UỶ
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
49L/CTN
|
Hà
Nội, ngày 03 tháng 6 năm 1996
|
LỆNH
CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ vào Điều
103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Căn cứ vào Điều 78 của Luật tổ chức Quốc hội:
NAY CÔNG BỐ:
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá IX, thông qua ngày 21 tháng 5 năm 1996.
PHÁP LỆNH
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Để đảm bảo giải quyết các vụ
án hành chính kịp thời, đúng pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan Nhà nước và tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản
lý nhà nước;
Căn cứ vào Điều 91 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992;
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 8 về công tác xây dựng
pháp luật đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khoá IX;
Pháp lệnh này quy định thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức
theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu
Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 2
Trước khi khởi kiện để yêu cầu
Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ
chức phải khiếu nại với cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc
có hành vi hành chính mà họ cho là trái pháp luật; trong trường hợp không đồng
ý với quyết định giải quyết khiếu nại, thì họ có quyền khiếu nại lên cấp trên
trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành
vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
đó hay khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.
Điều 3
Người khởi kiện
vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại; trong trường
hợp này các quy định của pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng dân sự cũng được
áp dụng để giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại.
Trong quá trình giải quyết vụ án
hành chính, Toà án tạo điều kiện để các bên có thể thoả thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án.
Người khởi kiện vụ án có quyền
rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện.
Bên bị kiện có
quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính bị khiếu kiện.
Điều 4
1- Quyết định
hành chính quy định trong Pháp lệnh này là quyết định bằng văn bản của Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc
hội, cơ quan Nhà nước địa phương, các Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
các cấp được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn
đề cụ thể.
2- Hành vi
hành chính quy định trong Pháp lệnh này là hành vi thực hiện hoặc không thực hiện
công vụ của cán bộ, viên chức nhà nước.
3- Đương sự quy định trong Pháp
lệnh này là người khởi kiện, bên bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.
Người khởi kiện là cá nhân, cơ
quan Nhà nước, tổ chức cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm
bởi quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, của Thủ
trưởng, cán bộ, viên chức nhà nước nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án
có thẩm quyền.
Bên bị kiện là
cơ quan Nhà nước, Thủ trưởng, cán bộ, viên chức nhà nước đã ra quyết định hành
chính hoặc có hành vi hành chính mà người khởi kiện cho rằng trái pháp luật,
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, nên đã khởi kiện vụ án hành
chính tại Toà án có thẩm quyền.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức do có việc khởi kiện vụ án
hành chính của người khởi kiện đối với bên bị kiện mà việc giải quyết vụ án
hành chính đó có liên quan đến quyền lợi hoặc nghĩa vụ của họ.
Điều 5
Người khởi kiện phải làm đơn kiện
theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh này; có nghĩa vụ
cung cấp bản sao quyết định hành chính, bản sao văn bản trả lời của cơ quan nhà
nước hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc
giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính mà người
khởi kiện cho là trái pháp luật; cung cấp các chứng cứ khác để bảo vệ quyền lợi
của mình.
Bên bị kiện có nghĩa vụ cung cấp
cho Toà án bản sao văn bản quy phạm pháp luật cũng như bản sao các văn bản tài
liệu khác mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành
chính.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có quyền tham gia tố tụng với bên người khởi kiện, bên bị kiện hoặc
tham gia tố tụng độc lập, có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của
mình.
Khi cần thiết, Toà án có thể xác
minh, thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức
hữu quan cung cấp tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án
hành chính được chính xác. Đương sự, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức được
yêu cầu phải cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn theo yêu cầu của Toà án. Trong
trường hợp không cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Điều 6
Các đương sự bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.
Đương sự có thể uỷ quyền bằng
văn bản cho luật sư hoặc người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng. Đương sự
tự mình hoặc có thể nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
Điều 7
Các vụ án hành chính được xét xử
công khai, trừ trường hợp cần giữ bí mật nhà nước hoặc giữ bí mật của đương sự
theo yêu cầu chính đáng của họ.
