dân phố sang đường
tránh quốc lộ 3 - 4.
|
17
|
Nà Lủng
|
Phường Duyệt Trung
|
Nà Lủng là địa danh khu mỏ
sắt trước đây; sau khi khai thác xong, đã hoàn thổ, giao lại cho Nhân dân
canh tác. (Nà Lủng tiếng Tày, Nùng nghĩa là ruộng trong thung lũng).
|
18
|
Nà Thỏ
|
Phường Duyệt Trung
|
Nà Thỏ là tên gọi khu dân cư
bên đường Quốc lộ 4 (Đường Đông Khê), gần đến khu vực Nhà máy xi măng Cao
Bằng; đây là khu đất tái định cư.
|
19
|
Nước Giáp
|
Phường Duyệt Trung
|
Tên gọi khu dân cư thuộc ngã
ba sông, nơi hợp lưu sông Hiến và sông Bằng, từ cầu treo bắc qua phường Ngọc Xuân
đến bờ sông Hiến; nơi có Sân vận động tỉnh - di tích lịch sử cách mạng (Tại
đây, ngày 21/02/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ
và đồng bào Nhân dân các dân tộc Cao Bằng).
|
20
|
Pháo đài
|
Phường Tân Giang
|
Pháo đài quân sự được Quân
đội viễn chinh Pháp xây dựng. Năm 1950, ngay sau khi Cao Bằng giải phóng
(03/10), Bác Hồ cùng với chỉ huy Mặt trận và lãnh đạo tỉnh quan sát toàn cảnh
thị xã Cao Bằng, trực tiếp chỉ đạo công tác tiếp quản, đảm bảo an ninh - trật
tự (Pháo đài quân sự tỉnh trực thuộc Bộ Chỉ quân sự tỉnh Cao Bằng quản lý,
được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh).
|
21
|
Phố Thầu
|
Phường Hợp Giang
|
Tên gọi tuyến phố bên bờ sông
Bằng, khu dân cư sầm uất bậc nhất Trấn Cao Bằng xưa và thành phố hôm nay; Trung
tâm Thương mại - Dịch vụ đô thị hiện tại và tương lai của Thành phố.
|
22
|
Sloóc Nàm
|
Xã Hưng Đạo
|
Sloóc Nàm là tên gọi cây cầu
treo bắc qua dòng sông Mãng kết nối khu dân cư Nam Phong với xóm Đà Quận trên
địa bàn xã Hưng Đạo; đây là tên gọi dân gian quen thuộc.
|
23
|
Sông Mãng
|
Phường Đề Thám
|
Sông Mãng, một tên gọi xưa
của sông Bằng Giang, đây là cách gọi dân gian quen thuộc của người dân về
khúc sông Bằng chảy từ xã Hoàng Tung (huyện Hòa An) qua xã Hưng Đạo đến
phường Đề Thám (Thành phố Cao Bằng).
|
24
|
Suối Củn
|
Phường Sông Bằng
|
Tên gọi dân gian quen thuộc
về dòng suối (xưa gọi là Sông Củn hoặc sông Cổn), bắt nguồn từ địa phận xã
Ngũ Lão, huyện Hòa An (tương truyền có mạch ngầm từ Hồ Thăng Hen, thuộc Trà
Lĩnh, huyện Trùng Khánh), một trong những hợp lưu của sông Bằng.
|
25
|
Tam Giang
|
Thành phố Cao Bằng
|
Theo sách Đại Nam nhất
thống chí, địa thế Cao Bằng có ghi: “Phía Bắc có sông Mãng, phía Đông có
sông Hiến, phía Tây có sông Củn, tục gọi là tam giang, ba mặt lượn quanh ôm
lại, như hình đai bạc”.
(Nguồn: Đại Nam nhất thống chí, tập IV. Nxb KHXH, Hà Nội, năm 1971)
|
26
|
Tam Trung
|
Phường Sông Bằng
|
Tam Trung là tên gọi trước
đây của khu dân cư phường Sông Bằng.
Theo Cao Bằng thực lục: Năm
Minh Mệnh thứ 14, thổ ty Bế Văn Cận (người Bái Khê) theo Nông Văn Vân ở Châu
Bảo Lạc kết đảng bao vây tỉnh thành. Bố chánh Bùi Tăng Huy, án sát sứ Phạm
Đình Trạc làm kế ứng phó, Lãnh binh là Phạm Văn Lưu dựa vào thế hiểm yếu lùi
giữ kho thành, lương cạn, lực kiệt, tiếp tế của triều đình không đến kịp nên
đã bị Nông Văn Vân chiếm thành. Khi thành bị phá, ba vị quan coi giữ thành đã
tự vẫn để giữ khí tiết, tỏ lòng trung thành với vua Minh Mệnh. Sau này nhà Nguyễn
cho xây dựng đền thờ ba vị trung thần ở Cao Bằng, gọi là Tam Trung từ (đền
Tam Trung).
Nguồn: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư, soạn thảo (1272-1697), Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch (1985-1992).
|
27
|
Tân An
|
Phường Hòa Chung
|
Tên gọi khu dân cư bắt đầu từ
ngã tư Công an tỉnh đến cột mốc số 0 Tỉnh lộ 209; nơi có Đoàn địa chất 105
xưa của tỉnh Cao Bằng.
|
28
|
Thanh Sơn
|
Phường Sông Hiến
|
Thanh Sơn tên gọi của khu dân
cư xưa bên bờ sông Hiến; nơi có đơn vị nghĩa trang liệt sĩ thị xã Cao Bằng
(nay là thành phố), trường học và Trụ sở của Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy
thuộc Công an Tỉnh.
|
29
|
Vườn Cam
|
Phường Hợp Giang
|
Phố Vườn Cam là một trong
những tuyến phố sầm uất của Cao Bằng xưa và thành phố Cao Bằng ngày nay.
Trước đây, trong giai đoạn 1930, phố Vườn Cam là trạm liên lạc giữa Trung ủy
với Xứ ủy và Trung ương.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ thị xã Cao Bằng Tập 1 (1930-1975), năm 1995)
|
(2)
|
Bảo Lạc
|
|
1
|
Khau Cốc Chà
|
Xã Xuân Trường
|
Đèo Khau Cốc Chà (dốc 15
tầng) - con đèo nằm trên địa phận xã Xuân Trường (Bảo Lạc), cách thị trấn Bảo
Lạc 18 km theo Quốc lộ 4A. Đây là một trong những cung đường đèo quanh co,
khúc khuỷu nhất khu vực Đông Bắc Bộ. Con đèo dài 2,5 km, gồm 15 tầng dốc
quanh co với những khúc cua gấp, hạ độ cao nhanh, hai bên là núi cao trùng
điệp. Khau Cốc Chà gần đây trở thành điểm hấp dẫn những du khách yêu thích du
lịch mạo hiểm.
Con đường đèo 15 tầng như dải
lụa khổng lồ uốn quanh vách núi, Cao hơn nữa là những dải mây trắng bồng bềnh
sáng lấp lánh giữa trời xanh. Cảnh tượng nơi đây vừa hùng vĩ mà lại hoang sơ,
hứa hẹn sẽ là điểm đến hấp dẫn trong tương lai.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
2
|
Phja Dạ
|
Xã Sơn Lập
|
Phja Dạ (Sơn Lập): Núi Phja
Dạ hùng vỹ có độ cao 1.976,7m so với mực nước biển, thuộc xã Sơn Lập (Bảo
Lạc). Quanh năm mây mù bao phủ, mùa đông mây trắng như những dải lụa mềm từng
lớp chồng xếp bao phủ núi. Mùa hạ mưa nhiều, đỉnh núi như thác nước khổng lồ
từ trên trời tuôn xuống. Mùa thu ít mây, nắng chiếu tỏa sảng lên ngọn núi
Phja Dạ như tháp lửa khổng lồ vút lên trời. Dưới chân núi Phja Dạ là đầu nguồn
sông Năng, nơi đồng bào Mông, Dao sinh sống, canh tác ruộng bậc thang trên đá
tạo nên những dải lụa vàng uốn lượn trên lưng núi.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
3
|
Sông Gâm
|
Thị trấn Bảo Lạc
|
Sông Gâm là dòng sông lớn
nhất huyện Bảo Lạc, bắt nguồn từ vùng núi cao gần 2.000 m thuộc địa phận Khu
tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc). Lòng sông Gâm rộng và sâu, độ
dốc lớn, tốc độ dòng chảy và lưu lượng nước lớn. Chính hệ thống sông, suối
nhiều nên Bảo Lạc có giá trị tiềm năng về thủy điện, thủy lợi. Sông Gâm có
nhiều loài cá ngon và quý hiếm mà nhân dân thường gọi “ngũ quý hà thủy”, gồm:
cá anh vũ (cá mõm lợn), cá lăng, cá bống, cá dầm xanh; đặc biệt là cá chiên -
loài cá nằm trong Sách đỏ. Theo các cụ cao niên kể lại, cá chiên là loài hung
dữ, thường sống ở vùng nước chảy xiết, đằm mình trong những hang ngầm dưới
đáy các khúc sông lớn.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Bảo Lạc 1930-2005. Nxb Lao động, năm
2010)
|
4
|
Sông Neo
|
Thị trấn Bảo Lạc
|
Sông Neo bắt nguồn từ vùng
núi Phja Oắc chảy theo hướng Đông Bắc qua xã Đình Phùng, xã Huy Giáp, chảy
xuống Nà Tồng - xã Hưng Đạo về xã Hồng Trị rồi đổ vào sông Gâm tại Thị trấn
huyện Bảo Lạc. Lòng sông Neo rộng trung bình 30 mét, độ sâu trung bình 1,5
mét, lưu lượng nước và dòng chảy không ổn định.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Bảo Lạc 1930-2005. Nxb Lao động, năm
2010)
|
(3)
|
Hạ Lang
|
|
1
|
Bá Co Ró
|
Xã Đồng Loan
|
Đèo Bá Co Ró: Là một điểm cao
trên đường 207, ranh giới giữa Bản Xà và Khau Rạ (xã Đồng Loan), cách Bản Xà
2km. Thời kỳ Việt Minh, đây là một chốt gác quan trọng bảo vệ các cơ sở Việt
Minh trên địa bàn xã, bảo vệ tầm xa “căn cứ” Việt minh ở Bản Bắng.
(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2009)
|
2
|
Khau Ruông
|
Xã Quang Long, xã Việt Chu
|
Đèo Khau Ruông: Những năm 1930-1945
là con đường mòn, thoai thoải lên dốc, từ xóm Nà Mần đến đỉnh đèo Khau Ruông,
xuống dần gặp xóm Bản Khau, là ranh giới giữa xã Quang Long và xã Việt Chu.
Trong thời kỳ thực dân Pháp cai trị, cán bộ ta thường luồn sâu dưới những lùm
cây xanh um tùm, rậm rạp, qua lại hoạt động cách mạng. Đèo Khau Ruông cũng là
nơi kẻ địch thường phục kích để giết hại cán bộ cách mạng. Trong chuyến đi
công tác của ông Nông Thạch Lâm, cán bộ chỉ huy quân sự huyện Hạ Lang và các
ông Nông Văn Điềm (tức Lý Quốc), Lục Văn Lá (tức Lục Sỹ Hòa) xóm Bó Mực xã
Quang Long, Lâm Điền Hinh, xóm Lũng Luông, địch đã phục kích chặn đường, bắn
chết ông Lục Sỹ Hòa. Cũng tại Khau Ruông, địch phục kích bắn chết ông Nông
Văn Điềm (tức Lý Quốc). Sau hòa bình lập lại năm 1954, Nhân dân và nhà nước
mới mở rộng con đường này, đi lại được dễ dàng hơn.
(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2009)
|
3
|
Kéo Nộc
|
Xã Đức Quang
|
Đèo Kéo Nộc thuộc xã Đức
Quang, huyện Hạ Lang. Từ xưa, Nhân dân Đức Quang đã xây lấp cửa này bằng một
bức tường đá hộc vững chắc, chỉ để cửa đủ cho người và gia súc qua lại và đặt
ở đây một trạm gác để ngăn chặn bọn phỉ đến cướp bóc
(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2009)
|
4
|
Phja Vẹn
|
Xã Thái Đức
|
Hang Phja Vẹn, thuộc làng Bản
Đâu, xã Thái Đức, huyện Hạ Lang là nơi tổ chức học võ, luyện tập quân sự cho
các thanh niên bảo vệ xóm làng. Nơi đây đã từng đón các cán bộ cách mạng về
hoạt động trong xã nhà.
Thời chưa có Đảng lãnh đạo,
chỉ có hai người dân ở làng Lũng Nưa, cùng với hai khẩu súng tại hang này đã
kiên cường chống lại 50 tên phỉ Sắn Sình.
(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2009)
|
5
|
Ngườm Bang
|
Xã Đồng Loan, xã Lý Quốc
|
Ngườm Bang thuộc Bản Thuộc,
tiếp giáp giữa xã Đồng Loan và xã Lý Quốc (huyện Hạ Lang) trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, ở vùng Bằng Ca đã hình thành khu căn cứ cách mạng xã
Thắng Lợi để chống Phỉ. Ngườm Bang là một trong số 3 chốt canh giữ đối phó
chống quân Phỉ. Chốt Ngườm Bang do đồng chí Hoàng Văn Lùng (tức Khánh Long)
chỉ huy.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Hạ Lang 1930-2000. Nxb Mỹ Thuật, năm
2003)
|
6
|
Phò Sèn,
|
Thị trấn Thanh Nhật
|
Là hai đồi dựng đứng cách
nhau chừng 400m, án ngữ về phía Tây, giáp các xóm Ngườm Khang, Đỏng Hoan,
Lũng Đốn (thị trấn Thanh Nhật); phía Nam giáp con đường mòn (Ba Rịn) đi lại
của Nhân dân các xóm Xa Tao, Nà Tháy, Bản Ngay; phía Đông dưới chân đồi có
xóm Xa Tao. Năm 1946, hai đồi đều có dựng chốt, lực lượng dân quân du kích ta
hằng ngày thay phiên nhau canh gác để theo dõi và báo động những tình huống
địch hoạt động trên không hoặc mặt đất phá hoại ta, để cho Nhân dân quanh
vùng an tâm sản xuất sinh sống.
(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2009)
|
7
|
Xa Xê
|
8
|
Khau Mòn
|
Xã An Lạc
|
Đèo cao thuộc xóm Khuổi Mịt,
đèo nhiều tầng, dốc quanh co, dài khoảng 5km. Nơi đã ghi lại thành tích chiến
đấu bảo vệ biên giới năm 1979.
(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng quyển III. Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2009)
|
9
|
Pò Điếm
|
Xã Đồng Loan
|
Pò Điếm là núi đất ở phía Tây
Bắc bản Mjào, xã Đồng Loan, huyện Hạ Lang, có độ cao 500m so với mặt biển.
Điểm cao này án ngữ trong phạm vi quan sát rất rộng. Trong kháng chiến chống
Pháp, gọi là Pò Điếm vì nơi đây đã trở thành nơi canh gác, cảnh giới, quan
sát máy bay địch và nhận báo tín hiệu bằng ánh lửa, tù và giữa Pò Điếm với
Pha Ma Bản Thuộc.
(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2009)
|
10
|
Phja Pjao
|
Xã Lý Quốc
|
Phja Pjao (núi nhọn) là ngọn
núi nằm ở phía Nam xóm bản Bang, xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang, có độ cao 732m so
với mực nước biển. Đường kính chân núi khoảng 1.000m. Sườn núi thoai thoải về
phía Lũng Phjô, dốc đứng về phía bản Bang và Lũng Búa. Ngọn núi này có đỉnh cao
nhọn nên có tên gọi là Phja Pjao (tiếng Tày “Phja là núi, “pjao” có nghĩa là
“sắc” và “nhọn”). Đây là một trong những đỉnh núi cao nhất ở khu vực Bằng Ca,
đã từng là điểm cảnh giới máy bay địch trong kháng chiến chống Pháp.
(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2009)
|
11
|
Phja Roan
|
Xã Đồng Loan
|
Phja Roan nằm ở phía Nam sau
xóm bản Lung, xã Đồng Loan, huyện Hạ Lang, cao 500m so với mặt biển. Bốn mặt
đều là vách đá dựng đứng khó leo lên được. Núi này gắn liền với truyền thuyết
nàng tiên và nàng Tô Thị Hoạn, là một danh lam thắng cảnh đẹp
có tiếng ở địa phương.
(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển III. Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2009)
|
(4)
|
Hòa An
|
|
1
|
Na Lữ
|
Xã Hoàng Tung
|
Theo Cao Bằng thực lục của
Bế Hựu Cung trong cuốn Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu
từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (864). Năm Bính
Tuất niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), nhà Đường ban cho Cao Biền chức Tĩnh
Hải quân tiết trấn, kiêm chư đạo hành doanh Chiêu thảo sứ. Tháng 11 cho xây
thành Đại La (Hà Nội), sau đó lệnh cho xây hai thành Na Lữ và thành Phục Hòa.
Thành Na Lữ được xây qua
nhiều triều đại khác nhau. Thế kỷ XVI - XVII, để đề phòng quân nhà Lê tiến
đánh, nhà Mạc ở Cao Bằng đã tu bổ và sửa chữa thành Na Lữ thành một trung tâm
chính trị và quân sự của vùng này. Thành Na Lữ có hình chữ nhật, chiều dài
800m; chiều rộng 600m và tương truyền có 4 cửa (cửa Đông, Tây, Nam, Bắc).
Trong thành có 4 gò đất được gọi theo tên bốn con vật là: Long, Ly, Quy,
Phượng. Ở giữa thành trước mặt cung điện có ao sen và ruộng bàn cờ….Thành
được xây bằng loại gạch vồ, chân thành có chiều rộng 6m, được bao quanh bằng
các tảng đá to, phẳng. Thành cao 5m, cổng thành được làm bằng gỗ nghiến to,
dày và rất chắc chắn. Trong khoảng 80 năm, nhà Mạc đã cho tu sửa, xây thành
cao lên, có cổng thành kiên cố để phòng thủ, đề phòng sự tấn công của chính
quyền Lê - Trịnh. Vì vậy, thành Na Lữ thường được gọi là thành nhà Mạc, đến
nay thành Na Lữ chỉ còn lại dấu tích. Vị trí thành Na Lữ ngày nay thuộc xã
Hoàng Tung, huyện Hòa An.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)
|
2
|
Pú Luông- Giả Cải
|
Thị trấn Nước Hai
|
Trong truyền thuyết nổi tiếng
Báo Luông - Slao Cải của đồng bào Tày, hai nhân vật trong truyền thuyết được
suy tôn là ông tổ của người Tày cổ Cao Bằng; là thủy tổ gây dựng nền nông
nghiệp ở Cao Bằng là Pú Luông, Giả Cải (khi trẻ họ là Báo Luông, Slao Cải lúc
cao tuổi họ được tôn là Pú Luông, Giả Cải). Truyền thuyết giải thích về nguồn
gốc con người và các hiện tượng thiên nhiên, xã hội. Đây cũng là sự tích về
sự ra đời của nghề nông trên đất Cao Bằng. Sau khi ông bà mất, các con lập
đền thờ trên gò đất bên suối giữa cánh đồng Bản Vạn. Hiện nay ngôi đền thờ Pú
Luông - Giả Cải vẫn còn, thuộc xóm Bản Vạn, Bế Triều, Thị trấn Nước Hai.
|
(5)
|
Nguyên Bình
|
|
1
|
KOLIA
|
Xã Thành Công
|
Tên của kỹ sư người Pháp
thiết kế con đường đèo Kolia, thời Thực dân Pháp mở con đường phục vụ khai
thác khoáng sản (đèo nằm ở độ cao 1.300m so với mực nước biển).
|
2
|
Phja Oắc - Phja Đén
|
Xã Thành Công
|
Tên gọi quen thuộc của Nhân
dân, dân gian giải thích rằng: Phja Oắc mang tên gọi của cây gỗ quý mạy Oắc
(gỗ Ngọc Am) với độ cao 1.931 m; Phja Đén với độ cao 1428m; ngọn núi phát
sáng như ngọn đèn, có 2 luồng ý kiến giải thích, đó là do trước đây khi thực
dân Pháp tiến hành khai thác khoáng sản tại khu vực Nguyên Bình, đã cho xây
dựng nhà máy thủy điện và thắp sáng hàng đêm ở khu vực núi đèo. Hay còn cách
lý giải khác là khu rừng, rừng núi nhiệt độ ẩm cao nên có nhiều lân tỉnh phát
sáng vào ban đêm.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)
|
3
|
Tà Sa
|
Xã Vũ Minh
|
Thực dân Pháp đã xây dựng nhà
máy thủy điện Tà Sa trên con sông De từ năm 1918, cung cấp điện cho Mỏ Thiếc
Tĩnh Túc để khai thác tài nguyên khoáng sản, sau chiến thắng Điện Biên Phủ
năm 1954 dưới sự giúp đỡ của Liên Xô, nhà máy thủy điện được khôi phục. Năm
1956 công trình được hoàn thành và cung cấp điện cho vùng xung quanh Tà Sa,
Minh Tâm.
(Nguồn: Địa chí Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2000)
|
4
|
Tổng Ngần
|
Xã Minh Tâm
|
Tổng Ngần thuộc xã Minh Tâm
huyện Nguyên Bình, theo tiếng địa phương nghĩa là đống bạc. Đây là thành lập
chi bộ Đảng châu Nguyên Bình (15/11/1935) - chi bộ gồm 4 đồng chí: Dương Mạc
Thạch (Bí thư); Trương Nam Hiến; Ma Văn Phái; Đoạn Văn Tằng.
Di tích Tổng Ngần được xếp
hạng di tích cấp tỉnh, năm 2009.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009; Lý
lịch di tích - Bảo tàng tỉnh)
|
(6)
|
Quảng Hòa
|
|
1
|
Bắc Vọng
|
Thị trấn Tà Lùng
|
Bắc Vọng là tên con sông bắt
nguồn tại Trung Quốc, chảy qua một số huyện phía Đông tỉnh Cao Bằng rồi tạo
thành biên giới tự nhiên giữa Việt Nam-Trung Quốc trước khi hợp lưu với sông
Bằng tại thị trấn Tà Lùng.
|
2
|
Bó Tờ
|
Thị trấn Hòa Thuận
|
Bó Tờ là một tên làng nghề
đường phên đã được tỉnh công nhận năm 2019; là một điểm di sản nằm trong
tuyến du lịch thứ 4 trong vùng Công viên địa chất Non nước Cao Bằng (đang xây
dựng).
|
3
|
Đoỏng Lèng
|
Thị trấn Tà Lùng
|
Đoỏng Lèng là tên gọi xóm,
khu dân cư biên giới từ lâu đời, được Nhân dân địa phương quen gọi và lưu
truyền đến ngày nay.
|
4
|
Hồng Đại
|
Xã Bế Văn Đàn
|
Là tên đơn vị hành chính cấp
xã thuộc huyện Phục Hòa cũ, hiện nay xã Hồng Đại đã sáp nhập hành chính với
xã Triệu Ẩu đổi tên thành xã Bế Văn Đàn.
|
5
|
Hưng Long
|
Thị trấn Tà Lùng
|
Hưng Long là tên gọi địa danh
1 xóm tại thị trấn Tà Lùng từ lâu đời. Là một xóm theo đạo Thiên chúa giáo
|
6
|
Hữu Nghị
|
Huyện Quảng Hòa
|
Hữu Nghị: Tính từ mang ý
nghĩa chỉ mối quan hệ tình bạn, tình đoàn kết thân thiết giữa hai quốc gia:
Quan hệ Hữu nghị.
|
7
|
Lương Thiện
|
Thị trấn Hòa Thuận
|
Là tên đơn vị hành chính cấp
xã thuộc huyện Phục Hòa cũ, hiện nay xã Lương Thiện đã sát nhập hành chính
với xã thị trấn Hòa Thuận.
|
8
|
Pò Tập
|
Thị trấn Tà Lùng
|
Pò Tập là tên gọi xóm, khu
dân cư biên giới từ lâu đời, được nhân dân địa phương quen gọi và lưu truyền
đến ngày nay
|
9
|
Phố Mới; Phố Cũ
|
Huyện Quảng Hòa
|
Gọi theo tên tuyến mới và
tuyến cũ
|
10
|
Phục Hòa
|
Thị trấn Hòa Thuận
|
Phố Phục Hòa (Háng Sléng,
Háng réng) - là một khu phố cũ được hình thành từ cuối đời nhà Mạc (khoảng
những năm 1927), Sléng hay Réng là một sảnh của cung đình, nhà Mạc đi đến đâu
thì đặt chợ ở đó; đến nay mặc dù trải qua nhiều biến cố lịch sử nhưng Phố
Phục Hòa vẫn là nơi trung tâm giao lưu buôn bán, trao đổi hàng hóa của nhân
dân; mang đậm nét văn hóa đặc trưng của vùng biên giới.
|
11
|
Tân Thịnh
|
Thị trấn Tà Lùng
|
Tuyến đường trong khu tái
định cư 47.1 được xây dựng, hoàn thành vào năm 2005. Sau khi tuyến đường hoàn
thành, Nhân dân xóm Pò Tập, Phia khoang - Thị trấn Tà Lùng đã di cư đến xây
dựng nhà cửa, sinh sống dọc 2 bên đường, tạo thành một khu phố nhỏ nhộn
nhịp.Đặt tên đường phố Tân Thịnh có nghĩa là đường phố mới được hình thành,
và đặt kỳ vọng trong tương lai khu phố sẽ phát triển thịnh vượng.
|
12
|
Triệu Ẩu
|
Xã Bế Văn Đàn
|
Là tên đơn vị hành chính cấp
xã thuộc huyện Phục Hòa cũ, hiện nay xã Triệu Ẩu sáp nhập hành chính với xã
Hồng Đại đổi thành tên xã Bế Văn Đàn.
|
(7)
|
Thạch An
|
|
1
|
Cạm Phầy
|
Thị trấn Đông Khê
|
Cạm Phầy là nơi thực dân Pháp
xây dựng các đồn bốt, trong chiến dịch Biên giới 1950, tại trận đánh cứ điểm
Đông Khê đây là nơi diễn ra các trận đánh cứ điểm ngoại vi của quân dân ta.
|
2
|
Khau Khoang
|
Xã Thái Cường
|
Tên gọi con đèo theo đặc điểm
hình dáng của con đèo, đèo nằm trên quốc lộ 4 cũ, thuộc xã Thái Cường huyện
Thạch An tỉnh Cao Bằng.
|
3
|
Phja Khoá
|
Thị trấn Đông Khê
|
Thuộc thị trấn Đông Khê,
huyện Thạch An, đồng thời đây cũng là nơi thực dân Pháp xây dựng các đồn bốt,
trong chiến dịch Biên giới 1950, tại trận đánh cứ điểm Đông Khê đây là nơi
diễn ra các trận đánh cứ điểm ngoại vi của quân dân ta.
|
4
|
Pò Đình
|
Thị trấn Đông Khê
|
5
|
Pò Hẩu
|
Thị trấn Đông Khê
|
6
|
Tu Hin
|
Thị trấn Đông Khê
|
Theo tiếng địa phương nghĩa
là cửa đá, tên gọi đường cũ từ Đông Khê vào xã Đức Long, gọi theo đặc điểm tự
nhiên của địa điểm này.
|
(8)
|
Trùng Khánh
|
|
1
|
Cảnh Tiên
|
Xã Đức Hồng
|
Là tên đơn vị hành chính cấp
xã thuộc huyện Trùng Khánh, hiện nay xã Cảnh Tiên sáp nhập với xã Đức Hồng
lấy tên xã Đức Hồng.
|
2
|
Co Sầu
|
Thị trấn Trùng Khánh
|
Thị trấn Trùng Khánh được
hình thành trước thế kỷ XVIII, từ xưa được gọi là phố Co Sầu, xã Lăng Hiếu,
tổng Lăng Yên, Thượng Lang tỉnh Cao Bằng. Phố Co Sầu là đầu mối giao lưu giữa
các xã trong huyện và các huyện Trà Lĩnh, Hạ Lang, Quảng Uyên (Quảng Hòa),
thành phố Cao Bằng và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Tương truyền xưa kia, đây
là nơi hội tụ nhiều người ở các vùng, miền qua lại trao đổi hàng hóa, nơi hẹn
hò của tình yêu đôi lứa, nên kinh tế phố Co Sầu phát triển. Chợ Co Sầu họp 5
ngày một lần, người đến chợ phải đi từ chiều hôm trước, họ chờ đợi, hẹn hò
nhau, góp tiền mua thực phẩm “hắt co kin sầu" - nghĩa là góp cỗ ăn cơm
chiều, rồi cùng nhau hát sli, lượn đối đáp… dần dần tạo thành thói quen nên
phố nhỏ có tên “Co Sầu" .
(Nguồn: Đài phát thanh và Truyền hình Cao Bằng)
|
3
|
Cô Mười
|
Xã Quang Hán
|
Cô Mười trước đây thuộc xã
Ngoại Trung của huyện Hà Quảng. Theo Quyết định số 127, ngày 05 tháng 04 năm
1965 của Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, xã Ngoại Trung được chia thành 4 xã: Trong đó
xã Cô Mười. Đến tháng 10-1981, xã Cô Mười được sáp nhập vào huyện Trà Lĩnh.
Là tên đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Trà Lĩnh cũ, xã Cô Mười sáp nhập
hành chính với xã Quang Hán lấy tên xã Quang Hán.
(Nguồn: Địa chí các xã tỉnh Cao Bằng, quyển II. Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2008)
|
4
|
Đình Minh
|
Thị trấn Trùng Khánh
|
Là tên đơn vị hành chính cấp
xã thuộc huyện Trùng Khánh, hiện nay xã Đình Minh đã sát nhập với thị trấn
Trùng Khánh là một nhân vật hoạt động cách mạng và cũng là địa danh quen
thuộc với quần chúng nhân dân.
Đình Minh là một nhân vật
hoạt động cách mạng quê ở xóm Thang Lý - xã Đình Minh cũ. Từ năm 1938 - 1939.
Đồng chí cùng đồng đội xây dựng được một số cơ sở quần chúng yêu nước, trên
nền tảng những cơ sở cách mạng do đồng chí Đình Minh phụ trách nhóm Thang Lý.
Tháng 9/1941 đồng chí tham gia hoạt động tuyên truyền cách mạng, gây cơ sở theo
hướng Đông, trên tuyến đường Trùng Khánh - Bằng Ca. Đến tháng 10/1941 do yêu
cầu cách mạng, nhằm củng cố tổ chức và hành động để nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng đồng chí đã được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Trùng Khánh 1930 - 2005. Nxb Chính trị
Quốc gia, năm 2011)
|
5
|
Lăng Yên
|
Xã Lăng Hiếu
|
Trước Cách mạng Tháng Tám
1945, địa phận xã Lăng Yên trước kia là xã Hảo Lệ, tổng Lăng Yên, châu Thượng
Lang. Tháng 9/1945, hai xã Hảo Lệ và Hiếu Lễ nhập làm một gọi là xã Lăng
Hiếu. Từ năm 1946-1947 đổi tên thành xã Trung Phúc. Trung Phúc là bí danh của
đồng chí Triệu Trung Nhật, ông hy sinh khi đi tiễu phỉ (8/1945).
Từ năm 1949 đến tháng 9/1958
mang tên xã Lăng Hiếu. Từ tháng 10/1958 - 1981, xã Lăng Hiếu tách thành ba
xã: Lăng Hiếu, Lăng Yên và thị trấn.
Năm 2020, xã Lăng Hiếu và
Lăng Yên sáp nhập lại thành xã Lăng Hiếu.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Trùng Khánh (1930 - 2005. Nxb Chính
trị Quốc gia, năm 2011); Địa chí xã Lăng Yên)
|
6
|
Phja Khoang
|
Thị trấn Trùng Khánh
|
Phja Khoang là tên gọi của
khu dân cư Phja Khoang cũ, sau quá trình sáp nhập và đổi tên đã không còn tên
gọi nữa.
|
7
|
Phja Phủ
|
Thị trấn Trùng Khánh
|
Núi Phja Phủ là ngọn núi hình
bát úp giữa phố chợ Co Sầu, trong núi có hang sâu, rộng rãi, thoáng mát, bằng
phẳng. Theo truyền thuyết thì đây là nơi các trai tráng trong vùng tụ họp, luyện
võ để chống giặc “cờ vàng”. Núi Phja Phủ còn gắn liền với đền Quán Thánh -
Năm 2014, di tích đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh.
(Nguồn : Lý lịch di tích Đền Quán Thánh - Bảo tàng tỉnh)
|
8
|
Trấn Biên
|
|
Giữa năm 1942, thực dân Pháp
tách tổng Trà Lĩnh ra khỏi phủ Trùng Khánh, lập thành Châu Trấn Biên gồm 4
tổng: Ngọc Quản, Tà Lệnh, An Ninh, và Bắc Lục.
Thực hiện Sắc lệnh số 148-SL
ngày 25/3/1948 của Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc bãi bỏ
các danh từ phủ, châu, quận; cấp trên xã và cấp dưới cấp tỉnh thống nhất gọi
là cấp huyện. Châu Trấn Biên đổi tên thành huyện Trấn Biên, gồm 4 xã: Cao
Chương, Quang Hán, Lưu Ngọc và Quang Trung. Năm 1958, huyện Trấn Biên được
đổi tên thành huyện Trà Lĩnh.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Trà Lĩnh 1930-2015)
|
9
|
Ngọc Chung
|
Xã Khâm Thành
|
Là tên đơn vị hành chính cấp
xã thuộc huyện Trùng Khánh, hiện nay xã Ngọc Chung sáp với xã Khâm Thành lấy
tên xã Khâm Thành.
|
II. Tên di tích lịch sử -
văn hóa, danh lam thắng cảnh có giá trị tiêu biểu của quốc gia hoặc địa phương
và đã được xếp hạng theo quy định của Luật di sản văn hóa: 7 tên
TT
|
Tên
|
Địa bàn
|
Tóm tắt nội dung, sự kiện, địa danh, nhân vật
|
1
|
Bản Giốc
|
Xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh
|
Tên Bản Giốc được gọi theo
làng Bản Giốc, cái tên địa danh lịch sử đã có từ lâu đời. Thác nằm ở xã Đàm
Thủy, huyện Trùng Khánh, là một trong những điểm tham quan du lịch chính của
Cao Bằng, thác Bản Giốc được xếp hạng Danh thắng quốc gia, theo Quyết định 989/QĐ-BVHTTDL,
ngày 20/05/1998 của Bộ VHTTDL.
Bản Giốc còn được mệnh danh
là thác lớn và đẹp thứ tư thế giới trong số các thác nước ở biên giới giữa
các quốc gia, nằm trong vùng Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng.
Thác Bản Giốc gồm thác chính và thác phụ, rộng tổng cộng khoảng 300m. Thác
chính nằm giữa biên giới Việt - Trung, rộng khoảng 50m, cao khoảng 35m và gồm
ba tầng. Thác phụ, nằm hoàn toàn trong địa phận Việt Nam, dài150m gồm một
tầng cao khoảng 30m. Phía trên thác là cảnh quan quan karst từ trưởng thành
đến già với địa hình dạng cụm đỉnh - lũng kết hợp với địa hình dạng tháp độc
lập trên bề mặt san bằng 400 - 600m. Phía dưới thác là thung lũng đứt gãy
sông Quây Sơn phát triển theo hướng Tây Bắc - Đông Nam kéo dài hàng km với
các vách đứt gãy và cánh đồng karst. Rừng dày cả phía trên và dưới thác, cùng
với dòng nước sạch tung bọt trắng xóa quanh năm và các hoạt động sống của con
người, chắc chắn sẽ cho du khách những trải nghiệm không thể nào quên.
(Nguồn: Lý lịch di tích danh thắng Thác Bản Giốc - Bảo tàng tỉnh,
caobanggeopark.com)
|
2
|
Phja Nọi
|
Xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng
|
Ngày 20/6/1931, tại hang Phja
Nọi, xóm Cốc Sâu, xã Sóc Giang (nay là xóm Sóc Giang xã Sóc Hà), Chi bộ Đảng
cộng sản đầu tiên của Hà Quảng ra đời, gồm ba đồng chí: Hoàng Tô (Bí Thư);
Đào Đức và Phúc Kiến. Đây là một sự kiện quan trọng trong phong trào đấu
tranh các mạng của đồng bào các dân tộc Hà Quảng. Ngay sau khi ra đời, Chi bộ
Đảng đã đặc biệt coi trọng xây dựng và phát triển các cơ sở cách mạng, từng
bước giáo dục, vận động, tổ chức quần chúng đấu tranh.
Tháng 5/1935, cũng tại hang
Phja Nọi đã thành lập Ban Châu ủy Hà Quảng gồm năm đồng chí: Hoàng Tô (Bí
Thư); Đào Đức và Phúc Kiến, Lê Quảng Ba, Quý Quân.
Năm 2004, di tích hang Phja
Nọi được xếp hạng là di tích cấp tỉnh.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Hà Quảng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm
2010).
|
3
|
Đông Bó Lình
|
Xã Chí Thảo, huyện Quảng Hòa
|
Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên
của liên Châu Quảng Uyên - Phục Hòa (chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở miền
Đông tỉnh Cao Bằng) được thành lập năm 3/1932 tại Đông Bó Lình, xóm Cốc Coóc,
xã Chí Thảo do đồng chí Ma Trung Lâm làm Bí thư Chi bộ. Năm 2005, di tích
Đông Bó Lình được xếp hạng là di tích cấp tỉnh.
(Nguồn: Lý lịch di tích Đông Bó Lình - Bảo tàng tỉnh)
|
4
|
Ngườm Mạ
|
Thị trấn Trùng Khánh, huyện Trùng Khánh
|
Hang Ngườm Mạ là di tích lịch
sử cách mạng có ý nghĩa quan trọng. Ngày 16/ 9/1939 tại Ngườm Mạ, Bản Đà, xã Đình
Minh đã diễn ra sự kiện thành lập Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Trùng Khánh.
Tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Thanh Cao tuyên bố kết nạp đảng viên Nguyễn Văn
Mân (bí danh Chí Viễn), Nông Quốc Nghĩa (bí danh Ái Quốc, về sau đổi thành
Minh Tâm) chuyển đảng viên dự bị Hoàng Thị Đáo thành đảng viên chính thức.
Ngườm Mạ là nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Trùng Khánh. Năm
2008, Hang Ngườm Mạ được xếp hạng là di tích cấp tỉnh.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Trùng Khánh (1930 - 2005.Nxb Chính trị
Quốc gia, năm 2011)
|
5
|
Thăng Hen
|
Xã Quốc Toản, huyện Quảng Hòa
|
Hồ Thăng Hen thuộc xã Quốc
Toản, huyện Trà Lĩnh (nay là xã Quốc Toản, huyện Quảng Hòa) là một trong
những điểm du lịch sinh thái nổi bật, hấp dẫn của tỉnh. Hồ Thăng Hen được xếp
hạng Danh thắng Quốc gia, theo Quyết định số 53/QĐ-BVHTT, ngày 28/12/2001 của
Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).
Hồ Thăng Hen nằm trong vùng
Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng, là một quần thể gồm 36
hồ nước ngọt tự nhiên với những tên gọi độc đáo như: Thăng Vạt, Nà Ma, Thăng Loỏng,
Thăng Hoi… có bờ ngăn riêng nhưng đều thông nhau qua hang động ngầm trong
lòng núi đá, khoảng cách giữa các hồ từ vài chục đến vài trăm mét. Đến với Hồ
Thăng Hen là đến với quần thể hồ - sông - hang, với nhiều phong cảnh đẹp và
kỳ bí thu hút du khách đến tham quan.
(Nguồn: Lý lịch di tích Hồ Thăng Hen - Bảo tàng tỉnh; Báo Cao Bằng
điện tử - baocaobang.vn)
|
6
|
Trông Nhìa Hậu
|
Xã Hồng An, huyện Bảo Lạc
|
Ngày 15/4/1945 tại hang Trông
Nhìa Hậu, xóm Lũng Sâu, nay thuộc xã Hồng An, huyện Bảo Lạc. Địa điểm hang có
vị trí chiến lược quan trọng cho việc lãnh đạo chỉ đạo cánh mạng tại địa
phương. Tổ chức cộng sản đầu tiên ở châu Bảo Lạc ra đời, đánh dấu thời kỳ
phát triển mới của phong trào cách mạng tại địa phương. Chi bộ gồm 03 đảng
viên: Nông Thị Triểu (tức Tương Nhân), Lê Long, Đỗ Quang Soan (tức Đỗ Quang
Thắng). Do đ/c: Nông Thị Triểu làm Bí thư. Di tích được được xếp hạng Di tích
lịch sử cấp tỉnh, Theo quyết định số 428/QĐ-UBND, ngày 25/3/2010 của UBND
tỉnh Cao Bằng.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Bảo Lạc 1930 - 2005. Nxb Lao động 2010)
|
7
|
Vân An
|
Thị trấn Bảo Lạc, huyện Bảo Lạc
|
Chùa Vân An được dựng trên
một quả đồi cao, cạnh Quốc lộ 34, thuộc thị trấn Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Chùa
có kiến trúc "Nội công ngoại quốc". Trải qua thời gian và biến cố
lịch sử, hiện tại chùa chỉ còn lại hai gian: Tiền đường và hậu cung. Các cột
cái trong gian tiền đường được xây bằng gạch thời Nguyễn, hiện nay chùa chỉ
còn lại 9 câu đối sơn son thiếp vàng ở gian tiền đường, hệ thống vì kèo, cột
và các tảng đá kê chân cột được chạm khắc hoa văn trang trí.
Chùa Vân An có vị trí cảnh
quan đẹp, với chức năng thờ Phật, chứa đựng nhiều giá trị tinh thần quý giá.
Với những giá trị về lịch sử, văn hóa, Chùa Vân An được xếp hạng Di tích cấp
tỉnh năm 2006.
(Nguồn: Lý lịch di tích Chùa Vân An, Bảo tàng tỉnh)
|
III. Tên phong trào cách
mạng, sự kiện lịch sử, chiến thắng chống xâm lược có giá trị tiêu biểu của quốc
gia hoặc địa phương: 15 tên
TT
|
Tên
|
Tóm tắt nội dung, sự kiện, địa danh, nhân vật
|
|
1
|
Nặm Lìn
|
Tên một khe suối nhỏ tại xóm
Hào Lịch, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng (Nặm Lìn - nghĩa tiếng
Tày là khe nước).
Thực hiện chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đầu năm 1930, Chi bộ Hải ngoại Long Châu cử đồng chí Hoàng
Văn Nọn (Hoàng Như) về Cao Bằng hoạt động để chuẩn bị tiến tới thành lập tổ
chức Đảng ở Cao Bằng. Sau một thời gian tiếp tục tuyên truyền rèn luyện, qua
kiểm tra phong trào và thử thách cán bộ, ngày 01/4/1930, tại khe suối Nặm
Lìn, xã Hoàng Tung, đồng chí Hoàng Văn Nọn thay mặt Chi bộ Long Châu, kết nạp
hai đồng chí Lê Đoàn Chu, Nông Văn Đô vào Đảng, tuyên bố thành lập Chi bộ
Đảng Cộng sản đầu tiên của Cao Bằng (do đồng chí Hoàng Văn Nọn làm Bí thư).
Chi bộ đảm nhiệm chức năng như một Tỉnh ủy lâm thời, lãnh đạo phong trào cách
mạng toàn tỉnh. Sự ra đời của Chi bộ Đảng ở Cao Bằng đã đánh dấu bước ngoặt
quan trọng trên con đường đấu tranh giải phóng.
Từ đây, phong trào đấu tranh
giải phóng quê hương, đất nước, giành độc lập dân tộc, Nhân dân các dân tộc
Cao Bằng nói riêng và Nhân dân cả nước nói chung được đặt dưới ngọn cờ vinh
quang của Đảng Cộng sản Việt Nam, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chi
bộ đã đề ra 2 nhiệm vụ hàng đầu là: Tích cực phát triển cơ sở Đảng, đặc biệt
là ở Mỏ thiếc Tĩnh Túc và thị xã; đẩy mạnh phong trào chống thuế, chống bắt
phu ngày mùa, đi phu phải được cấp tiền, gạo. Sự kiện thành lập Chi bộ Nặm
Lìn - Chi bộ Đảng cộng sản Việt Nam đầu tiên ở Cao Bằng, đã tạo nền móng vững
chắc cho phong trào cách mạng và sự phát triển thành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng
sau này.
