HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 97/NQ-HĐND
|
Vĩnh Phúc, ngày
11 tháng 12 năm 2019
|
NGHỊ QUYẾT
TĂNG
CƯỜNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG NƯỚC HỢP VỆ SINH VÙNG NÔNG
THÔN VÀ KHAI THÁC SỬ DỤNG CÁC CÔNG TRÌNH CẤP NƯỚC TẬP TRUNG CHO NHÂN DÂN VÙNG
NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
KHÓA XVI KỲ HỌP THỨ 14
Căn cứ Luật tổ chức
chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 90/BC-ĐGS ngày 03
tháng 12 năm 2019 của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả giám
sát tình hình sử dụng nước hợp vệ sinh trên địa bàn nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc; ý
kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Tán thành Báo cáo số
90/BC-ĐGS ngày 03 tháng 12 năm 2019 của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
về kết quả giám sát tình hình sử dụng nước hợp vệ sinh trên địa bàn nông thôn tỉnh
Vĩnh Phúc và nhấn mạnh một số vấn đề sau:
Trong những năm qua, Ủy ban nhân dân tỉnh, các cấp,
các ngành trên địa bàn tỉnh đã quan tâm chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện
về công tác quản lý, bảo vệ, khai thác nguồn tài nguyên nước, xây dựng công
trình tạo nguồn nước đảm bảo vệ sinh cung cấp cho nhân dân vùng nông thôn; ban
hành quy hoạch, quyết định, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực
hiện.
Cùng với sự quan tâm hỗ trợ của nhà nước, người dân
vùng nông thôn đã chủ động tự xây dựng, khai thác nguồn nước nhỏ lẻ phục vụ cuộc
sống sinh hoạt, mua sắm các thiết bị lọc nước để sử dụng hàng ngày. Đến nay,
trên địa bàn tỉnh có khoảng 82% số hộ dân vùng nông thôn đang sử dụng nguồn nước
từ các công trình khai thác nước nhỏ lẻ tại gia đình và có khoảng 18% số hộ gia
đình vùng nông thôn được sử dụng nguồn nước từ các công trình cấp nước tập
trung; tỷ lệ người dân vùng nông thôn dùng nước hợp vệ sinh đạt 98,12%, trong
đó số hộ gia đình được sử dụng nước sạch đạt 55,46% theo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc
gia về chất lượng nước sinh hoạt 02:2009/BYT.
Đến nay, UBND tỉnh đã bố trí 603,6 tỷ đồng đầu tư
xây dựng và cải tạo 50 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung cho vùng nông
thôn, nhiều công trình đã phát huy hiệu quả, góp phần cung cấp nguồn nước cho
nhân dân vùng nông thôn.
Hàng năm giao cho Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông
thôn là đầu mối tổ chức điều tra Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá nước sạch và vệ
sinh môi trường nông thôn trên địa bàn tỉnh. Trong 3 năm (2016, 2017, 2018) đã
bố trí 796.068.000 đồng để lấy và phân tích 622 mẫu nước kiểm tra đại diện chất
lượng nguồn nước người dân vùng nông thôn đang sử dụng.
Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 đến ngày 31 tháng 8
năm 2019, Ngân hàng Chính sách xã hội đã cho 50.188 lượt hộ gia đình vùng nông
thôn được vay vốn ưu đãi để tự xây dựng và cải tạo công trình nước nhỏ lẻ phục
vụ sinh hoạt với số tiền 134.786 triệu đồng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý,
sử dụng nước hợp vệ sinh vùng nông thôn vẫn còn một số hạn chế, bất cập:
Ủy ban nhân dân tỉnh chưa kịp thời chỉ đạo việc tổ
chức lập nội dung phương án bảo vệ, khai thác, sử dụng hiệu quả, phát triển bền
vững tài nguyên nước mặt trên địa bàn tỉnh; chưa kịp thời chỉ đạo việc rà soát,
đánh giá, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch đã được phê duyệt và lập phương án,
kế hoạch phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan
đến quy hoạch năm 2018 và yêu cầu thực tiễn về hiệu quả việc đầu tư xây dựng
công trình cấp nước sinh hoạt cho các vùng dân cư nông thôn.