Đối với các vụ án hành chính mà
nội dung đã rõ ràng, có đủ chứng cứ được các bên thừa nhận và không có yêu cầu
tham gia phiên toà, thì Toà án xét xử mà không cần sự có mặt của các đương sự
và những người tham gia tố tụng khác.
Tiếng nói, chữ viết dùng trong
quá trình giải quyết vụ án hành chính là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình.
Điều 8
Trong trường hợp nhận thấy bản
án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật là không đúng, thì Thủ tướng
Chính phủ có quyền yêu cầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, giải quyết theo thẩm quyền và trả lời Thủ tướng
Chính phủ trong thời hạn ba mươi ngày.
Điều 9
Bản án, quyết định của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật về vụ án hành chính phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức
và mọi người tôn trọng.
Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức
có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính phải
nghiêm chỉnh chấp hành. Cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ thi hành bản án,
quyết định của Toà á về vụ án hành chính phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó.
Điều 10
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo quy định
của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và của Pháp lệnh này.
Chương 2:
THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN
Điều 11
Toà án có thẩm quyền giải quyết
các vụ án hành chính sau đây:
1- Khiếu kiện
quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp buộc tháo gỡ
công trình xây dựng trái phép đối với nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố;
2- Khiếu kiện
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với hình thức giáo dục tại
xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa
vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính;
3- Khiếu kiện quyết định về buộc
thôi việc, trừ các quyết định về buộc thôi việc trong Quân đội nhân dân và các
quyết định về sa thải theo quy định của Bộ luật lao động;
4- Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy
phép trong lĩnh vực về xây dựng cơ bản, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý
đất đai;
5- Khiếu kiện
quyết định trưng dụng, trưng mua tài sản, quyết định tịch thu tài sản;
6- Khiếu kiện quyết định về thu
thuế, truy thu thuế;
7- Khiếu kiện quyết định về thu
phí, lệ phí;
8- Khiếu kiện
các quyết định hành chính, hành vi hành chính khác theo quy định của pháp luật.
Điều 12
1- Toà án nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Toà án cấp huyện) giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm những khiếu kiện hành chính đối với quyết định hành chính của cơ quan
nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ và quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ quan nhà nước đó.
2- Toà án
nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Toà án cấp tỉnh)
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện hành chính đối với:
a) Quyết định hành chính của Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng
Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định
hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện
có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng một lãnh thổ;
b) Quyết định hành chính của cơ
quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cán bộ, viên chức của cơ quan nhà nước đó;
c) Quyết định hành chính của các
đơn vị chức năng của cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của các đơn vị
chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên
cũng lãnh thổ.
Trong trường
hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết vụ án hành chính
thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện đối với khiếu kiện quyết định hành chính
của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có liên quan đến nhiều
đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các Thẩm phán của Toà án cấp huyện đó
đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
3- Toà án nhân dân tối cao giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những khiếu kiện hành chính thuộc
thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh mà Toà án nhân dân tối cao lấy lên để giải quyết
đối với khiếu kiện quyết định hành chính của cơ quan nhà nước quy định tại điểm
a khoản 2 Điều này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng
các cơ quan đó liên quan đến nhiều tỉnh, phức tạp hoặc trong trường hợp khó xác
định được thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh nào; khiếu kiện quyết định hành chính
của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối
tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các Thẩm phán của Toà án cấp tỉnh đó đều
thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tung hoặc bị thay đổi.
Điều 13
1- Trong trường
hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước, người
đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính, cá nhân, cơ quan nhà nước,
tổ chức chỉ có quyền hoặc khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan nhà nước,
người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ
án hành chính tại Toà án có thẩm quyền. Trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại
lên cấp trên trực tiếp, vừa có đơn khởi kiện vụ án hành chính, thì phân biệt thẩm
quyền như sau:
a) Nếu chỉ có một người vừa khởi
kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại lên cấp trên trực
tiếp của cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi
hành chính, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Cơ quan đã thụ lỵ
việc giải quyết khiếu nại phải chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho
Toà án có thẩm quyền.
b) Nếu có
nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm
quyền, có người khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan nhà nước, người đã
ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính, thì việc giải quyết thuộc
thẩm quyền của cấp trên trực tiếp đó. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải
chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ngay sau khi
phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình.