Năm 1995, di tích lịch sử Nặm
Lìn được xếp hạng di tích cấp quốc gia.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2020). Nxb Chính trị
Quốc gia sự thật, năm 2020)
|
|
2
|
01 tháng 4
|
Ngày 01 tháng 4, ngày thành
lập Chi bộ Nặm Lìn (01/4/1930) - Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở Cao
Bằng
|
3
|
Cờ Đỏ
|
Tháng 7/1933, Ban lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Đông Dương công nhận Ban Chấp hành Đảng bộ Cao Bằng do đồng
chí Hoàng Như làm Bí thư; các ban Châu ủy lần lượt được thành lập ở Hòa An (1933),
Hà Quảng (1935).
Để đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, vận động quần chúng, Đảng bộ đã xuất bản tờ báo Cờ đỏ, cơ quan ngôn
luận của Đảng bộ tỉnh (tiền thân của Báo Cao Bằng ngày nay) tại hang Tốc Rù,
xã Hồng Việt, châu Hòa An…bí mật lưu truyền cả trong và ngoài tỉnh nên đã có
tác dụng giúp Đảng bộ củng cố cả về mặt tổ chức lẫn tư tưởng. Đây là điều
kiện để tiến tới việc thành lập các tổ chức cách mạng của quần chúng.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)
|
4
|
Cột mốc 108
|
Cột mốc 108, gắn với sự kiện
lịch sử quan trọng đó là: Ngày 28/01/1941 - Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vượt qua
Cột mốc 108 trở về Tổ quốc sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước.
Cột mốc 108 là một trong 314
cột mốc biên giới Việt - Trung được thành lập theo Công ước hoạch định biên
giới ký kết giữa Chính quyền Pháp ở Đông Dương và Triều đình Mãn Thanh (Trung
Quốc) năm 1887 (Ký kết vào đời vua Đồng Khánh). Cột mốc 108 được tạc từ đá tự
nhiên, một mặt được chế tác bằng tay tương đối phẳng để khắc chữ, mặt còn lại
vẫn giữ nguyên phần đá tự nhiên. Mặt có khắc chữ hướng sang phía Việt Nam. Ở giữa
có dòng chữ Pháp: Biên giới Trung Hoa, An Nam số 108.
Hai bên mép cột có 2 dòng chữ
Trung Quốc:
Mép bên trái có dòng chữ: Đức
nghiệp kha tây tự nhất bách linh bát (Sự nghiệp, công sức mở mang bờ cõi biên
giới phía Tây số 108).
Mép bên phải có dòng chữ:
Trung Quốc Quảng Tây giới (Biên giới Quảng Tây Trung Quốc).
Phía bên địa phận của Việt
Nam là dãy núi Nỉu Vài, Lũng Vẩn xóm Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng,
tỉnh Cao Bằng. Phía bên kia cột mốc thuộc địa phận xóm Mạnh Ma, trấn Thiện
Bàn, thành phố Tĩnh Tây, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc).
Năm 2001, hai nước Việt Nam
và Trung Quốc phân giới cắm mốc lại. Bên cạnh cột mốc 108 là cột mốc mới mang
số hiệu 675. Hiện nay, cột mốc 675 là cột mốc có giá trị về mặt pháp lý.
(Nguồn: Lý lịch di tích Mốc 108, BQL các di tích Quốc gia đặc biệt
tỉnh Cao Bằng)
|
5
|
Cốc Bó
|
Hang Cốc Bó, là nơi Bác ở và
làm việc sau khi trở về Tổ quốc. Hiện nay, trong hang vẫn còn nội dung dòng
bút tích âm Hán Việt như sau: Nhất cửu tứ nhất niên, nhị nguyệt bát nhật (tức
ngày 8/02/1941) - để đánh dấu ngày Bác chuyển vào hang ở.
Hang Cốc Bó theo tiếng địa
phương nghĩa là: “Miệng nguồn hay Đầu nguồn” nằm ở ngay phía trên gần đầu
nguồn suối (cách khoảng 100m) hang nằm ở lưng chừng núi, giáp liền với đỉnh
núi là biên giới Việt - Trung, xung quanh cây cối um tùm. Đường lên hang phải
leo lên một đoạn núi đá tai mèo lởm chởm đầy những lá han, cửa vào hang không
rộng lắm nhưng đủ cho người đi vào không mấy khó khăn, cách cửa hang khoảng
10m là bếp sưởi ở phía bên phải; trong lòng hang trũng sâu, hẹp và ẩm ướt; đi
tiếp vào khoảng 2m là là bộ phản kê để Bác nằm nghỉ và làm việc. Bộ phản gồm
có 4 tấm ván dài ngắn khác nhau, được kê cách mặt đất khoảng 0,5m;
Trong hang có nhiều đá mấp
mô, và trên nóc có một khoảng trống, ban ngày ánh sáng có thể lọt vào
hang.Cách giường Bác nằm nghỉ khoảng 5m có một nhũ đá cao, giống hình người,
Bác dùng dao khắc thêm và đặt tên là tượng Các Mác - để tưởng nhớ đến vị tiền
bối cách mạng vô sản thế giới. Trong hang còn có một ngách nhỏ ở phía sau,
nếu động có thể ẩn nấp khá an toàn.
(Nguồn: Lý lịch di tích hang Cốc Bó, BQL các di tích Quốc gia đặc
biệt tỉnh Cao Bằng)
|
6
|
Khuổi Nặm
|
Sau khi rời hang Cốc Bó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ở hang Lũng Lạn một thời gian, vì hang trống trải, lạnh
buốt, rắn rết nhiều nên Bác chuyển ở và làm việc tại khu vực Khuổi Nặm. Thời
gian Chủ tịch Hồ Chí Minh ở đây khoảng từ tháng 3/1941 đến tháng 8/1942. Thời
gian đầu Bác ở trong lán dựng ngay bên bờ suối Khuổi Nặm, cửa ngõ đi vào rừng
sâu. Còn gọi là lán Khuổi Nặm I. Lán do đồng chí Lê Quảng Ba và đồng chí
Dương Đại Lâm tổ chức anh em thanh niên địa phương làm. Lán làm bằng gỗ tạp
dựa vào cây Mạy Mạ làm cột, mái lợp gianh. Sàn lát Vầu và vách thưng bằng lá
Cáp Tao, xung quanh có nhiều cây Mạy Mạ và Mác Phầy (cây Dâu Da) che kín. Lán
rộng khoảng 2 chiếc chiếu, vừa để ngủ, để làm việc, tiếp khách vừa là bếp nấu
ăn. Đầu hồi có một cửa sổ vừa để lấy ánh sáng đồng thời để theo dõi, quan sát
bên ngoài. Lán Khuổi Nặm có địa thế rất thuận lợi, nằm ngay cửa rừng nhưng
lại được che kín nhìn bên ngoài vào không phát hiện được nhưng trong quan sát
ra thì rất rõ, khi động có thể rút theo ngược suối qua khỏi mốc 109 sang
Trung Quốc.
Tại lán Khuổi Nặm, Người chủ
trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII. Hội nghị có ý nghĩa lịch sử quyết
định đến vận mệnh của nước ta. Tại Hội nghị, thay mặt Quốc tế cộng sản, đồng
chí Nguyễn Ái Quốc đã phân tích tình hình thế giới và trong nước vạch cho mọi
người thấy rõ triển vọng của cách mạng Việt Nam. Hội nghị đã xác định hai
nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng toàn dân lúc này là đánh đuổi Phát xít Nhật
giải phóng dân tộc.
Hội nghị diễn ra từ ngày 10 -
19/5/1941. Tại Hội nghị đã quyết định các vấn đề lớn:
- Chính thức thành lập Việt
Nam độc lập Đồng minh tức Mặt trận Việt Minh thay thế cho Mặt trận thống nhất
dân tộc phản đế và cử đồng chí Hoàng Quốc Việt phụ trách Tổng Bộ Việt Minh.
- Tiếp tục xác định và phát
triển lực lượng vũ trang, bán vũ trang và tăng cường có các căn cứ địa du
kích Bắc Sơn, Võ Nhai... Đồng thời xúc tiến chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa.
- Tịch thu ruộng đất của địa
chủ phản động, Việt gian chia cho dân cày, triệt để giảm tô, giảm tức, chia
lại ruộng đất công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng.
- Bầu Ban chấp hành trung
ương mới, cử đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
(Nguồn: Lý lịch di tích lán Khuổi Nặm, BQL các di tích Quốc gia đặc
biệt tỉnh Cao Bằng)
|
7
|
Lam Sơn
|
Lam Sơn, Hồng Việt, Hòa An -
Khu di tích lịch sử gắn với thời kỳ tiền khởi nghĩa. Tên gọi Lam Sơn xuất
hiện từ khi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chuyển từ Pác Bó về đây để thuận lợi trong
việc xây dựng và phát triển phong trào Việt Minh, chuẩn bị cho Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám. Do đó, đây là nơi hội tụ của những người cộng sản trung kiên
nhất, mác xít nhất, sẵn sàng xả thân để cùng toàn dân đứng lên đập tan gông
xiềng của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, mang lại độc lập cho dân tộc, cơm no,
áo ấm cho Nhân dân. Tại đây, các cộng sự thân thiết của Người cho rằng, nơi
này cũng có những nét đặc thù như Lam Sơn (Thanh Hoá), nơi tụ nghĩa của những
người yêu nước, cùng bàn mưu, tính kế đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, mang
lại thái bình cho sơn hà, xã tắc.
Vậy là, Lam Sơn vừa có ý
nghĩa kế thừa và phát huy tinh thần quật cường của ông cha ta, vừa có tác
dụng lôi cuốn, tập hợp các tầng lớp Nhân dân trong vùng đi theo Việt Minh làm
cách mạng. Và nói đến căn cứ Lam Sơn là phải nói đến phong trào cách mạng của
cả các xã: Hồng Việt, Hoàng Tung (Hoà An), Minh Tâm (Nguyên Bình). Hồng Việt
là nơi để lại nhiều dấu ấn sâu đậm nhất về những năm tháng nếm mật, nằm
gai của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các cộng sự thân thiết của Người, như:
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, Đặng Văn Cáp...
Nói đến Lam Sơn là phải nói tới
xưởng đúc vũ khí Lê Tổ do cụ Đặng Văn Cáp phụ trách và công việc xuất bản Báo
Việt Nam Độc Lập với những di tích cách mạng, như: Lũng Phầy, Lũng Chung, Nặm
Giái, hang Lũng Sa, Ngườm Slưa.. Những tên đất, tên làng, tên núi ấy là địa chỉ
đỏ, là niềm tự hào của lớp lớp cháu con Cao Bằng.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009)
|
8
|
Việt Minh
|
Tại Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ Tám ở Khuổi Nặm, Pác Bó (từ 10 - 19/5/1941). Căn cứ vào kết quả xây
dựng thí điểm các hội cứu quốc ở Hà Quảng, Hoà An, Nguyên Bình, theo sáng
kiến của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị Trung ương Đảng đã quyết định chính
thức thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt
Minh).
(Nguồn: Đảng bộ tỉnh Cao Bằng; Lịch sử Đảng bộ huyện Hà Quảng. Nxb
Chính trị Quốc gia, năm 2010)
|
9
|
Rừng Trần Hưng Đạo
|
Cụm di tích rừng Trần Hưng
Đạo - nơi diễn ra sự kiện thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân
ngày 22/12/1944 (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Cụm di tích rừng
Trần Hưng Đạo gồm 4 điểm di tích: Địa điểm thành lập Đội VNTTGPQ; Địa điểm
Lán nghỉ và bếp ăn của Đội VNTTGPQ; Địa điểm mỏ nước phục vụ nước sinh hoạt
đội VNTTGPQ; Đỉnh Slam Cao - Nơi đồng chí Võ Nguyên Giáp và Ban chỉ huy đội
đặt trạm quan sát.
- Đồn Phai Khắt - nơi diễn ra
trận đánh thắng đầu tiên của Đội ngày 25/12/1944.
- Đồn Nà Ngần - nơi diễn ra
trận đánh thắng thứ hai của Đội ngày 26/12/1944.
- Hang Thẳm Khẩu, nơi tập
trung quân của đội VNTTGPQ chiều ngày 24/12/1944, để chuẩn bị đánh đồn Phai
Khắt - Nà Ngần.
- Di tích Vạ Phá - nơi Tổng
bộ Việt Minh tỉnh Cao Bằng mở lớp huấn luyện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho
tỉnh tháng 02/1944 do đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Lê Thiết Hùng phụ
trách.
Khu rừng Trần Hưng Đạo thuộc
núi Dền Sinh, dãy Khâu Giáng, nơi có địa thế hiểm trở, có nhiều cây cổ thụ và
đỉnh Slam Cao - cao nhất trong các dãy núi xung quanh. Khu di tích lịch sử Rừng
Trần Hưng Đạo được phân bố trên địa bàn 02 xã: Tam Kim và Hoa Thám, huyện
Nguyên Bình. Khu di tích bao gồm 5 di tích đã được xếp hạng:
Với những giá trị đặc biệt
của Khu di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử
Rừng Trần Hưng Đạo (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) là di tích quốc gia đặc
biệt (Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013).
(Nguồn: Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân. Nxb Quân đội Nhân
dân, Hà Nội-2004; Lý lịch di tích Khu di tích lịch sử Rừng Trần Hưng
Đạo, Bảo tàng tỉnh; Cục Di sản văn hóa - dsvh.gov)
|
10
|
Phai Khắt, Nà Ngần
|
Đồn Phai Khắt (xã Tam Kim,
huyện Nguyên Bình): Nằm ngay sát tỉnh lộ 202, giữa trung tâm làng Phai Khắt.
Đây là nơi diễn ra trận đầu ra quân của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân (25/12/1944). Đồn này vốn là nhà của đồng chí Nông Văn Lạc, xây dựng năm
1940, với diện tích 210m2, gồm 4 gian, tường xây gạch, sàn làm bằng gỗ nghiến.
Từ đây, có ba đường đi các ngả: về phía Nam đi Ngân Sơn, về phía Đông Bắc đi
Nà Ngần và một con đường độc đạo ra châu lỵ Nguyên Bình. Vì vậy, đầu năm
1944, địch đã chiếm ngôi nhà này để làm đồn. Hiện nay, Đồn Phai Khắt đã được
tu bổ và được sử dụng làm nhà trưng bày bổ sung của khu di tích. Tại đây, có
trưng bày hình ảnh, hiện vật tái hiện buổi Lễ thành lập, những hoạt động của
Đội và tình cảm chân thành, gắn bó, giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần
của Nhân dân các dân tộc địa phương với cán bộ, chiến sĩ Đội ngày ấy. Bốn
phía Đồn có hàng rào bảo vệ; phía trong, hai bên khuôn viên trồng cây cảnh và
một số cây ăn quả khác; phía sau, dựng mô phỏng trạm gác bảo vệ Đồn.
Đồn Nà Ngần (xã Hoa Thám,
huyện Nguyên Bình): là nơi ghi dấu trận đánh thứ 2 giành thắng lợi của Đội
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (26/12/1944). Đồn Nà Ngần vốn là nhà
của ông Nông Văn Pảo (tức phó lý Pảo), nằm trên một đồi cao, địa thế hiểm
trở, thuộc địa phận xóm Nà Ngần, xã Hoa Thám, huyện Nguyên Bình, vì thế địch
biến thành một đồn lính. Đây là ngôi nhà sàn 3 gian, 2 chái lợp ngói máng
kiên cố nhất trong bản, có hàng rào kín mấy lớp xung quanh. Sau khi ta chiếm
đồn, vài tháng sau ông Phó lý Pảo đã chuyển hẳn ngôi nhà này sang một quả đồi
khác. Hiện nay ngôi nhà cũ không còn, tại địa điểm này, đã được xây dựng một
nhà bia ghi dấu chiến công oanh liệt của Đội.
Chiến thắng Phai Khắt - Nà
Ngần là chiến thắng đầu tiên của Đội dưới sự tổ chức chỉ đạo của Đảng, đánh
dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang, làm tiền đề cho các trận đánh
sau này; mở màn cho truyền thống đánh là chắc thắng, thắng ngay từ trận đầu
của Quân đội nhân dân Việt Nam.
(Nguồn: Lý lịch di tích Khu di tích lịch sử Rừng Trần Hưng Đạo, Bảo
tàng tỉnh)
|
11
|
Đồng Mu
|
Đồn Đồng Mu thuộc thôn Pù, xã
Đồng Mu, huyện Bảo Lạc. Cuối năm 1940 đầu 1941, trước sự phát triển của phong
trào cách mạng ở Cao Bằng nói chung và Bảo Lạc nói riêng, thực dân Pháp đã
cho xây dựng đồn để tăng cường tuần tiễu, bắt bớ cán bộ cách mạng, kiểm soát
gắt gao hơn nhân dân ở khu vực này.Nơi đây diễn ra trận đánh của Đội Việt Nam
Tuyên truyền giải phóng quân đêm 4/2, rạng sáng 5/2/1945.
Theo kế hoạch đã định, đội bí
mật đột nhập chiếm nhà chỉ huy, sau đó các hướng đánh vào cùng phối hợp với
nội ứng tiêu diệt địch. Đêm 4 tháng 2 năm 1945, bộ đội xuất kích....Trận này
ta tiêu diệt 20 tên, thu 5 súng trường mútcơtông và một số đạn, bắt 3 tù
binh. Riêng đồng chí Đàm Quang Trung một mình dùng súng và tiêu diệt 5 tên.
Đồng chí Xuân Trường (tên thật là Hoàng Văn Nhủng) đã anh dũng hy sinh, là
liệt sỹ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1995, Di tích đồn Đồng Mu
đã được Bộ Văn hoá - Thông tin nay là Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch xếp hạng
Di tích lịch sử Quốc gia. Hơn 70 năm qua, di tích lịch sử đồn Đồng Mu luôn là
chứng tích quan trọng, là dấu ấn lịch sử cách mạng của địa phương và dân tộc.
(Nguồn: Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân. NXB Quân đội Nhân
dân, Hà Nội, 2004; Trang Thông tin điện tử tổng hợp Đài Phát thanh - Truyền
hình Cao Bằng - caobangtv.vn)
|
12
|
Đông Khê
|
Cụm cứ điểm Đông Khê được
phân bố tại thị trấn Đông Khê, huyện Thạch An, cách thành phố Cao Bằng khoảng
40 km, cụm cứ điểm Đông Khê nằm trong hệ thống phòng thủ Cao - Bắc - Lạng,
trực thuộc phân khu Thất Khê.Đông Khê là vị trí quan trọng của địch trên
tuyến phòng thủ đường số 4, nằm lọt trong thung lũng và chiếm gần toàn bộ thị
trấn là khu trung tâm, trong đó quan trọng và vững chắc nhất là đồn Đông Khê
(đồn to). Đồn nằm sát ngay cạnh quốc lộ 4A ở trung tâm thị trấn Đông Khê.
Đúng 6 giờ ngày 16/9/1950,
quân ta nổ súng pháo kích vào cứ điểm Đông Khê, mở màn cho Chiến dịch Biên
giới. Cũng trong sáng sớm 16/9/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đài quan sát
theo dõi và chỉ đạo trận đánh cứ điểm Đông Khê - trận đánh mở màn cho Chiến
dịch Biên giới 1950.
10 giờ ngày 18/9, quân ta
tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Đông Khê, làm chủ thị trấn Đông Khê, Trải qua 54
giờ chiến đấu, trận đánh cứ điểm Đông Khê - trận đánh mở màn cho Chiến dịch
Biên giới giành thắng lợi to lớn, tiêu diệt hơn 120 lính Pháp, bắt hơn 200
tên, bắn rơi 1 máy bay, phá hủy và tịch thu một số vũ khí và quân trang quân
dụng. Trận đánh cứ điểm Đông Khê là trận đánh đầu tiên tiêu biểu của Quân đội
Nhân dân Việt Nam áp dụng thành công chiến thuật công kiên cấp trung đoàn.
Thắng lợi của trận đánh cứ điểm Đông Khê đã tạo điều kiện quan trọng cho
Chiến dịch, đồng thời mở ra một giai đoạn chiến đấu mới: Chuyển từ cách đánh
du kích sang đánh chính quy.
Trận đánh cứ điểm Đông Khê
giành thắng lợi đã chặt đứt một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ
của địch trên đường số 4. Tuyến phòng thủ của địch trên đường số 4 bị chặt
làm đôi giữa phân khu Cao Bằng và phân khu Thất Khê. Là trận đánh lớn đầu
tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam có sự hiệp đồng giữa các binh chủng, tập
trung tiêu diệt một cứ điểm lớn của Pháp bố trí phòng ngự trong công sự kiên
cố, hỏa lực mạnh, quân số đông ở địa hình vùng núi hiểm trở.
(Nguồn: Đường số 4 rực lửa, Nxb Thanh Niên; Lý lịch di tích các địa
điểm di tích lịch sử chiến thắng biên giới 1950, huyện Thạch An, tỉnh
Cao Bằng)
|
13
|
Cốc Xá - 447
|
Điểm cao 447, nằm trên địa
bàn xã Trọng Con, huyện Thạch An, trong dãy núi Quang Liệt gồm 17 mỏm từ Nậm
Nàng xuống đến Bản Ca. Điểm cao 447 cách Đông Khê về phía Đông Bắc khoảng
8km. Địa điểm trong chiến dịch Biên giới năm
1950, trong 5 ngày đêm chiến
đấu (từ ngày 4 - 8/10/1950) trận Cốc Xá - 477 đã kết thúc thắng lợi, ta xóa
sổ 2 binh đoàn Lơpagiơ và Sác Tông gồm 6 tiểu đoàn Âu Phi và 1 tiểu đoàn
ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu 3.316 tên, thu được gần nghìn súng các loại.
Các trận then chốt Đông Khê và Cốc Xá - 447 thực sự là nhân lõi và góp phần
quyết định tạo nên thắng lợi vang dội của chiến dịch Biên giới năm 1950.
(Bộ Quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam, 2006; Lịch sử nghệ
thuật trận đánh then chốt chiến dịch của Quân đội nhân dân Việt Nam trong
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ (1945 -1974). Nxb Quân đội Nhân dân)
|
14
|
03 tháng 10
|
Trong Chiến dịch Biên giới
năm 1950, quân ta giành thắng lợi trong trận đánh cứ điểm Đông Khê, buộc quân
Pháp phải rút khỏi thị xã Cao Bằng vào ngày 03/10/1950 - là ngày sạch bóng quân
xâm lược thực dân Pháp - ngày giải phóng Cao Bằng. Từ đây, Đảng bộ và Nhân
dân các dân tộc Cao Bằng đi vào xây dựng cuộc sống mới phát triển về mọi mặt,
ổn định đời sống nhân dân, xây dựng hậu phương vững mạnh, chi viện sức người,
sức của cho cuộc kháng chiến toàn quốc đi đến thắng lợi hoàn toàn.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, năm
2009)
|
15
|
Vằng Ngà
|
Tên gọi khúc sông Bằng gắn
với sự kiện “Ngày 28/4/1951, tướng Hác-tơ-man, Tư lệnh không quân Pháp ở Đông
Dương trực tiếp đáp máy bay đi kiểm tra phòng tuyến khu Đông - Bắc (gồm các
tỉnh Hải Phòng, Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng). Khi bay qua vùng trời thị
xã Cao Bằng, lúc 15 giờ đã bị Đại đội 372 bộ đội địa phương của ta bắn rơi
xuống khu vực Vằng Ngà, toàn bộ sĩ quan cùng đi trên máy bay bị chết.
Sự kiện này đã gây xôn xao dư
luận các chính giới tư sản Pháp, buộc Chính phủ Pháp phải điều đình với Chính
phủ ta để nhận xác Hác-tơ-man... Lợi dụng yêu cầu này, Chính phủ ta ra điều
kiện buộc Pháp phải ngừng ném bom trên toàn tuyến quốc lộ 3A trong thời gian
5 ngày để ta chuyển hài cốt Hác-tơ-man từ thị xã Cao Bằng đến sân bay Đồng
Bẩm (Thái Nguyên) trao trả cho chúng. Chính phủ Pháp đã chấp nhận. Nhân dịp
này ta đã huy động tất cả các phương tiện: Xe cơ giới, xe thô sơ, xe đạp làm
việc cả ngày và đêm vận chuyển hàng nghìn tấn vũ khí, lương thực từ Cao Bằng
về xuôi phục vụ cho các chiến dịch trung du và đồng bằng.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Cao Bằng (1930-1912). Nxb Chính
trị Quốc gia - Sự thật năm 2012)
|
IV. Tên danh nhân: 147 tên
4.1
|
Lãnh đạo tiền bối tiêu
biểu, lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Cách mạng Việt Nam: 10 tên
|
1
|
Võ Nguyên Giáp
|
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
(1911 - 2013), tên khai sinh là Võ Giáp.
Quê quán: Làng An Xá, thuộc
xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Từ năm 1925 - 1926, đồng chí
tham gia phong trào học sinh ở Huế.
Năm 1927, Tham gia Đảng Tân
Việt cách mạng.
Tháng 6/1940, đồng chí được
kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương và được cử sang Trung Quốc hoạt động.
Năm 1941, đồng chí về nước tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở
căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng.
Năm 1944, ông được Lãnh tụ Hồ
Chí Minh giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân
(tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam). Cách mạng Tháng Tám 1945 thành
công, ông được cử làm Bộ trưởng Nội vụ trong Chính phủ lâm thời. Tháng 11 năm
1946, ông là Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy quân đội. Kháng chiến
toàn quốc bùng nổ, ông được cử làm Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân
tự vệ. Ngày 20/01/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 110/SL phong quân
hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp.
Trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn mang
ý nghĩa chiến lược như: Chiến dịch Biên giới (1950), Điện Biên Phủ (1954)…
Trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cương vị Tổng tư lệnh, Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng đã cùng với Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo cuộc kháng
chiến của quân và dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc và làm nhiệm vụ quốc tế,
chỉ đạo nhiều chiến dịch lớn ở miền Nam Việt Nam, trong đó có Chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử, chỉ đạo chiến tranh Nhân dân chống chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp gắn liền với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam, những
hoạt động của Đại tướng gắn liền với nhiều địa phương trong cả nước, trong đó
có Cao Bằng. Suốt gần 5 năm lăn lộn với phong trào cách mạng ở Cao Bằng, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp hầu như có mặt ở tất cả những điểm nóng tại núi rừng Cao
- Bắc - Lạng. Nhiều hoạt động, nhiều sự kiện mà đồng chí Võ Nguyên Giáp thực
hiện ở Cao Bằng giai đoạn 1941 - 1945 đã góp phần xây dựng căn cứ địa cách
mạng đầu tiên của cả nước. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp và sáng suốt của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã thể hiện rõ
khả năng, năng lực toàn diện của mình và thực hiện đúng đắn, sáng tạo, phù
hợp ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ít người.
Tại Cao Bằng có một hệ thống
di tích gắn liền với hoạt động của đồng chí Võ Nguyên Giáp, trong đó có 03 di
tích quốc gia đặc biệt: Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng; Rừng Trần Hưng Đạo,
Tam Kim, huyện Nguyên Bình; Địa điểm chiến thắng chiến dịch Biên giới năm
1950, huyện Thạch An. Nhiều di tích cấp quốc gia, cấp tỉnh: Tại xã Hồng Việt,
Hòa An có các di tích: Nền nhà ông Mã Văn Hản, xóm Lũng Hoài; Vách núi Lũng
Sa; Hang Ngườm Bốc, xóm Bản Nưa, Thôn Lam Sơn; Hang Bó Hoài, xóm Lũng Hoài.
Các di tích Hang Ghị Rằng, Ngườm Mác Men, Ngườm Poóng xã Nam Tuấn, huyện Hoà
An. Khu di tích lịch sử cách mạng Lũng Dẻ, Bản Chang, xã Trương Lương, huyện
Hòa An;Hang Kéo Quảng, làng Thôm Phát; Lũng Tàn; Lũng Diển xã Minh Tâm, huyện
Nguyên Bình. Di tích Nhà ông Lã Văn Ho, thị trấn Quảng Uyên, huyện Quảng Hòa;
Địa điểm Đồn Đồng Mu, xã Xuân Trường, huyện Bảo Lạc;...
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
không chỉ là một vị tướng cầm quân giỏi mà còn là một nhà lý luận quân sự
uyên thâm; ông là tác giả của nhiều tác phẩm quân sự nổi tiếng được xuất bản
trong và ngoài nước. Ông đã từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ
khóa II đến khóa VI; Ủy viên Bộ Chính trị từ khóa II đến khóa V; đại biểu
Quốc hội từ khóa I đến khóa VII; ông đảm trách nhiều cương vị như Bí thư Quân
ủy Trung ương, Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Thủ
tướng Chính phủ, Chủ tịch danh dự Hội khoa học lịch sử Việt Nam… Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Sao Vàng; hai Huân chương
Hồ Chí Minh; hai Huân chương Quân công hạng Nhất; ngoài ra, ông còn được tặng
nhiều Huân chương, Huy chương cao quý khác của nhiều nước trên thế giới.
(Nguồn: Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Nxb QĐND, năm
2003; Lý lịch di tích Bảo tàng tỉnh)
|
2
|
Trường Chinh
|
Đồng chí Trường Chinh (1907- 1988),
tên khai sinh Đặng Xuân Khu, tên gọi khác: Anh Nhân, Trường Chinh.
Quê quán: Làng Hành Thiện, xã
Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Năm 1927, đồng chí gia nhập
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản
Đông Dương.
Năm 1929, đồng chí tham gia
cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương ở Bắc Kỳ.
Từ cuối năm 1936 đến năm
1939, đồng chí là ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ và đại biểu của Đảng Cộng sản Đông
Dương trong Ủy ban Mặt trận Dân chủ Bắc Kỳ.
Năm 1940, đồng chí là chủ bút
báo “Giải Phóng”, cơ quan của Xứ ủy Bắc Kỳ. Tại Hội nghị lần thứ 7 của Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng chí được cử vào Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.
Năm 1941, tại Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ VIII, tổ chức tại lán Khuổi Nặm, Pác Bó, xã Trường Hà,
huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương.
Tháng 8 năm 1945, đồng chí
được Hội nghị toàn quốc của Đảng cử phụ trách Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.
Năm 1951, tại Đại hội lần thứ
II của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, là Tổng Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (ở Đại hội này, Đảng Cộng
sản Đông Dương được đổi tên là Đảng Lao động Việt Nam) đến tháng 10-1956.
Năm 1958, đồng chí làm Phó
Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước.
Năm 1960, tại Đại hội lần thứ
III của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương và ủy viên
Bộ Chính trị.
Năm 1976, tại Đại hội lần thứ
IV của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam (ở Đại hội này, Đảng Lao động Việt Nam được đổi tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam). Đồng chí là ủy viên Bộ Chính trị.
Năm 1976, đồng chí được bầu
làm Chủ tịch Ủy ban dự thảo Hiến pháp của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt
Nam; là đại biểu Quốc hội các
khóa II, III, IV, V, VI, VII. Từ khóa II đến khóa VI là Chủ tịch Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
Năm 1981, đồng chí được Quốc
hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Năm 1982, tại Đại hội lần thứ
V của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam và là ủy viên Bộ Chính trị.
Tháng 7-1986, tại Hội nghị
đặc biệt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí được bầu
lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
Tháng 12-1986, tại Đại hội
toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
(Nguồn: Tiểu sử đồng chí Trường Chinh tại Hệ thống Tư liệu - Văn
kiện Đảng của Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam)
|
3
|
Phạm Văn Đồng
|
Đồng chí Phạm Văn Đồng (1906-
2000), tên gọi khác: Tô.
Quê quán: Xã Đức Tân, huyện
Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Năm 1926: Gia nhập Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên.
Cuối năm 1927: Về nước, tham
gia hoạt động cách mạng ở Sài Gòn.
Tháng 7/1929: Bị thực dân
Pháp bắt, kết án 10 năm tù, đày ra Côn Đảo.
Tháng 7/1936: Ra tù về Hà Nội
tiếp tục hoạt động cách mạng.
Tháng 5/1940: Sang Côn Minh
(Trung Quốc) gặp Nguyễn Ái Quốc; tại đây, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông
Dương (năm 1940) và được Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ về nước xây dựng căn cứ
cách mạng ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn.
Tháng 8/1945: Tại Đại hội
Quốc dân Tân Trào, được bầu vào Ủy ban Thường trực gồm 5 người thuộc Ủy ban
Dân tộc giải phóng, chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám.
Năm 1945: Sau khi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, giữ chức Bộ trưởng Tài chính, Phó Trưởng Ban Thường
vụ Quốc hội (khóa I).
Tháng 6/1946: Trưởng phái
đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Fôngtenơblô
(Fontainebleau) Pháp.
Năm 1947: Được bầu làm Ủy
viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (ủy viên
chính thức từ năm 1949). Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc
phòng (7-1949).Tại Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương (năm 1951),
được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng.
Năm 1954: Trưởng phái đoàn
Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị Giơnevơ (Geneve) về Đông Dương.
Từ tháng 09/1954 đến tháng 02/1961:
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Từ 1955 - 1981: Thủ tướng
Chính phủ.
Năm 1981 - 1987: Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng.
Đồng chí Phạm Văn Đồng là
người có nhiều công lao trong xây dựng và quản lí nhà nước. Ủy viên dự khuyết
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (1947), ủy viên chính thức
(1949). Ủy viên Bộ Chính trị các khóa II, III, IV, V (2/1951-1986). Cố vấn
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (từ tháng 12/1986 đến năm 1997). Đại biểu Quốc
hội các khóa I, II, III, IV, V, VI, VII (từ năm 1946 - 1987).
Hiện nay, tại Cao Bằng có
nhiều di tích gắn liền với hoạt động của đồng chí Phạm Văn Đồng. Đặc biệt là
ở khu vực Hòa An, Hà Quảng, Nguyên Bình như: Hang Bó Hoài, Hồng Việt, Hòa An;
di tích hang Ngườm Poóng, Ngườm Mác Men, xã Nam Tuấn; di tích Nhà ông Đàm
Nhật Chảnh, xã Bình Long (nay là Hồng Việt); di tích Khuổi Slấn, xã Đào Ngạn
(nay là Ngọc Đào), Hà Quảng; di tích hang Kéo Quảng, Minh Tâm, Nguyên Bình.
(Nguồn: Tiểu sử đồng chí Phạm Văn Đồng tại Hệ thống Tư liệu - Văn
kiện Đảng của Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam; Lý lịch di tích Bảo
tàng tỉnh)
|
4
|
Vũ Anh
|
Đồng chí Vũ Anh, bí danh
Trịnh Đông Hải, ông là một trong những cán bộ ưu tú của Đảng đã đến Cao Bằng
thực hiện các nhiệm vụ chiến lược do Trung ương Đảng và Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đề ra.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Cuối tháng 02/1940, Nguyễn Ái
Quốc đến liên hệ với Trịnh Đông Hải (tức Vũ Anh) tại hiệu dầu cù là Vĩnh An
Đường ở Côn Minh, Trung Quốc. Người hỏi về tình hình trong nước, những hoạt
động ở Côn Minh... và bắt liên lạc với Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng (Ban Chỉ
huy ở ngoài của Đảng lúc ấy có các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh... ).
Cuối tháng 5/1940: Tại Côn
Minh, Nguyễn Ái Quốc quyết định cho rải truyền đơn dọc tuyến đường sắt từ Côn
Minh đến biên giới Việt - Trung, vạch trần tội ác của giặc Pháp, Nhật và kêu
gọi quần chúng ủng hộ Nhân dân Trung Quốc chống Nhật (Đồng chí Vũ Anh được
giao nhiệm vụ này, đã xin nghỉ ba ngày để mang truyền đơn (in bằng kính) để
đi rải ở các ga lớn).
Đầu tháng 12/1940: Nguyễn Ái
Quốc đến Tĩnh Tây, Người được bố trí ở nhà của một cơ sở vốn là một gia đình
Trung Quốc nghèo. Người giao nhiệm vụ cho đồng chí Vũ Anh về nước tìm một địa
điểm bí mật, có hàng rào quần chúng bảo vệ và có đường rút lui. Đồng chí Vũ
Anh nhận nhiệm vụ trở về nước tìm cơ sở cho đoàn.
Đồng chí Vũ Anh về Cao Bằng
đến cột mốc 108, đến làng Pác Bó, đi vào một số cơ sở cách mạng, Nhân dân
giác ngộ cách mạng khá cao. Địa thế hiểm trở, từ Pác Bó có nhiều đường đi qua
Trung Quốc, nếu được Nhân dân che chở nhất định ta có thể tránh được địch. Sau
khi chuẩn bị cơ sở xong đồng chí trở lại Tịnh Tây, sau một thời gian Bác lại
cử đồng chí Vũ Anh về Pác Bó để chuẩn bị thêm cơ sở để đón Bác và đoàn có thể
về nước.
Trong khoảng thời gian hoạt
động tại Cao Bằng đồng chí Vũ Anh luôn là người thân cận được Bác giao nhiều
nhiệm vụ quan trọng, là đại diện Trung ương Đảng bên cạnh Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc.
Ngay từ đầu năm 1941 theo chỉ
thị của Bác nhiều cán bộ ưu tú của Đảng: Phạm Văn Đồng, Vũ Anh, Phùng Chí
Kiên... được điều đến Cao Bằng kết hợp với các đồng chí đang hoạt động tại
địa phương tham gia công tác đào tạo cán bộ thực hiện các nhiệm vụ chiến lược
do Trung ương Đảng đề ra. Các đồng chí đã trực tiếp mở các lớp huấn luyện
chính trị và quân sự khác ở địa phương trong tỉnh, giai đoạn 1941 - 1945.
(Nguồn: Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử tập 2. Nxb Chính trị Quốc gia
sự thật; Đầu nguồn, Nxb Văn học - 1977)
|
5
|
Hoàng Quốc Việt
|
Đồng chí Hoàng Quốc Việt
(1905 - 2015), tên thật là Hạ Bá Cang.
Quê quán: Đáp Cầu, huyện Võ
Giàng, tỉnh Bắc Ninh (ngày nay là phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Năm 1928, ông được kết nạp
vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Ngay từ khi Đảng mới được
thành lập, Hoàng Quốc Việt với tư cách đại diện của Đảng bộ Nam kỳ đã là một
trong 6 Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vào khoảng tháng 4/1930, sau chuyến
đi công tác sang Pháp ông trở lại Sài Gòn. Bí thư Xứ ủy Nam kỳ Ngô Gia Tự cử
ông ra Bắc với tư cách đại diện cho Đảng bộ Nam kỳ cùng Trung ương lâm thời
chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất họp vào cuối năm. Ra đến
Hải Phòng được trên dưới một tháng Hoàng Quốc Việt bị bắt và bị địch kết án
tù khổ sai chung thân đày ra Côn Đảo từ 1931 đến cuối 1936.
Cuối năm 1936, trở về đất
liền, Hoàng Quốc Việt ra Bắc. Đảng phân công ông cùng Trường Chinh phụ trách
các báo chí của Đảng xuất bản công khai trong thời kỳ vận động dân chủ tại Hà
Nội.
Năm 1937, Hoàng Quốc Việt là
Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ của Đảng cộng sản Đông Dương.Tháng 9/1937, tại Hội nghị Trung
ương họp ở Bà Điểm (Hoóc Môn-Gia Định), Hoàng Quốc Việt được bầu bổ sung vào
Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về
nước. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, lần đầu tiên Hoàng Quốc Việt
được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh (từ đó, cho đến năm 1969, ông luôn làm việc
cùng Người và trở thành một trong những cộng sự và học trò xuất sắc của
Người);tại Hội nghị ông được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng (Ban
Thường vụ lúc đó có 3 người: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt).
Tháng 8/1945, Hội nghị toàn
quốc của Đảng họp tại Tân Trào,ông được bầu vào Ban Thường vụ để cùng Trung
ương lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Sau khi
cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập, Chủ
tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao Hoàng Quốc Việt phụ trách (về mặt Đảng) công
tác mặt trận, công tác công vận và công đoàn. Từ đó cho đến cuối đời, ông
dành hết tâm sức để giúp Đảng chăm lo xây dựng và lãnh đạo công tác công vận
và tổ chức công đoàn.
Năm 1951, Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ II của Đảng bầu ông vào Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, kháng chiến chống Mỹ cứu nước và những năm đầu sau thống nhất
Tổ quốc, Hoàng Quốc Việt vẫn được Đảng giao trọng trách tham gia Bộ Chính trị.
(Nguồn: Trang thông tin điện tử Bảo tàng Lịch sử Quốc gia -
baotanglichsu.vn ngày 27/5/2015)
|
6
|
Hoàng Đình Giong
|
Đồng chí Hoàng Đình Giong
(1904 - 1947), tức Hoàng, Lầu Voòng, Nam Bình, Văn Tư, Võ Văn Đức, Vũ Đức, Lê
Minh, cụ Vũ…
Quê quán: Làng Thôm Hoáng, xã
Hạ Hoàng, sau chuyển sang làng Nà Toàn, xã Xuân Phách, châu Hòa An (nay là phường
Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Ngay từ lúc còn nhỏ, Hoàng
Đình Giong là một học sinh thông minh, hăng say học tập, sớm có tư tưởng yêu
nước, căm thù giặc cướp nước.
Những năm 1923 - 1924, đồng
chí đã bí mật tuyên truyền tư tưởng yêu nước trong học sinh các trường tiểu
học ở thị xã Cao Bằng, châu Hòa An và Hà Quảng, làm cho không khí ghét Tây
ngày càng lan rộng.
Cuối năm 1925, đầu năm 1926,
đồng chí học ở Trường Bách Nghệ (Hà Nội); tích cực tham gia phong trào bãi
khóa của học sinh Hà Nội, tham gia tổ chức lễ truy điệu nhà yêu nước Phan
Châu Trinh và bị đuổi học. Sau một thời gian hoạt động ở Hà Nội, đồng chí trở
về Cao Bằng vận động một số thanh niên và học sinh ở châu Hòa An, thị xã Cao Bằng
vào Hội thanh niên yêu nước, sau phát triển lên Hà Quảng, sang Quảng Uyên và
các châu khác trong tỉnh.
Mùa Thu năm 1927, Đồng chí
Hoàng Đình Giong ra nước ngoài hoạt động, đến ngày 19/6/1928, được kết nạp
vào tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; tháng 12/1929, được kết nạp
vào Đông Dương Cộng sản Đảng và được bầu làm Bí thư Chi bộ hải ngoại Long
Châu (Trung Quốc).
Với tư cách là Bí thư Chi bộ,
Đồng chí Hoàng Đình Giong được Đảng trực tiếp giao nhiệm vụ chỉ đạo việc tổ
chức, gây dựng và phát triển phong trào cách mạng ở Cao Bằng và Lạng Sơn.
Đồng chí chỉ đạo thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng
vào ngày 01/4/1930, tại Nặm Lìn, xã Hoàng Tung, châu Hòa An. Chi bộ Nặm Lìn
ra đời đã đảm nhiệm chức năng như một Tỉnh ủy lâm thời, lãnh đạo phong trào
cách mạng toàn tỉnh Cao Bằng.
Những năm 1932 -1935, đồng
chí Hoàng Đình Giong như một “con thoi”, đi lại hoạt động tích cực ở Cao
Bằng, Hải Phòng, Quảng Ninh và nước ngoài, trực tiếp lãnh đạo khôi phục tổ
chức đảng ở các địa phương. Đồng chí đã có nhiều đóng góp trong việc chắp nối
các mối liên lạc với các cơ sở đảng ở Bắc Kỳ và việc khôi phục phong trào
cách mạng sau thời kỳ bị địch khủng bố trắng. Với những đóng góp cho sự
nghiệp cách mạng, tại Đại hội Đảng lần thứ I (họp tại Ma Cao, Trung Quốc),
cuối tháng 3/1935, Hoàng Đình Giong được bầu vào Ủy viên Thường vụ Trung ương
Đảng, trực tiếp phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ.
Năm 1936, đồng chí Hoàng Đình
Giong được phân công trở lại vùng duyên hải Bắc Bộ (Hải Phòng, Quảng Ninh) để
hoạt động nhằm củng cố đường dây liên lạc từ nước ngoài về nước chỉ đạo phong
trào đấu tranh cách mạng.
Từ tháng 2/1936 đến tháng
10/1944, đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam, cầm tù và chịu nhiều cực hình
tra tấn tại các nhà tù Cao Bằng, Hỏa Lò (Hà Nội), Sơn La, Bắc Mê (Hà Giang)
và bị đày đi biệt xứ tận Mađagatxca (châu Phi). Đồng chí đã đề ra sách lược
khôn khéo nhằm tranh thủ lực lượng đồng minh và cùng các bạn tù chính trị trở
về Tổ quốc an toàn. Trở lại Cao Bằng, đồng chí trực tiếp lãnh đạo phong trào
cách mạng và là Trưởng ban khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở
Cao Bằng.