Công tác khảo sát, thiết kế, lập dự án, bố trí địa
điểm xây dựng công trình cấp nước sinh hoạt tập trung cho nhân dân vùng nông
thôn nhiều năm trước đây còn dàn trải, chưa sát thực tế, chưa phù hợp với nhu cầu
thực tiễn, chất lượng xây dựng nhiều công trình cấp nước chưa đảm bảo.
Việc sử dụng ngân sách đầu tư xây dựng công trình cấp
nước tập trung nhiều năm trước đây chưa hiệu quả. Ban Dân tộc tỉnh được giao
làm chủ đầu tư xây dựng 32 công trình, đến nay đã bàn giao được 27 công trình
(còn 05 công trình chưa bàn giao); trong đó có 20/27 công trình đã bàn giao
nhưng không hoạt động. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được giao làm chủ
đầu tư xây dựng 15 công trình, trong đó có 01 công trình hoạt động chưa hiệu quả,
còn 03/15 công trình hiện không hoạt động.
Công tác huy động, xã hội hóa và bố trí ngân sách
trong đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung cho vùng nông thôn còn
hạn chế; từ năm 2016 đến năm 2019 tỉnh mới thực hiện được 268 tỷ đồng (đạt
37,6%) trong khi tổng nguồn vốn nhu cầu theo quy hoạch giai đoạn 2016 - 2019 là
711,5 tỷ đồng.
Công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành trong đầu
tư xây dựng công trình cấp nước tập trung chưa thường xuyên, chặt chẽ.
Tỷ lệ người nghèo được sử dụng nước hợp vệ sinh còn
thấp (69,72%), thấp hơn so với bình quân chung tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng
nước hợp vệ sinh (98,12%). số hộ gia đình được sử dụng nước sạch theo Quy chuẩn
kỹ thuật Quốc gia đạt 55,46% thấp hơn so với tiêu chí số 17.1 tỷ lệ hộ được sử
dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch theo quy định (Bộ tiêu chí quốc gia về xã
nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 đối với khu vực Đồng Bằng Sông Hồng[1]). Trên địa bàn
tỉnh còn 70/110 xã (chiếm 63,64% số xã) chưa được đầu tư công trình cấp nước tập
trung. So với các tỉnh, thành phố khu vực Đồng Bằng Sông Hồng tỷ lệ người dân
vùng nông thôn Vĩnh Phúc đứng thấp nhất về sử dụng nước sạch, đứng thứ 7/11 về
sử dụng nước hợp vệ sinh.
Đối với cấp tỉnh, số mẫu nước được lấy còn ít, phạm
vi địa bàn thu hẹp chưa đáp ứng theo quy định (quy định từ 3% đến 5% tổng số hộ
dân vùng nông thôn); cấp huyện chưa dành kinh phí để tiến hành kiểm nghiệm đánh
giá chất lượng nguồn nước từ công trình nhỏ lẻ hộ gia đình, để công bố cho người
dân biết tình trạng nguồn nước đang sử dụng.
Công tác tuyên truyền, vận động chưa hiệu quả, một
bộ phận người dân chưa mặn mà sử dụng nguồn nước từ các công trình cấp nước tập
trung, chưa đấu nối nguồn nước máy, duy trì thói quen sử dụng nước giếng đào,
giếng khoan.
Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện sơ kết, tổng kết
chưa được quan tâm để đánh giá hiệu quả, rút kinh nghiệm về đầu tư, xây dựng
công trình, cấp nước tập trung; dẫn đến không kịp thời điều chỉnh việc lập dự
án, thiết kế, thi công, bố trí kinh phí xây dựng các công trình cấp nước tập
trung, việc đầu tư xây dựng không hiệu quả kéo dài mà vẫn tiếp tục thực hiện
trong nhiều năm.
Công tác thanh tra, kiểm tra về đầu tư xây dựng
công trình cấp nước tập trung chưa quan tâm, chưa thực hiện thường xuyên, chưa
kịp thời phát hiện những hạn chế bất cập; chưa xử lý được trách nhiệm của tập
thể, cá nhân có liên quan đến việc nhiều công trình cấp nước tập trung không hoạt
động và hoạt động không hiệu quả.