2- Toà án đã
thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân có thẩm quyền
ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình.
Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án do Toà án
cấp trên trực tiếp giải quyết.
Chương 3:
NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
Điều 14
Những người tiến hành tố tụng
hành chính gồm Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án.
Điều 15
1- Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một
Thẩm phán và hai Hội thẩm.
2- Hội đồng xét xử sở thẩm đồng
thời chung thẩm của Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao gồm ba Thẩm phán và
hai Hội thẩm.
3- Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm
ba Thẩm phán.
4- Hội đồng xét xử giám đốc thẩm,
tái thẩm của Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao gồm ba Thẩm phán.
5- Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh khi xét xử theo
thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải có ít nhất 2/3 (hai phần ba) tổng số
thành viên tham gia.
6- Hội đồng xét xử quy định tại
các khoản 1, 2, 3 và 4 điều này quyết định theo đa số. Quyết định của Uỷ ban Thẩm
phán và Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp
tỉnh phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
Điều 16
1- Thẩm phán, Hội thẩm phải từ
chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Đồng thời
là đương sự, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người
thân thích của đương sự, người làm chứng trong vụ án;
b) Đã tham gia vào việc ra quyết
định hành chính bị khiếu kiện;
c) Đã tham
gia xét xử cùng một vụ án với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm, trừ các thành
viên của Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban
Thẩm phán Toà án cấp tỉnh, thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;
d) Trong một
Hội đồng xét xử mà Thẩm phán, Hội thẩm là người thân thích với nhau;
e) Có người thân thích đã tham
gia tố tụng cùng một vụ án ở cấp xét xử khác;
g) Có căn cứ
cho thấy có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
2- Kiểm sát viên, Thư ký Toà án
phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu:
a) Đã tham gia tố tụng cùng một
vụ án ở cấp xét xử khác;
b) Có căn cứ quy định tại các điểm
a, e và g khoản 1 Điều này.
Điều 17
1- Trước khi mở phiên toà, việc
thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án do Chánh án Toà án quyết định; việc
thay đổi Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định; nếu Kiểm sát
viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát, thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp quyết định.
2- Tại phiên
toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký phiên toà, do Hội đồng xét xử
quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi.
Nếu tại phiên toà có đề nghị
thay đổi Kiểm sát viên mà Hội đồng xét xử thấy lý do của việc đề nghị thay đổi
là chính đáng, thì ra quyết định hoãn phiên toà.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ
ngày hoãn phiên toà, Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát cử người khác
thay thế.
Điều 18
Trong quá trình giải quyết vụ án
hành chính, Viện kiểm sát có quyền tham gia tố tụng từ bất cứ giai đoạn nào khi
xét thấy cần thiết. Đối với các quyết định hành chính, hành vị hành chính liên
quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm
về thể chất, tâm thần, nếu không có ai khởi kiện, thì Viện kiểm sát có quyền khởi
tố vụ án hành chính và có trách nhiệm cung cấp chứng cứ.
Chương 4:
NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG
Điều 19
1- Những người tham gia tố tụng
hành chính gồm đương sự, người đại diện do đương sự uỷ quyền, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên
dịch.
2- Đương sự là cá nhân thì tự
mình hoặc có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ
tố tụng của mình trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.
3- Đương sự
là pháp nhân thực hiện quyền,
nghĩa vụ tố tụng thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền.
Điều 20
1- Người khởi
kiện có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện. Bên bị kiện có quyền
sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, khắc phục hành vi hành chính bị khiếu
kiện, có quyền phản bác yêu cầu của người khởi kiện hoặc đề xuất yêu cầu có
liên quan đến yêu cầu của người khởi kiện. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có thể có yêu cầu độc lập hoặc cùng tham gia tố tụng với bên đương sự
khác.
2- Các đương sự có quyền:
a) Đưa ra tài liệu, chứng cứ; được
đọc, sao chép và xem các tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp;
b) Yêu cầu Toà án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời;
c) Tham gia phiên toà;
d) Yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội
thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch nếu có lý
do quy định tại các Điều 16 và 27 của Pháp lệnh này;
đ) Thoả thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án hành chính, nếu thoả thuận đó không trái pháp luật;
e) Tranh luận tại phiên toà;
g) Kháng cáo bản án, quyết định
của Toà án;
h) Yêu cầu người có thẩm quyền
kháng nghị bản án, quyết định của Toà án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.