Nam Bộ bước vào cuộc kháng
chiến chống Pháp, đồng chí Hoàng Đình Giong được cử làm chỉ huy trưởng Bộ đội
Nam tiến vào Nam Bộ đánh thực dân Pháp với tên mới do Bác Hồ đặt cho là Võ
Văn Đức (cái tên mang nhiều ý nghĩa, thể hiện sự trọn vẹn những phẩm chất cần
thiết phải có của một nhà lãnh đạo), đồng thời Bác cũng căn dặn: “Chú cầm quân
ra chiến trường, văn, võ đều cần, nhưng phải chú trọng cái đức của người cán
bộ cách mạng”.
Đồng chí đã được Đảng cử giữ
những chức vụ quan trọng: Chủ nhiệm Chính trị Bộ (Chính ủy) Giải phóng quân
Nam Bộ, Khu Bộ trưởng (Tư lệnh) đầu tiên Khu 9, Khu Bộ trưởng (Tư lệnh) Khu
6. Năm 1947, tại Chiến khu 7 (Ninh Thuận), đồng chí đã chiến đấu đến hơi thở
cuối cùng và đã hy sinh anh dũng.
Ghi nhận những cống hiến và
công lao to lớn của đồng chí Hoàng Đình Giong đối với sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng và dân tộc,đồng chí đã được Đảng, Nhà nước truy tặng nhiều phần
thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh (1998);Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân
dân (2009); Lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam
(2018).
Để tưởng nhớ và ghi tạc công
lao to lớn của đồng chí Hoàng Đình Giong, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc
tỉnh Cao Bằng đã dựng tượng đài, xây dựng Địa điểm lưu niệm đồng chí Hoàng
Đình Giong tại phường Đề Thám (thành phố Cao Bằng). Tên của Đồng chí đã được
đặt cho Trường Chính trị tỉnh Cao Bằng và tuyến đường ở trung tâm phường Hợp Giang,
thành phố Cao Bằng.
(Nguồn: Tỉnh ủy Cao Bằng, Đồng chí Hoàng Đình Giong với cách mạng
Việt Nam và quê hương Cao Bằng)
|
7
|
Hoàng Văn Thụ
|
Đồng chí Hoàng Văn Thụ (1906
- 1944),tên khai sinh là Hoàng Ngọc Thụ, lúc nhỏ là Hoàng Hảo Do, trong những
năm tháng hoạt động cách mạng đồng chí mang các bí danh: Lô Minh Hạ, Lý, Giáo,
Vân… ông sinh ra trong một gia đình nông dân dân tộc Tày có truyền thống yêu
nước và hiếu học.
Quê quán: Làng Phạc Lạn, tổng
Nhân Lý, châu Văn Uyên (nay là thôn Nhân Hòa, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn
Lãng, tỉnh Lạng Sơn).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Thời thanh niên, đồng chí
tham gia phong trào yêu nước, kết bạn với Hoàng Đình Giong và Lương Văn Tri.
Năm 1926, đồng chí cùng Lương Văn Tri thành lập nhóm thanh niên yêu nước ở
Lạng Sơn.
Cuối năm 1929, đồng chí được
kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng, hoạt động ở vùng biên giới Việt - Trung
và được phân công phụ trách Lạng Sơn.
Năm 1930 thực hiện nhiệm vụ
do Chi bộ Long Châu phân công, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã nhiều lần bí mật về
nước hoạt động. Để đảm bảo bí mật, đồng chí đã gây dựng cơ sở cách mạng ở
Lũng Nghịu làm nơi liên lạc với trong nước và phát triển cơ sở cách mạng trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Năm 1932, đồng chí Lê Hồng
Phong về nước hoạt động, đã bắt liên lạc với Ban liên Tỉnh ủy Cao - Lạng, nhờ
sự giúp đỡ tích cực của Ban liên Tỉnh ủy trong đó có đồng chí Hoàng Văn Thụ
mà đồng chí Lê Hồng Phong nhanh chóng nắm được tình hình và chắp được mối với
các đảng bộ, chuẩn bị cho cuộc hội nghị giữa Ban lãnh đạo của Đảng ở ngoài nước
và các đại biểu đảng bộ trong nước họp vào tháng 6 năm 1934.
Cuối năm 1934, đồng chí Hoàng
Văn Thụ cùng các đồng chí trong Ban liên Tỉnh ủy lâm thời tổ chức Hội nghị
cán bộ liên tỉnh, kiểm điểm tình hình và cử đại biểu đi dự Đại hội Đại biểu
toàn quốc của Đảng lần thứ nhất ở Ma Cao, Trung Quốc. Sau Đại hội, đồng chí
được Trung ương giao nhiệm vụ in Văn kiện Đại hội chuyển về trong nước để
tuyên truyền.
Cuối năm 1937, đồng chí được
Trung ương triệu tập sang Hồng Kông để học tập chủ trương, chính sách mới của
Đảng do đồng chí Lê Hồng Phong và đồng chí Phùng Chí Kiên hướng dẫn.
Đầu năm 1938, đồng chí được
Trung ương cử về nước bắt liên lạc với Xứ ủy Bắc kỳ để truyền đạt chỉ thị của
Trung ương và nhận công tác ở Xứ ủy. Sau đó không lâu, đồng chí về Hà Nội để
báo cáo công tác và được bổ sung vào Xứ ủy và tham gia Ban vận động công nhân.
Tại Hội nghị Xứ ủy Bắc Kỳ mở
rộng (9/1939) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ triệu tập và chủ trì ở Vạn Phúc,
Hà Đông, đồng chí Hoàng Văn Thụ được Trung ương Đảng phân công làm Bí thư Xứ
ủy Bắc Kỳ, trực tiếp phụ trách phong trào cách mạng khu vực Hà Nội, vùng phụ
cận và báo “Giải phóng” - cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Bắc Kỳ.
Cuối tháng 12/1940, Hoàng Văn
Thụ sang Trung Quốc liên lạc với Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Nhận chỉ thị của
Người, đồng chí về làm việc với Tỉnh ủy Cao Bằng, chuẩn bị địa điểm đón Người
về nước và tổ chức Hội nghị Trung ương lần thứ tám.
Đầu năm 1941, đồng chí dự Hội
nghị mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương ở Bắc Ninh và được cử đi dự hội
nghị Trung ương tám ở Cao Bằng.
Tại Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ VIII (5/1941), đồng chí được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương, phụ
trách công tác Mặt trận và binh vận.
Từ năm 1943, đồng chí Hoàng
Văn Thụ được Trung ương giao nhiệm vụ giác ngộ binh lính địch ở khu vực Hà
Nội.
Ngày 25/8/1943, giữa lúc
phong trào cách mạng đang trên đà phát triển, đồng chí Hoàng Văn Thụ bị địch
bắt ở khu Tám Mái, Hà Nội, sau đó đưa về giam tại nhà tù Hỏa Lò.
Cuối tháng 01/1944, thực dân
Pháp đưa đồng chí Hoàng Văn Thụ ra xét xử tại Tòa án binh. Sáng ngày
24/5/1944, đồng chí Hoàng Văn Thụ bị giải ra pháp trường xử bắn.
Cuộc đời hoạt động cách mạng
của đồng chí Hoàng Văn Thụ là tấm gương sáng về người cộng sản kiên cường,
bất khuất.
(Nguồn: Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương - tuyengiao.vn)
|
8
|
Lê Hồng Phong
|
Đồng chí Lê Hồng Phong (1902
- 1942), tên gọi khác: Lê Huy Doãn, Vương Nhật Dân, Hải An, Lítvinốp, Trí
Bình.
Quê quán: Xã Hưng Thông,
huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC
Từ năm 1924 đến 1931: Sau khi
sang đến Thái Lan một thời gian, Lê Hồng Phong cùng một số bạn bè tìm đường
sang Quảng Châu, Trung Quốc. Thời gian ở Quảng Châu, Lê Hồng Phong cùng một
số bạn như: Phạm Hồng Thái, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lâm Đức Thụ trong nhóm
Tâm Tâm xã đã tích cực khôi phục lại phong trào yêu nước đang bị suy yếu.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc
đến Quảng Châu. Lê Hồng Phong là một trong những học trò đầu tiên của Người,
được Người giác ngộ đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng vô sản.
Từ tháng 8/1924 đến năm 1925,
Lê Hồng Phong tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố của Chính phủ dân quốc.
Đồng chí được chuyển sang Trường Hàng không ở Quảng Châu. Tại đây, tháng
2/1926, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Từ 10/1926 - 12/1927, đồng
chí được Chính phủ Quảng Châu và Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử sang Liên Xô học
và tốt nghiệp Trường Lý luận quân sự không quân ở Lêningrát. Sau đó, đồng chí
vào học Trường Đào tạo phi công quân sự tại Bôrítxgơlépxcơ.
Tháng 10/1928, đồng chí được
cử về học ở Trường Đại học Cộng sản Phương Đông. Ở đây, đồng chí trở thành
đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô và tham gia trong Ủy ban tổ chức Đảng nhóm
Đông Dương. Đến 11/1931, đồng chí được cử về nước để tham gia công tác của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Từ Liên Xô, Lê Hồng Phong lên
đường về nước vào cuối năm 1931. Việc cần thiết là phải định hướng cho phong trào
hoạt động. Lê Hồng Phong đã tham gia soạn thảo Chương trình hành động của
Đảng, được Quốc tế Cộng sản thông qua.
Tháng 7/1933, Lê Hồng Phong -
phái viên của quốc tế cộng sản, hoạt động tại Trung Quốc, bí mật về Cao Bằng
làm việc với Tỉnh ủy; truyền đạt quyết định của Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng
về việc xây dựng Cao Bằng thành một trong những cơ sở vững chắc để chắp nối
liên lạc với các cơ sở Đảng trong phạm vi toàn quốc.
Thời gian này, đồng chí Lê
Hồng Phong được triệu tập đi dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. Tại Đại
hội, Lê Hồng Phong thay mặt Đảng ta đã trình bày bản tham luận về tình hình
Đông Dương, về phong trào cách mạng, về chính sách cai trị tàn bạo của thực
dân Pháp, về những ưu và khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Với
sự kiểm điểm chân thành và nghiêm túc, đồng chí chứng minh triển vọng rộng
lớn của phong trào cách mạng Đông Dương. Đại hội đã bầu đồng chí Lê Hồng
Phong làm ủy viên chính thức Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản
Ngày 25/1/1940, đồng chí bị
bắt kết án 5 năm tù và đầy ra Côn Đảo.
Ngày 06/9/1942, đồng chí hi
sinh tại nhà tù Côn Đảo
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009;
dangcongsan.vn)
|
9
|
Ninh Văn Phan
|
Đồng chí Ninh Văn Phan (1908
- 1980).
Quê quán: Song Khê, thành phố
Bắc Giang.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Ông là bạn thân của đồng chí
Hoàng Đình Giong khi học ở Hà Nội. Sau khi Hoàng Đình Giong bị đuổi khỏi
trường Bách Nghệ, ông Phan đã giúp đỡ, tạo điều kiện để Hoàng Đình Giong tiếp
tục hoạt động phong trào thanh niên Hà Nội.
Tháng 2/1927, ông được tổ
chức Hội thanh niên giới thiệu lên Cao Bằng, ra nước ngoài tham dự các lớp
chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Hoàng Đình Giong là trưởng
đoàn xuất dương. Do bị lỡ hẹn nên Hoàng Đình Giong đã phân Ninh Văn Phan ở
lại Cao Bằng hoạt động tại thị xã và Hoà An. Ninh Văn Phan cùng Hoàng Đình
Giong chú trọng vận động binh lính, học sinh, thầy giáo nhằm thúc đẩy mạnh
phong trào yêu nước.
Tháng 4/1927 Ninh Văn Phan
vào Mỏ thiếc Tĩnh Túc xin việc làm để có điều kiện tuyên truyền, vận động anh
chị em công nhân làm cách mạng.
Tháng 8/1927, ông cùng Hoàng
Đình Giong sang Long Châu, Trung Quốc dự lớp huấn luyện của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên.
Ngày 19/6/1928 kết nạp vào
hội Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Theo sự phân công của tổ chức, đồng
chí phan về Cao Bằng tìm đưa một số thanh niên đã được giác ngộ sang Long
Châu học tập giác ngộ
Tháng 10/1929, đồng chí bị
Thực dân Pháp bắt và đầy đi Côn Đảo.
Tháng 11/1930, đồng chí được
kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương tại nhà tù Côn Đảo.
Tháng 9/1936, được địch thả
tự do, đồng chí về Bắc Giang tiếp tục hoạt động cách mạng.
Tháng 11/1940, đồng chí bị
địch bắt giam tại Đề lao phủ Lạng Thương.
Tháng 8/1945, đồng chí được
cử làm Phó chủ tịch Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Bắc Giang
Năm 1947, được cử làm giám
đốc Sở Hoa Kiều vụ Liên khu Việt Bắc; đại diện Tổng cục Hậu cần của Việt Nam
tại Nam Ninh, Trung Quốc.
Về sau, đồng chí được cử làm Trưởng
phòng các nước xã hội chủ nghĩa của Ủy ban Liên lạc Văn hóa với nước ngoài
cho đến khi về hưu. Đồng chí qua đời ngày 9/8/1980 tại Hà Nội.
Hiện nay, tên của ông đã được
đặt cho tên đường, tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009;
tuyengiao.bacgiang.gov.vn)
|
10
|
Trần Đăng Ninh
|
Đồng chí Trần Đăng Ninh (1910
- 1955), tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Đáng.
Quê quán: Thôn Quảng Nguyên,
xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Tháng 7/1936, đồng chí được
kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sinh hoạt trong chi bộ ngành in với tên
mới là Trần Đăng Ninh.
Cuối năm 1936, đồng chí Trần
Đăng Ninh được phân công hoạt động bí mật, tham gia lãnh đạo các cuộc bãi
công của công nhân các xí nghiệp; tổ chức các cuộc bãi thị của tiểu thương
chợ Đồng Xuân, tiểu thương chợ Mơ; đấu tranh chống thuế cư trú ở Hà Nội...,
góp phần tạo nên Cao trào cách mạng Dân chủ sôi nổi rộng khắp của Nhân dân cả
nước (thời kỳ 1936 - 1939).
Giữa năm 1939, đồng chí Trần
Đăng Ninh được cử làm Ủy viên Thành ủy Hà Nội, tiếp tục lãnh đạo phong trào
đấu tranh của công nhân.
Năm 1940, đồng chí được chỉ
định làm Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ.
Ngày 27/9/1940, Khởi nghĩa
Bắc Sơn nổ ra đồng chí Trần Đăng Ninh được cử về Bắc Sơn, cùng với đồng chí
Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri, chỉ đạo phong trào cách mạng, thành lập Ủy ban
cách mạng, thành lập Đội du kích Bắc Sơn, xây dựng Bắc Sơn trở thành căn cứ
địa cách mạng đầu tiên trong cả nước.
Ngày 11/11/1940, đồng chí
Trần Đăng Ninh cùng với các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc
Việt, Phan Đăng Lưu... tham gia Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (tổ chức
tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh).
Tháng 5/1941, tại Hội nghị
Trung ương lần thứ VIII (tổ chức tại Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng), đồng chí
Trần Đăng Ninh được đề cử làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương.
Năm 1941 - 1942, đồng chí
Trần Đăng Ninh bị mật thám bắt đưa về giam tại nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội) và nhà
tù Sơn La.
Tháng 3/1943, đồng chí Trần Đăng
Ninh vượt ngục, trở về hoạt động, tham gia Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ.
Tháng 9/1943, đồng chí lại bị
mật thám bắt, giam ở nhà giam Hưng Yên và nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội).
Tháng 3/1945, đồng chí Trần
Đăng Ninh vượt ngục thành công. Đồng chí Trần Đăng Ninh được cử làm Ủy viên
Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ.
Tháng 8/1945, đồng chí được
cử vào Tổng bộ Việt Minh, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc; tham gia Đại
hội Quốc dân Tân Trào (ngày 16 - 17/8/1945). Cách mạng Tháng Tám nổ ra, đồng
chí Trần Đăng Ninh được phân công cùng đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy quân
giải phóng, tiến đánh tỉnh lỵ Thái Nguyên.
Cách mạng Tháng Tám thành
công, đồng chí Trần Đăng Ninh được cử làm Đặc phái viên của Trung ương Đảng
vào công tác ở Trung Bộ và Nam Bộ, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với đồng bào miền Nam. Sau khi hoàn thành nhiệm
vụ, trở ra Bắc, đồng chí Trần Đăng Ninh và đồng chí Nguyễn Lương Bằng được
Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ lên Việt Bắc xây dựng căn cứ địa.
Năm 1947, đồng chí Trần Đăng
Ninh được cử giữ chức Trưởng ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
Tháng 12/1949, đồng chí kiêm
chức Tổng Thanh tra phó, Ban Thanh tra Chính phủ. Dưới sự lãnh đạo của đồng
chí, cơ cấu tổ chức, bộ máy cán bộ của hai cơ quan này đã được xây dựng và
hoạt động.
Giữa năm 1950, đồng chí được
cử làm Đặc phái viên Chính phủ phụ trách sửa chữa cầu đường và huy động nhân lực,
vật lực phục vụ kháng chiến. Sau đó được điều sang công tác trong quân đội,
giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần), Ủy viên Tổng
quân ủy (1950 - 1955).
Trong Chiến dịch Biên giới
năm 1950, đồng chí là Trưởng ban Cung cấp Chiến dịch Biên giới (1950).
Tháng 2/1951, Đại hội đại
biểu lần thứ II của Đảng , đồng chí Trần Đăng Ninh được bầu làm Ủy viên Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Đồng chí được Trung ương Đảng và
Bác Hồ phân công chỉ đạo xây dựng lực lượng cung cấp cho quân đội, huy động
và xây dựng lực lượng dân công phục vụ các chiến dịch: Tây Bắc (năm 1952);
các chiến dịch Thượng Lào và đặc biệt là phục vụ, tiếp tế, góp phần làm nên
Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Hòa bình lập lại ở miền Bắc,
đồng chí Trần Đăng Ninh về tiếp quản Hà Nội.
Ngày 6/10/1955, đồng chí Trần
Đăng Ninh mất.
(Nguồn: Báo Sơn La)
|
4.2
|
Tướng lĩnh Quân đội nhân
dân Việt Nam: 14 tên
|
1
|
Phùng Chí Kiên
|
Đồng chí Phùng Chí Kiên (1901
- 1941), tên thật là Nguyễn Vĩ. Quê quán: xã Diễn Châu, huyện Diễn Châu, tỉnh
Nghệ An.
Cấp bậc: Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký Sắc lệnh số 89/SL truy phong cấp tướng cho đồng chí Phùng Chí Kiên. Đây
là sắc lệnh phong tướng đầu tiên của Nhà nước.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Năm 1925, Nguyễn Vĩ được kết
nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu. Từ đây, Nguyễn Vĩ được
giác ngộ, dìu dắt, giúp đỡ,
Tháng 10/1926, Nguyễn Vĩ được
cử đến Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính trị đầu tiên do Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc tổ chức và đổi tên là Phùng Chí Kiên. Sau khóa học, Phùng Chí Kiên được
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi vào học Trường Quân sự Hoàng Phố.
Tháng 12/1927, khi khởi nghĩa
ở Quảng Châu nổ ra, Phùng Chí Kiên chỉ huy một đơn vị của đội quân cộng sản.
Ngày 30/12/1928, đồng chí
Phùng Chí Kiên bị quân Tưởng bắt giam. Sau 9 tháng giam cầm, Phùng Chí Kiên
được trả tự do và trở lại Trường Quân sự Hoàng Phố.
Tháng 12/1929, Phùng Chí Kiên
được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, gia nhập Hồng quân.
Tháng 12/1930, Phùng Chí Kiên
về Hồng Kông (Trung Quốc). Tại đây, đồng chí được gặp lại Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và được truyền đạt những chủ trương, đường lối mới của Đảng. Đồng chí
được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 01/1931, Phùng Chí Kiên
sang học trường Đại học Phương Đông.
Năm 1934, về Ma Cao, Trung
Quốc và tham gia Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng.
Tháng 3/1935, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng và được chỉ định vào Ban Thường vụ của Đảng.
Giữa năm 1937, đồng chí được
cử về Sài Gòn cùng đồng chí Hà Huy Tập trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng
trong nước. Do yêu cầu mới của cách mạng, cuối năm 1937, đồng chí quay lại
Hồng Kông (Trung Quốc) lãnh đạo Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng thay cho đồng
chí Lê Hồng Phong về nước hoạt động. Đồng chí thường xuyên giữ liên lạc với
trong nước, với Đảng Cộng sản Xiêm, Đảng Cộng sản Trung Quốc, đến cuối tháng 10/1938,
đồng chí bị bắt. Sau khi được trả tự do và bị trục xuất khỏi Hồng Kông (Trung
Quốc), đồng chí Phùng Chí Kiên đến hoạt động tại tỉnh Quảng Đông, tỉnh Vân
Nam, Trung Quốc.
Ngày 28/01/1941, Phùng Chí
Kiên theo Nguyễn Ái Quốc về Pác Bó, Cao Bằng. Ở đây, Đồng chí đã góp phần
quan trọng vào việc xây dựng, bảo vệ khu căn cứ, tham gia soạn thảo các bài
viết về "Con đường giải phóng dân tộc", trong đó có nội dung về đấu
tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng, chiến thuật chiến tranh du kích, đồng thời
tham gia tổ chức các lớp huấn luyện quân sự, đào tạo cán bộ Việt Minh cho các
tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và các tỉnh miền xuôi. Tại Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (5/1941), đồng chí Phùng Chí Kiên được bầu lại
vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được phân công phụ trách công tác quân
sự Đảng, trực tiếp chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai và Đội Cứu quốc quân.
Cuối tháng 6/1941, Pháp mở
cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ cách mạng nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của
Việt Minh và lực lượng vũ trang cách mạng mới hình thành. Do chênh lệch lực
lượng và vũ khí, Ban lãnh đạo căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai quyết định để lại một
tiểu đội chặn đối phương, còn hai tiểu đội phá vòng vây, rút lên Cao Bằng để
bảo toàn lực lượng.
Ngày 21/8, đơn vị lại bị phục
kích tại xã Bằng Đức trên đường đi Cao Bằng. Mặc dù bị thương nặng, đồng chí
Phùng Chí Kiên vẫn giữ chặt khẩu súng, bắn chặn quân địch để đồng đội thoát
khỏi vòng vây.
Ngày 22/8/1941, đồng chí bị
địch chặt đầu cắm ở đầu cầu Ngân Sơn để uy hiếp tinh thần cán bộ và Nhân dân
địa phương.Tinh thần cách mạng kiên trung, bất khuất của đồng chí như một
ngọn gió thổi bùng ý chí chiến đấu của quân và dân chiến khu Việt Bắc tiếp
tục tiến hành các cuộc khởi nghĩa giành độc lập.
Đến ngày 23/9/1947, ghi nhận
công lao của đồng chí Phùng Chí Kiên trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Tháng 11/2003, Đảng, Chính phủ
ra quyết định công nhận đồng chí Phùng Chí Kiên là nguyên ủy viên Thường vụ Trung
ương Đảng (khóa I), cán bộ lãnh đạo quân đội cấp tướng, liệt sĩ hy sinh anh
dũng trong chiến đấu.
(Nguồn: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam - dangcongsan.vn)
|
2
|
Lê Thiết Hùng
|
Đồng chí Lê Thiết Hùng (1908
- 1986), bí danh Lê Quốc Vọng.
Quê quán: Làng Đông Thôn,
tổng Thông Lãng (nay là xã Hưng Thông), huyện Hưng Nguyên, tỉn h Nghệ An.
Cấp bậc: Thiếu tướng.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Năm 1925, ông được Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp kết nạp vào Việt Nam cách mạng thanh niên, được cử đi
học
Trường quân sự Hoàng Phố
(Trung Quốc), rồi được giao nhiệm vụ tham gia quân đội Tưởng Giới Thạch, được
phong quân hàm tới đại tá (đại hiệu).
Cuối năm 1941, tại Pác Bó
(Cao Bằng) với bí danh Lê Quốc Vọng, ông được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao
nhiệm vụ cùng với ông Lê Quảng Ba lập Đội vũ trang đầu tiên gồm 12 người. Đó
là đội du kích Pác Bó. Tuy chỉ tồn tại hơn 2 năm nhưng đội du kích Pác Bó đã
làm được nhiều việc lớn: khống chế được bọn thổ phỉ, bảo vệ an toàn tính mạng
và tài sản của Nhân dân, hạn chế được sự càn quét của binh lính địch, phân
hóa và lôi cuốn được một bộ phận lý dịch ngả theo cách mạng… Đội du kích Pác
Bó đã có 6 đội viên được tuyển chọn vào Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân. Tiếp đó, Lê Thiết Hùng cùng Võ Nguyên Giáp phụ trách Ban Xung phong Nam
Tiến, mở đường về xuôi...Cách mạng Tháng Tám thành công.
Thời gian đầu, ông còn phải
quay trở lại các vùng biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên, Móng Cái… để
chuẩn bị đối phó với "Hoa quân nhập Việt". Rồi ông lại về Hải Phòng
để phát triển lực lượng tự vệ chiến đấu, chuẩn bị thế trận chiến tranh Nhân dân.Trước
những biến chuyển mau chóng của đất nước, Lê Quốc Vọng được Hồ Chủ tịch giao
làm Chiến khu trưởng đầu tiên Chiến khu 4 (nay là Quân khu 4).
Trở ra Thủ đô, ông được Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng cử giữ chức chỉ huy “Đội Tiếp
phòng quân”, Bác đặt tên mới cho Lê Quốc Vọng là Lê Thiết Hùng. Cái tên này
đi theo ông đến cuối đời. Lê Thiết Hùng là người được phong quân hàm tướng
đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam từ năm 1946, trước đợt phong quân hàm
chính thức 2 năm (1948). Hoàn thành nhiệm vụ chỉ huy "Đội tiếp phòng
quân", ông trở lại làm Khu trưởng Khu 4, rồi làm Tổng thanh tra quân đội,
Cục trưởng Cục Quân huấn và Hiệu trưởng Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Chính ông
là người đề xuất đổi tên Võ bị Trần Quốc Tuấn thành Trường Lục quân Trần Quốc
Tuấn để đào tạo cán bộ quân sự toàn diện.
Từ năm 1963, ông được giao
trọng trách mới: Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa
tại CHDCND Triều Tiên, Phó trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng…Thiếu tướng
Lê Thiết Hùng được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
(Nguồn: An ninh thế giới - antgct.cand.vn)
|
3
|
Lê Quảng Ba
|
Lê Quảng Ba (1914 - 1988),
tên thật là Đàm Văn Mông, người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Sóc Hà, huyện Hà
Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Cấp bậc: Thiếu tướng (1958).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Tham gia cách mạng từ rất
sớm, được kết nạp vào Đảng năm 1933. Mùa xuân Tân Tỵ, ngày 28/1/1941, đồng
chí vinh dự là thành viên và là người bảo vệ, dẫn đường đoàn cán bộ đón Bác
Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau 30 năm bôn ba tìm đường
cứu nước, cứu dân.Đồng chí là Đội trưởng Đội du kích Pác Bó - một trong những
đội du kích tập trung đầu tiên trực tiếp bảo vệ các đồng chí cán bộ Trung
ương và Bác Hồ, làm nhiệm vụ thông tin, liên lạc.
Những năm 1946 - 1955, được
Đảng tin tưởng giao nhiệm vụ, đồng chí Lê Quảng Ba liên tục nắm giữ các cương
vị trọng trách trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng chí là Khu trưởng Khu
Hà Nội (nay là Quân khu Thủ đô); Chỉ huy trưởng Mặt trận Đông Bắc duyên hải;
Tư lệnh Thập Vạn Đại sơn giúp Hồng quân Trung Quốc tiêu diệt Quốc Dân Đảng;
là Đại đoàn trưởng Đại đoàn 316, Tư lệnh Quân khu Việt Bắc.
Năm 1958, đồng chí được Nhà
nước phong hàm Thiếu tướng.
Từ tháng 9/1960 đến năm 1971,
đồng chí chuyển ngành công tác sang dân sự, là Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam khóa I, II, III, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Chính
phủ, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp Trung ương. Trong quá trình công tác,
đồng chí Lê Quảng Ba vinh dự được Nhà nước tặng Huân chương Quân công hạng
Nhì, hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng
Nhì, Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất và nhiều danh hiệu cao quý
khác.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
4
|
Hoàng Văn Thái
|
Đồng chí Hoàng Văn Thái (1915
- 1986), tên thật là Hoàng Văn Xiêm (bí danh là Ngô Quốc Bình) , Hoàng Văn
Thái.
Quê quán: Tây An, Tiền Hải,
Thái Bình.
Cấp bậc: Đại tướng (1958).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Ông là một trong 34 chiến sĩ
đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân (22/12/1944), phụ
trách công tác tình báo và kế hoạch tác chiến. Cách mạng Tháng Tám thành
công, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ tổ chức cơ quan
Bộ Tổng tham mưu.
Năm 1948, Hoàng Văn Thái được
phong quân hàm Thiếu tướng.
Trong Chiến dịch Biên giới
năm 1950, ông là Tổng tham mưu trưởng . Trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ
Quốc phòng, Hoàng Văn Thái đã cùng cơ quan Bộ Tổng tham mưu triển khai công
tác giúp trên chỉ đạo tác chiến và xây dựng lực lượng, góp phần xứng đáng vào
thắng lợi chung... Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, trên cư vị Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn, Hoàng Văn
Thái đã tích cực chỉ đạo huấn luyện bộ đội, góp phần thực hiện chủ trương xây
dựng Quân đội nhân dân chính quy và hiện đại.
Tháng 10/1967, ông được lệnh
vào Nam Bộ giữ chức vụ Phó Bí thư Trung ương Cục, Phó bí thư Quân ủy Miền, Tư
lệnh Bộ chỉ huy Miền. Tại đây, ông đã cùng các đồng chí trong Trung ương Cục,
Quân ủy Miền và Bộ chỉ huy Miền lãnh đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân 1968, các chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Chen La 1, Chen La 2, Nguyễn
Huệ ... giành thắng lợi to lớn.
Sau Hiệp định Pa-ra (1973),
ông trở lại cơ quan Bộ Tổng tham mưu với cương vị Phó Tổng tham mưu trưởng
thứ nhất phụ trách tác chiến và chi viên chiến trường.
Năm 1974, Hoàng Văn Thái được
phong quân hàm Thượng tướng. Đất nước hoàn toàn giải phóng, trên cương vị là Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng, Hoàng Văn Thái được phân công chỉ đạo công tác tổng kết
chiến tranh, biên soạn lịch sử quân sự và tham gia chỉ đạo công tác nghiên
cứu khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Năm 1980, ông được phong quân
hàm Đại tướng. Hoàng Văn Thái là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ
khóa III đến khóa V; Ủy viên Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương; Đại biểu
Quốc hội Việt Nam khóa VII. Với những công lao và cống hiến, ông đã được tặng
thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh; hai Huân chương Quân công (hạng Nhất và hạng
Nhì); huân chương Chiến thắng hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
(Nguồn: Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. NXB Quân đội nhân
dân, năm 2003)
|
5
|
Hoàng Sâm
|
Đồng chí Hoàng Sâm (1915-
1968), Tên thật là Trần Văn Kỳ.
Quê quán: Làng Lệ Sơn, nay là
làng Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Cấp bậc: Thiếu tướng.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Người Đội trưởng đầu tiên của
Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân (Bí danh Hoàng Sâm do đích thân
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặt cho ông thời kỳ hoạt động bên Trung Quốc).
Ông được sắc phong quân hàm
Thiếu tướng năm 1948 (một trong mười vị tướng đầu tiên của QĐND Việt Nam), có
nhiều công lao đóng góp cho quân đội. Tháng 12 năm 1968, ông hy sinh tại
chiến trường Bình - Trị - Thiên ở tuổi 53 khi mà tài năng quân sự đang vào độ
tuổi chín và tiếp tục tỏa sáng.
Thiếu tướng Hoàng Sâm là đại
biểu Quốc hội khóa II và khóa III, ông đã được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí
Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân
chương chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng và Huân chương Quân kỳ
Quyết thắng.
(Nguồn: Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. NXB Quân đội nhân
dân, năm 2003)
|
6
|
Bằng Giang
|
Đồng chí Bằng Giang (1915 -
1990 ), tên thật là Nguyễn Văn Cơ, người dân tộc dân tộc Tày.
Quê quán: Bản Thắc Tháy, xã
Đức Long (Hòa An).
Cấp bậc: Trung tướng (1974).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Từ năm 1930 - 1932, phong
trào đấu tranh cách mạng của các tầng lớp Nhân dân châu Hòa An lên cao, nhất
là sau khi chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh được thành lập tại Nặm Lìn,
xã Hoàng Tung ngày 1/4/1930. Nguyễn Văn Cơ hăng hái tham gia vào phong trào
đấu tranh của quần chúng cách mạng tại địa phương.
Tháng 3/1935, Nguyễn Văn Cơ
được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam với bí danh Nguyễn Bằng Giang, thường
gọi là Bằng Giang. Đồng chí tích cực tham gia đấu tranh trong phong trào đòi
dân chủ, dân sinh những năm 1936 - 1939 và tham gia các tổ chức đoàn thể cứu quốc.
Tháng 1/1941, đồng chí là
Tỉnh ủy viên, đảm trách công tác giao thông. Trên cơ sở thí điểm Mặt trận
Việt Minh ở các châu Hòa An, Hà Quảng, Nguyên Bình để rút kinh nghiệm và nhân
rộng phong trào Việt Minh ra các địa bàn trong tỉnh, tháng 4/1941, Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc chỉ thị cho đồng chí Vũ Anh triệu tập Hội nghị cán bộ Cao Bằng
tại Goọc Mu, thuộc Pác Bó (Hà Quảng). Huyện Hòa An có bốn đại biểu được mời
dự, đó là các đồng chí: Hồng Việt, Hồng Lĩnh, Hồng Sơn, Bằng Giang.
Tháng 1/1943, đồng chí là Ủy
viên Ban Thường vụ Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, trực tiếp phụ trách công
tác binh vận; đến tháng 1/1944 là Tỉnh ủy viên Đảng bộ tỉnh, phụ trách công
tác quân sự.
Từ năm 1946 - 1958, đồng chí
được Đảng phân công đảm trách những cương vị công tác quan trọng, là Khu
trưởng Quân khu 1, Khu trưởng Quân khu 10, Phái viên Bộ tổng Tư lệnh đặc
trách tiễu phỉ ở Lao - Hà, sau đó là Tư lệnh Quân khu Tây Bắc.
Những năm 1965 - 1976, đồng
chí liên tục giữ các cương vị: Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân, Tư lệnh
Quân khu Việt Bắc kiêm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc; Phó
Tổng Thanh tra Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 4/1974, đồng chí được
Đảng, Nhà nước phong hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.Với công lao,
cống hiến của mình, đồng chí vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng
hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và nhiều danh hiệu cao quý khác.
(Nguồn: Báo Cao Bằng)
|
7
|
Nguyễn Thái Dũng
|
Đồng chí Nguyễn Thái Dũng,
tên thường gọi là Nguyễn Hữu Thái (1920 - 1993), người dân tộc Kinh.
Quê quán: Phố Cũ, thị xã Cao
Bằng. Nhập ngũ 8/1945.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Cấp bậc: Thiếu tướng (1974).
Tháng 5/1946, đồng chí vinh
dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 12/1946, đồng chí là Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 140, làm nhiệm vụ bảo vệ Bộ Tổng Tư lệnh
Quân đội nhân dân Việt Nam.
Từ tháng 12/1949 - 5/1955,
đồng chí đảm nhiệm những vị trí trọng trách: Trung đoàn phó và sau đó là
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 88, thuộc Sư đoàn 308 Sư đoàn chủ lực của Bộ;
Trưởng phòng Tác chiến, Cục phó Cục Tác chiến kiêm Trưởng Phòng tác chiến.
Sau khi tốt nghiệp Học viện Quân sự Nam Kinh (Trung Quốc), tháng 4/1964, đồng
chí được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 308.
Tháng 6/1966, đồng chí Nguyễn
Thái Dũng được phong làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 325 chủ lực của Bộ Quốc
phòng, chỉ huy quân vào Nam chiến đấu.
Tháng 6/1967, đồng chí là Tư
lệnh Sư đoàn 304, thuộc Quân khu Tả Ngạn, đến tháng 9/1968 là Phó Tư lệnh
Quân khu Tả Ngạn.
Từ năm 1968 - 1979, đồng chí Nguyễn
Thái Dũng liên tục nắm giữ các cương vị trọng trách trong quân đội: Hiệu
trưởng Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Duyệt binh, cán
bộ nghiên cứu Viện Khoa học Quân sự thuộc Bộ Quốc phòng.
Năm 1974, đồng chí được Đảng,
Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng.
Đồng chí Nguyễn Thái Dũng đã
được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương
Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
8
|
Vũ Nam Long
|
Đồng chí Vũ Nam Long, tên
thật là Đoàn Văn Ưu (1921 - 1999), người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Đề Thám, thị xã
Cao Bằng (nay là phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng).
Cấp bậc: Trung tướng (1981).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Tham gia cách mạng từ năm
1940 tại quê nhà. Sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII tại Pác Bó, thực
hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự chỉ đạo
trực tiếp của Tỉnh ủy Cao Bằng, nhiều thanh niên đã lên đường sang Trung Quốc
tham dự các lớp đào tạo cán bộ. Tháng 6/1941, Vũ Nam Long trở thành học viên
Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc).
Tháng 1/1945, đồng chí vinh
dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Được Đảng và quân đội quan tâm
đào tạo cán bộ chiến lược lâu dài, tháng 4/1946, đồng chí được cử đi học tại
Liên bang Nga, học viên Học viện Quân sự Vôrôsilốp. Sau khi tốt nghiệp khóa
học, từ tháng 12/1958, đồng chí là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tư
lệnh Pháo binh.
Từ tháng 2/1961, đồng chí là
Phó Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn. Từ tháng 2/1962 là Phó Tư lệnh Quân khu 4, từ
tháng 1/1964 là Tư lệnh Quân khu 4. Đến tháng 1/1967, đồng chí là Phó Tư lệnh
Quân khu Trị - Thiên - Huế.
Tháng 4/1974, đồng chí được
Đảng, Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ
tháng 6 - 11/1967, đồng chí được đề bạt làm Phó Giám đốc Học viện Quân sự,
rồi Phó Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao của Bộ Quốc phòng.
Tháng 6/1981, đồng chí được
Đảng, Nhà nước phong quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Suốt đời tận tụy phụng sự cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đồng chí được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí
Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
9
|
Đàm Quang Trung
|
Đồng chí Đàm Quang Trung
(1921 - 1995), tên thật là Đàm Ngọc Lưu, người dân tộc Tày.
Quê quán: Làng Nà Nghiềng, xã
Sóc Hà (Hà Quảng).
Cấp bậc: Thượng tướng.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Năm 16 tuổi, Đàm Ngọc Lưu
tiếp bước theo gương hai anh ruột Đàm Văn Lý (tức Quý Quân), Đàm Minh Viễn
(tức Đức Thanh) tham gia hoạt động cách mạng.
Tháng 2/1939, trong lúc phong
trào đấu tranh phản đế dâng lên mạnh mẽ, Đàm Quang Trung vinh dự được kết nạp
vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 5/1940, đồng chí bị
thực dân Pháp bắt giam; tháng 3/1941, đồng chí ra tù và tiếp tục hăng hái
hoạt động. Sau đó, đồng chí Đàm Quang Trung được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử đi
học Trường Quân sự Hoàng Phố.
Đến tháng 9/1944, đồng chí về
nước trực tiếp huấn luyện du kích ở các xã biên giới.
Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam
Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập và nhanh chóng phát triển đội viên
thành các đơn vị chủ lực đầu tiên. Đồng chí Đàm Quang Trung gia nhập Đội và
trở thành cán bộ Trung đội, Đại đội trưởng, Chi đội trưởng Đội Tuyên truyền
Giải phóng quân tại Thái Nguyên.
Tháng 8/1945, đồng chí được
phân công chỉ huy Đại đội Việt - Mỹ cùng các lực lượng vũ trang tiến hành
tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, tiến về Hà Nội trực tiếp
bảo vệ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tháng 3/1946, đồng chí được
Đảng giao nhiệm vụ làm Khu đội trưởng Đặc khu Hà Nội.
Tháng 4/1946, đồng chí là
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31, Khu V, Chỉ huy trưởng Mặt trận Quảng Nam -
Đà Nẵng. Khi Liên khu V được thành lập, tháng 10/1948, đồng chí được bổ nhiệm
làm Phó Tư lệnh kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn chủ lực của Liên khu V.
Từ tháng 1/1951 - 1952, đồng
chí tham dự khóa đào tạo cán bộ trung cấp Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam.
Kết thúc khóa học (khóa 6), đồng chí được bổ nhiệm Đại đoàn phó Đại đoàn 312,
một trong những đơn vị chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong
Chiến dịch Hòa Bình, Đại đoàn 312 đã hiệp đồng tác chiến cùng các Đại đoàn chủ
lực 304, 308, 315 đập tan âm mưu, kế hoạch của thực dân Pháp, giải phóng thị
xã Hòa Bình, tiêu diệt địch trên đường số 6, lập chiến công xuất sắc trên địa
bàn Tu Vũ, Ba Vì… Sau đó, Đại đoàn 312 tham gia Chiến dịch Tây Bắc, phối hợp
với Đại đoàn 308, 316, các lực lượng vũ trang lập công lớn, phá tan âm mưu
“xứ Thái tự trị” của thực dân Pháp.
Trong Chiến dịch Điện Biên
Phủ, Đại đoàn 312 được giao nhiệm vụ mở màn tiêu diệt cứ điểm Him Lam, phối
hợp cùng các đơn vị bạn thọc sâu vào tập đoàn cứ điểm, bắt sống toàn bộ chỉ
huy, góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch
Tại lễ duyệt binh ở Mường
Phăng ngày 13/5/1954, đồng chí vinh dự được thay mặt các đơn vị lập công nhận
lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” từ tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Những năm 1955 - 1966, đồng
chí liên tục được nắm giữ những cương vị trọng trách, là Tư lệnh Đại đoàn
312, Tư lệnh Quân khu Đông Bắc, sau đó là Phó Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn;
Thường vụ Quân khu ủy - Tư lệnh Quân khu Việt Bắc.
Từ năm 1966 - 1967, đồng chí
Đàm Quang Trung được điều động về làm Tư lệnh Bộ Tư lệnh tiền phương kiêm Phó
Tư lệnh Quân khu 4, sau đó là Bí thư Khu ủy - Tư lệnh Quân khu.
Tháng 4/1974, đồng chí Đàm
Quang Trung vinh dự được Đảng và Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng. Đến
tháng 5/1976, đồng chí được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân khu 1, Bí thư Quân ủy
Quân khu. Đồng chí còn là một chính khách chính trị, nguyên là Phó Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Ủy viên Trung ương Đảng khóa
IV, V, VI; đại biểu Quốc hội từ khóa V đến khóa VIII. Tháng 1/1980, đồng chí
được Đảng, Nhà nước phong quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bước vào thời kỳ đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đồng chí vinh dự
được phong quân hàm Thượng tướng.
Đồng chí được Đảng, Nhà nước
tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân
chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba và Huy chương Quân kỳ Quyết thắng
cùng nhiều danh hiệu cao quý.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
10
|
Lê Thùy
|
Đồng chí Lê Thùy (1922 -
1999), tên thật: Lê Văn Lộc, là người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Dân Chủ, huyện
Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Cấp bậc: Trung tướng (1986).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Đồng chí được kết nạp vào
Đảng 4/1941. Tháng 12/1942, đồng chí Lê Thùy thoát ly hoạt động, xa quê nhà
đến với các tỉnh: Bắc Kạn, Tuyên Quang, Yên Bái để xây dựng cơ sở cách mạng.
Tháng 5/1945, đồng chí là Chính trị viên Đại đội Giải phóng quân Chiêm Hóa (Tuyên
Quang), tham gia đắc lực vào cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Tháng 1/1946, đồng chí là Ủy
viên Ban Quân sự Tuyên Quang, phụ trách công tác đảng kiêm Chính trị viên
Trung đoàn Tuyên Quang.