Những hạn chế, bất cập nêu trên do nhiều nguyên
nhân, trong đó chủ yếu là: Các ngành, các cấp, chính quyền nhiều địa phương
chưa thực sự coi trọng việc tạo nguồn nước đảm bảo vệ sinh phục vụ nhu cầu sinh
hoạt của người dân vùng nông thôn, chưa coi đây là nhiệm vụ cần thiết, cấp bách
nên việc bố trí vốn còn hạn chế, đầu tư xây dựng công trình cấp nước tập trung
chưa kịp thời. Công tác quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế, chưa quan tâm đúng
mức đối với vấn đề nước hợp vệ sinh và nước sạch vùng nông thôn; công tác lãnh
đạo, chỉ đạo chưa sát sao, thiếu quyết liệt, nhiều nơi có biểu hiện buông lỏng
quản lý nên khó khăn trong việc quy trách nhiệm. Công tác phối hợp thực hiện giữa
ngành và cấp, ngành với ngành chua chặt chẽ trước, trong và sau xây dựng, chưa
có cơ chế vận hành hiệu quả công trình sau bàn giao, phân công người quản lý vận
hành không có chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực nước. Công tác đầu tư, lập dự
án, bố trí vốn xây dựng công trình cấp nước sinh hoạt tập trung nhiều năm trước
còn dàn trải, một số năm gần đây bố trí nguồn vốn chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tế. Việc khảo sát, thiết kế, đặt vị trí xây dựng công trình cấp nước sinh hoạt
tập trung nhiều năm về trước chưa sát thực và chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng
của người dân; chất lượng xây dựng công trình chưa đảm bảo, nên hiệu quả đầu tư
và sử dụng thấp. Công tác tuyên truyền chưa thường xuyên, sâu rộng, do vậy nhận
thức và trách nhiệm của một bộ phận người dân chưa cao. Công tác thanh tra, kiểm
tra, sơ kết, tổng kết chưa được chú trọng; việc phát hiện, xử lý giải quyết hạn
chế bất cập, vướng mắc phát sinh chưa kịp thời. Không có sự điều chỉnh kịp thời
trong lập dự án, thiết kế, đầu tư công trình cấp nước tập trung. Chưa ban hành
được cơ chế chính sách đặc thù tạo điều kiện, thu hút các doanh nghiệp đầu tư
vào xây dựng công trình nước sạch phục vụ người dân.
Điều 2. Giao Ủy ban nhân dân tỉnh
tập trung thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ sau:
1. Tăng cường công tác quản lý nhà nước, tập trung
chỉ đạo các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã làm tốt công tác
quản lý về lĩnh vực nước hợp vệ sinh, tiến tới nước sạch đối với vùng nông
thôn; phối hợp chặt chẽ giữa ngành với ngành và các cấp; chủ động tham mưu đề
xuất cơ chế chính sách tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong việc cung cấp nước
sinh hoạt cho người dân được sử dụng nguồn nước đảm bảo hợp vệ sinh, hướng đến
nước sạch, đưa tỷ lệ người dân vùng nông thôn được dùng nước sạch ngày càng
tăng cao và bền vững.
2. Tổ chức rà soát, đánh giá, phân loại từng công trình
cấp nước tập trung hiện không hoạt động, hoạt động không hiệu quả, gắn với đánh
giá nhu cầu sử dụng nước của nhân dân địa phương nơi có công trình song trước
ngày 30 tháng 6 năm 2020; từ đó xem xét công trình nào có thể cải tạo điều chỉnh
công năng thành công trình nước sạch và cấp nước đến từng hộ gia đình; công
trình nào có thể sửa chữa, công trình nào phải thanh lý. Đồng thời, làm rõ
nguyên nhân, trách nhiệm và xử lý đối với cá nhân, tập thể có liên quan đến việc
nhiều công trình cấp nước sinh hoạt tập trung không hoạt động, gây lãng phí.
3. Thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, vận
động nhân dân sử dụng nước từ các công trình cấp nước tập trung; quản lý, bảo vệ
nguồn tài nguyên nước, bảo vệ công trình cấp nước, cũng như thu thập, điều tra
đánh giá, phân tích, xét nghiệm nguồn nước nhất là đối với công trình tự khai
thác nhỏ lẻ hộ gia đình, để khoanh vùng khu vực nguồn nước ngầm bị ô nhiễm,
nguy cơ bị ô nhiễm để cảnh báo cho người dân biết.