3- Các đương sự có nghĩa vụ:
a) Cung cấp đầy đủ, kịp thời các
tài liệu, chứng cứ có liên quan theo yêu cầu của Toà án;
b) Có mặt theo giấy triệu tập của
Toà án;
c) Chấp hành nghiêm chỉnh nội
quy phiên toà.
Điều 21
1- Đương sự từ đủ 18 tuổi trở
lên có quyền tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành
chính.
2- Đương sự là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thực hiện quyền, nghĩa vụ của
đương sự trong tố tụng thông qua người đại điện.
Điều 22
1- Đương sự có thể uỷ quyền cho bất
kỳ người nào đại diện cho mình tham gia tố tụng, trừ những người sau đây không
được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện do đương sự uỷ quyền:
a) Không có quốc tịch Việt Nam,
không cư trú ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với
đương sự có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc người Việt Nam
định cư ở nước ngoài;
b) Chưa đủ 18 tuổi;
c) Bị bệnh tâm thần;
d) Đã bị khởi tố về hình sự hoặc
bị kết án, nhưng chưa được xoá án;
đ) Cán bộ Toà án, Viện kiểm sát;
e) Người giám định, người phiên
dịch, người làm chứng trong vụ án;
g) Người thân thích với Thẩm
phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên đang tham gia giải quyết vụ án.
2- Người được uỷ quyền chỉ được
thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi được uỷ quyền.
3- Việc uỷ quyền tham gia tố tụng
phải làm thành văn bản và được chứng thực hợp pháp.
Điều 23
1- Đương sự tự mình hoặc có thể
nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2- Một người có thể bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền lợi của
những người đó không đối lập nhau.
3- Người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự có quyền:
a) Tham gia tố tụng từ khi khởi
kiện;
b) Đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội
thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch theo quy
định tại các điều 16 và 27 của Pháp lệnh này;
c) Cung cấp tài liệu, chứng cứ,
đề đạt yêu cầu, đọc hồ sơ vụ án, sao chép những điểm cần thiết trong hồ sơ vụ
án, tham gia phiên toà.
4- Người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự có nghĩa vụ sử dụng các quyền tố tụng theo quy định của
pháp luật để góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Điều 24
1- Người biết những tình tiết
liên quan đến vụ án hành chính có thể tự mình hoặc được Toà án, Viện kiểm sát
triệu tập đến làm chứng.
2- Người làm chứng phải có mặt
theo giấy triệu tập của Toà án, Viện kiểm sát; có nghĩa vụ trình bày trung thực
tất cả những gì mình biết về vụ án và phải chịu trách nhiệm về lời trình bày của
mình.
3- Người yêu cầu Toà án triệu tập
người làm chứng phải nộp tiền tạm ứng chi phí cho người làm chứng. Người thua
kiện phải chịu chi phí cho người làm chứng, nếu việc làm chứng có ý nghĩa cho
việc giải quyết vụ án. Nếu việc làm chứng không có ý nghĩa cho việc giải quyết
vụ án, thì người yêu cầu triệu tập người làm chứng phải chịu chi phí cho người
làm chứng.
Điều 25
1- Khi cần thiết, Toà án, Viện
kiểm sát tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự trưng cầu giám định. Người giám
định phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, Viện kiểm sát.
2- Người giám định có quyền tìm
hiểu tài liệu của vụ án liên quan đến đối tượng phải giám định.
Người giám định có nghĩa vụ giám
định một cách khách quan, trung thực đối tượng được yêu cầu giám định.
3- Người yêu cầu trưng cầu giám
định hoặc Toà án, Viện kiểm sát tự mình trưng cầu giám định phải nộp tiền tạm ứng
chi phí giám định. Người thưa kiện phải chịu chi phí giám định, nếu kết quả
giám định có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án; nếu kết quả giám định không có
ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án thì người yêu cầu trưng cầu giám định, Toà
án, Viện kiểm sát tự mình trưng cầu giám định phải chịu chi phí giám định.