Từ tháng 8/1948 - 2/1952,
đồng chí là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 165, Sư đoàn 312 Sư đoàn Chiến
thắng, trực thuộc Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng), là những đơn vị chủ
lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới sự chỉ huy của đồng chí,
Trung đoàn tham gia Chiến dịch Lê Hồng Phong, Chiến dịch Hòa Bình, Chiến dịch
Lý Thường Kiệt, Chiến dịch Điện Biên Phủ và lập nhiều công lớn, giải phóng
huyện Bắc Hà và tỉnh lỵ Lào Cai.
Tháng 12/1954, đồng chí là
Chỉ huy phó Tổng đội Biên phòng, tháng 1/1956 là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 335.
Sau thời gian được đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cao cấp của quân đội, tốt nghiệp
Học viện Quân sự Nam Kinh (Trung Quốc).
Năm 1964, đồng chí đảm nhiệm
vị trí Tư lệnh Sư đoàn 316 Sư đoàn Bông Lau, chủ lực của Quân khu 2, Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Từ tháng 01/1967 - 9/1970,
đồng chí được giao nhiệm vụ làm Phó Tư lệnh Quân khu Tây Bắc kiêm Tư lệnh Sư
đoàn 316, sau đó là Tư lệnh Quân khu Tây Bắc.
Tháng 4/1974, đồng chí vinh
dự được Đảng, Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 6/1976, đồng chí là Phó
Tư lệnh Quân khu 1, tháng 6/1978 đồng chí là Phó Tư lệnh Quân khu 2.
Tháng 01/1986, Thiếu tướng Lê
Thùy vinh dự được thăng quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đồng chí đã được Đảng, Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba; Huân chương Chiến công hạng
Nhì, hạng Ba; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Nhì, Ba và nhiều danh hiệu
cao quý khác.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
11
|
Chu Phương Đới
|
Đồng chí Chu Phương Đới (1922
- 2007),
Quê quán: Xã Hưng Đạo, huyện
Hòa An (nay là thành phố Cao Bằng).
Cấp bậc: Thiếu tướng (1980).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Năm 24 tuổi, Chu Phương Đới
tham gia hoạt động cách mạng. Thoát ly khỏi quê nhà từ rất sớm, đồng chí đã
trưởng thành nhanh chóng trong quân ngũ và trở thành vị tướng tài năng của
Quân đội nhân dân Việt Nam, từng trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Cuộc đời hoạt động của đồng
chí Chu Phương Đới gắn với nhiều địa bàn chiến khu các miền trong nước (từ
chiến trường Việt Bắc, Tây Bắc, Bình Trị Thiên đến Tây Nguyên). Từ năm 1964 -
1970, đồng chí đảm nhiệm Phó Tư lệnh Sư đoàn 324, thuộc Quân khu 4, sau đó là
Tư lệnh Sư đoàn 325, Quân khu 4.
Tháng 6/1978, đồng chí làm
Phó Tư lệnh Binh đoàn 678, đơn vị có nhiệm vụ giúp nước bạn Lào bảo vệ chính
quyền và thành quả cách mạng, tiễu phỉ, trừ gian, ổn định cuộc sống của nhân
dân. Đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên tinh thần quốc tế cao cả,
được Nhà nước Lào và nhân dân trân trọng.
Tháng 2/1981, đồng chí là Tư
lệnh Binh đoàn 678. Suốt quá trình công tác, cống hiến bền bỉ, lập nhiều công
lớn, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì,
Huân chương Quân công hạng Nhì, Huân chương Chiến công hạng Nhì, Huân chương
Kháng chiến hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương
Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba và nhiều danh hiệu cao quý khác.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
12
|
Vũ Lập
|
Đồng chí Vũ Lập (1924 -
1987), tên thật là Nông Văn Phách, người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Vĩnh Quang, thị
xã Cao Bằng.
Cấp bậc: Thượng tướng (1984).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Tham gia cách mạng từ năm
1941, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2 năm 1945. Tháng
12/1945, đồng chí được điều động về làm Chi đội trưởng kiêm giáo viên Trường
Quân chính; đến tháng 12/1946, đồng chí là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Vệ
binh của Bộ Quốc phòng.
Tháng 2/1955, đồng chí Vũ Lập
được đề bạt làm Tham mưu trưởng Đại đoàn 316 - Đại đoàn Bông Lau; tháng
6/1962, đồng chí được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Quân khu Tây Bắc, sau đó
được cử đi học tập, đào tạo tại Học viện Quân sự Trung Quốc. Kết thúc khóa
học, đồng chí trở về và được giao nhiệm vụ Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng
Quân khu Tây Bắc.
Những năm 1970 - 1973, đồng
chí được Đảng, Nhà nước, quân đội giao nhiệm vụ đảm trách những vị trí công
tác quan trọng: Tư lệnh Quân tình nguyện Bộ Tư lệnh 959, giúp nước bạn Lào
chiến đấu bảo vệ nền độc lập, xây dựng và phát triển đất nước.
Tháng 4/1974, đồng chí vinh
dự được Đảng, Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng. Tháng 6/1974, đồng chí
được đề bạt làm Tư lệnh Quân khu Tây Bắc.
Tháng 6/1976, đồng chí là Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Tư lệnh Quân khu 1. Tháng 1/1977,
đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân tộc Trung
ương.
Từ năm 1978 đến khi nghỉ hưu,
đồng chí là Tư lệnh kiêm Chính ủy Tư lệnh Quân khu 2.
Tháng 1/1980, đồng chí vinh
dự được Đảng, Nhà nước phong quân hàm Trung tướng.
Tháng 12/1984 được thăng quân
hàm Thượng tướng. Đồng chí vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Hồ Chí Minh, 2 Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Kháng
chiến hạng Nhất.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
13
|
Đàm Văn Ngụy
|
Đồng chí Đàm Văn Ngụy (1927 -
2015), có bí danh Văn Chung, người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Minh Khai, huyện
Thạch An, tỉnh Cao Bằng.
Cấp bậc: Trung tướng (1984).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Năm 1942, khi mới tròn 15
tuổi, Đàm Văn Ngụy hăng hái tham gia Việt Minh, làm liên lạc viên cho cán bộ
tự vệ bí mật của châu Thạch An.
Tháng 1/1945, đồng chí gia
nhập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại Thất Khê, Tràng Định (Lạng
Sơn), làm Tiểu đội phó, thuộc Đại đội 2.
Tháng 9/1947, đồng chí vinh
dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Kết thúc thắng lợi Chiến dịch Thu
- Đông, tháng 12/1947, đồng chí là Trung đội phó của Đại đội 181 thuộc Trung đoàn
28; sau đó được điều động sang công tác tại Trung đoàn 174 (còn gọi là Trung
đoàn Cao - Bắc - Lạng), giữ chức Quản trị trưởng, Trung đội trưởng của Đại
đội 508.
Tháng 7/1952, đồng chí được
cử đi học tập, đào tạo tại Trường Lục quân Việt Nam khóa 7. Kết thúc khóa
học, đồng chí được bổ nhiệm làm Đại đội trưởng, quyền Tiểu đoàn phó của Trung
đoàn 176, Sư đoàn Bông Lau 316.
Đến tháng 1/1956, đồng chí đi
học Trường Quân sự bộ binh cấp cao ở Trung Quốc. Trở về Việt Nam, tháng
2/1960, đồng chí giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, sau đó là Trung đoàn
trưởng Trung đoàn 174, Sư đoàn 316.
Tháng 7/1956, đồng chí vinh
dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tháng
4/1960, đồng chí được điều động vào chiến trường B3, hoạt động trên Mặt trận
Tây Nguyên.
Năm 1968, đồng chí được bổ
nhiệm giữ chức Phó Tư lệnh Sư đoàn 1, Mặt trận B2.
Đầu những năm 1970, đồng chí
Đàm Văn Ngụy được điều động giữ chức Quyền Tư lệnh Sư đoàn 7, sau đó là Đảng
ủy viên, Chỉ huy phó Đoàn 301 thuộc Bộ Tư lệnh Miền.
Tháng 4/1976, đồng chí được
phân công đảm nhiệm chức vụ Hiệu phó Trường Sĩ quan Chính trị, Phó Tư lệnh
Quân khu 1.
Từ tháng 9/1978 - 1979, đồng
chí là Chỉ huy trưởng quân sự Mặt trận thống nhất ở Cao Bằng, trực tiếp chỉ
đạo các lực lượng vũ trang, góp phần làm nên chiến thắng chiến tranh biên
giới tháng 2/1979, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia trên toàn tuyến phía
Bắc.
Tháng 01/1980, đồng chí được
Đảng, Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 01/1981, đồng chí đảm
nhiệm Phó Tư lệnh Quân khu 1.
Tháng 12/1984, đồng chí vinh
dự được thăng quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 9/1985, đồng chí được
cử đi học tại Học viện Quân sự Vô-lô-xi-lốp ở Liên Xô.
Tháng 12/1986, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI, đồng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng 4/1987, đồng chí được
bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu 1, đại biểu Quốc hội khóa VII.
Tháng 6/1991, tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII, đồng chí tiếp tục được bầu là Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng.
Tháng 6/1996, đồng chí được
bầu là Bí thư Đảng ủy Quân khu 1, đại biểu Quốc hội khóa VIII. Đến tháng
1/1997, đồng chí nghỉ hưu theo chế độ. Quá trình tham gia quân ngũ, đồng chí
đã lập nhiều chiến công xuất sắc, được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Quân công hạng Nhất; Huân chương Chiến công hạng Nhì, hạng Ba; Huân
chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Kháng chiến hạng
Nhất; Huân chương Chiến thắng hạng Ba.
(Nguồn: Báo Cao Bằng )
|
14
|
Nguyễn Kim Hùng
|
Đồng chí Nguyễn Kim Hùng (còn
gọi là Nguyễn Khánh Đình).
Quê quán: Xã Hoàng Tung (Hòa
An).
Cấp bậc: Thiếu tướng (1984).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Tháng 3/1945, đồng chí tham
gia Việt Minh và được bầu vào Ủy viên Ban Chấp hành Thanh niên cứu quốc xã
Hoàng Tung, châu Hòa An.
Tháng 4/1945, đồng chí gia
nhập Giải phóng quân và theo học lớp quân chính kháng Nhật của Trường Quân
chính.
Tháng 5/1945, đồng chí vinh
dự được kết nạp vào Đảng. Do yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quân đội,
tháng 4/1949, đồng chí là học viên sĩ quan tham mưu khóa 4 Trường Trung cấp
Quân sự.
Kết thúc khóa học, tháng
6/1950, đồng chí được phân công làm Trưởng Ban Trinh sát Sư đoàn 338.
Tháng 5/1955, đồng chí được
điều động làm công tác giảng dạy tại Trường Trung Cao cấp Quân sự, là Chủ
nhiệm Khoa Trinh sát.
Tháng 9/1959, đồng chí được
cử đi học tại Học viện Quân sự Nam Kinh (Trung Quốc). Sau khi trở về nước, từ
tháng 10/1960 - 12/1961, đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức danh công tác:
Chủ nhiệm Khoa Trinh sát Trường Quân sự cấp cao của Bộ Quốc phòng, Phó trưởng
Phòng Nghiên cứu học thuật thuộc Học viện Quân chính.
Tháng 5/1965, đồng chí là cán
bộ Cục Nghiên cứu của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, từ đó,
đồng chí được điều động vào chiến trường Tây Nguyên và làm Trưởng Ban Quân
báo B3.
Tháng 10/1968, đồng chí được
đề bạt giữ chức Tham mưu phó B3 kiêm Trưởng Phòng Quân báo B3.
Tháng 2/1969, đồng chí được
điều động ra miền Bắc, đến tháng 5/1969 là Cục phó Cục Tình báo của Bộ Tổng
Tham mưu. Tháng 11/1973, đồng chí làm Chủ nhiệm Trinh sát Quân đoàn 1.
Tháng 2/1975, đồng chí là Cục
phó Cục Tình báo Bộ Tổng Tham mưu.
Tháng 4/1984, đồng chí được
Đảng, Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng.
Đồng chí được Nhà nước tặng
thưởng Huân chương Quân công hạng nhì, hạng ba; 2 Huân chương Chiến công hạng
Nhì; Huân chương Chiến thắng hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất;
Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
4.3
|
Nhân vật lịch sử: 46 tên
|
1
|
Thục Phán
|
Thục Phán: Họ Thục, tên húy
là Phán, đóng đô ở Phong Khê (nay là thành Cổ Loa). Theo truyền thuyết "Cẩu
chủa cheng vùa" được lưu truyền phổ biến trong vùng đồng bào Tày Cao Bằng,
kể về quá trình hình thành nhà nước Nam Cương, quá trình làm vua nước Nam
Cương của Thục Chế và con trai là Thục Phán, người sau này cũng trở thành vua
của nhà nước hợp nhất Âu Lạc và dời đô xuống Cổ Loa (nay thuộc huyện Đông Anh,
ngoại thành Hà Nội).
Trong giới sử học nước ta,
nhiều ý kiến cũng khẳng định Thục Phán là một lãnh tụ của nước Nam Cương của
người Âu Việt, địa bàn chủ yếu của nước Nam Cương là tỉnh Cao Bằng ngày nay
và miền đất nằm ở phía Đông sông Tả Giang của Quảng Tây, Trung Quốc. Thục
Phán là một nhân vật nằm trong khối cộng đồng người Việt, hoạt động ở miền
Bắc nước Văn Lang, trong đó có tỉnh Cao Bằng ngày nay... Uy tín của Thục Phán
cho phép ông đoàn kết được người Tây Âu và Lạc Việt. Thế kỷ III TCN, khối
đoàn kết này là cơ sở chính trị, là nguồn gốc lực lượng để người Việt đánh
bại quân Tần. Sau khi kháng chiến chống quân Tần thắng lợi, Thục Phán đã sáp
nhập hai vùng lãnh thổ Tây Âu và Lạc Việt thành lập nước Âu Lạc, hiệu là An
Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội).
Hiện nay trên địa bàn tỉnh
Cao Bằng còn một số di tích lịch sử địa danh liên quan đến Thục Phán như: Di
tích Thành Bản phủ xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng; Đôi guốc đá, Tổng Chúp
(thành phố Cao Bằng); Na Lữ, Hoàng Tung (huyện Hòa An).
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia năm, Hà Nội,
2009)
|
2
|
Nùng Trí Cao
|
Nùng Trí Cao (1025 - 1053),
sống vào nửa đầu thế kỷ XI , dưới thời Vua Lý Thái Tông. (ông là con của Nùng
Tồn Phúc người ở châu Quảng Nguyên làm thủ lĩnh châu Thảng Do (Năm 1038, Nùng
Tồn Phúc chiếm châu Vũ Lặc và Quảng Nguyên, năm 1039 tự xưng là Chiêu Thánh
hoàng đế, lập nước Trường Sinh, lập vợ là A Nùng làm Minh Đức hoàng hậu).
Ông được nhà Lý giao làm Châu
mục Quảng Nguyên, phong chức Thái Bảo, cấp ấn Đô tướng.
Nùng Trí Cao chiêu binh bãi
mã, nổi dậy ở nhiều nơi, dựng nước Đại Lịch, Nam Thiên, Đại Nam; Khởi binh
đánh đất Tống, vua Tống phải huy động binh hùng, tướng mạnh mới đánh dẹp được.
Cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao
đã chứng tỏ ý chí quật cường của các dân tộc thiểu số ở vùng cao chống lại áp
bức bóc lột của các thế lực phong kiến thống trị. Đồng thời, đánh tan các cuộc
xâm lược của nhà Tống trên đất Cao Bằng, góp phần bảo vệ biên cương phía Bắc
của Tổ quốc. Nùng Trí Cao được phong “Thượng đẳng thần, xuân thu nhị kỳ quốc
tế”; các triều đại sau đều gia phong mỹ tự: “Khâu Sầm tế thế, an dân hãn ngoại,
ninh thùy trấn dịch, anh nghị quả đoán hiển ứng thùy hưu, hộ quốc an dân đại
vương”. Sau này, ông được truy phong Khâu Sầm Đại Vương (vua lớn của núi Khâu
Sầm).
Tên tuổi ông được lưu truyền
trong truyền thuyết dân gian vùng đất Cao Bằng, những kỳ tích về Nùng Trí Cao
được Nhân dân ngưỡng mộ, tôn thờ, coi ông là biểu tượng của thánh thần, là
biểu tượng của người hùng văn hóa và đồng bào đã coi ông là ông tổ của mình.
Bên cạnh đó, hình ảnh Nùng Trí Cao như một vị thần và có dấu ấn sâu đậm trong
đời sống văn hoá, tâm linh và tín ngưỡng của Nhân dân các dân tộc Cao Bằng.
Để tưởng nhớ ơn đức của Nùng
Trí Cao, sau khi ông mất Nhân dân đã lập miếu thờ ông ở nhiều nơi trên địa
bàn tỉnh Cao Bằng, đền lớn nhất là đền Kỳ Sầm, xã Vĩnh Quang, thành phố Cao
Bằng (dưới chân núi Khâu Sầm). Hằng năm, lễ hội đền Kỳ Sầm được tổ chức vào
ngày mồng 10 tháng Giêng.
Di tích được xếp hạng là Di
tích lịch sử cấp Quốc gia, theo Quyết định số 43/VH/QH, ngày 07/01/1993 của
Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.
(Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cao Bằng, Địa Lý - Lịch Sử tỉnh Cao
Bằng)
|
3
|
Bà Hoàng
|
Bà là vợ của Thủ lĩnh Nùng
Tồn Phúc, là Minh Đức hoàng hậu, mẹ của Nùng Trí Cao (Một nhân vật lịch sử
gắn liền với tâm thức của dân tộc Tày, Nùng). Thế kỷ XI, vua Lý phong A Nùng
làm Bà Hoàng đại vương, phong “Thượng đẳng thần, xuân thu nhị kỳ quốc tế”,
các triều đại đều gia phong mỹ tự: “Bà Hoàng phổ ứng, hiển linh diệu cảm,
hồng lưu tĩnh trấn, hiển phù linh thông, phục viễn ninh cảnh, vũ di hiển hưu,
cảm ứng hộ quốc, ninh dân dương vũ đinh công đại vương”.
Theo những câu chuyện được
lưu truyền trong dân gian, Minh Đức hoàng hậu là một người phụ nữ đôn hậu,
mưu lược, tài giỏi. Bà đã có công nuôi dạy, rèn luyện võ nghệ cho Nùng Trí
Cao, sau này Trí Cao đã trở thành một anh hùng giúp nhà Lý trấn ải biên
cương. Bà còn giúp con điều binh khiển tướng, thành lập đội kỵ binh, dạy võ
nghệ cho binh sĩ ... Được nhà Lý mời làm cố vấn cho các tướng lĩnh. Ngoài ra
bà còn dạy Nhân dân biết chăn nuôi gia súc, nên Nhân dân suy tôn bà là Thần
gia súc.
Hiện nay, bà được thờ ở đền
Bà Hoàng (đền nằm ở phía Đông thành phố Cao Bằng, được dựng ngay dưới chân núi
Kim Pha, thuộc phường Sông Bằng (Khu Nà Cạn cũ). Đền Bà Hoàng được công nhận là
di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh năm 2008. Hàng năm, lễ hội truyền thống tổ
chức vào ngày Rằm tháng Giêng.
(Nguồn: Lý lịch di tích Đền Bà Hoàng - Bảo tàng tỉnh năm 1992)
|
4
|
Dương Tự Minh
|
Dương Tự Minh (sống vào thời
Lý - thế kỉ XI), là người dân tộc Tày.
Quê quán: Bản Danh, Quán
Triều, phủ Phú Lương (nay là xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên),
là danh tướng có tài, làm thủ lĩnh phủ Phú Lương (gồm châu Thượng Nguyên,
Vĩnh Thông, Quảng Nguyên, Cảm Hóa, Vạn Nhai, Tư Nông, Tuyên Hóa), ngày nay
thuộc Bắc Cạn, Thái Nguyên, Cao Bằng.
Ông làm quan trải qua ba
triều Vua (Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông và Lý Anh Tông), được nhà Lý gả công
chúa Diên Bình và công chúa Thiều Dung làm vợ, được phong Phò mã Lang.Dương
Tự Minh là vị tướng tài cả về quân sự lẫn chính trị của Vương triều Lý, người
có công lớn trong việc giành lại phần đất đai rộng lớn từ tay giặc Tống và
bảo vệ vững chắc vùng biên cương phía Bắc Đại Việt. Sau chiến thắng giặc
Tống, Dương Tự Minh lại có công kêu gọi Nhân dân đã di cư vào nội địa nay hồi
cư về quê cũ ở sát biên giới, cung cấp lương thực, xây dựng lại nhà cửa, cung
cấp công cụ cày bừa, cuốc xẻng, phục hồi sản xuất, ổn định đời sống bám sát
biên giới canh giữ biên cương Tổ quốc. Ngoài ra ông còn có công khai khẩn
điền địa, phát triển kinh tế, giữ vững mối đoàn kết của dân tộc.
Với công lao to lớn đối với
triều đình, quê hương, đất nước, sau khi Dương Tự Minh mất, nhiều nơi trên
quê hương Thái Nguyên Nhân dân đã thờ ông làm thần bảo hộ cho xóm làng, được phong
làm thần. Vua Lý Anh Tông phong tặng cho Dương Tự Minh là Cao Sơn Quý Minh
Đại Vương. Trên mảnh đất Quảng Nguyên xưa, tại làng Xuân Lĩnh, châu Thạch Lâm
(nay thuộc làng Đà Quận, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng), đền thờ Quan Triều
được Nhân dân dựng lên để ghi nhớ công lao của ông và được phong mỹ tự: Quan
Triều - Hồng Liên công chúa thông diệu linh cảm, trợ quốc trấn biên, hoài
phục truy tĩnh, phụng công vĩ liệt đại vương. Đền được xếp hạng di tích
lịch sử văn hoá cấp tỉnh năm 2008.
(Nguồn: Viện Sử học Việt Nam, Sở Văn hóa thông tin Thái Nguyên, Danh
nhân lịch sử Dương Tự Minh, Thái Nguyên, năm 2003)
|
5
|
Hoàng Lục
|
Hoàng Lục (1038 - 1088), sinh
tại xã Lũng Đính thuộc châu Thượng Lang (nay là xã Đình Phong, huyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng) trong một gia đình nối đời làm tù trưởng. Thường ngày,
ông kết giao với các hào trưởng, tộc trưởng khắp vùng như: Nùng Trí Cao, Lưu
Kỷ, Tông Đản…Ông là một thủ lĩnh, một vị tướng tài dưới thời vua Lý Nhân Tông
thế kỷ XI.
Hoàng Lục, 15 tuổi đã tinh
thông binh pháp, am hiểu sử sách, là người có sức khỏe phi thường, đối với ai
cũng khoan hòa nên quy phục được lòng người về với mình. Lục trước đây cũng
làm chức quan giữ đất cho Trí Cao. Đến khi quan công nhà Tống đuổi Trí Cao,
tràn sang đất Nam, ông lại ngầm có chí mở mang bờ cõi. Ông đoán rằng quan
Tống ở xa đến đây, lấy quân nhàn rỗi của ta đối địch với quân họ nhọc mệt có
thể đánh được. Bèn lấy hơn một nghìn đinh tráng phục sẵn ở đất Khiếu Thang,
đánh được quân nhà Tống, lấy lại được đất châu ấy gồm có cả 8 châu gần quanh
đấy nữa. Rồi ông phục theo nhà Lý, đem hết cả Nhân dân lệ thuộc vào đất đai
bờ cõi. Ông lại lấn dần sang đất của nhà Tống, đem Nhân dân ở đấy phụ thuộc
về nhà Lý. Vua Lý càng gia ban cho tước vị cao lên. Nhưng ông còn chưa mãn
nguyện, dâng biểu lên vua Lý rồi đem rất nhiều binh lính sang đánh phá châu
Ung. Nhưng vì viện binh không có, bị quân địch đánh đằng trước, đằng sau, ông
ở trong trận xông ra đánh lại, bị quân nhà Tống giết chết.
Triều nhà Lý truy phong ông
làm Đại vương, làm đền thờ ở xã Lũng Đính, mùa Xuân, mùa Thu được quốc tế.
Ông được triều đình nhà Lý phong sắc An Biên tướng quân Hoàng Lục, các triều
đại gia phong mỹ tự làm Hạ đẳng thần, sắc phong duệ hiệu là: An Biên tướng
quân linh ứng uy liệt, ngự biên tích huống phù hựu, Hoàng Lục đại vương.
Hiện nay, ông được thờ ở đền
Hoàng Lục xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh. Đền thờ Hoàng Lục được xếp hạng
là Di tích lịch cấp tỉnh, theo Quyết định số 3535/QĐ-UBND, ngày 31/12/2004,
của UBND tỉnh Cao Bằng.
Hằng năm, Nhân dân địa phương
lấy ngày 28/2 âm lịch hàng năm để tổ chức lễ hội.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb, Chính trị Quốc gia, năm 2009;
Nguồn: Báo Cao Bằng)
|
6
|
Trần Hưng Đạo
|
Trần Hưng Đạo (1226 - 1300),
còn được gọi là Hưng Đạo Vương, tên thật là Trần Quốc Tuấn, là con trai An
Sinh Vương Trần Liễu và cháu vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh).
Quê quán: Làng Tức Mặc, huyện
Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Ông có tài quân sự, khi giặc Nguyên
ba lần sang cướp nước ta (1284-1282-1287), ông được vua Trần Nhân Tông phong
làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Ông nổi tiếng với câu nói: “Bệ hạ muốn
hàng, xin hãy chém đầu thần trước rồi hãy hàng”, ông làm “Hịch tướng
sĩ” khích lệ lòng quân, đôn đốc các vương hầu, binh tướng tận trung cứu
nước. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương,
Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi giặc ra khỏi nước, ông được phong tước Hưng
Đạo vương.
Sau đó, ông lui về ở Vạn Kiếp
(nay thuộc xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Nhân dân lúc bấy
giờ kính trọng ông, lập đền thờ ông ở Vạn Kiếp gọi là đền Kiếp Bạc. Tại đền
có bài văn bia của vua Trần Thánh Tông , ví ông với Thượng phụ (tức Khương Tử
Nha).
Năm Canh Tý (1300), ông lâm
bệnh và thọ 74 tuổi.
(Nguồn: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nxb Văn hóa - Thông tin,
năm 2013)
|
7
|
Hoàng Thắng Hứa
|
Hoàng Thắng Hứa - Thủ lĩnh
châu Thượng Lang (nay là Trùng Khánh). Trong cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên - Mông xâm lược, Nhân dân Cao Bằng đã góp nhiều công sức vào cuộc
kháng chiến ấy, đặc biệt nổi bật là vai trò lãnh đạo, liên kết Nhân dân các
khê động của nhân vật lịch sử Hoàng Thắng Hứa.
Khi quân Nguyên - Mông đưa
quân sang xâm lược nước ta, trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 (1285), dưới sự
lãnh đạo của vua Trần Nhân Tông và chỉ huy tài tình của Trần Hưng Đạo, ở
Quảng Nguyên (Cao Bằng), tiếp chỉ của triều đình, thủ lĩnh Hoàng Thắng Hứa
trực tiếp lãnh đạo quân sĩ đánh giặc ngay tại biên giới, góp phần ngăn bước
tiến quân của chúng.
Đặc biệt, từ năm 1291 trở đi,
nghĩa quân Hoàng Thắng Hứa đã phát triển rất mạnh mẽ cả về lực lượng (hàng vạn
người) lẫn địa bàn hoạt động (gồm vùng Quảng Tây - Trung Quốc và một số tỉnh vùng
Đông Bắc của Việt Nam). Nghĩa quân của Hoàng Thắng Hứa nhiều lần tấn công và
chiếm đóng Ung Châu khiến cho quan quân nhà Nguyên ở Ung Châu không thể chế
ngự được.
Sau chiến tranh với Đại Việt,
thế và lực của nhà Nguyên ngày càng sa sút nghiêm trọng, tạo điều kiện cho
nghĩa quân của Hoàng Thắng Hứa tiếp tục tồn tại, bảo vệ biên viễn và phát
triển mạnh trong 30 năm nữa (tức đến năm 1323) mới chấm dứt.
Với vị trí là miền đất phên
giậu của quốc gia Đại Việt, trong các thế kỷ XI - XIV, đồng bào các dân tộc
Cao Bằng cùng Hoàng Thắng Hứa đã có những đóng góp to lớn trong các cuộc
kháng chiến chống Tống, chống Nguyên - Mông giành thắng lợi, bảo vệ vững chắc
từng tấc đất thiêng liêng ở vùng biên viễn của Tổ quốc.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb, Chính trị Quốc gia, năm 2009)
|
8
|
Hoàng Nghệ
|
Hoàng Nghệ là tù trưởng châu
Tư Lang (Hạ Lang ngày nay), sống vào thời nhà Trần. Trần Hưng Đạo 3 lần đánh thắng
quân Nguyên Mông (1270 - 1293). Trong trận thứ 3, quân Nguyên Mông bị đánh
bại, thái tử Thoát Hoan con vua Hốt Tất Liệt cùng phó tướng là A Thai chạy
trốn về nước qua châu Tư Lang (Hạ Lang) thì bị tù trưởng Hoàng Nghệ chặn đánh,
phó tướng A Thai bị bắt còn Thoát Hoan trốn thoát chạy về nước (thực ra Hoàng
Nghệ mở đức hiếu sinh cho Thoát Hoan trốn, vì Thoát Hoan đã đến nước đường
cùng, giết đi sẽ gây thù oán giữa hai nước).
Như vậy, việc bắt được A Thai
là một chiến công hiển hách. Bởi vì, khi tướng giặc thất trận dẫn quân chạy
trốn sắp về đến nước bị thổ quan Hoàng Nghệ tổ chức chỉ huy dân binh chặn
đánh và bắt sống ở ngay mốc biên ai. Đó là một chiến công có nhiều ý nghĩa
trong lịch sử dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hoàng
Nghệ được phong Thiên vương đại thần, và được thờ ở chùa Sùng Phúc (Hạ Lang).
(Nguồn: Lý lịch Bia chùa Sùng Phúc, Bảo tàng tỉnh)
|
9
|
Nguyễn Đình Bá
|
Nguyễn Đình Bá (sống vào thời
Lê - Mạc), quê thôn Bình Dân, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Năm Giáp Dần,
niên hiệu Long Đức thứ 3, Triều Lê, chỉ chuẩn cho Khoái Trạch hầu (Nguyễn
Đính Bá) làm đốc đồng Cao Bằng, chính thể rất liêm bình. Lúc ấy trong hạt đồ
giặc nổi lên bốn bề, ông được lệnh chỉ thăng tước hầu cho làm Đốc trấn.
Năm Quý Hợi niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 4, giặc Hoàng Xỉ ở phủ Thông Hóa, xứ Thái Nguyên nổi lên, lệnh chỉ
mệnh quan binh đốc tướng của bản xứ cùng Tuần Quận công tiến thảo, dẹp giặc
Thái Nguyên Hoàng Xỉ ở Khâu Dậu.
Tháng 5, quân của Đốc trấn
Khoái Trạch hầu đóng quân dẹp giặc ở Vi Hoa, Thái Nguyên thì mất trong doanh
trại. Quan quân đem linh cữu về trấn, dân trong châu cảm đức chính nhân hóa,
đều xin lên triều đình sắc phong Đại vương, dựng miếu Thanh Trung (hiện thuộc
tổ 11, phường Sông Hiến, thành phố Cao Bằng) để thờ và tưởng nhớ công ơn của ông.
Các triều đại gia phong mĩ tự, quốc tế xuân thu, phong trung đẳng thần. Ông
từng giữ chức Tri châu Hạ Lang có công giữ ải biên cương, giúp dân khai đất
khẩn hoang nên được dân tôn sùng làm thần hoàng làng và được thờ ở chùa Sùng
Phúc.
(Nguồn: Cao Bằng thực lục, Bế Hựu Cung)
|
10
|
Lê Lợi
|
Lê Lợi (1385 - 1433).
Quê quán: Lam Sơn (Kẻ Cham),
nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, trong một gia đình "Đời đời
làm quân trưởng một phương".
Đầu năm 1416, tại núi rừng
Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm
cứu nước đã làm lễ thề đánh quân Minh xâm lược giữ yên quê hương. Đó là hội Thề
Lũng Nhai đã đi vào sử sách. Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay
xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành
nơi tụ nghĩa.
Đầu năm 1418, sau một thời
gian chuẩn bị chín muồi, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp
nơi, kêu gọi Nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước.
Năm 1927, cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn toàn thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc
lập lâu dài cho Tổ quốc.
Năm Thuận Thiên thứ 3 (1430)
và thứ 4 (1431) Lê Thái Tổ thân chinh đem quân lên châu Thạch Lâm, trấn Thái Nguyên
(tức vùng Hòa An, Thạch An, Cao Bằng ngày nay) để dẹp mưu đồ cát cứ của Bế
Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái. Sau đó đã cảm khái làm bài thơ khắc trên vách đá
phja Tém - thuộc xã Hồng Việt, huyện Hòa An (được công nhận là Bảo vật
quốc gia tại Quyết định số 88/QĐ-TTg ngày 15/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ).
cũng là để xác định chủ quyền lãnh thổ Đại Việt dưới vương triều nhà Lê
vừa giành thắng lợi huy hoàng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Sau khi
đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, sáng lập ra
vương triều Lê. Lê Lợi làm vua được 5 năm thì mất, an táng tại Vĩnh Lăng, Lam
Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ.
(Nguồn: Lý lịch di tích Bảo vật quốc gia Bia Ma Nhai ngự chế của vua
Lê Thái Tổ)
|
11
|
Bế Khắc Thiệu
|
Bế Khắc Thiệu vốn họ Nguyễn,
người Tống Sơn phủ, Thanh Hóa trấn, xuất thân dòng dõi Nho học. Từ Thanh Hóa,
tằng tổ của ông đến thị tứ Áng Mò thuộc xã Bác Khê, tổng Xuất Tính, châu
Thạch Lâm, đất Cao Bằng (thường gọi là Quảng Nguyên) trọ ở nhà họ Bế thuộc dòng
họ lớn nhất vùng, danh môn hào kiệt. Gặp cảnh sơn thủy hữu tình, dân chúng
ham học, chàng trai Thanh Hóa nhận lời ở lại làm thầy đồ dạy chữ Nho cho học
trò ở xã Bác Khê. Được người trong vùng mến tài, mến nết, ông trở thành con
rể nhà họ Bế. Theo phong tục người Tày, con trai lấy vợ, thừa hưởng gia tài
bên vợ thì phải lấy tên họ vợ trước tên họ mình, do đó mới có tên họ mới là
Bế Nguyễn.
Bế Khắc Thiệu trở thành một
hào trưởng giàu có, thích làm việc thiện nên được mọi người rất mến mộ. Ông
giao du, kết bạn với nhiều người. Khi về Phúc Tăng, Bế Khắc Thiệu gặp Nông
Đắc Thái, cũng là một hào trưởng giỏi võ nghệ, có tài bắn cung trăm phát trăm
trúng, ở làng Nà Giưởng, tổng Nhượng Bạn. Hai người ý hợp tâm đầu, kết nghĩa làm
anh em và cùng nuôi chí lớn.
Ngày mùng 2 tháng Giêng năm
Mậu Tuất (tức ngày 7/2/1418), Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh
Hóa). Hào trưởng Bế Khắc Thiệu đã lặn lội vào Lam Sơn ứng nghĩa, sau đó, ông
được Lê Lợi cử trở về quê hương xây dựng lực lượng chống quân Minh và làm hậu
thuẫn cho cuộc khởi nghĩa.Bế Khắc Thiệu cùng Nông Đắc Thái kêu gọi Nhân dân
khởi nghĩa. Bế Khắc Thiệu được suy tôn làm chủ tướng, Nông Đắc Thái làm phó
tướng đắc lực. Nghĩa quân xây dựng đồn luỹ ở núi Khau Thước, nơi núi non
trùng điệp, khi cần có thể lui về cố thủ trên dãy núi Phúc Tăng (thuộc tổng
Nhượng Bạn).
Trong thời gian Bế Khắc Thiệu
và Nông Đắc Thái khởi nghĩa ở Quảng Nguyên thì ở Lạng Sơn cũng nổ ra cuộc nổi
dậy của Nông Văn Lịch. Nông Văn Lịch đã từng lên Quảng Nguyên gặp gỡ Bế Khắc Thiệu
liên kết cùng chiến đấu, học hỏi kinh nghiệm tác chiến với quân Minh.
Năm Giáp Thìn (1424), một
cánh quân của Lê Lợi lên hoạt động ở phủ Lạng Sơn (trong đó có Quảng Nguyên -
tức Cao Bằng). Đại diện của nghĩa quân Lam Sơn cũng được mời lên thành Khau
Thước cùng Bế Khắc Thiệu đàm đạo.
Như vậy, từ một đạo quân hoạt
động đơn lẻ trên vùng rừng núi phía Bắc, đến năm 1424, nghĩa quân của Bế Khắc
Thiệu đã có mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa quân Lam Sơn và trở thành một bộ phận
trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV.
Bế Khắc Thiệu chỉ huy nghĩa
quân đánh vào đồn sở quân Minh đóng ở Đống Lân (Vu Thủy), giết Đô đốc Cao Sĩ
Văn.
Nông Đắc Thái chỉ huy nghĩa
quân tấn công vào đồn Mục Mã (có một sở đóng hơn 1.000 quân) giành thắng lợi.
Ông còn đánh bại quân Minh do Đô đốc Trình Dương chỉ huy trong trận Nà Khuổi,
tiêu diệt gần 4000 tên.
Sau trận thắng lớn ở Nà Khuổi
(tháng 9/1426), quân địch các đồn ở Cao Bằng đều chạy trốn hết. Cao Bằng được
giải phóng. Bế Khắc Thiệu về lỵ sở xưng làm Châu mục. Nông Đắc Thái quản việc
quân, Nhân dân châu Quảng Nguyên (tức vùng Cao Bằng) lại được trở về với cuộc
sống thái bình.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009)
|
12
|
Nông Đắc Thái
|
13
|
Đinh Nho Hoàn
|
Đinh Nho Hoàn (1671 - 1716).
Quê quán: Xã Sơn Hòa, huyện
Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
Từ nhỏ Đinh Nho Hoàn đã thông
minh hiếu học, năm 30 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ, khoa Canh Thìn niên hiệu
Chính Hòa thứ 21 (1700), đời vua Lê Hy Tông. Thời gian giữ chức Đốc trấn ở
Cao Bằng (1704 - 1710), Đinh Nho Hoàn đã cho thực thi nhiều việc để phát
triển kinh tế, làm ích nước lợi dân như: Sửa đường, phá ghềnh đá trên sông
Bằng Giang để thuyền bè đi lại giao thương dễ dàng. Ông đã cho mở đường thông
luồng lạch đến tận biên giới (đoạn sông từ trấn lỵ Cao Bằng đến Tà Lùng,
huyện Phục Hòa (nay là Quảng Hòa). Với chính sách thông thoáng và sự giúp đỡ
thiết thực của ông, Hoa thương (thương gia người Hoa) ở Cao Bằng và khách
thương gia buôn bán ngày càng phát đạt, trở nên giàu có, Nhân dân no đủ.
Thời kỳ Đinh Nho Hoàn làm Đốc
trấn Cao Bằng, ông không chỉ có nhiều đóng góp cho việc phát triển kinh tế -
xã hội - Cao Bằng trở thành nơi trù phú. Bên cạnh đó, ông còn có tài sáng tác
nhiều thơ ca để ca ngợi phong cảnh kỳ thú, con người thân thiện, mến khách ở Cao
Bằng và sáng tác để giáo huấn Nhân dân, kêu gọi Nhân dân làm điều tốt, bỏ điều
xấu, an cư lạc nghiệp. Ông đã sáng tác đến 10 bài thơ Nôm vịnh nhiều cảnh đẹp
Cao Bằng, những bài đó được tập hợp thành sách “Cao Bằng thập thủ”. Hiện nay,
10 bài thơ ca ngợi cảnh đẹp ở Cao Bằng, còn được lưu tại Viện Hán Nôm.
Thời kỳ Đinh Nho Hoàn giữ
chức Trấn thủ Cao Bằng, rất nhiều việc làm của ông được lưu lại cho hậu thế.
Ông là người có tài năng, đức độ, nhân cách và nhiều công lao nên đã giúp
triều đình trấn giữ miền biên viễn trấn Cao Bằng bình yên, hưng thịnh trong
nhiều năm, xứng đáng lưu danh cùng non nước.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
14
|
MạcKính Cung
|
Nhà Mạc ở Cao Bằng hơn 80 năm
trải ba đời vua: Mạc Kính Cung (1593-1625), Mạc Kính Khoan (1625-1638), Mạc
Kính Vũ (1638 - 1677)... Trong thời gian từ năm 1592 đến 1677, trên đất Cao
Bằng, nhà Mạc tiếp tục thi hành các chính sách về chính trị, quân sự, kinh tế
- xã hội để củng cố và bảo toàn lực lượng chống lại nhà Lê.
Về chính trị, phần lớn các
châu huyện đặt từ trước đều được giữ nguyên. Đề đề phòng quân nhà Lê tiến
đánh, nhà Mạc đã tu bổ và sửa chữa thành Nà Lữ thành một trung tâm chính trị
và quân sự của vùng này (thành Nà Lữ thường được quen gọi là thành nhà Mạc).
Trong những năm ở Cao Bằng,
nhà Mạc cũng đã thi hành những chính sách kinh tế tích cực nhằm phát triển
kinh tế như khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, cùng với người dân
địa phương khai phá những cánh đồng lúa ở Trùng Khánh, Thạch Lâm, Quảng Uyên (Quảng
Hòa); không chỉ trồng các loại cây lương thực ở vùng đồng mà còn khai hoang
mở rộng diện tích canh tác ở vùng cao, vùng sình lầy ven sông. Thời kỳ này
cũng bắt đầu kiến tạo các mương, phai, làm guồng nước (gọn nặm) đưa nước từ
sông, suối lên để vừa canh tác, vừa lợi dụng sức nước để giã gạo, ép mía ...phát
triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, trồng bông vải, kéo sợi, dệt tơ lụa, thổ cẩm
và vải mặc. Nhà Mạc còn phát triển trung tâm rèn nông cụ và vũ khí ở Phúc
Sen, các nghề nấu đường phên, sản xuất đồ gốm, làm gạch ngói cũng được phát
triển mạnh.
Ngoài ra, nhà Mạc còn mở mang
đường xá nối liền Cao Bằng với Lạng Sơn, Bắc Kạn... xây dựng nhiều chợ làng để
buôn bán ở địa phương và đẩy mạnh giao thương qua biên giới, mở rộng giao lưu
buôn bán với Trung Quốc qua các cửa khẩu biên giới ...Trong thời gian ở Cao
Bằng, nhà Mạc đóng đô tại Vu Tuyền, châu Thạch Lâm và hiện diện như một vương
triều phong kiến Đại Việt đầu tiên đóng đô ở một vùng dân tộc thiểu số rộng
lớn tại miền Đông Bắc Bắc Bộ, đã biết cách hòa nhập với người địa phương,
đoàn kết các dân tộc miền núi.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009)
|
15
|
Mạc Kính Khoan
|
16
|
Mạc Kính Vũ
|
17
|
Mạc Ngọc Liễn
|
Theo sách “Đại Việt sử ký
toàn thư”, Mạc Ngọc Liễn có tên là Nguyễn Ngọc Liễn, là con của Thái sư Tây
quốc công Nguyễn Kính - một trong những công thần khai quốc của nhà Mạc. Do
cha con Nguyễn Kính có công lớn với nhà Mạc nên anh em Ngọc Liễn tất thảy 3
người đều được ban họ vua. Mạc Ngọc Liễn đồng thời còn là phò mã nhà Mạc, tức
chồng của công chúa Mạc Thị Ngọc Lâm. Ông được phong tước Đà Quận Công rồi Đà
Quốc Công.
Ông là người có công phò tá,
gây dựng Triều Mạc ở Cao Bằng. Tháng 7/1594, Mạc Ngọc Liễn ốm nặng, khi sắp
mất, ông để thư lại dặn vua Mạc Kính Cung như sau: “Nay khí vận nhà Mạc đã
hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để
phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi
dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm
được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải
có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây
thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là
chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than
đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”.
Ông mất ngày 2/7/1594, và sau
khi ông qua đời, con ông là phò mã Đông Sơn hầu chạy sang Long Châu, theo Mạc
Kính Cung tiếp tục chống chính quyền Lê - Trịnh. Mạc Kính Cung và các vua Mạc
sau tiếp tục làm theo lời dặn của ông, tranh thủ sự ủng hộ của nhà Minh để
cát cứ ở đất Cao Bằng nhưng tuyệt nhiên không mượn quân Minh sang đánh nhà
hậu Lê.