4. Trong năm 2020 tổ chức lập nội dung phương án bảo
vệ, khai thác, sử dụng hiệu quả, phát triển bền vững tài nguyên nước mặt của tỉnh
nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục
rà soát các quy hoạch liên quan đến quản lý, khai thác, bảo vệ nguồn nước, xây
dựng công trình cấp nước và đánh giá kết quả, hiệu quả thực hiện quy hoạch, những
nội dung bất cập phải điều chỉnh, bổ sung bằng các phương án, kế hoạch cho phù
hợp yêu cầu thực tiễn và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên
quan đến quy hoạch năm 2018. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện có hiệu quả quy
hoạch tổng thể cấp nước sinh hoạt đã được phê duyệt. Trước mắt, ưu tiên đầu tư
xây dựng công trình cấp nước sạch cho những vùng bị ô nhiễm nguồn nước ngầm,
vùng khó khăn, vùng miền núi, vùng đồng bằng đông dân cư. Có chính sách hỗ trợ
các hộ nghèo, cận nghèo, hộ gia đình chính sách được sử dụng nguồn nước sạch.
5. Nghiên cứu xây dựng chính sách hỗ trợ, thu hút
doanh nghiệp đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch tập trung, với quy mô
cung cấp nước cụm xã phục vụ nhân dân, giảm gánh nặng ngân sách nhà nước; có cơ
chế chính sách hỗ trợ người dân về giá nước sạch, để khuyến khích người dân sử
dụng nước sạch, nâng tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch lên cao.
6. Nghiên cứu giao một cơ quan, đơn vị làm đầu mối
quản lý nhà nước về nước hợp vệ sinh và nước sạch trên địa bàn tỉnh; phải là cơ
quan, đơn vị có chuyên môn sâu, có đủ năng lực xây dựng và quản lý, vận hành
khai thác công trình làm chủ đầu tư xây dựng mới và cải tạo công trình cấp nước
tập trung để đảm bảo chất lượng và hiệu quả đầu tư xây dựng công trình và phục
vụ người dân tốt nhất.
7. Bố trí nguồn kinh phí đảm bảo để tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện một số công trình, dự án cấp nước tập trung theo quy hoạch các
giai đoạn 2016- 2020 và 2021 - 2030 theo hướng nước sạch. Bố trí nguồn kinh phí
cải tạo, sửa chữa, điều chỉnh công nàng của một số công trình cấp nước tập
trung hoạt động có hiệu quả đã và đang bị xuống cấp. Chỉ đạo khai thác sử dụng
tối đa công suất các nhà máy nước, các công trình cấp nước tập trung mới được đầu
tư xây dựng, tiến hành mở rộng mạng lưới địa bàn cung cấp nước sinh hoạt cho những
vùng dân cư lân cận, hỗ trợ người dân chi phí đấu nối sử dụng nguồn nước sạch từ
các công trình tập trung. Bố trí nguồn kinh phí theo quy định tại Thông tư số 50/2015/TT-BYT ngày 11/12/2015 của Bộ Y tế Quy định
việc kiểm tra vệ sinh, chất lượng nước ăn uống, nước sinh hoạt.
8. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra kịp thời xử
lý giải quyết các vướng mắc và định kỳ đánh giá sơ kết, tổng kết về công tác đầu
tư, xây dựng công trình cấp nước tập trung vùng nông thôn.
Điều 3. Tổ chức thực hiện
1. Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức thực hiện Nghị quyết
này.
2. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, các Ban của
Hội đồng nhân dân tỉnh, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh và đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc Khoá XVI, Kỳ họp thứ 14 thông qua ngày 10 tháng 12 năm 2019 và có hiệu lực
kể từ ngày ký./.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ;
- Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ;
- Thường trực Tỉnh ủy, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban
Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh;
- Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh;
- Các Sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh;
- Đảng ủy Khối các cơ quan, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh;
- Văn phòng: Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh;
- Thường trực các huyện, thành ủy; Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban
Mặt trận tổ quốc Việt Nam cấp huyện;
- Báo Vĩnh Phúc, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Cổng Thông tin - Giao tiếp
điện tử tỉnh;
- CPVP, CV Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh;
- Lưu: VT, TH(01).Đ(100)
|
CHỦ TỊCH
Trần Văn Minh
|
[1] Tỷ lệ
hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh trên hoặc bằng 98% và nước sạch theo quy định
đạt trên hoặc bằng 65%