Điều 26
1- Trong trường hợp có người
tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt thì Toà án có trách nhiệm cử người
phiên dịch.
2- Người phiên dịch phải có mặt
theo giấy triệu tập của Toà án và phiên dịch trung thực.
3- Người thưa kiện phải chịu chi
phí phiên dịch.
Điều 27
Người giám định, người phiên dịch
phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu có căn cứ quy định tại các điểm a, e và g khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh này. Việc thay đổi
người giám định, người phiên dịch trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án quyết
định; tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người
bị yêu cầu thay đổi.
1- Nếu đương sự là cá nhân đã chết
mà quyền, nghĩa vụ của người đó được thừa kế, thì người thừa kế được tham gia tố
tụng.
2- Nếu đương sự
là pháp nhân bị sáp nhập,
phân chia, giải thể, thì cá nhân, pháp nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ của pháp
nhân cũ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân đó.
3- Việc kế thừa quyền, nghĩa vụ
tố tụng có thể được Toà án chấp nhận ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình giải
quyết vụ án hành chính.
Chương 5:
ÁN PHÍ
Điều 29
1- Người khởi kiện phải nộp tiền
tạm ứng án phí sơ thẩm, trừ trường hợp được nộp tiền tạm ứng án phí. Viện kiểm
sát khởi tố vụ án hành chính không phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm.
2- Người kháng cáo theo thủ tục
phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp được miễn nộp
tiền tạm ứng án phí. Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm không phải
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
3- Các đương sự phải chịu án phí
tuỳ theo mức độ lỗi của họ trong quan hệ pháp luật mà Toà án giải quyết, trừ
trường hợp được miễn án phí.
4- Chính phủ phối hợp với Toà án
nhân dân tối cao quy định về án phí.
Chương 6:
KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN
Điều 30
1- Người khởi
kiện phải làm đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính
trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của người hoặc
cơ quan nhà nước đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc
giải quyết khiếu nại.
2- Trong trường hợp do trở ngại
khách quan mà không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều
này, thì thời gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện.
3- Đơn kiện
phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Toà án được yêu cầu giải quyết
vụ án hành chính;
c) Tên, địa chỉ của người khởi
kiện, bên bị kiện;
d) Nội dung quyết định hành
chính hay tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính;
đ) Nội dung văn bản trả lời của
người hoặc cơ quan nhà nước về việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định
hành chính, hành vi hành chính mà người khởi kiện cho là trái pháp luật;
e) Cam đoan không khiếu nại lên
cấp trên trực tiếp của cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc
có hành vi hành chính;
g) Các yêu cầu đề nghị Toà án giải
quyết.
4- Đơn kiện phải do người khởi kiện
hoặc đại diện của người khởi kiện ký. Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng
minh cho yêu cầu của người khởi kiện.
Điều 31
Toà án trả lại đơn kiện trong những
trường hợp sau đây:
1- Người khởi kiện không có quyền
khởi kiện;
2- Thời hiệu khởi kiện đã hết mà
không có lý do chính đáng;
3- Chưa có
trả lời của người hoặc cơ quan nhà nước đã ra quyết định hành chính hay có hành
vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại;
4- Đã có
quyết định giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính do pháp luật quy định;
5- Sự việc đã được giải quyết bằng
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án;
6- Việc được khởi kiện không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Điều 32
1- Nếu Toà án xét thấy vụ án
hành chính thuộc thẩm quyền của mình, thì thông báo cho người khởi kiện biết để
họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nộp đơn, người
khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng
án phí.
2- Toà án
thụ lý vụ án vào ngày nguyên đơn xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
Trong trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án
thụ lý vụ án vào ngày nhận được đơn kiện.
Điều 33
1- Sau khi Toà án đã thụ lý vụ
án, đương sự có quyền làm đơn yêu cầu Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời để bảo vệ lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm việc thi hành
án; đương sự phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình, nếu có
lỗi trong việc gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2- Trong quá
trình giải quyết vụ án, Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của Viện
kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và phải chịu
trách nhiệm về quyết định đó. Nếu do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái
pháp luật mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường.