Hiện nay, tại xã Hưng Đạo,
tỉnh Cao Bằng có làng mang tên Đà Quận (Đà Quận Công).
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009)
|
18
|
Phù Thắng
|
Năm Đinh Mùi, niên hiệu Cảnh
Trị thứ 5 (niên hiệu của Lê Huyền Tông), có Phù Thắng, Phù Thiết là người xã
Đồng Kiêu, châu Hạ Lạng (đời đời làm tù trưởng ở châu này). Khi họ Mạc chiếm
cứ Cao Bằng, nghe tiếng tăm, muốn dùng làm tướng, nhưng anh em đều từ chối
không chịu ra nhận chức. Họ Mạc cho là Phù Thắng không chịu ra làm quan. Họ
Mạc cho nhà Phù Thắng không chịu nhận chức, giết cả nhà.
Phù Thiết với tên gọi là Đồn
Nhuệ - ra làm chức tiết chế của nhà Mạc, đem quân đóng giữ nơi biên giới.
Được hai năm, Phù Thiết thu họp dân chúng, giữ nơi hiểm trở. Đến sau bị người
đầy tớ hai lòng, dắt giặc vào đồn, bị quân nhà Mạc bắt được giải về thành Cao
Bằng. Phù Thiết nhảy xuống sông chết (Hoằng Bây thuộc xã Vu Tuyền (nay là xã
Hưng Đạo, huyện Hòa An). Sau này anh linh của Phù Thiết vẫn thường hộ nước
giúp dân.
Vào khoảng năm Giáp Thìn, vua
nhà Lê sai quân lên đánh Mạc, họ Mạc chạy trốn. Quân nhà Lê đóng ở thành Cao Bằng,
ông hiển hiện lên giúp dân, được vua Lê sắc phong là Giang Châu Tiết chế đại
vương, làm đền thờ ở địa phần xã Vu Tuyền, mùa xuân, mùa thu được quốc tế,
làm Hạ đẳng thần. Các triều đại gia phong cho ông mỹ tự (cho dân xã Vu Tuyền
thờ cúng). Duệ hiệu là: Sắc phong Giang Châu Tiết chế, linh ứng địch nghị,
tĩnh biên, linh thông hiển ứng đại vương.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009)
|
19
|
Phù Thiết
|
20
|
Nông Quý Hổ
|
Nông Quý Hổ (Cống Quý Hổ),
sống vào thời Lê Thần Tông (1653 - 1657), ông quê ở huyện Phục Hòa (nay là
Quảng Hòa), tỉnh Cao Bằng.
Theo sự tích về Thiên Hòa
Vương, năm Giáp Ngọ, niên hiệu Thịnh Đức thứ 2 (niên hiệu vua Lê Thần Tông),
Thuận Đức (niên hiệu của Mạc Kính Vũ) chiếm cứ ở Cao Bằng, có người xã Phục
Hòa, châu Thạch Lâm, tên là Nông Quý Hổ. Nông Quý Hổ giữ một lòng quy thuận
nhà Lê, không phục, căm tức họ Mạc, tự xưng là Thiên Hòa Vương đóng giữ ở
thành Phục Hòa. ông hô hào dân hai tổng Thượng Pha và Phục Hòa dấy lên chống
cự, tiến đánh họ Mạc. Quân Mạc tiến đánh dữ dội, ông không địch nổi, thua
trận, đập đầu vào núi chết. Tương truyền linh hồn ông hóa làm một con chim,
tiếng kêu rất bi thảm. Dân chúng gọi là chim Thiên Hòa, để tưởng niệm ông.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009; Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam.
Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 2013)
|
21
|
Bế Văn Phụng
|
Bế Văn Phụng, người dân tộc
Tày (sống cùng thời với Mạc Kính Cung (1593 - 1625).
Quê quán: Làng Bản Vạn, châu
Thạch Lâm (nay là Bế Triều, thị trấn Nước Hai, huyện Hòa An).
Ông được vua phong chức Tư
thiên quản nhạc. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là tập Tam nguyên luận viết
bằng chữ Hán. Truyện kể rằng: Vua Mạc Kính Cung do bị thua trận, buồn phiền phát
bệnh. Thái y chữa không chuyển, mời Tư thiên quản nhạc Bế Văn Phụng tới chữa.
Bế Văn Phụng biết nguyên nhân bệnh vua, tổ chức lập ra một đội then nữ đến
múa hát. Nội dung buổi trình diễn là bài Tam nguyên luận (khoảng 800
câu thơ gồm năm đoạn: Hạ nguyên, Trung nguyên, Thượng nguyên, Thất thế, Đắc
thế): nói chuyện chiêm tinh, xét về sự chuyển vận tự nhiên, từ bĩ đến thái,
hết suy đến thịnh, bàn luận kế sách khả thi, dự đoán sự thăng trầm của thời
đại. Kết quả là vua Mạc Kính Cung lành bệnh...
Bên cạnh đó, Tư thiên quản
nhạc còn là tác giả cuốn Giáo nam, giáo nữ, khuyên trai gái làm ăn
siêng năng, tiết kiệm, biết trên kính dưới nhường, hòa thuận trong ngoài. Tuy
là những chuyện ứng xử trong xã hội nhưng không mang nặng giảng giải luân lý
mà có cách trình bày tế nhị, hợp lòng người nên được Nhân dân truyền tụng đến
ngày nay.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009)
|
22
|
Nông Quỳnh Văn
|
Nông văn Noọng tức Nông Quỳnh
Văn, người xã Nga Ổ, châu Thượng Lang (nay thuộc xã Chí Viễn, huyện Trùng
Khánh). Ông tiếp tục sự nghiệp của Bế Văn Phụng, phát triển loại then giàng
và được người đương thời gọi là Quỳnh Văn, tục gọi là "vua ca đáng",
nghĩa là thơ văn đẹp mà hát hay. Tuy không dự thi nhưng Nhân dân tôn ông là
bậc 'trạng". Nông Văn Noọng không làm quan với nhà Mạc, thường làm thơ
ngạo đời, ngao sơn du thủy. Ông lập một đội then giàng đến ra mắt vua Mạc
Kính Cung được nhà vua khen ngợi. Chính vì vậy, Nhân dân tôn Nông Văn Noọng là
tổ sư Giàng (gồm toàn nam) hát với cây đàn tính hai dây đệm, khác với cây đàn
ba dây của nữ ở vùng ngoài.
Một số tác phẩm tiêu biểu của
Nông Văn Noọng là:Tứ quý hồng nhan nói về tâm tư buồn phiền, tác giả
tự ví mình như cô gái có tài sắc suốt đời mà không tìm được ý trung nhân, kẻ
sĩ có tài mà trong cảnh loạn ly không tìm được minh quân cứu đời; Lượn Ba
Chu, một thể du ký viết bằng văn vần truyền thống mô tả cuộc du hành từ ba
châu miền Đông tỉnh Cao bằng ra chơi chợ tỉnh. bài ghi rõ nhật ký hành trình
có ngày khắc và các địa điểm lưu trú, đến nay vẫn còn giá trị nghiên cứu.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009)
|
23
|
Nguyễn Thị Duệ
|
Nguyễn Thị Duệ: Quê ở Chí
Linh, tỉnh Hải Dương - Nữ tiến sĩ duy nhất trong lịch sử khoa cử phong kiến
Việt Nam.
Nhà Mạc sau khi thay thế nhà
Lê, về cơ bản vẫn giữ nguyên mô hình giáo dục khoa cử thời Lê. Khi rút lên
Cao Bằng, nhà Mạc vẫn tổ chức thi cử để lấy người hiền tài. Trong kỳ thi Hội
năm 1607, người đỗ đầu là Nguyễn Thị, khi triều đình mở yến tiệc mừng các vị
tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ dáng hình như con gái, mắt
sáng, môi đỏ như son, ngón tay búp măng xinh đẹp, bèn cho người tìm hiểu và
được biết tân tiến sĩ đích thực là con gái. Vua không phạt tội mà còn rất quý
trọng tấm gương hiếu học của bà, ông mời bà vào cung dạy học cho các phi tần và
sau đó cưới làm vợ, đặt tên là Tinh Phi tức Sao Sa, Nhân dân địa phương thường
gọi là bà Chúa Sao.
Quân nhà Lê tiến đánh Cao
Bằng, bắt được Nguyễn Thị Duệ dẫn về kinh đô Thăng Long. Trịnh Tùng rất quý
trọng bà, giao bà việc dạy học cho hoàng thân trong vương phủ. Bà vừa dạy
học, vừa giúp vua Lê, chúa Trịnh phát triển giáo dục, giúp Ban giám khảo
trong các kỳ thi tuyển chọn nhân tài. Những bài thi Hội, thi Đình và các bài
văn của đình thần đều phải qua tay bà khảo định. Sau khi mất, Bà được triều
đình ban sắc phong, cho đúc tượng, dựng bảo tháp, khắc bia, người dân địa
phương lập đền thờ, tôn bà làm Phúc thần. Tháp mộ bà Nguyễn Thị Duệ được đặt
trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng tại Chí Linh, Hải Dương. Tại Cao
Bằng để tưởng nhớ công ơn của bà, Nhân dân Bản Huyền Du (Thanh Nhật, huyện Hạ
Lang) đã thờ bà tại chùa Sùng Phúc.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009)
|
24
|
Đinh Văn Tả
|
Danh tướng Đinh Văn Tả (1599
- 1685), quê ở làng Hàm Thượng, huyện Cẩm Giàng (tỉnh Hải Dương ngày nay).
Năm 1625, Đinh Văn Tả được
lệnh của vua chỉ huy một đoàn quân lên đánh nhà Mạc ở Cao Bằng thắng lợi; năm
1639, Đinh Văn Tả lại được Vua Lê giao cầm quân lên đánh nhà Mạc ở Cao Bằng.
Năm 1645, vua Lê tiếp tục cử Đinh Văn Tả đưa quân lên đánh nhà Mạc ở Cao Bằng
và ông đã lập công lớn, sau đó về kinh đô giúp triều đình xây dựng quân đội
và được giao đem quân đi dẹp loạn ở nhiều nơi, ông được phong chức Tham đốc.
Năm 1667, từ Thăng Long, nhà
Lê đưa quân lên đánh nhà Mạc ở Cao Bằng, Đinh Văn Tả được giao chỉ huy đoàn
quân tiên phong, ông đã đánh nhiều trận, thắng ở nhiều nơi. Sau khi giành
thắng lợi, tháng 2/1668, Đinh Văn Tả được giao làm Tổng trấn Cao Bằng và được
giao kiêm Trấn thủ cả Thất Tuyền (Lạng Sơn). Sau đó được thăng Thiếu Bảo - Tả
Đô đốc, giúp triều đình lo việc an dân, trấn giữ biên cương phía Bắc Đại
Việt...
Năm 1677, quân nhà Lê tiếp
tục đánh Cao Bằng, sau khi đánh tan nhà Mạc, tướng Đinh Văn Tả được vua Lê ở
lại Cao Bằng tiếp tục truy quét tàn quân Mạc. Biết tin vua Mạc Kính Vũ đang
phòng thủ ở thành Phục Hòa, tướng Tả điều quân về đóng đô ở Tổng Lao (xã Tiên
Thành ngày nay).
Tướng Đinh Văn Tả vây hãm
thành Phục Hòa trong 8 năm. Bởi vì tướng Tả không muốn xảy ra cuộc đổ máu,
không muốn Nhân dân lâm vào cảnh loạn ly; khi biết Mạc Thị Tuyết Lan là công
chúa cả của vua Mạc Kính Vũ, lại càng không muốn dùng vũ lực đánh thành nên
cử người thân tín sang thành Phục Hòa thuyết phục nhà Mạc tự giải giáp, ông
để hoàng tộc nhà Mạc tìm nơi ẩn tích, tùy nghi di tản, hàng binh được đối xử
tử tế, cấp gạo cho về quê làm ăn.
Hiện nay, tại xã Tiên Thành
còn dấu tích ngôi đình là bản doanh của tướng Tả. Hai bên bờ sông Bằng còn có
nhiều địa danh là nơi đóng quân, đài quan sát, trạm gác của quân Đinh Văn Tả như
trạm Mủng Thiên, trạm Phiêng Lâu, Phiêng Cọn… Ở Phiêng Lâu còn có miếu thờ
công chúa Mạc Thị Tuyết Lan, nơi công chúa gặp tướng Tả.
Trong những năm đóng quân ở
Phục Hòa, Đinh Văn Tả khuyến khích quân sĩ, họ hàng lấy vợ người địa phương,
đến nay họ Đinh ở Phục Hòa nói riêng và Cao Bằng nói chung hầu hết đều có
nguồn gốc từ miền xuôi. Ngày nay, hằng năm Nhân dân thị trấn Hòa Thuận, huyện
Phục Hòa (nay là Quảng Hòa), lấy ngày 18/3 âm lịch là ngày hội để tưởng nhớ
công ơn của tướng Đinh Văn Tả đã quy phục nhà Mạc, Nhân dân được sống hòa
bình, yên ổn.
(Nguồn: Nguyễn Xuân Toàn, Vương Triều Mạc ở Cao Bằng một thời hưng
thịnh, Nxb Dân Trí, năm 2011)
|
25
|
Lê Thì Hải
|
Lê Thì Hải (? - 1716), người
xã Phú Hào, nay thuộc hai huyện Thọ Xuân và Thường Xuân, Thanh Hóa, là con
của Thái phó Lê Thì Hiến đã từng làm trấn thủ các đạo Thái Nguyên, Sơn Tây,
Kinh Bắc và giữ chức Thự phủ sự, thay làm Trấn thủ Cao Bằng. Sách sử chép rằng
“Đặng Công Chất trấn thủ Cao Bằng, bị nha lại và dân chúng tố cáo, phải triệu
về triều, triều đình cử Lê Thì Hải lên thay”.
Trước tình hình thực tế,
quyền lực của nhà Mạc đã chấm dứt, những những cơ sở xã hội nhà Mạc tạo dựng
trên vùng đất Cao Bằng hơn 80 năm vẫn còn rất vững chắc, chưa thể một lúc mà
triệt phá ngay được. Thêm vào đó, dư đảng nhà Mạc vẫn còn lẩn quất, quấy rối
trên địa bàn, dư đảng ở nhiều địa phương còn xúi giục nổi dậy cướp phá. Lê
Thì Hải đã có nhiều việc để chiêu dụ yên dân lưu tán trở về làm ăn, ông đã
xem xét kỹ tình hình tại các châu trong trấn và vùng ngoài biên, sau đó có
nhiều chủ trương để phủ dụ dân chúng, ổn định các vùng còn lộn xộn do dư đảng
nhà Mạc và bọn thổ phỉ gây ra.
Sách Đại Việt sử ký tục biên
còn ghi: “Mùa đông tháng 10 (1682), Đốc phủ Cao Bằng là Lê Thì Hải dụ được đồ
đảng của họ Mạc là Nguyễn Công Hồi đem hơn một ngàn bộ thuộc đến trấn đầu hàng.
Triều đình trao cho Hồi tước Hiệu quận công và thăng thưởng cho Hải chức Đề
đốc”
Đồng thời cùng với việc ổn
định xã hội, phát triển sản xuất, cũng trong năm 1682, Lê Thì Hải cho dâng sớ
xin triều đình sửa cung điện cũ của nhà Mạc làm thành đền thờ Vua Lê, được
triều đình nhà Lê ưng thuận y sớ cho làm. (nay là đền Vua Lê, xã Hoàng Tung,
huyện Hòa An. Năm 1995, đền vua Lê được xếp hạng là di tích cấp quốc gia.
Lê Thì Hải đã lấy áo bào và
thanh kiếm thờ vọng ở chỗ ngai vàng, hàng năm đầu xuân cho tổ chức lễ hội vào
ngày mùng 6 tháng Giêng.
Do có công lớn với triều đình
nên Lê Thì Hải được phong Thạc Quận công, được tặng Thái phó.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009)
|
26
|
Hoàng Triều Hoa
|
Hoàng Triều Hoa, Hoàng Triều
Ninh (sống vào thế kỉ XVII). Quê gốc trang Gia Miêu, huyện Tống Sơn, phủ Hà
Trung, trấn Thanh Hoa (Theo Gia phả họ Hoàng ở Cao Bằng, ông tổ của dòng họ
này là hai anh em Hoàng Triều Hoa, Hoàng Triều Ninh, là những tướng lĩnh cùng
Đinh Văn Tả đưa quân lên Cao Bằng)
Năm 1677, Tả Thị lang Hoàng
Triều Hoa, Hoàng Triều Ninh dẫn quân tiến đánh Cao Bằng. Sau khi Đinh Văn Tả
về Thăng Long, Hoàng Triều Hoa được cử làm Đốc trấn Cao Bằng, Hoàng Triều
Ninh làm tổng binh. Hoàng Triều Hoa được vua Lê phong Phúc Quốc công, cấp
Thái ấp vùng Phúc Tăng và giữ chức Trấn thủ (Tổng trấn) Cao Bằng, đóng dinh ở
Vương phủ Cao Bình; Hoàng Triều Ninh được được phong là Thắng Quốc công, cấp
đất thái ấp vùng Xuân Lĩnh cùng Vương phủ Cao Bình, giữ chức Thống lĩnh quân
cơ toàn trấn Cao Bằng, đóng ở thành Na Lữ.
Về sau, Hoàng Triều Hoa di
dời thủ phủ của trấn Cao Bằng về Mục Mã (nay là trung tâm thành phố Cao
Bằng). Ở Cao Bằng họ Đinh và họ Hoàng Triều là hai dòng họ lớn. Đó là hậu duệ
của Đinh Văn Tả và Hoàng Triều Hoa, Hoàng Triều Ninh.
Hai danh tướng được nhân dân
kính trọng tôn thờ, sau khi Hoàng Triều Hoa mất, nhà vua phong ông làm Thành hoàng.
Hiện nay, hai ông được thờ trong đền Phúc Tăng (thuộc Bản Nưa, Lam Sơn thượng,
xã Hồng Việt, huyện Hòa An)
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009; Báo Cao Bằng)
|
27
|
Hoàng Triều Ninh
|
28
|
Bế Hựu Cung
|
Bế Hựu Cung (sống vào khoảng
cuối thế kỷ XVIII, sang đầu thế kỷ XIX);
Quê quán: Làng Bắc Khê, châu
Thạch Lâm, tỉnh Cao Bằng.
Ông làm quan đến Hữu Thiêm đô
ngự sử, lĩnh chức Đốc trấn tỉnh Cao Bằng. Khi Tôn Sỹ Nghị bị Tây Sơn đánh
bại, Bế Hựu Cung đem cả nhà theo Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, bị nhà
Thanh đem an trí ở huyện Thượng Nguyên, tỉnh Giang Nam. Đầu đời Nguyễn trở về
nước, ông được dung nạp, đổi họ tên thành Nguyễn Hựu Cung. Ông là soạn giả
sách Cao Bằng thực lục ghi chép khá phong phú về các truyền thuyết, thần
tích, núi sông, phong tục ở Cao Bằng. Đặc biệt soạn giả ghi được nhiều chi
tiết về lịch sử và địa lý vùng này từ thời cổ đến năm 1802. Bế Hựu Cung là số
hiếm trong những nhà trí thức thuộc dân tộc ít người ở nước ta trước thế kỷ
XX, có công trình biên soạn. Tác phẩm Cao Bằng thực lục thuộc loại sách địa
phương chí có giá trị nhất định về tư liệu folklore và tư liệu dân tộc học.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia năm, Hà Nội,
2009)
|
29
|
Nông Văn Vân
|
Nông Văn Vân, nhân vật gắn
với cuộc khởi nghĩa ở Cao Bằng (1833 - 1835). Năm 1831 - Minh Mạng thứ 12 giữ
chức Tri châu Bảo Lạc. Bất mãn với chính sách cai trị của triều đình nhà Nguyễn,
đến năm 1833 chiêu quân dựng cờ khởi nghĩa (ông đã thu phục được rất nhiều
các thổ ty, thổ mục và Nhân dân đi theo, quân số đông đến 6000 người), tự xưng
“Tiết chế Thượng tướng quân”. Ông chỉ huy các thổ mục địa phương đánh đâu
thắng đấy, cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân đấu tranh chống chế độ thống trị
hà khắc của triều đình, diễn ra với quy mô và ảnh hưởng lớn “cuộc khởi nghĩa
Nông Văn Vân là cuộc đấu tranh rộng lớn, tiêu biểu của dân tộc thiểu số”.
(Nguồn: Lý lịch Di tích dinh thự dòng họ Nông, thị trấn Bảo Lạc, Bảo
tàng tỉnh)
|
30
|
Phạm Cần Chính
|
Phạm Cần Chính (? - ?), quê
huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Nhà Tây Sơn dấy nghĩa lập nhiều chiến công ổn
định đất Bắc Hà. Vua Quang Trung đặc ban cho ông họ Nguyễn và cử làm tổng
binh Cao Bằng, trấn giữ biên giới. Ông biết việc cai quản miền biên giới vốn dĩ
nhiều khó khăn, phức tạp từ xưa, nếu không có sự hợp lực của những người địa
phương sở tại thì càng khó khăn hơn. Chính vì vậy Phạm Cần Chính đã dành
nhiều thời gian đến với dân chúng và các tù trưởng ở địa phương, nên ông đã
thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với các vị tù trưởng và rất am hiểu địa
bàn, tình hình dân chúng ở Cao Bằng.
Dưới triều Tây Sơn, nhất là
thời kỳ Phạm Cần Chính làm việc ở Cao Bằng, việc giao lưu buôn bán dọc biên
giới Việt - Trung được khuyến khích phát triển. Nhờ những chính sách tích cực
mà quan hệ thông thương của hai nước vùng biên được khôi phục và phát triển. Người
dân địa phương đã quyên góp tiền để làm đường , xây cầu để tạo điều kiện cho
việc đi lại dễ dàng, thuận lợi. Sự hiện tồn của chiếc cầu ở thôn Cốc Khoác,
thị trấn Hùng Quốc, huyện Trà Lĩnh, cách đường biên giới Việt Trung 5km về
phía Tây Nam đã minh chứng cho điều đó. Tại đây còn một tấm bia Dao Quang
Củng Kiều, được lập sau khi hoàn thành việc trùng tu, sửa chữa, nội dung văn
bia cho biết sơ lược một vài nét về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội ở Cao
Bằng thời Tây Sơn.
Khi triều Tây Sơn sụp đổ
(1802), Phạm Cần Chính không tuẫn tiết như bao tướng lĩnh tận trung khác mà
ông bí mật lên Cao Bằng, vì sẵn có quan hệ mật thiết, ông đã liên kết với các
tù trưởng miền núi, tổ chức lực lượng chống lại nhà Nguyễn. Tổng trấn Bắc
thành tiễu trừ không xong, dụ hàng không được đành để cho toán nghĩa binh
trung thành với nhà Tây Sơn khi ẩn, khi hiện giữa núi rừng sâu thẳm.
Tương truyền khi Phạm Cần
Chính qua đời, các chiến hữu mai táng ông trên một ngọn đồi bên cạnh dòng
suối, hướng mặt về phía Nam. Họ khoác lên thi hài ông bộ võ phục triều Tây
Sơn, phủ lên quan tài ông lá cờ đào của nghĩa quân. Mọi người đều khen ông
thật sự là một tổng binh quân tử, trung nghĩa.
(Nguồn: Báo Cao Bằng)
|
31
|
Trần Duy Trân
|
Trần Duy Trân là vị tướng nhà
Nguyễn (vua Tự Đức), ông giữ chức Quảng cơ. Năm Đinh Mùi (1847), vua Tự Đức cử
Quản cơ Trần Duy Trân cùng với Suất đội Hoàng Hiền Lộc đem quân lên dẹp loạn
phỉ nước Thanh (Năm 1858 - 1861, nổi lên bọn phỉ nước Thanh, gọi là “Thái Bình
Thiên Quốc” do Chu Chí Văn cầm đầu đã tràn sang châu: Quảng Uyên, Thạch Lâm,
cướp bóc, gây nhiễu …).
Trần Duy Trân cho quân lính
bày binh, bố trận mai phục giặc và bất ngờ, bí mật tiến công gây cho chúng bị
tổn thất năngg nề và buộc phải rút về cố thủ (Địa điểm Ngườm Pục là nơi xảy
tra trận đánh ác liệt, giằng co giữa quân của Trần Duy Trân và bọn phỉ).
Năm Nhâm Tuất (1862), quân
phỉ lại tràn sang đánh chiếm, quấy nhiễu Cao Bằng. Do lực lượng được củng cố
mạnh hơn, đông hơn nên bọn thổ phỉ đã áp sát quân triều đình để tấn công.
Cũng trong trận này, khi Quản cơ Trần Duy Trân đang chỉ huy một đội quân
triều đình từ hướng Quảng Uyên để áp sát bao vây bọn phỉ bất ngờ bị chúng mai
phục và bắn chết tại mỏm núi Thum Khẻ (cách Ngườm Pục chừng 50 m), xã Cách
Linh (huyện Quảng Hòa nay).
Để tưởng nhớ công lao của
ông, Nhân dân đã lập đền thờ thờ phụng tại Ngườm Pục, xã Cách Linh, huyện
Quảng Hòa. Hằng năm, lễ hội đền Trần Duy Trân diễn ra vào ngày 19/3 âm lịch.
Năm 2010, đền thờ Trần Duy
Trân hay còn gọi là miếu Quan Chẻng, đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh.
(Nguồn: Báo Cao Bằng)
|
32
|
Nông Thị Vưu
|
Nông Thị Vưu là người có công
khai thông úng ngập vùng Trà Lĩnh (gồm xã Cao Chương, Quang Hán, thị trấn Trà
Lĩnh ngày nay) đem lại cuộc sống no đủ, yên bình cho người dân địa phương. Để
tưởng nhớ công ơn của bà, sau khi bà mất Nhân dân địa phương đã lập đền thờ và
được tôn làm thần nông.
Miếu Nà An được xếp hạng di
tích lịch sử cấp tỉnh năm 2007.
(Nguồn Lý lịch di tích Miếu Nà An, Bảo tàng tỉnh)
|
33
|
Nông Thống Lệnh
|
Nông Thống Lệnh là người có
sức khỏe phi thường và võ nghệ cao cường. Giặc phương Bắc sang đánh phá Trà
Lĩnh, Nông Thống Lệnh huy động trai tráng trong làng phục kích đánh giặc, giữ
yên bờ cõi đem lại cuộc sống yên bình cho Nhân dân địa phương. Ông được Nhân
dân tôn sùng là Đại tướng, sau khi Nông Thống Lệnh mất, Nhân dân trong vùng
đã lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn.
Đền thờ Nông Thống Lệnh được
xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2011.
(Nguồn Lý lịch di tích Đền thờ Nông Thống Lệnh - Bảo tàng tỉnh)
|
34
|
Hoàng A Cả
|
Cuối thế kỷ XIX, chế độ nhà
Nguyễn suy tàn, giặc giã, thổ phỉ nổi lên cướp bóc. Hoàng A Cả (ông nội của
đồng chí Hoàng Đình Giong), là thủ lĩnh địa phương tiêu biểu đã tập hợp Nhân
dân đánh tan giặc Cờ đen do tướng Ngô Côn cầm đầu, bảo vệ tài sản tính mạng
của Nhân dân. Khi thực dân Pháp đánh chiếm châu Nguyên Bình cuối năm 1886,
Hoàng A Cả đã tập hợp Nhân dân các dân tộc đánh trả quyết liệt, nhiều cuộc
giao tranh diễn ra chặn đánh cuộc tiến quân của địch, gây cho chúng nhiều
thiệt hại.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Nguyên Bình, Nxb Chính trị Quốc gia,
năm 2010)
|
35
|
Tôn Thất Thuyết
|
Tôn Thất Thuyết (1835 - 1913).
Quê quán: Xuân Long, thành
phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông là Thượng thư Bộ binh, là quan Phụ chính
đại thần Triều Nguyễn, là một trong những quan nhà Nguyễn chống Pháp tiêu
biểu nhất, mượn danh nghĩa của vị hoàng đế trẻ tuổi Hàm Nghi phát động phong
trào Cần Vương - phò vua giết giặc cứu nước.
Tháng 2/1886, Tôn Thất Thuyết
để hai người con trai của mình ở lại bảo vệ Hàm Nghi, còn mình cùng với Trần Xuân
Soạn tìm đường cầu viện. Tháng 10/1886 ông đến Cao Bằng, tại đây Tôn Thất
Thuyết chiêu nạp một số nhân vật bất mãn với sự bạc nhược của triều đình nhà
Nguyễn như: Lương Tuấn Tú, Nghiêm Xuân Phương vốn là quan lại của triều đình
đóng tại Cao Bằng kêu gọi các tầng lớp Nhân dân đánh đuổi ngoại xâm bảo vệ
quê hương đất nước.
Cùng những người thân tín,
Tôn Thất Thuyết hạ trại bao vây thành Cao Bằng, đang do viên Bố chính Phạm
Hài cai quản. Viên Bố chính này thường gửi tài liệu, cung cấp thông tin Cao
Bằng cho tên Phó công sứ quân sự Pháp ở Lạng Sơn để tạo điều kiện thuận lợi
cho quân Pháp. Nhờ sự ủng hộ bí mật của viên Án sát Cao Bằng Nghiêm Xuân
Phương, Tôn Thất Thuyết chiếm được thành Cao Bằng, nhưng không có ý định
chiếm giữ thành lâu dài. Sau khi thiết lập một căn cứ phòng thủ ở phía Bắc
thành Cao Bằng, ông rút về Mỏ Sắt, đem theo Bố chính Phạm Hài và tử hình y
tại Mỏ Sắt. Khi rút về Mỏ Sắt, Tôn Thất Thuyết mang theo cả ấn quan Bố chính
của Phạm Hài. Với chiếc ấn này ông đã làm nhiều giấy thông hành giả, dùng cho
nghĩa quân đi lại cũng như những giấy tờ ngoại giao giả, gây nhiều khó khăn
cho hành động của Pháp khi chúng đang cố gắng đàm phán với nhà Thanh về đường
biên giới Bắc kì - Trung Quốc và tìm cách hạn chế sự ẩn náu của quân khởi nghĩa
bên lãnh thổ Trung Quốc. Sau đó ông tiếp tục lên đường đi Vân Nam và đến
Quảng Đông vào tháng 2/1887. Việc cầu viện của Tôn Thất Thuyết bất thành nhưng
ông đã dựa vào tình cảm cá nhân của một số quan lại Mãn Thanh chống Pháp và
cùng các đồng sự của mình tổ chức liên lạc với các cuộc khởi nghĩa chống Pháp
trong nước, chuyển trâu, bò, lúa gạo từ Việt Nam sang Trung Quốc để đổi lấy
vũ khí về. Việc tiếp tế này duy trì mãi đến năm 1894 do biên giới Việt -
Trung bị đóng cửa. Từ đó phong trào đấu tranh chống Pháp ở Cao Bằng chuyển
sang một hình thức mới.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2009;
Nguyễn Q Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nxb Văn
hóa Thông tin, năm 2013)
|
36
|
Lương Tuấn Tú
|
Lương Tuấn Tú, người dân tộc
Nùng.
Quê quán:Xã Nghi Bố (Phù Đúng
- nay là xã Dân Chủ, huyện Hòa An).
Lương Tuấn Tú là hậu duệ thứ
8 của dòng họ Lương, thông minh, học giỏi, tư chất thông minh từ bé, diện mạo
khôi ngô, từ thiếu thời đã phát lộ ra tư thế đĩnh đạc người thủ lĩnh. Ông đỗ
cử nhân nhưng xuất thân từ một hào trưởng bá hộ diệt phỉ bảo vệ xóm làng,
Tuấn Tú được thử thách nâng dần lên làm Lãnh binh một tỉnh rồi thăng làm Tiễu
phủ sứ cai quản việc binh bốn tỉnh Tuyên Cao Thái Lạng. Nhưng nơi chính là
ông ở Cao Bằng.
Tháng 2/1886, Tôn Thất Thuyết
cho hai người con trai của mình ở lại bảo vệ Hàm Nghi, còn mình cùng với Trần
Xuân Soạn tìm đường cầu viện. Vượt qua Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa lên vùng Hòa
Bình và từ đó ven theo biên giới Việt Trung, ông tới vùng Cao Bằng vào tháng
10/1886. Tại Cao Bằng, Tôn Thất Thuyết chiêu nạp một số nhân vật vốn là những
quan lại của triều đình đóng tại Cao Bằng nhưng bất mãn với sự bạc nhược của
triều đình như Lương Tuấn Tú, Nghiêm Xuân Phương. Ông đã bí mật cho dán cáo
thị trên tường thành Cao Bằng, kêu gọi các tầng lớp Nhân dân đứng lên đánh
đuổi ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước.
Khi thực dân Pháp xâm lược Cao
Bằng (1886), Nhân dân các dân tộc Hòa An dưới sự lãnh đạo của Lãnh binh Lương
Tuấn Tú đã cùng một số hào trưởng địa phương đứng lên chống giặc, xây dựng căn
cứ, liên tục tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Đồn Mỏ Sắt bị
nhóm quân của ông tấn công chỉ sau vài ngày được xây dựng. Địch phải cho quân
cứu viện tới mới đẩy lùi đội quân của Lương Tuấn Tú.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009;
Lịch sử Đảng bộ huyện Hòa An. Nxb Chính trị Quốc gia, 2015).
|
37
|
Triệu Phúc Sinh
|
Triệu Phúc Sinh; quê ở Đào
Ngạn, đã tổ chức Nhân dân các dân tộc vùng Hà Quảng, Trà Lĩnh, Hoà An nổi dậy
chống Pháp năm 1886.
Nghĩa quân của Triệu Phúc
Sinh xây dựng căn cứ ở vùng Tổng Cọt, Lục Khu, Hà Quảng, liên tục tổ chức các
trận phục kích, tập kích bao vây đồn bốt của thực dân Pháp. Năm 1888, lực
lượng nghĩa quân của Triệu Phúc Sinh và các huyện miền Đông đã kéo xuống
chiếm vùng Án Lại, Canh Biện (Hòa An) và đào hào, đắp lũy, dựng đồn bốt tạo
thành một căn cứ vững chắc.
(Nguồn: Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009).
|
38
|
Đặng Văn Cáp
|
Đặng Văn Cáp (1894 - 1984),
còn có tên là Đặng Văn Linh.
Quê quán: Thượng Lộc, Can
Lộc, Hà Tĩnh. Cha ông là Đặng Văn Hữu từng tham gia phong trào Cần Vương
chống Pháp và đã đưa cụ Phan Đình Phùng về nhà mình chữa bệnh.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Năm 23 tuổi, Đặng Văn Cáp rời
Hà Tĩnh tích cực tham gia vận động phong trào thanh niên chống áp bức. Khi bị
lộ, ông sang nước Xiêm (nay là Thái Lan).
Năm 1926, Đặng Văn Cáp được
những nhà cách mạng tiền bối như các ông Đặng Thúc Hứa và Lê Đạt (cha Lý Tự
Trọng) dìu dắt, rồi ông được đứng vào tổ chức Thanh niên Việt kiều yêu nước,
tham gia thành lập Hội Thân ái.
Mùa thu năm 1928, Đặng Văn
Cáp được gặp ông Thầu Chín, chính là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Từ cuộc gặp lịch
sử ấy, ông được hoạt động cùng Người một thời gian trên đất Xiêm.
Tháng 3/1930, Đặng Văn Cáp
được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc công nhận là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1934, Đặng Văn Cáp bị bắt
và đến tháng 6/1935, ông bị trục xuất sang Trung Quốc. Tại Trung Quốc, Đặng
Văn Cáp tiếp tục hoạt động trong phong trào yêu nước.
Tháng 5/1940, Đặng Văn Cáp
gặp lại đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Người giao cho Đặng Văn Cáp làm liên lạc
giữa các đồng chí Đảng ta với các đồng chí Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Cuối năm 1940, Đặng Văn Cáp
và các đồng chí Phạm Văn Đồng, Phùng Chí Kiên, cùng một số đồng chí khác theo
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc rời Quế Lâm tìm đường về nước.
Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc 05 đồng chí vượt cột mốc 108 về đến Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng
(trong đoàn có Đặng Văn Cáp)
Từ tháng 5/1941, ông tham gia
huấn luyện nhiều lớp quân sự, tự vệ cho một số xã vùng Hòa An, Cao Bằng.
Đến tháng 3/1944, Đặng Văn
Cáp phụ trách xây dựng “Lò chế tạo vũ khí” tại vùng Lũng Hoàng, Hòa An, Cao
Bằng. Xưởng vũ khí này chuyên sửa chữa súng và chế tạo lựu đạn, địa lôi.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám
thành công, Đặng Văn Cáp nhận lệnh về Hà Nội làm thư ký biên dịch tiếng Trung
chuyên lo giao dịch với quân Tưởng.
Sau Hiệp định sơ bộ tháng
9/1946, ông được lệnh về Cao Bằng mở rộng công binh xưởng để chuẩn bị kháng
chiến.
Sau chiến dịch Cao Bắc Lạng
năm 1949, Đặng Văn Cáp được cử sang Trung Quốc làm Biện sự sứ ở Quảng Tây.
Tháng 10/1951, ông được giao
phụ trách Trường Thiếu sinh quân Việt Nam tại Quế Lâm.
Năm 1957, ông về nước và làm
việc tại Cao Bằng.
Năm 1960, Đặng Văn Cáp chuyển
sang công tác trong lĩnh vực y học cổ truyền, làm Phó chủ tịch rồi Chủ tịch
Hội Y học cổ truyền Việt Nam.
Hơn nửa thế kỷ hoạt động cách
mạng, ông đã từng là đại biểu Quốc hội khóa II, khóa III, Ủy viên Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huân
chương Kháng chiến hạng Nhất.
(Nguồn: Đặng Văn Cáp, Con đường dẫn tôi đến với Bác, trích từ cuốn
“Bác Hồ về nước”, Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng, Cao Bằng, 1986;
Đặng Văn Cáp, Có Bác dẫn đường, trích từ cuốn “Đường ta sáng mãi”, Nxb Lao
Động, Hà Nội, năm 1974)
|
39
|
Hoàng Đức Hậu
|
Hoàng Đức Hậu (1890-1945)
được gọi là thầy đồ Hậu.
Quê quán: Xã Phúc Tăng, tổng Nhượng
Bạn, châu Thạch Lâm (nay thuộc thôn Lam Sơn, xã Hồng Việt, huyện Hòa An).
Ông làm nghề dạy chữ Nho là
chính. Tuy nhiên đã từng trải qua nhiều nghề: Làm ruộng, đi buôn, tiếp xúc
nhiều tầng lớp xã hội, nên có đầu óc thực tế, am hiểu thế thái nhân tình.
Thơ ông viết theo thể Đường
luật, song sử dụng hình tượng, ngôn ngữ linh hoạt sáng tạo. Ngôn ngữ Tày được
ông vận dụng xuất sắc, ông rất ý thức ngôn từ được vận dụng phải quý, chọn
lọc, một từ có thể hiểu được nhiều nghĩa mà không dung tục tầm thường. Những
từ ngữ thông thường vào thơ ông trở thành đặc biệt, được người Tày, Nùng tôn sùng
là nghệ sĩ tài ba về sử dụng ngôn từ. Ông được xếp vào hàng các nhà thơ có
tên tuổi của đất nước. Tác phẩm của ông rải rác nhiều địa phương, nay sưu tầm
được trên 150 bài, đã xuất bản, tái bản nhiều lần.
(Nguồn: Địa chí Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2000)
|
40
|
Phù Nhị
|
Phù Nhị, người dân tộc Dao
(Nguyên Bình) đã tập hợp một số người Dao yêu nước tập kích đánh Pháp ở thị
trấn Nguyên Bình (1905) - Thể hiện tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm
của bà con dân tộc thiểu số.
(Nguồn: Bộ Tư lệnh bộ đội biên phòng, bộ chỉ huy bộ đội biên phòng
Cao Bằng; Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2009).
|
41
|
Pa Deng
|
Pa Deng là nữ thanh niên
người Mông ở Thông Nông (Hà Quảng) đã tổ chức được một số người Mông yêu nước
chống Pháp, tiêu biểu là trận phục kích đánh Pháp ở đèo Mã Quỷnh (đường đi
Thông Nông) gây cho thực dân Pháp nhiều thiệt hại - Thể hiện tinh thần yêu
nước chống giặc ngoại xâm của bà con dân tộc thiểu số.
(Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cao Bằng, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao
Bằng tập 1 (1930 - 1945).
|
42
|
Lê Liêm
|
Lê Liêm: Tên khai sinh là
Trịnh Đình Huấn.
Quê quán: Làng Tía, xã Tử
Dương, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông cũ (nay thuộc thành phố Hà Nội).
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Trong phong trào đấu tranh
của Mặt trận Bình dân 1936 - 1939, Lê Liêm là một trong những đoàn viên Đoàn
thanh niên Dân chủ hoạt động hăng hái.
Đầu năm 1940, đi thoát ly
hoạt động chuyên nghiệp cho Đảng, ông được chỉ định tham gia Ban lãnh đạo
Đảng bộ thành phố Hải. Ban lãnh đạo Đảng bộ thành phố Hải Phòng đều bị địch
bị bắt, Lê Liêm bị lĩnh án tù Sơn La.
Sau khi ra khỏi nhà tù Sơn
La, ông tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng, chuẩn bị giành chính quyền
trong Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông tham gia tổng
khởi nghĩa giành chính quyền ở Bần - Yên Nhân (Hưng Yên).
Sau Cách mạng Tháng Tám, Lê
Liêm được cử làm Bí thư Khu ủy khu II gồm các tỉnh Hà Nội, Hà Đông và Sơn
Tây, sau đó được cử làm Bí thư Liên khu ủy khu I kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng
chiến Liên khu thay cho đồng chí Bùi Quang Tạo.
Cuộc kháng chiến chống Pháp
nổ ra, ông lên hoạt động tại chiến khu, làm Chính trị ủy viên trong Ủy ban
Kháng chiến Khu 1.
Năm 1947, ông được cử giữ
chức Phó phòng Dân quân (Cục phó Cục Dân quân) thuộc Bộ Tổng chỉ huy.
Năm 1948, ông được bổ nhiệm
Cục trưởng Cục Dân quân.
Năm 1949, ông được kiêm thêm
chức Cục trưởng Cục Chính trị, tiền thân của Tổng cục Chính trị.
Năm 1950, ông được cử làm Cục
trưởng Cục Tuyên huấn, sau đó là Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cho đến năm
1958.
Trong Chiến dịch Biên giới
năm 1950, ông được giao trọng trách là Chủ nhiệm chính trị mặt trận, tiếp sau
đó là Chủ nhiệm chính trị 2 mặt trận: Chiến dịch Tây Bắc 1952, Chiến dịch
Điện Biên Phủ 1954, đồng thời ông còn là Chủ nhiệm báo (Tổng biên tập) đầu
tiên của Báo Quân đội nhân dân trong thời kỳ 1950-1953.
Năm 1958, ông được bổ nhiệm
làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa.
Năm 1964, ông là Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Văn giáo thuộc Phủ Thủ tướng.
Năm 1965-1973, ông giữ chức
Thứ trưởng Bộ Giáo dục. Tại Đại hội lần thứ 3 của Đảng, ông được bầu vào Ủy
viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
(Nguồn: Kiều Mai Sơn, Lê Liêm, vị tướng có tầm nhìn văn hóa, Báo
Nông nghiệp Việt Nam - nongnghiep.vn ngày 30/3/2019)
|
43
|
Lý Tự Trọng
|
Anh hùng Lý Tự Trọng (1914 - 1931),
tên thật là Lê Hữu Trọng.
Quê quán: Làng Việt Xuyên,
huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông là con trai cụ Lê Khoan
(tức Lê Hữu Đạt) và cụ Nguyễn Thị Sờm, do không chịu nổi cảnh áp bức, bóc lột
của thực dân phong kiến, cụ Khoan đã cùng bà con rời quê hương sang Thái Lan
sinh sống và tham gia hoạt động yêu nước. Gia đình Lê Hữu Trọng là một trong
những cơ sở cách mạng, đây là nơi bồi dưỡng cán bộ và là trường quốc ngữ của
Hội Việt kiều. Lớn lên, Lê Hữu Trọng được gia đình cho đi học tại ngôi trường
trong Trại Cày do cụ Đặng Thúc Hứa - một sỹ phu yêu nước tổ chức dạy văn hóa.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Đầu mùa hè năm 1926, thực
hiện ý kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Hồ Tùng Mậu - thành viên
của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đến Thái Lan gặp cụ Đặng Thúc Hứa,
truyền đạt yêu cầu của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về việc chọn một số con em gia
đình Việt kiều yêu nước đưa sang Quảng Châu đào tạo lâu dài để chuẩn bị xây
dựng tổ chức Thanh niên Cộng sản ở Việt Nam. Lê Hữu Trọng là một trong số các
thiếu niên được lựa chọn. Đến Quảng Châu, nhóm thiếu niên này được gặp Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc (lúc này mang tên Lý Thụy). Để đảm bảo bí mật, các thiếu
niên đều mang họ Lý coi như người trong một gia tộc, do đó Lê Hữu Trọng đổi
tên Lý Tự Trọng.
Năm 1929, các tổ chức cộng
sản ở Việt Nam lần lượt ra đời, Lý Tự Trọng được cử về nước hoạt động tại Sài
Gòn - Chợ Lớn đảm nhận nhiệm vụ liên lạc trong và ngoài nước cho Xứ ủy Nam Kỳ
và Trung ương Đảng. Đồng thời được giao nhiệm vụ đặc biệt: vận động tập hợp
thanh niên trong các nhà máy, trường học để thành lập Đoàn Thanh niên Cộng
sản trong nước.
Ngày 08/02/1931, lợi dụng lúc
bà con đi xem bóng đá ở sân vận động Sài Gòn, các chiến sỹ cách mạng tổ chức
một cuộc mít tinh chớp nhoáng, kêu gọi quần chúng đánh đổ thực dân Pháp. Giữa
lúc ấy tên thanh tra mật thám Pháp Le Grand và bọn cảnh sát đi cùng ập tới.
Không còn cách nào khác để cứu đồng chí mình, Lý Tự Trọng đã rút súng bắn
chết tên thanh tra mật thám cứu thoát đồng chí diễn thuyết. Bị vây hãm ráo
riết, Lý Tự Trọng đã bị bắt. Giam cầm, tra tấn ở khám lớn Sài Gòn một thời
gian không thu được kết quả, bọn chúng đưa anh về xử án, chính quyền thực dân
Pháp ở Đông Dương đã mở một phiên tòa đại hình để xử một chiến sĩ cộng sản
Việt Nam chưa đầy 18 tuổi.
Lý Tự Trọng đã bị kết án tử
hình. Đứng trước cái chết, Lý Tự Trọng không hề run sợ, anh chủ động biến
phiên tòa của đế quốc thành một diễn đàn của người chiến sĩ cộng sản. Ý chí
và hành động của anh là minh chứng hùng hồn về bản lĩnh kiên cường, lòng
trung thành, tinh thần bất khuất của người cộng sản, đồng thời là bức thông
điệp báo trước sự sụp đổ của thực dân phong kiến và sự tất thắng của cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đêm, rạng sáng ngày
21/11/1931 chúng đã hèn hạ dựng máy chém ở ngay khám lớn Sài Gòn hòng giết
anh trong im lặng, nhưng tấm gương đấu tranh kiên cường, anh dũng và những
tiếng hô của anh: “Đả đảo thực dân Pháp”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn
năm”, “Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm” đã cổ vũ mạnh mẽ, tạo một làn
sóng phản đối tội ác của thực dân Pháp; tinh thần cách mạng bất khuất của anh
đã làm cho kẻ thù khiếp sợ và đã động viên, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách
mạng trong cả nước lúc bấy giờ - là tấm gương sáng cho các thế hệ thanh niên
noi theo; là tượng đài bất diệt về ý chí kiên cường và lòng yêu nước nồng nàn.
(Nguồn: Tỉnh đoàn Quảng Bình - tinhdoan.quangbinh.gov.vn)
|
44
|
Đặng Văn Việt
|
Đặng Văn Việt (1920 - 2021).
Quê quán: Làng Nho Lâm, xã
Diễn Thọ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Năm 1945, ông khởi nghĩa cướp
chính quyền tại thành phố Huế. Đặng Văn Việt đã tham gia quân đội và trở thành
một trong những chỉ huy khi còn rất trẻ, làm Phân đội trưởng phân đội gồm 36
người của Giải phóng quân, trấn giữ tại cửa Thuận An.
Sau khi quân Pháp chiếm Huế,
Đặng Văn Việt được giao trọng trách làm Chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 9
(Hạ Lào, 1945), rồi Chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 7 (Thượng Lào, 1946).
Năm 1946, Đặng Văn Việt được
cấp trên điều ra Bắc công tác ở trường Quân sự Trần Quốc Tuấn, rồi về Ban
Nghiên cứu trực thuộc Bộ Tổng tham mưu, phái viên Mặt trận đường số 4, trung
đoàn trưởng Trung đoàn 128. Chính nơi đây, bằng sự mưu trí dũng cảm, Đặng Văn
Việt đã chỉ huy đơn vị hoạt động dọc tuyến đường số 4, tổ chức nhiều trận
phục kích và công đồn, gây rất nhiều khó khăn cho lực lượng quân Pháp, góp
phần phá tan âm mưu kế hoạch của chúng đánh chiếm chiến khu Việt Bắc. Do
những chiến tích lẫy lừng trên đường số 4, đặc biệt với các trận phục kích
trên đèo Bông Lau từ năm 1947 đến 1949, tiêu diệt hơn 100 xe giới quân sự
Pháp, Nhân dân vùng Cao - Bắc - Lạng xưng tụng ông là "Đệ tứ lộ Đại
vương", còn các binh sĩ Pháp gọi ông với nhiều biệt danh khác nhau như
"Hùm xám đường số 4" (le Tigre gris de la RC4), hoặc "Tiểu
tướng Napoléon" (mon petit Napoléon)...
Ngày 19/8/1949 , khi Trung
đoàn 174, một trong những Trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội ta được
được thành lập, trên cơ sở hợp nhất lực lượng của 3 trung đoàn thuộc 3 tỉnh:
Trung đoàn 74 (Cao Bằng), Trung đoàn 72 (Bắc Cạn), Trung đoàn 28 (Lạng Sơn).
Đặng Văn là Trung đoàn trưởng đầu tiên và đồng chí Chu Huy Mân làm chính ủy
đầu tiên.
Ngày 16/9/1950, Đặng Văn Việt
đã chỉ huy đơn vị, phối hợp với Trung đoàn 209, chủ động đánh chiếm cứ điểm
Đông Khê, mở đầu Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, sau đó bao vây cô lập
Cao Bằng, uy hiếp cứ điểm Thất Khê và phá thế trận phòng thủ của quân Pháp
trên đường số 4.
Sau chiến dịch Biên giới,
Đặng Văn Việt còn tiếp tục chỉ huy Trung đoàn tham gia nhiều chiến dịch lớn
khác như chiến dịch Tây Bắc (1952), chiến dịch Hòa Bình, phá hủy căn cứ đồng
bằng Bắc bộ của quân Pháp (1952)...
(Nguồn: Những trận đánh của tôi huyền thoại của thời mới. Nxb Hà
Nội, năm 2009; Đường số 4 Rực lửa. Nxb Thanh Niên)
|
45
|
Hoàng Văn Lộc
|
Hoàng Văn Lộc (1900 - 1948),
tên thật là Nguyễn Văn Ty.
Quê quán: Xã Lương Ninh,
huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Đồng chí Lộc vốn là một Việt
kiều Xiêm. Năm 1928, khi Bác Hồ đến Xiêm, đồng chí Lộc đã được chọn đi cùng
Bác khắp 16 tỉnh Đông Bắc Xiêm nhằm tuyên truyền cách mạng cho kiều bào yêu
nước.
Đến năm 1929, Bác trở về
Trung Quốc hoạt động cách mạng, từ đây đồng chí Hoàng Văn Lộc theo Bác tiếp
tục con đường hoạt động cách mạng.
Cuối tháng 5/1940, đồng chí
Hoàng Văn Lộc và đồng chí Đặng Văn Cáp tới Côn Minh, Vân Nam, Trung Quốc gặp
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh phái Bùi Thanh Bình và
Hoàng Văn Lộc về Hà Khẩu thăm dò đường sá để về nước bằng đường Côn Minh -
Lào Cai.
Cuối tháng 6/1940, đường giao
thông Côn Minh - Lào Cai bị tắc, kế hoạch về nước bằng đường Lào Cai phải hủy
bỏ. Đồng chí Hoàng Văn Lộc được gọi trở về Côn Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết
định chọn đường về nước qua Cao Bằng.
Ngày 28/1/1941 đoàn cán bộ
cùng Bác Hồ vượt qua cột mốc 108 biên giới Việt - Trung về Cao Bằng. Cùng đến
Cốc Bó với Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có 5 đồng chí: Lê Quảng Ba, Phùng Chí
Kiên, Thế An, Đặng Văn Cáp và Hoàng Văn Lộc.
Những ngày hoạt động ở Pác Bó
cuộc sống vô cùng gian khổ và thiếu thốn. Đồng chí Lộc được giao nhiệm vụ nấu
ăn cho Bác cả cơ quan.
Cách mạng Tháng Tám 1945
thành công, đồng chí Lộc cùng với một số đồng chí khác được Bác Hồ cử ở lại
Việt Bắc tiếp tục xây dựng “hậu phương lưu trú”.
Tháng 5/1947, Bác Hồ trở lại
Tân Trào, bắt đầu cuộc kháng chiến trường kỳ. Đồng chí Lộc đang làm việc tại
công binh xưởng, được gọi trở về cơ quan Phủ Chủ tịch để làm nhiệm vụ cấp
dưỡng, nấu ăn cho Bác. Để biểu thị quyết tâm trong cuộc kháng chiến, cũng là
để nhắc nhở các cán bộ chiến sĩ đồng lòng quyết tâm, Bác Hồ đã đặt tên cho
các chiến sĩ, cán bộ phục vụ xung quanh Người theo khẩu hiệu: Trường, Kỳ,
Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi và Đồng, Tâm, Kiên, Quyết, Trung, Dũng,
Cần, Kiệm, Liêm… Đồng chí Lộc được mang tên là Đồng.
Năm 1948, do bị một cơn sốt
rét ác tính, đồng chí Lộc qua đời tại xã Phú Đình, Định Hoá, Thái Nguyên.
(Nguồn: Lý lịch các đồng chí về nước cùng Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc,
BQL các di tích Quốc gia đặc biệt tỉnh Cao Bằng)
|
46
|
Trần Cừ
|
Trần Cừ (1920 - 1950), người
dân tộc Kinh.
Quê quán: Xã Đức Bắc, huyện
Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, nhập ngũ ngày 19/8/1945, đảng viên Đảng Cộng sản
Việt
Nam.
Trong chiến dịch Biên giới,
trận Đông Khê (17/9/1950), trên cương vị là Đại đội trưởng chủ công của Trung
đoàn. Đồng chí đã chỉ huy đơn vị chiến đấu rất dũng cảm, đánh chiếm gần hết căn
cứ. Địch còn lại 100 tên, chúng dồn vào một hầm cố thủ, chống trả quyết liệt.Trời
đã rạng sáng, Trần Cừ nghĩ nếu để trận đánh kéo dài, địch sẽ dùng phi pháo và
viện binh phản kích chiếm lại đồn, đơn vị sẽ bị thương vong nhiều hơn và
không hoàn thành nhiệm vụ, ảnh hưởng tới toàn bộ chiến dịch, nén chịu vết
thương đau, nhảy lên hô lớn rồi lao tới sát lô cốt ném quả thủ pháo cuối cùng
còn lại vào lỗ châu mai và dùng cả thân mình bịt kín hỏa điểm địch, tạo thuận
lợi cho đồng đội tiến lên, đánh sập hầm ngầm và diệt toàn bộ địch.
Với thành tích chiến đấu xuất
sắc, Trần Cừ đã được tặng thưởng 01 Huân chương Quân công Hạng Ba; 01 Huân
chương Kháng chiến Hạng Nhất; 01 Huân chương Chiến công Hạng nhất.
Ngày 31/8/1955, Trần Cừ được
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công Hạng
Nhì và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
(Nguồn: trianlietsy.vn)
|
4.4.
|
Anh hùng Lực lượng vũ
trang Nhân dân, Anh hùng Lao động (con em các dân tộc Cao Bằng), Mẹ Việt Nam
anh hùng: 22 tên
|
1
|
Kim Đồng
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Kim Đồng (1928 - 1943), tên
thật là Nông Văn Dền người dân tộc Nùng.
Quê quán: Làng Nà Mạ, xã
Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Khi hy sinh, Kim Đồng là đội trưởng
Đội Nhi đồng Cứu quốc (Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh ngày nay). Sinh
ra và lớn lên trong chiếc nôi của chiến khu cách mạng, khi còn nhỏ Kim Đồng
đã sớm được cán bộ Việt Minh giáo dục, giác ngộ. Anh đã vận động các bạn cùng
lứa tuổi trong bản làm nhiệm vụ liên lạc, chuyển công văn, tài liệu, đưa đón
cán bộ, trinh sát nắm tình hình địch để cung cấp cho cán bộ. Tháng 5/1941,
Trung ương Đảng quyết định thành lập Đội Nhi đồng Cứu quốc. Kim Đồng là một
trong số năm đội viên đầu tiên và được bầu làm đội trưởng Đội Nhi đồng Cứu
quốc. Được rèn luyện thử thách, Kim Đồng luôn thể hiện trí thông minh, lòng
dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Rạng sáng ngày 15/2/1943, Kim
Đồng được giao nhiệm vụ canh gác, bảo vệ cuộc họp bí mật của Trung ương Đảng.
Địch phát hiện và cho một lực lượng khá lớn bao vây hòng bắt sống các đồng
chí lãnh đạo của Đảng. Trước tình thế nguy hiểm, Kim Đồng đã mưu trí đánh lạc
hướng, lừa địch tập trung lực lượng và hoả lực về phía mình, đồng thời phát tín
hiệu cho các đồng chí cán bộ rút lui an toàn. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh
khi anh vừa tròn 15 tuổi, anh đã nêu tấm gương sáng chói cho các thế hệ thanh,
thiếu niên và mọi người Việt Nam noi theo. Ngày 23/9/1997, Nông Văn Dền (tức
Kim Đồng) được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân
dân.
(Nguồn: Lịch sử Đội TNTP Hồ Chí Minh và phong trào thiếu nhi Việt
Nam. Nxb Thanh niên, năm 2006)
|
2
|
Lộc Văn Trọng
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Lộc Văn Trọng (1905 - 1979),
người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Chí Thảo, huyện
Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ năm 1950. Khi được
tuyên dương Anh hùng (1955) là Trung đội phó lái xe Cục vận tải. Đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam. Thượng úy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn ô tô vận tải
Tổng cục hậu cần. Năm 1950, tuy đã 45 tuổi vẫn xung phong lái xe để phục vụ
cho 5 chiến dịch lớn, gần 3 năm trong những điều kiện phục vụ chiến dịch hết
sức khó khăn, chiếc xe do đồng chí lái đã chạy hơn 3 vạn km, an toàn đưa được
hàng ngàn tấn vũ khí, lương thực tới chiến trường kịp thời phục vụ đơn vị chiến
đấu, xứng đáng vị trí lá cờ đầu của toàn đơn vị. Đồng chí được tặng thưởng
Huân chương Quân công hạng Ba và Huân chương Chiến công hạng Nhất.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
3
|
Bế Văn Đàn
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Bế Văn Đàn (1931 - 1954),
người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Quang Vinh, (nay
là xã Bế Văn Đàn) huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Tháng 1/1948, anh vào bộ đội,
công tác tích cực, bền bỉ, chiến đấu dũng cảm. Đồng chí tham gia hầu hết các
chiến dịch lớn trong kháng chiến chống Pháp. Khi hy sinh, đồng chí biên chế
thuộc đại đội 674, tiểu đoàn 251, Đại đoàn 316. Trong chiến dịch Đông Xuân
1953 - 1954, đồng chí tham gia trận đánh bao vây, quân địch rút chạy từ Lai
Châu về Điện Biên Phủ ở vùng Mường Pồn, lúc đó anh làm liên lạc tiểu đoàn.
Địch phản kích lần thứ ba, chúng điên cuồng mở đường tiến, đơn vị thương vong
nhiều, chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương. Một khẩu trung
liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của đồng
đội Chu Văn Pù cũng chưa bắn được vì không có chỗ đặt súng, tình thế hết sức
khẩn trương, không ngần ngại Bế Văn Đàn chạy lại cầm hai chân khẩu trung liên
đặt lên vai mình và hô bạn bắn. Đồng chí Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn đã nói:
“kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi”. Đồng chí
nghiến răng nổ súng vào đội hình quân địch tiêu diệt hàng chục tên, địch
hoảng hốt bỏ chạy, đợt phản kích của chúng bị bẻ gẫy. Trong lúc lấy thân mình
làm giá súng, Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và đã anh dũng hy sinh, hai
tay vẫn còn ghì chặt súng trên vai mình. Tấm gương dũng cảm của Bế Văn Đàn đã
cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận hăng hái thi đua giết giặc lập
công, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
Khi hy sinh Bế Văn Đàn là
tiểu đội phó, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tấm gương chiến đấu dũng cảm,
hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao của Bế Văn Đàn đã trở thành niềm
tự hào của các thế hệ thanh niên Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến của dân
tộc. Trong đại hội mừng công của đơn vị, đồng chí Bế Văn Đàn được truy tặng
Huân chương Chiến công hạng Nhất và được bình bầu là Chiến sĩ thi đua số một
của tiểu đoàn. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 31/8/1955 đồng
chí được Quốc hội truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân và
Huân chương Quân công hạng Nhì.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
4
|
Lý Viết Mưu
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Lý Viết Mưu (Lý Văn Mưu)
(1934 - 1950), người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Độc Lập, huyện
Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ tháng 3/1950, khi hy
sinh là chiến sĩ bộ binh thuộc Đại đội 675, Tiểu đoàn 251, Trung đoàn 174,
Đại đoàn 316. Chỉ mới 13 tuổi, đồng chí đã tham gia công tác thiếu niên ở địa
phương phục vụ kháng chiến. Đồng chí hy sinh trong trận đánh tại đồn Đông Khê,
khi xung phong ôm bộc phá đánh lô cốt địch, đã mấy lần gục xuống do bị địch
bắn nhưng đồng chí vẫn cố gắng trườn lên đưa bằng được bộc phá vào lỗ châu mai,
ngăn chặn hỏa lực từ lô cốt địch, mở đường cho bộ đội xung phong diệt đồn.
Ngày 7/5/1955, đồng chí đã được Quốc hội truy tặng Huân chương Quân công hạng
Nhì và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
5
|
Phùng Văn Khầu
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Phùng Văn Khầu (1930 - 2021),
người dân tộc Nùng.
Quê quán: Xã Đức Hồng, huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng,
Năm 1955, khi được tuyên
dương Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân ông là Trung đội trưởng pháo binh
thuộc Đại đội 351, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; nguyên là Đại tá Phó chủ
nhiệm chính trị Trường Sỹ quan Pháo binh đã nghỉ hưu. Đồng chí tham gia 7
chiến dịch lớn, đánh hàng chục trận, chiến dịch nào đồng chí cũng dũng cảm
mưu trí linh hoạt, vận động giỏi, chuyển đạn nhanh hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ, đặc biệt là trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đồng chí đã được tặng Huân
chương Quân kỳ quyết thắng, ba Huân chương Chiến công, Huân chương Kháng
chiến hạng Nhất, ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang và nhiều danh hiệu thi đua
cao quý khác.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
6
|
La Văn Cầu
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
La Văn Cầu Sinh năm 1932,
người dân tộc Tày (hiện nay ông sống cùng gia đình tại Hà Nội).
Quê quán: Xã Đình Phong,
huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Năm 1952, khi được tuyên
dương Anh hùng là Tiểu đội trưởng thuộc Đại đội 671, Tiểu đoàn 73, Đại đoàn
316. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; là Đại tá chuyên viên tại Viện bảo
tàng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Năm 1948, đồng chí La Văn Cầu
mới 16 tuổi đã khai tăng lên 18 tuổi để vào bộ đội. Đồng chí đã chiến đấu 29 trận,
trận nào cũng nêu cao tinh thần gương mẫu, mưu trí dũng cảm, vượt qua mọi khó
khăn gian khổ chấp hành nghiêm mệnh lệnh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao. Anh hùng trong chiến dịch Biên giới năm 1950, tại trận đánh cứ điểm
Đông Khê trong lúc chiến đấu bị trúng đạn không chút do dự đã nhờ đồng đội
chặt cánh tay bị đạn bắn nát, tiếp tục dùng tay còn lại ôm bộc phá xông lên
tiêu diệt đồn địch. Tấm gương của đồng chí đã cổ vũ phong trào thi đua giết
giặc lập công trong đơn vị, là lá cờ đầu trong phong trào sử dụng bộc phá
công đồn, một hình thức chiến thuật mới của bộ đội chủ lực từ chiến dịch biên
giới. Đồng chí được tặng thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Huân chương
Quyết thắng hạng Ba và 03 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (Nhất; Nhì; Ba).
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
7
|
Triệu Văn Báo
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Triệu Văn Báo (1932 - 1994),
người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Chí Viễn, huyện
Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ tháng 01/1950. Khi
được tuyên dương Anh hùng là Đại đội phó Thông tin thuộc Sư đoàn 316. Đảng
viên Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên là Đại tá Phó Hiệu trưởng Trường Quân
chính Quân khu I.
Tham gia cách mạng từ năm 16
tuổi, làm liên lạc cho Ủy ban xã, đảm bảo công tác văn thư. Năm 1948, là công
an của tỉnh, cùng với dân quân thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến” phá cầu, cắt
dây điện thoại gây khó khăn cho địch. Năm 1950, đồng chí vào bộ đội, là chiến
sĩ thông tin, luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, quyết tâm vượt mọi
khó khăn, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, nêu tấm gương tiêu biểu cho
toàn đơn vị học tập. Đồng chí đã được tặng thưởng hai Huân chương Chiến công
(hạng Nhất và hạng Nhì), Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Kháng
chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Quân kỳ quyết thắng, ba Huân chương
Chiến sĩ vẻ vang (hạng Nhất, Nhì, Ba), là Chiến sĩ thi đua tiêu biểu của
Trung đoàn, Đại đoàn.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
8
|
Hoàng Văn Nô
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Anh hùng, (Liệt sĩ) Hoàng Văn
Nô (1932 - 1954), người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Ngọc Khê, huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Ông là chiến sĩ Đại đội 925,
Tiểu đoàn 255, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316. Hi sinh khi chiến dịch Điện Biên
Phủ còn chưa bắt đầu, đồng chí là tấm gương sáng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”,
trở thành biểu tượng chiến đấu và chiến thắng được các chiến sĩ Điện Biên Phủ
sau này noi theo. Đồng chí đã nêu cao gương thi đua lập công vĩ đại, đã được
trân trọng gọi bằng cái tên “Dũng sĩ đâm lê”.Đồng chí được truy phong danh
hiệu Anh hùng Quân đội vì thành tích chiến đấu trong Chiến dịch Điện Biên Phủ
năm 1954. Năm 2000 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ
trang Nhân dân.
Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
9
|
Nông Văn Việt
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Nông Văn Việt (1938 - ?),
người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Phong Châu,
huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ tháng 4/1962, khi
được tuyên dương Anh hùng là Thượng sĩ Trung đội trưởng thuộc Đại đội 6, Tiểu
đoàn 2, Sư đoàn 7, Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên là Thượng tá Chỉ
huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng.
Từ năm 16 tuổi, đồng chí đã
hăng hái tham gia hoạt động ở địa phương, luôn hăng hái tham gia bất cứ nhiệm
vụ gì dù có thể nguy hiểm đến tính mạng và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng
chí là một trong những người đầu tiên dũng cảm mưu trí, kiên trì nghiên cứu và
thử nghiệm tìm cách tháo gỡ bom bi, sẵn sàng đến nơi nguy hiểm tháo bom nổ chạm,
bảo đảm giao thông thông suốt, an toàn cho đồng bào nơi bị địch ném bom. Đồng
chí Nông Văn Việt nêu một tấm gương sáng về tinh thần triệt để chấp hành mệnh
lệnh, sẵn sàng xả thân vì nhiệm vụ; luôn đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng
đội, sống khiêm tốn, giản dị, được mọi người tin yêu, mến phục. Đồng chí vinh
dự được tặng thưởng: Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Kháng chiến
chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương của nước Lào anh em, nhiều năm là Chiến sĩ
thi đua, Chiến sĩ quyết thắng...
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
10
|
Hoàng Văn Nghiên
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Hoàng Văn Nghiên (1939
- ?), người dân tộc Nùng.
Quê quán: Xã Ngũ Lão, huyện
Hòa An tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ tháng 4/1962, khi
được tuyên dương Anh hùng (1967) là Trung đội trưởng thuộc Đại đội 5, Tiểu
đoàn 2, Trung đoàn 98 công binh, Đoàn 559, nguyên là Thượng tá - Phó Chủ
nhiệm Công binh Quân đoàn 29.
Trong 2 năm 1964 - 1965 đồng
chí cùng đơn vị được giao nhiệm vụ phá thác trên sông ở Cam-pu-chia, nơi này nhiều
thác rất nguy hiểm làm chậm tốc độ vận chuyển và tốn nhiều công sức, đồng chí
luôn xung phong tham gia những nhiệm vụ nguy hiểm đến tính mạng như: Lặn vào
chỗ nước xoáy, nước chảy siết để hoàn thành nhiệm vụ. Đồng chí được tặng
thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba, hai Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng
Nhất, hai Huân chương Chiến sĩ giải phóng (hạng Nhì, Ba), ba Huân chương
Chiến sĩ vẻ vang (hạng Nhất, Nhì và Ba).
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
11
|
Triệu Xuân Tâng
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Triệu Xuân Tâng (1942 - ?),
người dân tộc Nùng.
Quê quán: Xã Quốc Dân, huyện
Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ tháng 5/1964, khi
được tuyên dương Anh hùng (1978) là Thượng sỹ Trung đội trưởng, bộ đội binh
đoàn 28, quân khu Tây Bắc. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cuộc đời quân ngũ của đồng
chí gắn với hoạt động của bộ đội tình nguyện Việt Nam trên bên nước bạn Lào,
gây dựng cơ sở cách mạng, xây dựng và huấn luyện các đơn vị bộ đội của bạn,
đồng thời trực tiếp chỉ huy chiến đấu hàng chục trận, lập công xuất sắc. Tiêu
biểu là trận đánh năm 1968 tại cao điểm 1100, đồng chí đã chỉ huy tiểu đội
chiến đấu với địch đi càn quét, sau 20 phút 2 chiến sĩ hy sinh bản thân cũng
hết đạn nhưng đồng chí đã mưu trí đánh lừa quân địch tự 2 bên bắn vào nhau,
riêng đồng chí tiêu diệt gần 20 tên. Đồng chí được tặng thưởng 6 Huân chương
Chiến công (01 hạng Nhất; 02 hạng Nhì và 03 hạng Ba), Huân chương Giải phóng
và Huân chương bạn Lào tặng, 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (Nhất; Nhì; Ba).
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
12
|
Bế Văn Thành
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Bế Văn Thành (1946 - 1973),
người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Hồng Quang,
huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ tháng 5/1956, Đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hy sinh ngày 3/4/1973. Cấp bậc Thượng sỹ, Trung
đội phó, bộ binh Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320, Quân
đoàn 3. Ngày 3/4/1973, trong một trận chiến đấu đồng chí đã cướp 1 khẩu súng
cối của địch, khẩu súng không có bàn đế, đã mưu trí lấy chiếc mũ sắt để làm
đế cối và thả nhiều loạt đạn vào đội hình quân địch diệt nhiều tên, đồng chí
hy sinh trong trận này. Quá trình chiến đấu được tặng 2 Huân chương chiến
công hạng Nhất và hạng Nhì, 4 bằng Dũng sĩ diệt Mỹ, 8 bằng khen; được truy
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân năm 1978.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
13
|
Hoàng Văn Cón
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Hoàng Văn Cón sinh năm 1944,
người dân tộc Nùng.
Quê quán: Xã Thượng Thôn,
huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ tháng 10/1963. Khi
được tuyên dương Anh hùng là Thượng sĩ, Tiểu đội trưởng thuộc Đại đội 2,
Trung đoàn 134 Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc. Đảng viên Đảng cộng sản Việt
Nam. Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, đồng chí là chiến sĩ thông tin đảm
nhiệm bảo vệ tuyến đường dây trần từ Bắc vào Nam song song với trục đường quốc
lộ số 15 với chiều dài 20 km (thuộc huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Tuyến
đường dây phải vượt qua nhiều đồi cao, vực sâu có nhiệu đoạn xa trục đường quốc
lộ, việc đi lại và bảo vệ gặp nhiều khó khăn. Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến
tranh đánh phá miền Bắc bằng không quân, đoạn đường dây thông tin do tổ của
đồng chí bảo vệ thường xuyên bị đánh phá ác liệt, nhưng với tinh thần trách
nhiệm cao, quyết tâm vượt khó, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình
huống. Ngoài nhiệm vụ chuyên môn, đồng chí còn tích cực giúp đỡ, hướng dẫn
người dân phòng tránh bom đạn, cứu nạn trẻ thơ, được Nhân dân mến phục. Quá
trình phục vụ quân đội, đồng chí được tặng năm Huân chương Chiến công (ba hạng
Nhất; hai hạng Ba), ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (Nhất, Nhì, Ba); sáu năm
liền là Chiến sĩ Quyết thắng, 10 năm Chiến sĩ thi đua và nhiều phần thưởng
cao quý của Trung ương Đoàn, UBND tỉnh Thanh Hóa, Bộ Tư lệnh Thông tin.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
14
|
Bế Văn Cắm
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân:
Bế Văn Cắm (1945 - 1968),
người dân tộc Nùng.
Quê quán: Xóm Pác Bó, xã
Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ tháng 2/1964 vào
chiến trường tháng 1/1966, hy sinh ngày 7/1/1968 là Trung đội phó bộ binh,
Đại đội 3, Tiểu đoàn 11, Trung đoàn 14, Sư đoàn 7, Đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam. Trong 4 năm công tác và chiến đấu đồng chí được thưởng Huân chương
Chiến công giải phóng hạng Nhì, hạng Ba, 6 Bằng khen, một lần đạt danh hiệu
Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú, nhiều lần đạt Dũng sĩ diệt xe cơ giới.
Ngày 20/12/1969, đồng chí Bế
Văn Cắm được Chính phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân giải phóng.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
15
|
Hoàng Văn Quản
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Hoàng Văn Quản (1928 - 1994),
người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Nam Tuấn, huyện
Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Tham gia cách mạng năm 1942,
vào ngành công an năm 1953, tháng 12/1979 được tuyên dương Anh hùng là Thiếu
tá ủy viên Thường vụ huyện ủy, Trưởng công an huyện Hòa An, khi nghỉ hưu đồng
chí là Thượng tá nguyên trưởng công an huyện, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc tháng 2/1979 đồng chí đã chủ động nắm tình hình kịp thời tham mưu đề xuất
với huyện sơ tán người, tài liệu và tài sản vào hậu cứ trước khi quân địch
tràn đến. Sáng 19/2/1979 đồng chí đã chỉ huy đánh địch trận chiến đấu kéo dài
8 tiếng đồng hồ địch phải chịu rút lui, riêng đồng chí tiêu diệt được 15
tên…Trong suốt thời gian chiến sự đồng chí đã nêu gương dũng cảm, mưu trí, sáng
tạo vượt mọi khó khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
16
|
Hoàng Đình Hợp
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân:
Hoàng Đình Hợp (1930 - 1978),
người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Lăng Hiếu, huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ năm 1949, Đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam, cấp bậc Thiếu tá, phó tham mưu trưởng Sư đoàn 31,
Quân đoàn 3. Đồng chí là cán bộ được trưởng thành trong khói lửa chiến tranh,
đã trực tiếp chiến đấu và chỉ huy trong chiến đấu hàng trăm trận, mưu trí,
linh hoạt, dũng cảm, lập nhiều chiến công xuất sắc. Ngày 19/8/1978, tại mặt
trận Biên giới Tây Nam, đồng chí chỉ huy đơn vị đánh vào khu Hai Bản tiêu
diệt hơn trăm tên địch, thu toàn bộ vũ khí trang bị của địch. Trong trận này
đồng chí anh dũng hy sinh. Đồng chí được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến
hạng Nhì, ba Huân chương Chiến công giải phóng, Huân chương Chiến thắng hạng
Ba. Năm 1981, đồng chí được Nhà nước ta truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang Nhân dân.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
17
|
Hoàng Văn Khoáy
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân:
Hoàng Văn Khoáy (1945 -
2021), người dân tộc Nùng.
Quê quán: Xã Thụy Hùng, huyện
Thạch An, tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ tháng 10/1963, trong
kháng chiến chống Mĩ đồng chí tham gia chiến đấu tại chiến trường miền Nam, lập
nhiều chiến công, là thương binh. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đồng
chí tình nguyện chuyển sang lực lượng Công an Nhân dân vũ trang (nay là bộ
đội Biên phòng). Tháng 12 năm 1979, khi được tuyên dương Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân, đồng chí giữ cấp bậc Thượng úy, chức vụ Đại đội phó, Đại
đội 3 bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía
Bắc năm 1979, đồng chí cùng đơn vị lập nhiều chiến công; tiêu biểu là trận
đánh ngày 18 tháng 02, chỉ huy 1 Trung đội chi viện cho phân đội giữ chốt đồi
Chông Mu (xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh) tiêu diệt được 77 tên địch đồng
thời làm tan rã 1 tiểu đoàn địch, trận đánh ngày 14 tháng 3 tại nhà máy thủy
điện Thoong Cót (xã Chí Viễn, huyện Trùng Khánh), tiêu diệt hơn 100 tên
địch... Là cán bộ gương mẫu về mọi mặt, chỉ huy dũng cảm, đạt hiệu quả chiến
đấu cao đồng chí đã được tặng thưởng: 01 Huân chương Chiến công hạng nhất, 01
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì, hai Huân chương chiến sĩ Giải
phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; 03 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
Hai năm đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua (1966,1967) ba năm là Chiến sĩ giỏi
(1964,1965,1968) và được tặng huy chương (Tuổi trẻ anh hùng bảo vệ Tổ quốc).
Ngày 20/12/1979 được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân
dân.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
18
|
Dương Đức Thùng
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân:
Dương Đức Thùng sinh năm
1954, người dân tộc Nùng.
Quê quán: Xã Quốc Toản, huyện
Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ tháng 5/1974, khi
được tuyên dương Anh hùng là Chuẩn úy, Đại đội trưởng công binh thuộc Tiểu
đoàn 4, Lữ đoàn 25, Quân đoàn 4. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1975 với cương vị là Tiểu
đội trưởng, đồng chí đã dũng cảm chiến đấu đạt hiệu suất cao ở các trận Bến
Cát, Xuân Lộc và cuộc tiến công vào khu vực căn cứ của bọn thủy quân lục
chiến ở Sóng Thần. Hoàn thành xuất sắc trong công tác địch vận ở Campuchia.
Với những thành tích đạt được trong chiến đấu và công tác đồng chí đã được
tặng thưởng 01 Huân chương Chiến công hạng Ba, hai năm liền đạt Chiến sĩ thi
đua, 18 bằng khen trong thời gian giúp đỡ cách mạng campuchia, đồng chí được
Chính phủ Campuchia tặng 01 Huân chương và 03 bằng khen. Năm 1983 được tuyên
dương Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân. Năm 1985 tặng thưởng 01 Huân
chương Chiến công hạng Nhì, 03 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (Nhất, Nhì, Ba)
và 3 năm đạt Chiến sĩ thi đua.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
19
|
Trương Hữu Dem
|
Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân:
Trương Hữu Dem sinh năm 1932,
người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Minh Tâm, huyện Nguyên
Bình, tỉnh Cao Bằng.
Nhập ngũ tháng 1/1954, xuất
ngũ tháng 4/1960, tái ngũ năm 1966, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cấp bậc
Trung úy, nghỉ hưu tháng 1 năm 1977. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tháng
2/1979, đồng chí đã nêu tinh thần dũng cảm mưu trí chủ động đánh địch bảo vệ
quê hương và bảo vệ dân, diệt 125 tên, thu 1 súng cối 82mm, 1 ĐKZ 82mm, 1 đại
liên, 2 khẩu B40 và 4 hòm đạn súng bộ binh, phối hợp cùng dân quân và lực lượng
vũ trang đang chiến đấu tại địa bàn bắt 24 con lừa và ngựa. Tháng 12/1979
đồng chí được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
20
|
Bàn Thượng Đức
|
Anh hùng Lao động:
Bàn Thượng Đức (1932 - 1989),
người dân tộc Dao.
Quê quán: Xã Thành Công,
huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam, là Ủy viên ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Ủy, Bí thư Huyện ủy Nguyên Bình
khóa X. Đồng chí sớm giác ngộ cách mạng ngay từ khi tuổi đời mới 17. Sống
trong vùng dân tộc Mông, Dao tuy chưa được qua lớp đào tạo lý luận chính trị
nhưng qua nhận thức về đường lối của Đảng, đồng chí thấy muốn quê hương giàu
mạnh Nhân dân được ấm no hạnh phúc chỉ đi theo con đường hợp tác hóa. Ông Đức
là người đầu tiên chặt cây, vỡ đất lập làng, đã đưa toàn dân xã Thành Công
đến cuộc sống ổn định, số đông gia đình có lương thực dự trữ, số người có
trình độ văn hóa không ngừng tăng lên; được Đảng, Nhà nước tặng 2 Huân chương
Lao động hạng Nhất, Ba, được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng Lao động
do có thành tích xuất sắc trong công tác góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
21
|
Hoàng Thị Miên
|
Anh hùng Lao động:
Hoàng Thị Miên (1942 - 2020),
người dân tộc Nùng.
Quê quán: Xã Quang Long,
huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1985 được
tuyên dương Anh hùng Lao động khi là Trưởng cung Cao Sơn, Hạt 7 đoạn quản lý
đường bộ, ngành giao thông vận tải tỉnh Cao Bằng.
Trong thời gian làm nhiệm vụ
sửa chữa đường bộ đồng chí đã có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật có ý thức trách
nhiệm cao, chủ động trong công việc và có tinh thần tương trợ giúp đỡ đơn vị
bạn khi gặp khó khăn. Với phương châm và đề ra khẩu hiệu “ướt áo, ráo đường”;
Các sáng kiến cải tiến đều đạt năng suất từ 200 đến 300% trong một ngày.
(Nguồn: Đơn vị và cá nhân Anh hùng tỉnh Cao Bằng - Bộ Chỉ huy quân
sự tỉnh Cao Bằng năm 1994)
|
22
|
Lân Thị Hò
|
Mẹ Việt Nam anh hùng:
Lân Thị Hò (1890 - 1972).
Quê quán: Bản Kép Ké, xã Nà
Sác (nay là xã Trường Hà), huyện Hà Quảng.
Mẹ có 5 người con, đó là:
Nông Thị Nhằm, Nông Thị Lằng, Nông Văn Dấu (tức Phục Quốc), Nông Văn Dền
(Dèn) (tức Kim Đồng) và Nông Thị Slấn.
Gia đình khó khăn, thiếu
thốn, cơm không đủ ăn phải lên rừng đào củ mài, củ nâu ăn cho qua bữa; thóc
lúa và ngay cả con gà trong nhà nuôi chưa kịp mọc lông đã bị cướp đi. Chồng
của mẹ Hò bị bắt đi phu và, bao nhiêu việc trong nhà đều dồn lên đôi vai gầy
của mẹ Hò - một người phụ nữ nông thôn nghèo chịu thương chịu khó, tần tảo
kiếm từng bữa ăn qua ngày. Chính cuộc sống khó khăn vất vả và tận mắt chứng
kiến sự tàn ác của quân cướp nước, hai con trai của mẹ đã tin và đi theo cách
mạng.
Anh Nông Văn Dấu lên đường đi
hoạt động cách mạng với tên gọi Phục Quốc; còn Dền từ nhỏ đã sớm được cán bộ
Việt Minh giáo dục, giác ngộ. Anh đã vận động các bạn cùng trang lứa trong
bản làm nhiệm vụ liên lạc, đưa đón cán bộ, bảo vệ cán bộ, đưa thư. Khi biết
các con hoạt động cách mạng, với bản năng của một người mẹ, mẹ Hò cũng cảm
thấy lo lắng cho con, sợ những hiểm nguy trên đường con đi liên lạc, sợ khi
địch phát hiện. Dầu vậy, tuy lo lắng khi biết con đang đi trên con đường đầy
gian nan, vất vả, khó khăn, hiểm nguy rình rập nhưng mẹ không làm nhụt chí
con, mẹ luôn biết cách giúp đỡ và động viên con hoàn thành nhiệm vụ đoàn thể
giao. Mẹ dù chân vẫn thường xuyên đau nhức nhưng đã luôn cố gắng thu xếp việc
việc nhà để các con yên tâm làm cách mạng. Đó là lòng nhân hậu, cố gắng bảo
vệ, nuôi dạy con thành người có ích cho đất nước, là sự hi sinh thầm lặng và
cao cả của mẹ.
Rạng sáng ngày 15/2/1943, khi
biết quân địch vào lùng sục cán bộ, Nông Văn Dền đã mưu trí, nhanh nhẹn đánh
lạc hướng địch, bảo vệ cán bộ, bảo vệ cuộc họp của Tổng bộ Việt Minh. Anh đã hi
sinh anh dũng khi vừa mới 15 tuổi. Cũng trong quá trình hoạt động cách mạng, anh
Phục Quốc là đội viên giải phóng quân, chiến đấu và đã hi sinh ở Chợ Đồn -
Bắc Kạn (tháng 6/1945).
Năm 1972 do tuổi cao, sức
khỏe yếu mẹ đã qua đời. Phần mộ của mẹ được chôn cất gần mộ của anh Dèn - con
trai út của mẹ, nằm trong Quần thể Khu di tích lịch sử Kim Đồng.
Ngày 24/4/1995, mẹ Lân Thị Hò
được truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.
(Nguồn: Trang thông tin điện tử của BQL các di tích Quốc gia đặc
biệt tỉnh Cao Bằng - Pacbo.vn )
|
4.5
|
Lãnh đạo tỉnh tiêu biểu
chủ chốt của Tỉnh thời kỳ trước năm 1975; Lãnh đạo tỉnh tiêu biểu thời kháng
chiến; Lão thành cách mạng tiêu biểu: 43 tên
|
1
|
Hoàng Văn Nọn (Hoàng Như)
|
Đồng chí Hoàng Văn Nọn (1906
- 1968), bí danh: Hoàng Tú Hưu, Tú Hưu, Hoàng Ngọc Như, Hoàng Như, Văn
Tân, Hoàng Lương Hữu, Thiết, Hoàng Vĩnh Tuy.
Quê quán: Làng Nà Toàn, xã
Xuân Phách (nay thuộc phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng)
Chức vụ: Bí thư Chi bộ Đảng
cộng sản đầu tiên ở Cao Bằng (1/41930), Bí thư Tỉnh ủy (1931 - 1934), Bí thư
Liên Xứ ủy Trung - Bắc Kỳ (1937 - 1938); đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời cho
sự nghiệp cách mạng, có nhiều đóng góp cho Cao Bằng và sự nghiệp cách mạng
của cả nước.
Năm 1998, ông được truy tặng
Huân chương Hồ Chí Minh
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930 - 2020) - NXB Chính trị
Quốc gia sự thật, Hà Nội - 2020)
|
2
|
Lê Đoàn Chu
|
Đồng chí Lê Đoàn Chu (? - ?),
tức Nam Cao, Lê Mới.
Quê quán: Xã Hoàng Tung, châu
Hòa An, tỉnh Cao Bằng (nay là xã Hoàng Tung, huyện Hòa An).
Ngày vào Đảng 01/4/1930, là
một trong ba đảng viên Chi bộ đảng cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng Chức
vụ: Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng (1934 - 1940); Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
huyện Hòa An (1955 - 1963).
Khen thưởng: Truy tặng Huân
chương Hồ Chí Minh.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Hòa An 1930 - 2010. Nxb Chính trị Quốc
gia Sự thật, năm 2015)
|
3
|
Nông Văn Đô
|
Đồng chí Nông Văn Đô (1905 -
?), bí danh Bích Giang, Cát Lợi, người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Xuân Phách, châu
Hòa An, tỉnh Cao Bằng (nay là phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng).
Ngày vào Đảng 01/4/1930, là
một trong ba đảng viên Chi bộ đảng cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng
Chức vụ: Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ
lâm thời (1935); Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Bắc Sơn, Lạng Sơn
(1955- 1960); Trưởng ban Kiểm tra Đảng huyện Bắc Sơn, Lạng Sơn.
Khen thưởng: Truy tặng Huân
chương Hồ Chí Minh.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia Sự
thật, năm 2020)
|
4
|
Bùi Bảo Vân
|
Đồng chí Bùi Bảo Vân (? - ?)
Chức vụ: Ủy viên dự khuyết Trung
ương Đảng khóa I (năm 1935). Bí thư Tỉnh ủy năm 1946 và 1948 - 1949.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia Sự
thật năm 2020)
|
5
|
Bùi Văn Giao
|
Đồng chí Bùi Văn Giao (? - ?)
Chức vụ: Bí thư chi bộ Mỏ
thiếc Tĩnh túc (Chi bộ cộng sản đầu tiên của huyện Nguyên Bình)
Ngày 21/10/1930, tại đền Ông
Búa, được sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đoàn Chu, đồng chí Bùi Văn Giao triệu
tập cuộc họp có các đồng chí đại diện của tỉnh đến dự, tuyên bố thành lập Chi
bộ ở khu công nhân Mỏ Thiếc Tĩnh Túc, đồng chí Bùi Văn Giao được bầu làm Bí
thư.
Từ đây phong trào công nhân
đã có sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, đưa công nhân vào cuộc đấu tranh mới vững
vàng và quyết liệt hơn. Phong trào đấu tranh của công nhân diễn ra sôi nổi,
các tổ chức Công hội đỏ ra đời, đoàn kết công nhân chống lại sự bóc lột dã
man của chủ mỏ. Nhất là khi nhận được Chỉ thị của Tỉnh ủy nhân dịp kỷ niệm
Ngày Quốc tế Lao động 1/5/1931, Chi bộ mỏ đã tổ chức kỷ niệm và rải truyền
đơn khắp nơi, cờ đỏ búa liềm được treo trên các cột điện.
Tháng 2/1935, Chi bộ Mỏ Thiếc
Tĩnh Túc vinh dự được cử đại biểu đi dự Hội nghị cán bộ Bắc Kỳ ở Long Châu.
Hội nghị quyết định xây dựng mỏ thành một đặc khu gọi là đặc khu Kim Sơn do
Tỉnh ủy trực tiếp lãnh đạo.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử- baocaobang.vn )
|
6
|
Hoàng Tô
|
Hoàng Văn Chài (1909 - 1978),
bí danh Hoàng Tô, người dân tộc Tày.
Ngày 20/6/1931, chi bộ Cộng
sản đầu tiên huyện Hà Quảng ra đời; đồng chí được bầu làm Bí thư chi bộ.
Năm 1935 được Bầu vào ban
chấp hành tỉnh Đảng bộ Cao Bằng.
1941 - 1945 lãnh đạo xây dựng
thí điểm Việt Minh ở Hà Quảng. Phát triển sang các huyện Hoà An, Nguyên
Năm 1942 tiếp tục tham gia
vào Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ Cao Bằng.
Năm 1945 - 1946 Bí thư Huyện
ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Hà Quảng.
Năm 1946 - 1948 Ủy viên Ban
thường vụ Tỉnh ủy - Phó chủ tịch UBHC tỉnh Cao Bằng.
-Năm 1949 - 1952 Tỉnh ủy
viên, Bí thư Huyện kiêm Chủ tịch UBHC huyện Hà Quảng.
Năm 1955 - 1959 ủy viên Ban
tổ chức, kiêm Trưởng phòng tổ chức UBHC Khu tự trị Việt Bắc.
Năm 1960 - 1963 Phó chủ tịch
Mặt trận Tổ quốc Khu tự trị Việt Bắc.
Năm 1964 - 1974 Chủ tịch Mặt
trận tổ quốc Khu tự trị Việt Bắc, kiêm bí thư Đảng, Đoàn mặt trận Tổ quốc Khu
tự trị Việt Bắc.
(Nguồn: Lý lịch các đồng chí Lão thành cách mạng, BQL các di tích
Quốc gia đặc biệt tỉnh Cao Bằng)
|
7
|
Hồng Việt
|
Đồng chí Hoàng Văn Lịch (1905
- 1943), bí danh: Hồng Việt, Hai Cao.
Quê quán: Làng Gia Cung, xã
Ngọc Xuân, thị xã Cao Bằng (nay là phường Ngọc Xuân, thành phố Cao Bằng).
Ông là Bí thư Chi bộ Gia
Cung, Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, ; Từ lúc mới 16 tuổi, được đồng chí Hoàng Đình
Giong giác ngộ cách mạng; cuối năm 1930, Hoàng Hồng Việt được cử sang Long
Châu (Trung Quốc) dự các lớp huấn luyện chính trị, đầu năm 1931, đồng chí
được kết nạp vào Đảng tại Chi bộ hải ngoại Long Châu. Sau đó, được đồng chí
Hoàng Đình Giong cử về nước, tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng, chỉ đạo
các hoạt động cách mạng ở làng Gia Cung và vùng xung quanh thị xã Cao Bằng.
Ông được tặng thưởng Huân
chương Hồ Chí Minh.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Cao Bằng (1930 - 1912). Nxb Chính
trị Quốc gia - Sự thật năm 2012)
|
8
|
Ma Trung Lâm
|
Đồng chí Ma Trung Lâm (1909 -
1978), tên thật là Ma Kiên Kiện.
Quê quán: Xã Chí Thảo, huyện
Quảng Hòa.
Ông là Bí thư Chi bộ đầu tiên
của huyện Quảng Hòa (1932 - 1941).
Trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp đồng chí là thanh niên tích cực, tiến bộ và là hạt nhân của phong
trào cách mạnh. Đồng chí là tổ trưởng do đồng chí Dương Công Hoạt tuyển chọn.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Uyên 1930 - 2010. Nxb Chính trị
Quốc gia, năm 2000)
|
9
|
Hoàng Đức Thạc
|
Đồng chí Hoàng Đức Thạc (1905
- ?), bí danh thời kỳ hoạt động của đồng chí là Nam Vang, Bác Vọng, Lã Minh
Giang - thường gọi là Lã, người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Hồng Việt, huyện
Hòa An.
Chức vụ: Bí thư Tỉnh ủy (1942
- 1943), Bí thư Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng (1943 - 1945), Chủ tịch UBND
lâm thời tỉnh (6/1945 - 3/1946); Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng (1957 - 1958). Đồng
chí là một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, luôn gắn bó với phong trào cách mạng,
có nhiều cống hiến đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, nhất
là quê hương Cao Bằng; được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh
(Nguồn: Địa chí Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2000)
|
10
|
Nguyễn Văn Mô
|
Đồng chí Nguyễn Văn Mô (? - ?),
bí danh Khoát Hổ.
Chức vụ: Bí thư chi bộ đầu
tiên của huyện Thạch An (tháng 2/1933).
Năm 1993, đồng chí Nguyễn Văn
Mô xin ý kiến cấp trên triệu tập cuộc họp tại hang đá Nà Mẹc, xóm Phạc Sliến
- xã Vân Trình gồm các đồng chí Khoát Hổ, Nguyễn Văn Lịch, Bế Ngọc Cung, Nông
Văn Đạt. Tại cuộc họp này, đồng chí Nguyễn Văn Mô được ủy nhiệm của cấp trên kết
nạp đảng các đồng chí Nguyễn Văn Lịch (bí danh Vạn Xuân, sau là Việt An), Bế
Ngọc Cung (bí danh Trung Kiên, sau là Tiến Bộ), Nông Văn Đạt (bí danh là Khoát
Đặng) chi bộ đảng đầu tiên của châu Thạch An do đồng chí Nguyễn Văn Mô làm bí
thư. Chi bộ đảng xã Vân Trình ra đời tháng 2 năm 1993 đã đánh dấu bước phát
triển mới của phong trào cách mạng châu Thạch An.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ
huyện Thạch An (1930-2000)-BCH Đảng bộ huyện Thạch An, 2005)
|
11
|
Vọng Bình (Hoàng Thị Nghiêm)
|
Đồng chí Vọng Bình tên thật
là Hoàng Thị Nghiêm (1915 - 2010)
Quê quán: Xã Phúc Tăng (nay
là xã Hồng Việt), huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Tháng 8/1932, bà được kết nạp
vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Đầu năm 1936, bà Vọng Bình
được giao nhiệm vụ cùng đồng chí Hoàng Đình Giong đi tới Hải Phòng hoạt động
tạo dựng thêm đường dây liên lạc giữa ban chỉ huy ở ngoài của Đảng với phong
trào cách mạng trong nước. Do sự theo dõi, bám sát gắt gao của bọn mật thám
bà Hoàng Thị Nghiêm đến Hải Phòng thì bị địch bắt cùng với đồng chí Hoàng
Đình Giong, bà đã bị giải đi các nhà tù Hỏa Lò, Phú Thọ, Tuyên Quang...
Cuối năm 1937, khi Nhật đảo
chính Pháp, bà vượt ngục rồi nhanh chóng tìm bắt liên lạc với cách mạng.
Bà đã gia nhập Đội Việt Nam
Tuyên truyền Giải phóng quân và đã được đồng chí Võ Nguyên Giáp cử về Cao
Bằng làm Trưởng trạm Giao thông kiêm Trưởng trạm tiếp tế của tỉnh Cao Bằng.
Tháng 6/1940, bà Hoàng Thị
Nghiêm bị bắt lần thứ 2, thực dân Pháp giam giữ bà tại các nhà tù Hỏa Lò (Hà
Nội), Bắc Mê (Hà Giang). Đến tháng 3/1945 bà tham gia phá tù thoát khỏi sự
giam giữ của địch, tiếp tục hoạt động giành chính quyền cách mạng.
Những năm 1946 - 1947, bà giữ
chức vụ Bí thư Phụ nữ Cứu quốc và Ủy viên Ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng, Ban
phụ vận khu Việt Bắc, Bí thư Đoàn Phụ nữ tỉnh Cao Bằng, Ủy viên Ban Liên Việt
khu Việt Bắc.
Năm 1950, bà được cử làm cán
bộ Bộ Ngoại giao (Biện sự xứ), rồi Chi ủy viên Trường Thanh thiếu nhi Việt
Nam ở Quế Lâm - Trung Quốc. Năm 1960, khi đang làm Khu ủy viên, Phó ban kiểm
tra Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ khu tự trị Việt Bắc, Vọng Bình về làm
Phó ban Nông nghiệp Trung ương.
Năm 2001 bà được Đảng và Nhà
nước tặng thưởng Huân chương độc lập hạng Nhất, Huân chương kháng chiến hạng
Nhất.
(Nguồn:Đề tài nghiên cứu khoa học cấp đơn vị Bảo tàng tỉnh, một số
gương mặt phụ nữ tiêu biểu của Cao Bằng qua các thời kỳ lịch sử - 2016)
|
12
|
Lâm Cẩm Như
|
Đồng chí Lâm Cẩm Như (1920 - 1979),
tên thật là Lâm Kính, người dân tộc Kinh.
Quê quán: Đông Khê, Thạch An,
Cao Bằng.
Năm 1934, ông làm giao liên
cho Văn phòng của các đồng chí Hà Huy Tập và Phùng Chí Kiên tại Nam Ninh. Mùa
hè năm 1935, ông vinh dự tham gia tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất
tại Ma Cao (Trung Quốc). Mùa xuân năm 1944, ông về nước và ngày 22 tháng 12
năm 1944 gia nhập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Cách mạng Tháng
Tám bùng nổ, ông chỉ huy Chi đội 4 Việt Nam Giải phóng quân về tham gia cướp
chính quyền ở Hà Nội, sau đó giữ chức Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hà Nội.
Trong kháng chiến chống Pháp,
ông giữ các chức vụ Tham mưu trưởng Đại đoàn 308 (1949 - 1951); Tham mưu
trưởng Đại đoàn 312 (1/51/1953), Tư lệnh phó Đại đoàn 304 (1953 - 1955). Cuối
năm 1955, ông được cử đi học tại Học viện Quân sự Nam Ninh (Trung Quốc). Sau
khi về nước, ông gắn bó với sự nghiệp giáo dục, đào tạo, huấn luyện trong các
nhà trường quân đội; năm 1957, ông làm hiệu trưởng Trường Văn hóa quân đội;
cuối năm 1964, ông được cử làm Hiệu phó Trường Cán bộ Chính trị quân đội;
tháng 3 năm 1966, ông được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc kiêm Cục trưởng Cục quân
sự Học viện Chính trị Quân sự và từ năm 1976 là Phó Giám đốc Học viện này.
Ông đã được Nhà nước tặng
thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương kháng chiến hạng Nhất; huân
chương Quân công hạng Nhất.
(Nguồn: Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Nxb Quân đội nhân
dân 2003)
|
13
|
Chí Viễn
|
Đồng chí Nguyễn Văn Mân (? -
?) (tức Chí Viễn); quê quán: ?
Chức vụ: Bí thư Chi bộ Đảng
đầu tiên của huyện Trùng Khánh (9/1939 - 10/1942)
Ngày 16/9/1939, Chi bộ Đảng
cộng sản đầu tiên huyện Trung Khánh được thành lập tại Ngườm Mạ, Bản Đà, xã
Đình Minh. Chi bộ phân công Đồng chí Nguyễn Văn Mân làm Bí thư.
Trong quá trình tham gia hoạt
động cách mạng, tháng 3/1945, đồng chí Nguyễn Văn Mân bị địch phục kích bắn
và hy sinh. Để tưởng nhớ công lao của ông, nhân dân đổi tên phố Co Sầu thành
tên phố Chí Viễn cho đến năm 1949. Sau năm 1949, phố Chí Viễn được gọi là phố
Trùng Khánh thuộc xã Lăng Hiếu. Đến ngày 05/10/1958, phố Trùng Khánh được
tách khỏi xã Lăng Hiếu và được gọi là thị trấn Trùng Khánh.
Hiện nay, tại huyện Trùng
Khánh, có xã mang tên Chí Viễn.
(Nguồn: Địa chí Thị trấn Trùng Khánh, Đài Phát thanh - Truyền hình
Cao Bằng)
|
14
|
Dương Đại Lâm
|
Đồng chí Dương Đại Lâm (1914
- 1990), người dân tộc Nùng.
Quê quán: Xã Trường Hà, huyện
Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Tham gia cách mạng năm 1938,
đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam; Cấp bậc: Đại tá; Năm 1938, đồng chí Dương
Đại Lâm tham gia tiếp tế gạo, thức ăn hàng ngày cho cán bộ hoạt động cách
mạng và làm liên lạc đưa thư, đưa đón cán bộ trong khu vực hang Pác Bó. Nhiều
lần bị bọn phản động châu đoàn Vằng vây bắt nhưng nhờ có sự mưu trí linh hoạt
đồng chí đã đưa cán bộ thoát khỏi vòng vây an toàn.
Năm 1941, khi Bác Hồ về nước
lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, đồng chí đã lãnh đạo vận động thanh
niên nam, nữ và các hội viên cứu quốc tham gia đội bảo vệ cán bộ hoạt động
cách mạng, bảo vệ Bác, đồng thời vận động Nhân dân các dân tộc đứng lên chống
thực dân Pháp khủng bố, thực hiện triệt để vườn không nhà trống, cất giấu
gạo, lúa ngô và các tài sản khác.
Năm 1947, khi Pháp nhảy dù
xuống Cao Bằng với cương vị trung đoàn phó Trung đoàn 74 Cao Bằng, đồng chí
đã chỉ huy đơn vị bí mật, bất ngờ tập kích tiêu hao nhiều sinh lực địch.
Từ năm 1945 - 1951, trên
cương vị Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Cao Bằng, đồng chí đã nêu cao vai trò người
cán bộ chỉ huy, nắm chắc âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, tìm thời cơ tập kích
nhanh gọn gây cho chúng thiệt hại về người và của. Cùng với việc tổ chức đánh
địch, đồng chí thường xuyên quan tâm xây dựng lực lượng dân quân du kích tập
trung, tự vệ có đầy đủ số lượng và chất lượng trang bị thêm vũ khí để chiến
đấu với kẻ thù.
Từ năm 1951 - 1960, đồng chí
được chuyển sang tỉnh Hà Giang với cương vị Tỉnh đội trưởng- Phó bí thư tỉnh
ủy Hà Giang và là Đảng ủy viên Liên Khu Việt Bắc. Tại Yên Bái đồng chí làm
trong ban cán sự khu Lào-Hà, rồi giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân khu Việt
Bắc.
Năm 1960 - 1975 là Phó chính
ủy Quân khu Việt Bắc.
(Nguồn: Lý lịch các đồng chí Lão thành cách mạng, BQL các di tích
Quốc gia đặc biệt tỉnh Cao Bằng)
|
15
|
Đàm Minh Viễn
|
Đồng chí Đàm Minh Viễn (1919
- 1956), tên thật là Đàm Văn Lân (các bí danh: Kỳ Sư, Đức Thanh, Minh Viễn),
người dân tộc Tày.
Quê quán: Làng Nà Nghiềng, xã
Sóc Hà, huyện Hà Quảng.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Từ nhỏ, đồng chí Đàm Minh
Viễn đã sớm giác ngộ cách mạng, năm 11 tuổi, đồng chí đã tham gia các phong
trào đấu tranh yêu nước của quê hương. Cơ duyên đã đưa đồng chí trở thành một
trong những người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Bác Hồ trực
tiếp rèn luyện và tin tưởng, giao phó nhiều nhiệm vụ quan trọng. Với khả năng
thuyết phục của mình trong công tác binh vận, trí thông minh và sự linh hoạt trong
xử lý các tình huống, đồng chí đã được Bác Hồ tin tưởng giao nhiệm vụ lựa
chọn, bồi dưỡng tinh thần cách mạng, khơi dậy lòng yêu nước cho các thiếu niên
nhi đồng tại Hà Quảng.
Thực hiện nhiệm vụ do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc giao, đồng chí Đàm Minh Viễn không quản ngại khó khăn, vất vả tiếp
cận thanh niên, thiếu niên, nhi đồng để tuyên truyền, vận động các em để tìm
ra những người ưu tú tham gia tổ chức của mình, tham gia các phong trào cách
mạng. Ngày 15/5/1941 đồng chí Đàm Minh Viễn đã tổ chức kết nạp các em nhỏ vào
Đội Nhi đồng cứu quốc trong đó Kim Đồng làm đội trưởng - đây là tiền thân của
Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
Bên cạnh đó, đồng chí Đàm
Minh Viễn còn trực tiếp tham gia các hoạt động cách mạng vũ trang, trở thành
đội viên Đội du kích Pác Bó, được tín nhiệm bầu vào Ban Việt Minh châu SR phụ
trách Hội thanh niên cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc,đồng chí là Bí thư chi đoàn
thanh niên cứu quốc đầu tiên vùng miền núi. Với khả năng quân sự, tác phong
hoạt động linh hoạt, dũng cảm, đặc biệt là biệt tài trong công tác vận động
quần chúng tại cơ sở, đồng chí Đàm Minh Viễn đã được Bác Hồ cử trực tiếp là
người mang Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" vào Miền Nam và tham gia
chiến đấu tại mặt trận Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngày 10/12/1945 đồng chí được cử
làm Chủ nhiệm Tham mưu quân giải phóng Miền Nam do Cao Hồng Lĩnh làm chủ tịch.
Ngày 25/9/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký truy tặng Huân chương Chiến thắng
hạng Nhất cho 05 liệt sỹ, trong đó có ghi "Đàm Minh Viễn, Tư lệnh Phó Ủy
ban Kháng chiến miền Nam Liên khu V.
(Nguồn: Tỉnh đoàn Cao Bằng - tinhdoan.caobang.gov.vn)
|
16
|
Đào Thế An
|
Đồng chí Đào Mạnh Vy (1912 - 1951),
bí danh: Xô Liên, Thế An.
Quê quán: Xã Sóc Giang, huyện
Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Năm 1936 - 1937: Tham gia
cách mạng。
Năm 1940: Bí mật sang Trung
Quốc học và hoạt động bí mật sau đó quay trở về địa phương hoạt động
Ngày 28/01/1941: Cùng đồng
chí Nguyễn Ái Quốc trở về nước và hoạt động các mạng ở xóm Pác Bó, xã Trường
Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Ngày 02/02/1941: Chủ tịch Hồ
Chí Minh giao phụ trách con đường giao thông từ biên thùy về tỉnh lỵ
Tháng 11/1941: Tham gia đội
du kích Pác Bó
Năm 1942: Vào đội du kích bảo
vệ cơ quan Hồ Chí Minh, tuyên truyền tổ chức Hội cứu quốc và tự vệ ở các vùng
quanh cơ quan.
Năm 1943: Phụ trách huấn
luyện viên tự vệ ở Tổng và các Xã, đồng thời cũng phụ trách đội vũ trang châu
Bảo Lạc, thuộc tỉnh Cao Bằng.
Ngày 22/12/1944: Vào đội
Tuyên truyền Việt Nam giải phóng quân, phụ trách Trung đội phó đi tuyên
truyền và đánh các đồn lẻ thuộc tỉnh Cao Bằng và tỉnh Bắc Kạn.
Năm 1945: Chỉ huy Trung đội,
Đại đội trưởng rồi được lệnh vào Nam Tiến.
Ngày 29/9/1945: Đến Trung bộ
được đồng chí Vũ Đức cử làm chi đội trưởng chỉ huy 3 Đại đội vào Nam Bộ.
Năm 1946: Phó trung đoàn Độc
lập thuộc Ủy ban kháng chiến Miền Nam Trung Bộ .
Năm 1948: Phụ trách tiểu đoàn
Hoàng Hoa Thám thuộc khu IX ở Tây Nguyên.
Năm 1949: Nhận công tác tại
Trung đoàn Cao Bằng, chỉ huy bộ đội chủ lực của tỉnh.
Năm 1950: Phụ trách huyện đội
trưởng ở Trấn Biên thuộc tỉnh Cao Bằng.
(Nguồn: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Nxb Quân đội nhân
dân, năm 2004)
|
17
|
Đoàn Nguyên Nhật
|
Đồng chí Đoàn Nguyên Nhật
(1913 - 1989), bí danh Hồng Kỳ, người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Vĩnh Quang,
huyện Hòa An.
Năm 1932, tham gia phong trào
cách mạng trong tổ chức Cộng sản Đoàn.
Năm 1933 được kết nạp vào
Đảng tháng.
Năm 1934: Bí thư Chi bộ xã
Tượng Cần (thuộc xã Vĩnh Quang).
Năm 1935: Ban chấp hành Tổng
bộ Tổng Tượng Yên (châu Hòa An), Bí thư Chi bộ xã Tượng Cần.
Năm 1936: Huyện ủy viên, phụ
trách giao thông từ Tượng Yên sang Long Châu (Trung Quốc); Tỉnh ủy cử sang
Long Châu gặp đồng chí Năm (tức Hoàng Văn Thụ) để huấn luyện và sau đó nhận
chỉ thị về đấu tranh công khai. Đến cuối năm đã vận động thành một phong trào
quần chúng khá rộng trong Tổng Tượng Yên và Xuân Yên.
Năm 1937: Lãnh đạo cuộc đón
tiếp và trao đơn cho Đại biểu Mặt trận Bình dân Pháp (JUSTIN GODARD) tại ngã
ba đường Cao Bằng - Nguyên Bình (tam kỷ lộ).
Năm 1938: Tham gia vận động
Đông Dương Đại hội, chống thuế, chống bắt phu.
Năm 1939 - 1943: Bị địch bắt
giam tại nhà tù Sơn La.
Năm 1944, ra tù về quê nhà
tham gia ngay phong trào Việt Minh, đầu năm 1945 làm Ủy viên Chấp hành Việt
Minh huyện; sau khi cướp chính quyền được chỉ định làm Chủ nhiệm Ủy ban nhân
dân tỉnh lâm thời, sau đó bầu chính thức làm ủy viên phụ trách Liêm phóng
Tỉnh.
1946 - 1947: Chủ tịch Ủy ban
kháng chiến tỉnh.
1948 - 1950: Chủ tịch Ủy ban
kháng chiến hành chính tỉnh.
Năm 1952: Về Khu phục vụ lớp
chỉnh Đảng.
1953 - 1954: Làm Đảng Đoàn
dân vận Tỉnh, phụ trách Nông hội Tỉnh, Phó chủ tịch Liên Việt Tỉnh.
1957 - 1959: Thường vụ Khu
ủy, Giám đốc Sở Công thương Khu tự trị Việt Bắc
1959 - 1963: Bí thư Tỉnh ủy
Cao Bằng.
1964 - 1965: Chủ tịch Ủy ban
hành chính tỉnh Cao Bằng.
(Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Cao Bằng - Bộ phận lưu trữ hồ sơ)
|
18
|
Lê Tòng
|
Đồng chí Lê Tòng (? - ?)
Chức vụ: Bí thư Tỉnh ủy lâm
thời năm 1941. Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh (1954 - 1955), Chủ
tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh (1956 - 1958)
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia Sự
thật năm 2020)
|
19
|
Hoàng Tuấn Sơn
|
Đồng chí Hoàng Tuấn Sơn (1918
- 2015), tên thật là Hoàng Văn Lộc, Bí danh Bảo An, người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Hồng Việt, huyện
Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Tháng 6/1936 được kết nạp vào
Đảng Cộng sản.
Năm 1941 - 1942: Bí thư Thanh
niên xã Hồng Việt.
Năm 1943 - 1944: Bí thư thanh
niên huyện Hòa An.
Năm 1944 - 1945: Ủy viên Châu
ủy lâm thời, phụ trách Tổng C.
Đầu năm 1945 - 8/1945: Phụ
trách Đội Tuyên truyền Giải phóng quân ở Lạng Sơn.
Cuối năm 194 5 - 1946: Phó bí
thư Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Lạng Sơn.
Cuối năm 1946 đến đầu năm
1947: ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy kiêm Phái viên chính trị phụ trách Đảng ở
Trung đoàn bộ Lạng Sơn.
Đầu năm 1947 - 1948: Ủy viên
Ban dân quân khu I, Ủy viên phòng Quốc dân miền ngược Liên khu Việt Bắc.
Tháng 1/1949 - 3/1949: Quyền Bí thư Huyện ủy Quảng Uyên.
Tháng 3/1949 - 8/1949: Tham
gia phái đoàn củng cố huyện Bảo Lạc. Tháng 8/1949 - 2/1950: Bí thư Huyện ủy
Bảo Lạc.
Tháng 2/1950 - 10/1950: Phụ
trách Dân vận tỉnh kiêm Ủy viên Mặt trận Liên Việt tỉnh.
Tháng 10/1950 - 11/1951: Bí
thư Nông hội tỉnh.
Tháng 11/1951 - 7/1956: Bí
thư Huyện ủy Nguyên Bình.
Tháng 7/1956 - 3/1959: Tỉnh
ủy viên, phụ trách Kiểm tra Đảng, Thanh tra chính quyền.
Tháng 3/1959 - 5/1961: Tỉnh
ủy viên, Bí thư Huyện ủy Hòa An, phụ trách tòa án tỉnh.
Tháng 5/1961 - 1/1963: Ủy
viên Ban thường vụ Tỉnh ủy kiêm Trưởng ban Tổ chức Đảng.
Tháng 1/1963 - 8/1963: Phó Bí
thư Tỉnh ủy kiêm Trưởng ban Tổ chức Đảng.
Tháng 8/1963 - 5/1965: Phó Bí
thư Tỉnh ủy.
Tháng 5/1965 - 7/1967: Phó Bí
thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Cao Bằng.
Năm 1967 - 9/1975: Phó Bí thư
Thường trực Tỉnh ủy Cao Bằng.
Đồng chí đã được tặng thưởng:
Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Hai;
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.
(Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Cao Bằng - Bộ phận lưu trữ hồ sơ)
|
20
|
Phan Mạnh Cư
|
Đồng chí Phan Mạnh Cư (1918 -
2002), tên thật là Phan Văn Lễ, người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Vĩnh Quang,
huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Lãnh đạo chủ chốt của Tỉnh
thời kỳ trước năm 1975.
Tham gia cách mạng từ năm
1942, được kết nạp Đảng tháng 2/1945
Tháng 2/1942 - 2/1943: Công
tác tại xã, phụ trách làm tổ trưởng Nông hội Cứu quốc, Bí thư Việt Minh xã,
ủy viên Nông dân Tổng.
4/1943 - 2/1945: Phụ trách
tổng Đức Xuân và xã Đức Chính.
2/1945 - 9/1946: Phụ trách
các huyện Bình Gia, Cao Lộc, Thị xã Lạng Sơn.
10/1946 - 9/1947: Tỉnh ủy
viên, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn;
10/1947 - 2/1948: Phó bí thư,
Phó Chủ tịch phụ trách vùng Đông tỉnh Lạng Sơn.
3/1948 - 8/1949: Phó bí thư
Thường trực Tỉnh ủy phụ trách kinh tế - tài chính.
9/1949 - 12/1949: phụ trách
vùng biên giới Trung - Việt (thuộc tỉnh Lạng Sơn).
1/1950 - 5/1950: Học tại
Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương.
6/1950 - 2/1951: Phó Bí thư
Thường trực Tỉnh ủy.
3/1951 - 4/1952: Phụ trách
kinh tế, tài chính.
4/1952 - 8/1952: Tham dự
chỉnh huấn Trung ương.
8/1952 - 8/1954: Quyền Bí thư
Tỉnh ủy - Chủ tịch Ủy ban KCHC tỉnh Lạng Sơn.
9/1954 - 9/1956: Tham gia
công tác cải cách ruộng đất.
10/1956 - 8/1957: Giám đốc
Kim nông lâm (Cao + Bà, yên).
9/1957 - 6/1959: Học trường
Nguyễn Ái Quốc.
7/1959: Công tác tại Ủy ban
dân tộc Trung ương đến tháng 3/1963 lên Lạng Sơn ...
1968 - 1976: Chủ tịch Ủy ban
hành chính tỉnh Cao Bằng.
(Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Cao Bằng - Bộ phận lưu trữ hồ sơ)
|
21
|
Thu Sơn
|
Đồng chí Thu Sơn (1919 -
1998), tên thật là Nguyễn Văn Càng.
Quê quán: Xã Hồng Việt, huyện
Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Tham gia cách mạng từ năm
1936, năm 1941 được kết nạp vào Đảng và được cử đi học tại Trường quân sự
Hoàng Phố (Trung Quốc).
Năm 1944, ông trở về nước
tham gia Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, được giao nhiệm vụ Tiểu
đội trưởng. Trong trận đánh đầu tiên tại đồn Phai Khắt, Tiểu đội trưởng nhập
vai “đội xếp” để tập hợp binh lính trong đồn, tạo điều kiện cho anh em trong
Đội hạ đồn giặc chỉ trong vòng 30 phút. Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông
tham gia lãnh đạo, chỉ huy giành chính quyền tại tỉnh Bắc Kạn (21/8/1945).
Sau đó, ông chỉ huy một Chi đội tham gia đoàn quân “Nam tiến” hoạt động tại
mặt trận Nha Trang;
Cuối năm 1946, Chi đội trưởng
Thu Sơn được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 79 Phú Yên vừa mới thành
lập, một thời gian sau được điều lên làm Phân khu trưởng Bắc Tây Nguyên.
Đến năm 1950, giữ chức Tỉnh
đội trưởng Cao Bằng. Năm 1953 giữ chức Tỉnh đội trưởng Tuyên Quang, rồi năm
1958 làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh kiêm Tỉnh đội trưởng.
Tháng 2 năm 1962, ông chuyển
về làm Chánh án Tòa án nhân dân Khu tự trị Việt Bắc, nghỉ hưu sớm năm 1971.
Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương Chiến
thắng hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất.
(Nguồn: Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Nxb Quân đội nhân
dân 2004)
|
22
|
Dương Đại Long
|
Đồng chí Dương Đại Long (1911
- 1979), tên thật Dương Văn, người dân tộc Nùng.
Quê quán: Pác Bó, xã Trường
Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
1936 - 1930: Là hội viên
trung kiên trong hoạt động phong trào phản đế ở Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh
Cao Bằng.
Giai đoạn 1941 - 1944: ông là
một trong những cán bộ nòng cốt của Đội tự vệ xã Trường Hà; Đội vũ trang Châu
Hà Quảng. Là một trong 34 chiến sĩ trong Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân.
Sau cách mạng Tháng Tám 1945
ông được cử làm Đại đội trưởng Việt Nam giải phóng quân thay cho đồng chí Thu
Sơn đi Nam tiến. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ ông được điều về làm tiểu đoàn
phó Tiểu đoàn Độc lập ở Bắc Kạn. Sau sự kiện quân Pháp nhảy dù xuống Cao
Bằng, ông được điều lên làm Tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn
174 (Cao Bằng). Trong những năm cuối của kháng chiến chống Pháp ông lần lượt
làm huyện đội trưởng các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, Phục Hòa. Năm 1955, ông
được phong quân hàm Đại úy. Tháng 7 năm 1959 chuyển ra làm Phó chủ tịch Ủy
ban hành chính tỉnh Cao Bằng cho đến khi nghỉ hưu (tháng 12 năm 1969). Ông đã
được tặng thưởng: Huân chương quân công hạng nhất; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang
hạng Ba; Bằng có công với nước.
(Nguồn: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Nxb Quân đội nhân
dân, năm 2004)
|
23
|
Vũ Ngọc Linh
|
Đồng chí Vũ Ngọc Linh (1920 -
?), tên thật là Nguyễn Văn An, người dân tộc Kinh.
Quê quán: Xã Tri Phương,
huyện Tiên Du, huyện Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh).
Được kết nạp vào Đảng giữa
năm 1944.
1943 - 1944: Từ trại tập
trung Bá Vân về quê hoạt động; Bí thư Việt Minh huyện Tiên Du.
1945 - 1946: Bí thư Việt Minh
tỉnh Vĩnh Phúc; sau khi cướp chính quyền là Tỉnh ủy viên.
1947 - 1948: Tỉnh đội trưởng;
Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Vĩnh Yên; Bí thư tỉnh ủy.
1949 - 1951: Khu ủy viên Khu
Việt Bắc; Phó ban Kiểm tra Khu; Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc.
1952 - 1955: Giám đốc Công an
Liên khu Việt Bắc; Ủy ban hành chính Liên khu Việt Bắc.
1956 - 1959: Thường vụ Khu ủy
Khu tự trị Việt bắc; Phụ trách Thường trực, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính
(UBHC).
1960 - 1961: Phó Bí thư Khu
ủy Khu tự trị Việt bắc; Phụ trách Thường trực.
1962 - 1963: Đi học Trường
Đảng Nguyễn Ái Quốc.
1963 - 1976: Bí thư Tỉnh ủy
Cao Bằng.
Khen thưởng: Huân chương
Kháng chiến hạng Nhất.
(Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Cao Bằng - Bộ phận lưu trữ hồ sơ)
|
24
|
Dương Mạc Thạch
|
Đồng chí Dương Mạc Thạch
(1915 - 1979), tên thật là Dương Mạc Cam, bí danh Xích Thắng, người dân tộc
Tày.
Quê quán: Xã Minh Tâm, huyện Nguyên
Bình, tỉnh Cao Bằng.
Năm 193 được kết nạp vào Đảng.
1934 - 1940, ông hoạt động ở Nguyên
Bình, là hạt nhân lãnh đạo tiêu biểu, trực tiếp thành lập hai Chi bộ Đảng đầu
tiên ở huyện Nguyên Bình.
Năm 1940, Ủy viên Ban Chấp
hành lâm thời Tỉnh ủy Cao Bằng.
Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân thành lập, ông là chính trị viên của Đội.
Trong cách mạng Tháng Tám năm
1945, ông cùng đơn vị tham gia giải phóng thị xã Bắc Kạn; thành lập chính quyền
ở các huyện Chợ Rã, Bạch Thông.
Từ năm 1945 đến năm 1948, ông
hoạt động chủ yếu ở Bắc Cạn và đã có thời kỳ làm Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban
hành chính kháng chiến Bắc Kạn.
Năm 1949, ông được điều về Bộ
Quốc phòng, được bổ nhiệm làm Trưởng phòng quốc dân miền núi của Liên khu 1.
Năm 1950, ông được cử đi học
tập tại Trường Chính trị Hà Nam (Trung Quốc); sau khi về nước ông được Trung
ương cử lên Hà Giang, lần lượt đảm trách các chức vụ Tỉnh ủy viên rồi Phó Bí
thư tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh.
Năm 1970, ông làm Bí thư Đảng
ủy Trường Đại học Nông nghiệp III Bắc Thái.
Ông được Nhà nước tặng
thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất.
(Nguồn: Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Nxb Quân đội nhân
dân, năm 2004)
|
|
|
|
25
|
Tô Vũ Dâu
|
Đồng chí Tô Vũ Dâu (1922 -
2002), Bí danh: Thịnh Nguyên, người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Vĩnh Quang,
huyện Hòa An (nay là thành phố Cao Bằng), tỉnh Cao Bằng.
Đầu năm 1937, đưa bản “dân
nguyện” cho vị đại diện Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp.
Trong những năm 1941 - 1944,
Tô Vũ Dâu xây dựng phát triển phong trào Việt Minh, tổ chức các đoàn thể Cứu
quốc ngay tại địa phương và làm Chủ nhiệm Việt Minh xã Vệ Linh.
Ngày 22/12/1944, ông là một
trong 34 chiến sĩ Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tham gia hai
trận đánh đồn Phai Khắt và Nà Ngần.
Sau đó Thịnh Nguyên được phân
công về cơ quan Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, ngày 01/01/1945, ông được kết
nạp vào Đảng.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945),
ông được phái xuống Trà Lĩnh tham gia khôi phục phong trào cách mạng ở địa
phương, đồng thời chỉ đạo cướp chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám (1945 -
4/1946):
Ngày 19/8/1945, thực hiện sự
chỉ đạo của Tỉnh ủy ông tham gia Ban cán sự huyện Trà Lĩnh do đồng chí Dương
Công Hoạt làm Trưởng Ban.
Ngày 19/5/1946, tại cơ quan
Ủy ban hành chính huyện ở phố Hạ Lang (xã Thanh Nhật), Chi bộ Đảng đầu tiên
huyện Hạ Lang ra đời, gồm có đồng chí Thịnh Nguyên, Lưu Minh, Hồng Tâm, Thế
Xương, đồng chí Thịnh Nguyên được chỉ định là Bí thư chi bộ làm nhiệm vụ như
Huyện ủy.
Tháng 6/1946, ông công tác
tại Huyện ủy huyện Hạ Lang, giữ chức vụ Bí thư Huyện Hạ Lang.
Tháng 3/1947, ông công tác
tại Huyện ủy Trà Lĩnh, giữ chức vụ Bí thư Huyện Trà Lĩnh.
Tháng 12/1949, ông làm Phó Bí
thư Huyện ủy Hòa An. Sau đó, công tác tại Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Cao Bằng.
Ông được tặng thưởng: Huân
chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì.
(Nguồn: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Nxb Quân đội nhân
dân, năm 2004; Lịch sử Đảng bộ huyện Hạ Lang (1930 - 2000). Nxb Chính
trị Quốc gia, năm 2003; Lịch sử Đảng bộ huyện Hòa An (1930 - 2010. Nxb Chính
trị Quốc gia, năm 2015)
|
26
|
Xuân Trường
|
Đồng chí Xuân Trường(? -
1945), tên thật là Hoàng Văn Nhủng, người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Sóc Hà, huyện Hà
Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Tham gia cách mạng từ năm
1936, với bí danh Xuân Trường, từ một liên lạc viên, ông đã trở thành một cán
bộ có kinh nghiệm trong phong trào thành niên phản đế của châu Hà Quảng.
Giữa năm 1940, cùng với một
số cán bộ tiêu biểu của Cao Bằng, ông được cử đi học quân sự ở Liễu Châu,
Trung Quốc.
Đầu năm 1944, ông về nước và
hoạt động chủ yếu ở vùng Lục Khu - Hà Quảng.
Ngày 22/12/1944, Xuân Trường
là một trong 34 đội viên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.
Đầu tháng 2/1945, toàn Đội
tiến quân vào Bảo Lạc, đánh đồn Đồng Mu. Tại đây trận đánh diễn ra không như
dự kiến, do bị lộ, địch đã chuẩn bị đối phó. Tiểu đội trưởng Xuân Trường anh dũng
hy sinh (ngày 04/02/1945). Xuân Trường trở thành người Liệt sĩ đầu tiên của
Quân đội Nhân dân Việt Nam.
(Nguồn: Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Nxb Quân đội
Nhân dân 2003)
|
27
|
Lê Thị Minh Cầm
|
Đồng chí Lê Minh Cầm (? - ?),
tên thật là Lê Thị Chói, người dân tộc Tày.
Quê quán: Hà Quảng.
Đầu năm 1944, bà được kết nạp
vào Đảng Cộng sản Đông Dương, Bà đã vinh dự được chứng kiến ngày Đội Việt Nam
Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời vào ngày 22/12/1944 . Bà được giao nhiệm vụ
tham gia bộ phận nấu ăn cho đội, gồm có 3 phụ nữ là Minh Cầm, Nhật Thành và
Nhật Tâm (tên bí danh).
Khu giải phóng quân được mở
rộng, bà nằm trong tiểu đội Việt Nam giải phóng quân do đồng chí Văn phụ
trách tiến về chợ Chu sáp nhập với Cứu quốc quân do đồng chí Chu văn Tấn chỉ
huy sau khi đánh chiếm xong Thị xã Thái Nguyên bà được cử đi học lớp quân
chính kháng Nhật tại Tân Trào. Sau khi có lệnh tổng khởi nghĩa dành chính
quyền, bà nhận được lệnh tham gia đơn vị tiến về thủ đô Hà Nội cướp chính
quyền.
Sau này bà trở thành Hội
trưởng Hội phụ nữ Khu tự trị Việt Bắc; Đại biểu Quốc hội khóa II.
Bà được Đảng, Nhà nước trao
tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
(Nguồn: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp đơn vị Bảo tàng tỉnh, một số
gương mặt phụ nữ tiêu biểu của Cao Bằng qua các thời kỳ lịch sử - 2016)
|
28
|
Nông Thị Triểu
|
Đồng chí Nông Thị Triểu (? -
?), tức Nhân Tương.
Ngày 15/4/1945, chi bộ cộng
sản đầu tiên ở châu Bảo Lạc đã ra đời tại xóm Lũng Sáu (nay thuộc xã Hồng
An). Chi bộ gồm có 03 đảng viên: Nông Thị Triểu (tức Nhân Tương), Lê Long, Đỗ
Quang Soan (tức Đỗ Quang Thắng), do đồng chí Nông Thị Triểu làm Bí thư. Sự ra
đời của Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của Bảo Lạc, đánh dấu thời kỳ phát triển
mới của phong trào cách mạng ở châu Bảo Lạc. Từ đây, cuộc đấu tranh của nhân
dân trong vùng đã có sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng, nhân tố có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng bảo đảm thắng lợi của công cuộc giải phóng dân tộc
trên quê hương Bảo Lạc.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Bảo Lạc (1930 - 2005). Nxb Lao động,
năm 2010)
|
29
|
Hà Hưng Long
|
Đồng chí Hà Hưng Long (1924 -
2013), người dân tộc Tày.
Quê quán:Xã Nam Tuấn, huyện
Hoà An, tỉnh Cao Bằng.
Năm 1941, là đội viên Đội tự
vệ châu Hoà An, từ 1941 - 1944, ông hoạt động chủ yếu tại Hoà An, Hà Quảng.
Ngày 22/12/1944, ông là một trong 34 chiến sĩ Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân. Sau khi tham gia đánh ba đồn Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu, Ông
được đi với đoàn đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái xuống Chợ Rã, Chợ
Đồn (Bắc Kạn), Sơn Dương (Tuyên Quang). Sau Nhật đảo chính Pháp, ông làm Tiểu
đội trưởng chống Nhật ở Bắc Kạn, rồi Chính trị viên Đại đội. Sau Cách mạng
Tháng Tám 1945, Bắc Kạn thành lập Đại đội do ông chỉ huy lên đường sang Yên
Bái, Tuyên Quang tước vũ khí Quốc dân đảng. Tháng 10/1945, ông chỉ huy đơn vị
lên Hà Giang đánh phỉ, tháng 8/1946, được kết nạp vào Đảng. Năm 1947, ông làm
Chính trị viên Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Hà Tuyên thuộc Liên khu 10. Từ tháng
10/1948 làm Trưởng ban cán bộ Liên Khu 10.
Để chuẩn bị Chiến dịch Biên
giới 1950, ông về làm Chủ nhiệm vận tải mặt trận, Phó Chủ nhiệm ban tiếp nhận
viện trợ tại Tà Lùng - Thủy Khẩu.
Trong những năm 1951 - 1954,
ông lần lượt làm Binh trạm trưởng vận tải các chiến dịch lớn. Năm 1958, ông
về Bộ Công nghiệp, sau đó, làm Bí thư Đảng ủy Sở công nghiệp Hà Tuyên đến năm
1976.
Ông Hà Hưng Long đã được tặng
thưởng: Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương
Chiến công hạng Nhì, Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.
(Nguồn: Bộ Quốc Phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Đội Việt Nam
Tuyên truyền giải phóng quân. Nxb Quân Đội Nhân dân, Hà Nội-2003)
|
30
|
Nông Thị Trưng
|
Đồng chí Nông Thị Trưng (1920
- 2003), tên thật là Nông Thị Bày, dân tộc Tày.
Quê quán: xã Phù Ngọc (nay là
Ngọc Đào), huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Cuối năm 1937, đầu năm 1938
tại Hà Quảng, thực dân Pháp khủng bố, truy bắt cán bộ cách mạng, một số đảng
viên thoát ly gia đình đi vào hoạt động bí mật. Các chị em phụ nữ, tiêu biểu
là Nông thị Trưng đã tìm cách để bắt liên lạc, bí mật tiếp tế lương thực.
Năm 1940, bà tổ chức được một
tổ phụ nữ gồm có 5 chị em do bà làm tổ trưởng, tổ của bà làm nhiệm vụ liên
lạc với các đồng chí hoạt động bí mật như Hoàng Quốc Vân, Đàm Minh Viễn, Phúc
Kiến. Tháng 8 năm 1941 bọn mật thám đến lục soát nhà bà, bà bị bắt sau đó bà đã
trốn thoát sang Bình Mãng (Trung Quốc), bà được đồng chí Vũ Anh và đồng chí
Lê Quảng Ba đã đưa về Pác Bó (thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao
Bằng). Tại đây, Nông Thị Trưng đã được gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được Người
đặt tên Trưng với mong muốn là bà đi theo tấm gương của bà Trưng, bà Triệu.
Bà vinh dự được Người tặng cho cuốn sách “Binh Pháp Tôn Tử” và có đề thơ
ngoài bìa:
“Vở này ta tặng cháu yêu ta
Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là
Mong cháu ra công mà học tập
Mai sau cháu giúp nước non
nhà’’
Tháng 11/1941, Đội du kích
đầu tiên được thành lập (Đội du kích Pác Bó), bà là một trong 12 đội viên du
kích của Đội.
Tháng 12/1942, bà được kết
nạp vào Đảng cộng Sản Việt Nam.
Ngày 20/8/1942, Đại hội Việt
Minh châu Hà Quảng họp tại Lũng Loỏng, xã Nà Sác bầu ra ban Việt Minh châu,
Nông Thị Trưng được bầu vào ban chấp hành Việt Minh, Bí thư Phụ nữ cứu quốc
châu Hà Quảng.
Năm 1942 - 1945: giữ chức vụ
Bí thư phụ nữ cứu quốc.
1964 - 1980, bà được phân
công làm Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng.
(Nguồn: Lịch sử phong trào phụ nữ cứu quốc tỉnh Cao Bằng (1930 -
2010). Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2011)
|
31
|
Đàm Thị Loan
|
Đồng chí Đàm Thị Loan (1926 -
2010), tên thật là Đàm Thị Nết, với các bí danh: Thanh Xuân, Minh Phượng, Minh
Nhật, người dân tộc Tày.
Quê quán: Thôn Ảng Giàng, xã
Bình Long, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Là một trong những đội viên
nữ đầu tiên của đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng; bà vinh dự là một trong
2 đội viên nữ tham gia kéo cờ trong lễ thượng cờ tại Quảng Trường Ba Đình, Hà
Nội ngày 2/9/1945 .
Năm 1958, bà được thăng quân
hàm Thượng úy. Năm 1967, thăng quân hàm Đại úy. Năm 1975, phong quân hàm
Thiếu tá, năm 1977 bà được phong quân hàm Trung tá. Bà nghỉ hưu với quân hàm
Đại tá.
Bà được nhà nước tặng thưởng
Huân chương độc lập, Huân chương kháng chiến hạng Nhất.
(Nguồn: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp đơn vị Bảo tàng tỉnh, một số
gương mặt phụ nữ tiêu biểu của Cao Bằng qua các thời kỳ lịch sử - 2016)
|
32
|
Trung Ngọc
|
Đồng chí Bế Văn Hồng (? - ?),
bí danh Trung Ngọc.
Chức vụ: Bí thư Chi bộ đầu
tiên của huyện Phục Hòa (tháng 3/1945 - tháng 6/1946)
(Nguồn: Lịch sử đảng bộ huyện Phục Hòa 1930 - 2010. Nxb Lao động,
năm 2010)
|
33
|
Cường Linh
|
Đồng chí Hoàng Văn Thức (? -
?), tức Cường Linh.
Đồng chí được bầu giữ chức Bí
thư Chi bộ đảng đầu tiên của huyện Trấn Biên (tức huyện Trà Lĩnh cũ), giai
đoạn (5/1946 - 11/1946).
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Trà Lĩnh 1930 - 2015)
|
34
|
Lê Thành
|
Đồng chí Lê Thành (? - ?).
Chức vụ: Bí thư Tỉnh ủy năm
1947.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia Sự
thật, năm 2020)
|
35
|
Lê Khắc
|
Đồng chí Lê Khắc - Phó Bí thư
Tỉnh ủy năm 1947.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia Sự
thật, năm 2020)
|
36
|
Dương Công Hoạt
|
Đồng chí Dương Công Hoạt(1912
- 2001), bí danh Cao Cường, người dân tộc Tày.
Quê quán: Xã Hưng Đạo, huyện
Hòa An (nay là thành phố Cao Bằng).
Chức vụ: Trưởng Ban cán sự
huyện Trà Lĩnh 1945; Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh (1947-1948); Chủ tịch
Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh (1951-1953); Bí thư Tỉnh ủy (1950 - 1957).
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia Sự
thật, năm 2020)
|
37
|
Khuất Duy Tiên
|
Đồng chí Khuất Duy Tiên (? -
?), bí danh của Quang Mỹ.
Chức vụ: Bí thư Ban cán sự
huyện Phục Hòa từ tháng 3/1947 - 7/1947
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Phục Hòa 1930 - 2010. Nxb Lao động,
năm 2010)
|
38
|
Triệu Nguyên
|
Đồng chí Triệu Nguyên (1922 -
1948), tên thật là Triệu Văn Chính.
Quê quán: Nước Giáp, Hợp
Giang, thị xã Cao Bằng (nay là thành phố Cao Bằng), tỉnh Cao Bằng.
Ông làm công nhân mỏ thiếc
Tĩnh Túc. Tại đây ông sớm giác ngộ Cách mạng, đấu tranh cho quyền lợi công
nhân và được mọi người tin yêu. Ngày 22/6/1948 tỉnh Cao Bằng thống nhất các
võ trang tuyên truyền của bộ đội và dân quân. Ông Triệu Nguyên được đề bạt
làm Đại đội trưởng, sau làm chính trị viên đại đội võ trang tuyên truyền, đa
số quân là người Mông, Dao. Ông đã phân từng tổ đi các làng, các vùng tạm
chiếm, gây cơ sở phá tề, trừ gian, diệt phản động. Bọn địch rất căm tức, treo
giải thưởng cho ai bắt sống Triệu Nguyên được thưởng 3 tạ muối, ai nộp đầu
ông Triệu Nguyên được thưởng 2 tạ muối. Ông Triệu Nguyên đi họp Hội nghị ở
Bản Hoàng xã Dân Chủ, huyện Hòa An, Khi trở về qua Khau Công, Mã Qủynh vào
Thông Nông đi Táp Ná ông bị Pháp và bọn phản động phục kích, ông đã hy sinh.
Ông được tặng thưởng Huân
chương Chiến thắng hạng Ba và nhận bằng Tổ Quốc ghi công.
Tên của ông đã được đặt tên
cho xã Triệu Nguyên, huyện Nguyên Bình.
(Nguồn: Lịch sử đảng bộ huyện Nguyên Bình 1930-2010, Nxb Chính trị
Quốc gia, năm 2010)
|
39
|
Hoàng Bảo Minh
|
Đồng chí Hoàng Bảo Minh (? -
?), bí danh Hoàng Bảo Bối.
Chức vụ: Bí thư chi bộ đầu
tiên của huyện Bảo Lâm.
Từ năm 1949, Tỉnh ủy và Ủy
ban kháng chiến hành chính tỉnh Cao Bằng đã cử các đồng chí Hoàng Bảo Minh
(Hoàng Bảo Bối), Hoàng Văn Kháng, Hoàng Nguyễn Kim vào khu Nùng Vân, gồm 5
xã: Tân Việt, Mông Ân, Nam Quang, Thái Học, Yên Thổ để tuyên truyền, vận động
quần chúng, gây cơ sở cách mạng. Sau một thời gian gây dựng phong trào, phát
triển cơ sở và quần chúng cốt cán, phát triển đảng viên, ở khu Nùng Vân đã có
những điều kiện để thành lập Chi bộ đảng đầu tiên.
Ngày 21/11/1949, Chi bộ đảng
đầu tiên ở khu Nùng Vân được thành lập ở xã Mông Ân, gồm các đảng viên: Hoàng
Bảo Minh, Bí thư Chi bộ; Hoàng Văn Kháng, Hoàng Nguyễn Kim (xã Nam Quang);
Hoàng Văn Thuận, Nông Văn Tung, Hoàng Văn Ý (xã Mông Ân); Giàng A Lự, Lý Tờ
Phà (xã Tân Việt); Nông Văn Lịch (xã Thái Học). Đây là chi bộ đảng cộng sản
đầu tiên ở miền Tây Nam của Bảo Lạc (huyện Bảo Lâm ngày nay), còn gọi là Chi
bộ E5. Hoạt động của Chi bộ lúc bấy giờ có tính chất liên xã. Sự ra đời của
Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Bảo Lâm mở ra bước ngoặt mới đối với phong
trào cách mạng
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Bảo Lâm (1930-2005). Nxb Lao động, năm
2010)
|
40
|
Triệu Thị Soi
|
Triệu Thị Soi (1927 - 2011),
dân tộc Nùng, quê quán xã Đoài Dương nay là xã Thân giáp huyện Trùng Khánh,
tỉnh Cao Bằng. Được kết nạp vào Đảng tháng 11 năm 1963.
TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
Quá trình công tác của bà
Triệu Thị Soi đã trải qua nhiều cương vị khác nhau: Năm 1945, bà làm tiểu đội
phó du kích xã, ủy viên chấp hành phụ xã Thân Giáp. Từ năm 1946-1949 bà phụ
trách dân quân vận chuyển gạo cho chiến dịch Đông Khê. Năm 1949 - 1950: Ủy
viên chấp hành phụ nữ xã. Từ năm 1950 - 1951: Bà tham gia dân công vận chuyển
tà vẹt ở Phục Hòa, Cao Bằng. Triệu Thị Soi đã có nhiều thành tích đặc biệt
xuất sắc trong Chiến dịch Biên giới, chiến dịch làm gỗ tà vẹt và trong lao
động sản xuất xây dựng Chủ nghĩa xã hội là tấm gương sáng để chị em phụ nữ
học tập và noi theo.
Đầu năm 1951, Trung ương giao
cho Cao Bằng phải sản xuất 200.000 thanh gỗ tàvẹt để làm đường xe lửa từ Nam
Ninh đến Hữu Nghị Quan. Đây là một nhiệm vụ quan trọng và là chiến dịch đột
xuất của tỉnh. Phục vụ chiến dịch này, đa số là chị em phụ nữ, điển hình là
chị Triệu Thị Soi vác tà vẹt nặng gấp 4 lần các chị em khác, chị đã được bầu
là Chiến sĩ thi đua toàn quốc, được Bác Hồ gửi thư khen ngợi. Với những cống hiến
và thành tích của bà, bà đã được tặng thưởng huân chương chiến sĩ hạng Ba,
Huy chương chiến sĩ hạng Nhất.
(Nguồn: Báo điện tử Cao Bằng; Lịch sử tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị
Quốc gia, năm 2009)
|
41
|
Đinh Thị Đậu
|
Đồng chí Đinh Thị Đậu (1927 -
2010); quê quán: Nà Pá, xã Đức Xuân, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.
Bà tham gia hoạt động cách
mạng từ năm 14 tuổi.Năm 23 tuổi bà tham gia dân công tải đạn trong chiến dịch
Biên Giới 1950, Đinh Thị Đậu nhiều lần vượt qua bom đạn tiếp tế đạn cho bộ
đội và dùng thắt lưng cõng thương binh vượt qua lửa đạn về hậu cứ cứu chữa.
Được Bác Hồ tuyên dương và được Chính phủ tặng Huân chương Chiến công hạng
Hai. Ủy Ban Kháng chiến hành chính Liên Khu Việt Bắc tặng giấy khen có nhiều
thành tích trong khi phục vụ chiến dịch Lê Hồng Phong.
Năm 1998 bà được nhận Huân
chương kháng chiến hạng Nhì.
(Nguồn: Bản ghi chép hiện vật - Bảo tàng tỉnh)
|
42
|
Nhất Tam
|
Đồng chí Nhất Tam(? - ?), tức
Phạm Khắc Tuân.
Chức vụ: Bí thư - Chủ tịch
huyện Phục Hòa năm 1950-1951
(Nguồn: Lịch sử đảng bộ huyện Phục Hòa 1930-2010. Nxb Lao động, 2010)
|
43
|
Đào Duy Tùng
|
Đồng chí Đào Duy Tùng (1924 -
1998), ông sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước tại xã Cổ Loa, huyện Đông
Anh, thành phố Hà Nội.
Chức vụ: Phó Bí thư Tỉnh ủy
Cao Bằng, khóa III (1951 - 1959); Thường trực Bộ Chính trị - Ban Bí thư Trung
ương Đảng (1/1994); Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương (1986); Tổng Biên tập Tạp
chí Học tập (1965 - 1982), (nay là Tạp chí Cộng sản - cơ quan lý luận và chính
trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng).
Tặng thưởng: Huân chương Độc
lập hạng Nhất; Huân chương Hồ Chí Minh.
Hiện nay, tên ông đã được đặt
tên đường ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội (đường Đào Duy Tùng rộng 17,5m,
dài 2400m và tên phố tại thành phố Nam Định (phố Đào Dung Tùng rộng 20m, dài
287m).
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia Sự
thật, năm 2020; tuyengiao.vn)
|
4.6.
|
Văn nghệ sỹ tiêu biểu: 12
tên
|
1
|
Nguyễn Du
|
Nhà văn, nhà thơ Nguyễn Du
(1765 - 1820), tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên.
Quê quán: Phường Bích Câu,
Thăng Long (nay là Hà Nội) trong một dòng họ khoa bảng nổi tiếng bậc nhất
thời bấy giờ ở xứ Nghệ.
Ông sinh ra và học hành ở
kinh đô. Sau khi Gia Long lên ngôi, Nguyễn Du trở lại chốn quan truờng, ông
từng giữ các chức quan: Tri huyện; tri phủ; Đông các học sĩ, tước Du Đức hầu;
Cai bạ (hàm Tứ phẩm); Cần chánh điện học sĩ (Chính Tam phẩm); Lễ bộ hữu Tham
tri (tòng Nhị phẩm).
Những tác phẩm tiêu biểu: Ba
tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục;
các tác phẩm thơ Nôm: Văn tế thập loại chúng sinh, Văn tế sống Trường Lưu nhị
nữ, Thác lời trai phường nón. Đặc biệt nhất là Truyện Kiều - đỉnh cao của văn
học cổ điển Việt Nam.
Ông được các thế hệ người
Việt Nam tôn vinh là Đại thi hào dân tộc, Hội đồng Hòa bình thế giới vinh
danh ông là Danh nhân văn hóa thế giới. Hiện nay, Truyện Kiều đã được dịch ra
hơn 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó tiếng Pháp có trên 10 bản dịch,
tiếng Anh và tiếng Hàn Quốc , tiếng Nhật…
Ngày 25/10/2013, tại kỳ họp
lần thứ 37 của Đại Hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
Hợp Quốc (UNESCO) họp ở Paris đã chính thức ban hành Quyết định số 37C/15
vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 danh nhân văn hóa toàn thế giới.
(Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử - baocaobang.vn)
|
2
|
Hoàng Triều Ân
|
Nhà văn Hoàng Triều Ân (1931
- 2019).
Quê quán: Lam Sơn, Hồng Việt,
Hòa An. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Ủy viên BCH Hội văn nghệ
Khu tự trị Việt Bắc, Ủy viên BCH Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, hội viên Hội
Văn học - Nghệ thuật tỉnh Cao Bằng.
Những cuốn sách đã xuất bản
gồm: Thơ: Tung còn và suối đàn - 1963; Nắng ngàn - 1974; Bốn
mùa hoa -1974; Kin mác (thơ Tày) - 1975; Chốn xa xăm - 1990;
Hoa Vông - 1994; Hoa và nắng - 2000; Một lần thăm Trung Quốc
- 2005; Thơ Triều Ân - 2007. Tiểu thuyết: Nắng vàng bản Dao -
1992; Nơi ấy biên thùy - 1994; Dặm ngàn rong ruổi - 2000; Triều
Ân văn tuyển - 2007; Tiểu thuyết Triều Ân - 2009; Trên vùng mây
trắng - 2011. Truyện ngắn: Tiếng hát rừng xa - 1969; Tiếng khèn
A Pá - 1980; Như cánh chim trời - 1982; Đường qua nẻo mây -
1988; Xứ sương mù - 2000; Chuyện đời thường 2011 và 28 công trình
nghiên cứu văn nghệ dân gian, 3 từ điển.
Hơn 50 đầu sách văn học ông
đã viết (gồm Giải thưởng Nhà nước) không chỉ tôn vinh trí tuệ, tâm huyết lao động
của ông mà để lại giá trị văn hóa, Văn học dân gian quê hương cho thế hệ mai
sau. Ông được nhận giải thưởng Nhà nước về văn học - văn hóa dân gian năm 2012,
Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì,
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì.
(Nguồn: Tuyển tập thơ văn Triều Ân, Nxb Văn học, năm 2006; Báo điện
tử Cao Bằng - caobang.vn)
|
3
|
Nông Quốc Chấn
|
Nhà thơ Nông Quốc Chấn (1923
- 2002), dân tộc Tày. Thuở nhỏ có tên là Nông Văn Đăm, tên khai sinh là Nông Văn
Quỳnh, tên bí mật từ năm 1941 đến 1944 khi tham gia cách mạng là Quốc Bảo. Từ
1944 đến nay, tên thường dùng là Nông Quốc Chấn, ngoài ra ông còn bút danh
khác như: Sông Cầu, Xiêng Xa Lỳ.
Quê quán: Bản Nà Cọt (còn gọi
là Bó Slảng) thuộc xã Châu Khê, Bằng Đức, Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn.
Năm 1947, sáng tác trường ca Việt
Bắc tức slấc (Việt Bắc đánh giặc). Năm 1948, tham gia Ban chấp hành tỉnh đảng
bộ Bắc Kạn, kiêm chủ bút tờ báo Tin tức Bắc Kạn.
Năm 1949, tham gia Ban Thường
vụ Tỉnh ủy Bắc Kạn
Năm 1957, ông là ủy viên tiểu
ban Văn nghệ của Trung ương Đảng.
Từ năm 1958 đến năm 1964, ông
là Khu ủy viên Đảng bộ Khu tự trị Việt Bắc, phó ban Tuyên huấn Khu ủy, Chủ
tịch Hội văn nghệ Việt Bắc, Giám đốc Sở Văn hóa Việt Bắc, Chủ nhiệm Nhà xuất
bản Việt Bắc.
Năm 1970, là Thứ trưởng Bộ
Văn hóa; Năm 1973, Giám đốc Nhà xuất bản Văn hóa; Từ năm 1973 - 1975, Tổng
Biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật; Năm 1979 - 1980, Giám đốc Nhà xuất bản
Văn học
Năm 1983 - 1985, Hiệu trưởng trường
viết văn mang tên Nguyễn Du
Năm 1984, Hiệu trưởng trường
Đại học Văn hóa Hà Nội.
Những tác phẩm tiêu biểu: Dọn
về làng (đạt giải nhì cuộc thi thơ tại Đại hội liên hoan thanh niên và sinh
viên thế giới lần thứ hai ở Berlin); tập ký sự bằng thơ Pây Bá Linh mà (Đi
Bá Linh về) xuất bản năm 1952; các tác phẩm đã xuất bản thành sách: Tiếng
ca người Việt Bắc, Tiếng lượn cần Việt Bắc, Cần Phia Bjoóc, Đèo Gió,
Dám Kha Pác Bó (bước chân Pác Bó), Dòng Thác, Suối và biển, và các tập
tiểu luận phê bình văn học Đường ta đi, Một vườn hoa nhiều hương sắc,
Chặng đường mới.
Ông được tặng: Huân chương
Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Lao động
hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất.
(Nguồn: Tuyển tập Nông Quốc Chấn, Nxb Văn hóa dân tộc, năm 1998)
|
4
|
Hoa Cương
|
Nhạc sĩ Hoa Cương (1930 -
2009), tên thật là Hoàng Hoa Cương.
Quê quán: Làng Nà Toàn,
phường Đề Thám, TP Cao Bằng. Trưởng đoàn Văn công tỉnh Cao Bằng (Sở Văn hóa -
Thông tin Cao Bằng). Ông đã sáng tác và công bố khá nhiều bài then nổi tiếng:
"Ba Bể cảnh tiên", "Hái nụ hái hoa", "Chồng bộ
đội vợ dân quân", "Trăng soi đường Bác", "Non xa xa nước
xa xa"... Ông dựng những bài hát then cho Đoàn nghệ thuật tỉnh Cao
Bằng và đi công diễn ở nhiều nơi.
Ông là người chắp cánh cho
nghệ thuật hát Then đến gần với công chúng. Là người có nhiều đóng góp trong
sự nghiệp bảo tồn di sản hát Then. Với tư cách Trưởng đoàn Văn công tỉnh Cao Bằng,
ông đã mở trường dạy hát then tại Cao Bằng. Ông đã dạy cho hơn 300 học trò.
Ông đã truyền lại nghệ thuật hát then - đàn tính cho con em địa phương, góp
phần cho công tác bảo tồn nghệ thuật hát then - đàn tính của tỉnh Cao Bằng.
(Nguồn: Báo Cao Bằng)
|
5
|
Bàn Tài Đoàn
|
Nhà thơ Bàn Tài Đoàn (1913 - 2007),
tên thật là Bàn Tài Tuyên, người dân tộc Dao Tiền.
Quê quán: Bản Sí Kèng, xã
Quang Thành, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.
Trước Cách mạng Tháng Tám
1945, ông sống ở Nà Sang, xã Tam Kim (Nguyên Bình). Tại khu rừng Slam Cao,
ông đã được gặp các “anh cách mạng” là anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp),
anh Đinh (Lê Thiết Hùng), anh Trọng Khánh (Dương Văn Long), anh Việt Xô (Mạc
Văn Úc)... Được các anh giác ngộ cách mạng, Bàn Tài Tuyên hăng hái tham gia.
Anh Văn bố trí Tài Tuyên làm tuyên truyền, khuyến khích làm thơ, đặt tên bí
danh là Đoàn Kết, các bài thơ làm ra đều lấy tên là Tài Đoàn, nghĩa là người
đoàn kết rộng lớn. Từ đó cái tên Bàn Tài Đoàn gắn bó với người Dao, người
Nguyên Bình và cả người Việt Bắc, rồi cả nước.
Các bài thơ của ông như: Muối
cụ Hồ, Sáng cả hai miền, Bác Hồ sống mãi trong ta, Mình ơi..., đi vào tâm
thức của mọi người yêu thơ.
Suốt hơn 60 năm lao động sáng
tạo nghệ thuật, ông đã cho xuất bản hơn 20 tác phẩm thơ, tiểu luận, được nhận
Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật (đợt I) năm 2001.
(Nguồn: Bàn Tài Đoàn tuyển tập thơ, văn. Nxb Văn hóa dân tộc, năm
2006; Báo điện tử Cao Bằng - caobang.vn)
|
6
|
Y Phương
|
Nhà thơ Y Phương (1948 -
2022), tên thật là Hứa Vĩnh Xước, người dân tộc Tày.
Quê quán: xã Lăng Hiếu, huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Ông nhập ngũ năm 1968, phục
vụ trong quân đội đến năm 1981. Sau đó, ông theo học và tốt nghiệp khóa II (1982-
1986) trường Viết văn Nguyễn Du. Năm 1986, ông về công tác tại Sở Văn hóa
Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1991, ông là Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Cao
Bằng.
Năm 1993 đến 2021, ông là Chủ
tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng, Ủy viên Ban Chấp hành, Trưởng Ban Kiểm
tra Hội Nhà văn Việt Nam khóa VI.
Ông bắt đầu sự nghiệp thơ ca
từ năm 1973, khi những tác phẩm được in trên báo như "Bếp nhà trời",
"Dáng một con sông". Trong hơn 30 năm cầm bút của mình, nhà thơ
Y Phương đã xuất bản nhiều tác phẩm gồm: Tập kịch "Người của núi"
(1982); các tập thơ gồm "Người Núi Hoa" (1982), "Tiếng
hát tháng Giêng" (1986), "Lửa hồng một góc" (1987),
"Lời chúc" (1991), "Đàn Then" (1996),
"Thơ Y Phương" (2002),... Bên cạnh, ông đó còn có 2 tập song
ngữ "Vũ khúc Tày" (Tủng Tày) và "Hoa quả
chuông" (Bjooc ăn lình); 2 tập tản văn: "Tháng Giêng - tháng
Giêng một vòng dao quắm" (2009) và "Kungfu người Co
Xàu" (2010).
Các giải thưởng đã đạt được:
Giải A cuộc thi thơ tạp chí văn nghệ quân đội 1984 với hai bài: Tên làng,
Phòng tuyến Khau liêu; Giải A của Hội nhà văn Việt Nam 1987 với
tập thơ: Tiếng hát tháng giêng; giải A của Hội đồng văn học Dân tộc
thiểu số Hội nhà văn Việt Nam. 1992 với tập thơ: Lời chúc.
Tập thơ: Tiếng hát tháng
giêng đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.
(Nguồn: Sách "Núi mọc trong mặt gương" của Hội VHNT các
dân tộc thiểu số Việt Nam. Nxb Văn hóa dân tộc, năm 1998; báo điện tử
Dân tộc và miền núi : Dantocmiennui.vn)
|
7
|
Đàm Thanh
|
Nhạc sỹ Đàm Thanh (1939 -
2003), người dân tộc Tày.
Quê quán: Thị trấn Nước Hai,
huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Nhạc sĩ Đàm Thanh học sáng
tác tại Trường Âm nhạc Việt Nam từ năm 1957. Năm 1961, ông về công tác ở Đoàn
Văn công Nhân dân Khu tự trị Việt Bắc, là nhạc sĩ sáng tác. Năm 1963, ông
chuyển về Đoàn Văn công Đắk-Lắk tham gia sáng tác và chỉ đạo nghệ thuật. Từ
năm 1987, ông lại trở về Đoàn Ca Múa Dân gian Việt Bắc (tên gọi mới của Đoàn
Văn công Nhân dân Khu tự trị Việt Bắc). Ông viết khá nhiều ca khúc và một số
tác phẩm đã có sức phổ biến rộng, trở thành những bài ca đi cùng năm tháng.
Ngoài ra ông còn tham gia
viết nhạc cho múa, nhạc cho kịch nói tiếng Tày (như các vở Kim Đồng, Bác
Kỹ sư). Ca khúc tiêu biểu của ông: Cánh chim báo tin vui, Anh quân bưu
vui tính, Tôi là Lê Anh Nuôi, Con trâu (Animô), Cánh đồng mùa gặt, Con
voi một ngà, Bài ca lái xe đêm.
Đã xuất bản Tuyển chọn ca
khúc Đàm Thanh và Album Đàm Thanh (DIHAVINA, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, 1996).
(Nguồn: Sách Nhạc sĩ Việt Nam hiện đại, Hội nhạc sĩ Việt Nam, xuất
bản năm 1997)
|
8
|
Nguyễn Tài Tuệ
|
Nhạc sỹ Nguyễn Tài Tuệ (1936
- 2022).
Quê quán: Xã Đại Đồng, huyện
Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ là một
trong những nhạc sĩ gạo cội của nền âm nhạc Việt Nam. Là một nhạc sĩ nổi tiếng,
tiêu biểu của dòng nhạc truyền thống cách mạng. Những tác phẩm của ông có đời
sống riêng và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng khán giả, được đông đảo đồng
nghiệp đánh giá cao. Trong số những tác phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ có ca
khúc “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó” được tác giả viết dựa vào dân ca của dân
tộc Nùng. Đây là ca khúc được tác giả viết bằng trái tim của mình, thể hiện
đậm nét hình ảnh Bác Hồ - Người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc trong thời gian
hoạt động tại Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng.
Với những cống hiến cho nền
âm nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ đã được trao tặng Giải thưởng Nhà
nước đợt I (2001) về Văn học Nghệ thuật; Huân chương Lao động hạng Nhì; Huy
chương Vì sự nghiệp Âm nhạc Việt Nam và một số giải thưởng của Hội Nhạc sĩ
Việt Nam…
(Nguồn: Báo điện tử quân đội nhân dân: qdnd.vn)
|
9
|
Văn Cao
|
Nhạc sĩ Văn Cao, tên thật là Nguyễn
Văn Cao (1923 - 1995); quê quán: Lạch Tray, Hải Phòng.
Văn Cao là người nhạc sĩ tài
năng của nền âm nhạc Việt Nam, với nhiều ca khúc nổi tiếng và bất hủ như: “Buồn
tàn thu”, “Thiên thai”, “Suối Mơ”, “Trương Chi”,
“Bến xuân”, “Cung đàn xưa”, “Đàn chim Việt”, “Làng tôi”, “Ngày
mùa”, “Tiến về Hà Nội”, “Ca ngợi Hồ Chủ tịch”...Đặc biệt, tại Đại hội
Quốc dân họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định chọn “Tiến quân ca” làm
Quốc ca nước Việt Nam.
Với những cống hiến trọn đời
cho nền âm nhạc dân tộc, năm 1993, Văn Cao được Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Độc lập hạng Nhất. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh.
(Nguồn: Văn Cao cuộc đời, tác phẩm. Nxb Văn học, 1998; Báo Tin tức -
baotintuc.vn)
|
10
|
Tô Ngọc Vân
|
Họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906 -
1954); quê quán: Làng Xuân Cầu, huyện Vân Giang, tỉnh Hưng Yên.
Tô Ngọc Vân là một trong
những họa sĩ đầu tiên tiếp thu nghệ thuật phương Tây một cách sáng tạo, có kế
thừa truyền thống dân tộc để tạo nên những tác phẩm chất lượng cao, tiêu biểu
như: "Thuyền trên sông Hương", "Thiếu nữ bên hoa huệ",
"Thiếu nữ bên hoa sen"... Riêng bức tranh "Thiếu nữ và
hai em bé" của ông được xếp hạng là bảo vật quốc gia (2013). Ông có 62
tác phẩm có mặt tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã được xếp vào hàng kho báu
của nghệ thuật hội hoạ nước nhà.
Không chỉ là một danh họa tài
ba, Tô Ngọc Vân còn uyên bác về học thuật, một trong những người đầu tiên đặt
nền móng cho ngành lý luận, phê bình mỹ thuật ở Việt Nam, một nhà giáo mỹ
thuật xuất sắc. Tô Ngọc Vân cũng là một trong số rất ít hoạ sĩ Việt Nam đã
sớm vẽ tem ngay từ thời Pháp thuộc. Mẫu tem Apsara của ông là mẫu tem thứ 23
của Bưu điện Đông Dương kể từ khi Pháp phát hành tem thư ở Việt Nam. Và cũng
là tem duy nhất ông góp vào nền nghệ thuật tem thư ở Việt Nam.
Họa sĩ Tô Ngọc Vân đã Đảng và
Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến hạng
Nhì; được Bác Hồ gửi thư khen và tặng áo; Huy chương Vì sự nghiệp Văn họa
Nghệ thuật Việt Nam; Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam…
Năm 1996, ông được truy tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật .
(Nguồn: Các bậc thầy hội họa Việt Nam, Nxb Mỹ thuật Hà Nội; Báo điện
tử Thể thao & Văn hóa - TTXVN)
|
11
|
Chế Lan Viên
|
Nhà thơ Chế Lan Viên (1920 - 1989),
tên thật là Phan Ngọc Hoan; quê quán: Cam Lộ, Quảng Trị.
Năm 17 tuổi, với bút danh Chế
Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay "Điêu tàn". Từ đây,
tên tuổi của ông vụt sáng trên thi đàn Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám nổ ra,
Chế Lan Viên tham gia phong trào cách mạng tại Bình Định, Thừa Thiên - Huế,
viết bài và làm biên tập cho các báo "Quyết thắng", "Cứu quốc",
"Kháng chiến". Năm 1949, Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông
Dương. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo "Văn
học". Ông từng là Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, là đại biểu
Quốc hội các khóa IV, V, VI, VII; Ủy viên Ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc hội.
Trong cuộc đời sáng tác, nhà
thơ Chế Lan Viên để lại nhiều tác phẩm giá trị ở cả thể loại thơ, văn, tiểu
luận phê bình. Đáng chú ý là các tập thơ: "Điêu tàn", "Ánh
sáng và phù sa", "Hoa ngày thường - Chim báo bão", "Những
bài thơ đánh giặc", "Đối thoại mới", "Hoa trên đá",
các tập văn "Vàng sao", "Những ngày nổi giận", "Bác
về quê ta", "Giờ của đô thành"... Trong đó, có nhiều bài
thơ được các thế hệ độc giả yêu mến như "Người đi tìm hình của nước","Tiếng
hát con tàu", "Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?"...
Năm 1996, ông được Nhà nước
truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.
(Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập. Nxb Văn học; Báo điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam - dangcongsan.vn)
|
12
|
Thâm Tâm
|
Nhà thơ Thâm Tâm (1917 -
1950), tên thật là Nguyễn Tuấn Trình.
Quê quán: Thị xã Hải Dương
(nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương.
Từ những năm 1940, ông tham
gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy,
ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm và Truyền bá quốc ngữ...Ông từng thử sức
trên nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ.
Sau cách mạng Tháng Tám 1945,
Thâm Tâm tham gia văn hóa cứu quốc, ở trong Ban biên tập báo Tiên Phong (1945
- 1946), sau đó ông nhập ngũ, làm Thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân (sau là
báo Quân đội Nhân dân).
Ông mất sau một cơn bệnh đột
ngột ngày 18 tháng 8 năm 1950 trên đường đi công tác trong Chiến dịch Biên
giới, được đồng đội và nhân dân địa phương mai táng tại bản Pò Noa, xã Phi
Hải, huyện Quảng Hòa, Cao Bằng.
Thâm Tâm nổi tiếng với bài
thơ Tống biệt hành. Sinh thời ông chưa in thơ thành tập. Sáng tác thơ của ông
được xuất bản năm 1988 trong sưu tập Thơ Thâm Tâm.
Nhà thơ Thâm Tâm được truy
tặng giải thưởng Nhà nước về văn học Nghệ thuật năm 2007.
(Nguồn: Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Cao Bằng)
|
C. Danh mục tên công trình
công cộng: 13 tên
TT
|
Danh mục tên dự kiến
|
Tóm tắt nội dung, sự kiện, địa danh, nhân vật
|
1
|
Hồ Chí Minh
|
Lãnh tụ cách mạng: Chủ tịch
Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 02/9/1969 ), tên lúc nhỏ của Bác là Nguyễn Sinh
Cung, tên khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng
lấy tên là Nguyễn Ái Quốc.
Quê quán: Làng Kim Liên, xã
Nam Liên (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
nhà ái quốc chân chính, nhà cách mạng sáng suốt, vị lãnh tụ thiên tài. Cuộc
đời và sự nghiệp cách mạng của Người gắn liền với lịch sử vẻ vang của dân tộc
Việt Nam. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
của Nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì
hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Năm 1987, Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh
hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.
(Nguồn: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam - dangcongsan.vn)
|
2
|
Pác Bó
|
Địa danh lịch sử: Di tích
lịch sử Pác Bó nằm trên địa bàn xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Đây là địa điểm từng gắn với hoạt động của Bác trong giai đoạn đầu trở về Tổ
quốc lãnh đạo Cách mạng (1941 - 1945). Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc cùng 5
đồng chí đã về nước và ở tại nhà ông Lý Quốc Súng, sau đó chuyển vào hang Cốc
Bó, hang Lũng Lạn và lán Khuổi Nặm. Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, đã diễn ra
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. Hội nghị đã nhận định rõ tình hình trong
nước và thế giới, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, xây dựng căn cứ
địa cách mạng, phát triển chiến tranh du kích, khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền trong cả nước.
(Nguồn: Cục Di sản văn hóa - dsvh.gov.vn)
|
3
|
28 tháng 01
|
Sự kiện lịch sử: Ngày
28/01/1941 (tức ngày mùng 2 Tết Tân Tỵ), Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua
mốc 108 ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc, đặt bước chân đầu tiên lên mảnh
đất Pác Bó, xã Trường Hà, châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, nơi có địa thế hiểm
trở, núi non hùng vĩ, có quần chúng nhân dân đã được giác ngộ, kiên cường đấu
tranh, trung thành với Đảng, với cách mạng... Người ở hang Cốc làm việc tại
bàn đá bên bờ suối Lênin. Từ đấy, Pác Bó với ngọn núi Các Mác và dòng suối
Lênin tại nơi Người làm việc và do Người đặt tên, thể hiện tư tưởng, mục
tiêu, đường lối cách mạng, niềm tin tất thắng, đã vinh dự đi vào trang sử vẻ
vang hiện đại của Đảng và dân tộc ta, gắn bó với sự nghiệp cách mạng vĩ đại
của Chủ tịch Hồ chí Minh kính yêu.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930 - 2020). Nxb Chính trị
Quốc gia - Sự thật, năm 2020)
|
4
|
22 tháng 8
|
Sự kiện lịch sử: Ngày
21/8/1945, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, đứng đầu là đồng chí
Hoàng Đình Giong, với nòng cốt là một Đại đội Giải phóng quân, được sự hỗ trợ
của nhân dân lực lượng cách mạng đã buộc quân Nhật phải đầu hàng vô điều
kiện. Ngày 22/8/1945, sau cuộc tuần hành thị uy, Ủy ban khởi nghĩa tổ chức
mít tịnh tại chùa Phố Cũ, tuyên bố thành lập Ủy ban nhân dân lâm thời thị xã
Cao Bằng và Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh Cao Bằng. Ngày 22/8/1945 là ngày
lịch sử đáng ghi nhớ của nhân dân các dân tộc, ngày tỉnh Cao Bằng sạch bóng
quân phát xít Nhật.
(Nguồn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930 - 2020). Nxb Chính trị
Quốc gia Sự thật, năm 2020)
|
5
|
21 tháng 02
|
Sự kiện lịch sử: Tháng 2/1961
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và làm việc tại tỉnh Cao Bằng. Sáng ngày
21/2/1961 Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói chuyện, huấn thị với với cán bộ, nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng
tại sân vận động thị xã, người căn dặn “Bác mong tỉnh Cao Bằng sớm trở
thành một trong những tỉnh gương mẫu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội của miền Bắc như trước đây cao Bằng là một trong những tỉnh đi đầu trong
công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc”, cuộc nói chuyện lịch sử tại cuộc
mít tinh có tác động sâu sắc đến nhận thức của cán bộ, đảng viên, quần chúng
nhân dân, là động lực, định hướng, là kim chỉ nam cho nhân dân các dân tộc
Cao Bằng hăng hái thi đua lao động sản xuất, chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
(Nguồn: Lý lịch di tích - Bảo tàng tỉnh, năm 2001)
|
6
|
Thiên Văn
|
Địa danh lịch sử: Thiên Văn:
Tên một ngọn đồi nằm ở phía Tây Nam thị xã Cao Bằng (nay là thành phố); nơi
đây, trong chiến dịch Việt Bắc Thu đông 1947, trận đánh ngày 9/10 - Khẩu đội
súng phòng không của Trung đoàn 24 do xạ thủ Nông Văn Diên chỉ huy đã lập
chiến công xuất sắc, bắn rơi một máy bay JU-52 của Pháp xuống làng Pác Cáy
(xã Hòa Chung, thị xã Cao Bằng). Tất cả 12 sĩ quan tham mưu, trong đó có tên
Đại tá Lăm-be, Phó tham mưu trưởng quân đội viễn chinh Pháp ở Bắc Bộ đi trên
máy bay đã bị tiêu diệt. Ta thu được toàn bộ bản kế hoạch tấn công Việt Bắc
của thực dân Pháp. Tài liệu đặc biệt quan trọng này sau đó đã được chiến sĩ
liên lạc Nguyễn Danh Lộc đi bộ liên tục suốt 4 ngày, 3 đêm về đến Định Hóa,
Thái Nguyên để giao cho cơ quan Bộ Tổng Tham mưu. Nhờ đó, Bộ Tổng chỉ huy của
ta có thêm cơ sở vững chắc để hoàn chỉnh phương án đánh địch, quyết phá tan
cuộc tiến công lên Việt Bắc của thực dân Pháp.
(Nguồn: Lịch sử Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2000)
|
7
|
Mục Mã
|
Địa danh lịch sử: Mục Mã: Tên
gọi xưa của phường Hợp Giang, thành phố Cao Bằng. Thời Nhà Mạc lên Cao Bằng
(1594 - 1677), Mục Mã là nơi chăn thả và huấn luyện ngựa chiến. Sau khi Nhà
Mạc bị diệt, chính quyền Lê - Trịnh chuyển trấn lỵ từ Cao Bình (Hưng Đạo) về
Mục Mã, xây thành kiên cố, gọi là “Mục Mã trấn dinh”. Thời Nguyễn đổi tên là
“Cao Bằng tỉnh thành”. Thời Pháp thuộc, Thị xã Cao Bằng là thủ phủ của “Đạo
quan binh thứ hai”. Từ khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và sau
ngày giải phóng (03/10/1950), phường Hợp Giang là trung tâm của thị xã Cao
Bằng (nay là thành phố Cao Bằng.
(Nguồn: Địa chí Cao Bằng. Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2000)
|
8
|
2 tháng 2
|
Ngày mùng 02/02 Âm lịch hàng
năm là ngày diễn ra lễ hội tranh đầu pháo thị trấn Quảng Uyên, huyện Quảng
Hòa. Trải qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử, với bao sự đổi thay của
cuộc sống, lễ hội tranh đầu pháo đã đi sâu vào tiềm thức của người dân huyện
Quảng Hòa nói riêng, cộng đồng các dân tộc trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nói
chung. Lễ hội tranh đầu pháo đã trở thành một lễ hội truyền thống và được
người dân địa phương bảo tồn, gìn giữ gần như nguyên vẹn các giá trị truyền
thống. Hàng năm lễ hội đã thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách
thập phương về tham dự. Đây cũng chính là nét văn hóa đặc sắc, là niềm tự hào
của người dân Cao Bằng.
Lễ hội tranh đầu pháo thị
trấn Quảng Uyên, huyện Quảng Hòa được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật
thể quốc gia theo Quyết định số 2745/QĐ-BVHTTDL ngày 30/9/2020.
|
9
|
19 tháng 5
|
Ngày 19/5, kỷ niệm ngày sinh
của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì
hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
|
10
|
Hưng Long - Nà Thắm
|
Tên gọi xóm Hưng Long, thị
trấn Tà Lùng và xóm Nà Thắm, xã Mỹ Hưng, huyện Quảng Hòa.
|
11
|
Quảng Uyên
|
Tên địa danh, là một đơn vị
hành chính thuộc huyện Quảng Hòa, tên gọi quen thuộc của người dân địa phương
|
12
|
Phục Hòa
|
Phục Hòa là tên huyện cũ (từ
năm 2002 đến năm 2020). Lấy tên Quảng trường theo tên gọi nhằm giữ lại tên
gọi truyền thống, giữ lại giá trị lịch sử vốn có của địa phương từ xa xưa.
|
13
|
Hữu nghị
|
Hữu nghị là tính từ chỉ mối
quan hệ thân thiện (bạn bè) hoặc chỉ tình hữu nghị thân thiết, nồng nàn (quan
hệ giữa các nước).
|
Quyết định 508/QĐ-UBND năm 2023 về Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Quyết định 508/QĐ-UBND ngày 10/05/2023 về Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
1.027
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|