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời có thể được tiến hành ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết
vụ án.
3- Yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được Toà án xem xét trong thời hạn ba
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; nếu có đủ căn cứ pháp luật và xét thấy cần
thiết chấp nhận yêu cầu, thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng biện phép khẩn cấp
tạm thời.
4- Trong quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời phải ghi rõ thời hạn có hiệu lực của quyết định, nhưng
không được quá thời hạn giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Điều 34
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
gồm có:
1- Tạm đình chỉ việc thi hành
quyết định hành chính bị khiếu kiện;
2- Cấm hoặc buộc đương sự, tổ chức,
cá nhân khác thực hiện những hành vi nhất định nếu xét thấy cần thiết cho việc
giải quyết vụ án hành chính hoặc để bảo đảm cho việc thi hành án.
Điều 35
1- Biện pháp khẩn cấp tạm thời
có thể bị thay đổi hoặc huỷ bỏ.
2- Việc thay đổi hoặc huỷ bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên toà do Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án quyết định; tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định.
Điều 36
1- Quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời được thi hành ngay mặc dù có khiếu nại hoặc kiến nghị.
2- Các đương sự có quyền khiếu nại,
Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án hành
chính về quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án phải
xem xét và trả lời.
Chương 7:
CHUẨN BỊ XÉT XỬ
Điều 37
1- Trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo cho bên bị kiện
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết nội dung đơn kiện.
Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bên bị kiện
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải gửi cho
Toà án ý kiến của mình bằng văn bản về đơn kiện và các tài liệu khác có liên
quan đến việc giải quyết vụ án; hết thời hạn này mà không nhận được ý kiến bằng
văn bản thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
2- Trong thời
hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công làm Chủ toạ
phiên toà phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Đưa vụ án ra xét xử;
b) Tạm đình
chỉ việc giải quyết vụ án;
c) Đình chỉ việc giải quyết vụ
án.
Đối với các vụ án phức tạp, thời
hạn nói trên không quá chín mươi ngày.
3- Trong thời
hạn hai mươi ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở
phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng, thời hạn đó không quá ba mươi
ngày.
4- Ngay sau
khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm
sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn mười lăm ngày, nếu Viện kiểm sát tham
gia phiên toà sơ thẩm.
Điều 38
1- Trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử, nếu xét thấy cần thiết, Toà án có thể tự mình hoặc uỷ thác cho Toà án khác
tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án. Toà án
được uỷ thác có nhiệm vụ thực hiện ngay việc uỷ thác và thông báo kết quả cho
Toà án đã uỷ thác.
2- Việc xác minh, thu thập chứng
cứ bao gồm:
a) Yêu cầu các đương sự cung cấp,
bổ sung chứng cứ hoặc trình bày về những vấn đề cần thiết;
b) Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ
chức, cá nhân hữu quan cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ
án;
c) Yêu cầu người làm chứng trình
bày về những vấn đề cần thiết;
d) Xác minh tại chỗ;
đ) Trưng cầu giám định và tiến
hành một số biện pháp cần thiết khác.
Điều 39
Quyết định đưa vụ án ra xét xử
phải có nội dung sau đây:
1- Ngày, tháng, năm, địa điểm mở
phiên toà;
2- Việc xét xử được tiến hành
công khai hay xét xử kín với sự có mặt hay không có mặt các đương sự và những
người tham gia tố tụng khác;
3- Tên của các đương sự, những
người tham gia tố tụng khác;
4- Nội dung việc khởi kiện;
5- Họ, tên của Thẩm phán, Hội thẩm,
Thư ký phiên toà; họ, tên của Kiểm sát viên nếu Viện kiểm
sát tham gia phiên toà.
Điều 40
1- Toà án quyết định tạm đình chỉ
việc giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:
a) Đương sự là
cá nhân đã chết, pháp nhân đã
giải thể mà chưa có cá nhân, pháp nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng;
b) Đã hết thời hạn chuẩn bị xét
xử mà một trong các đương sự không thể có mặt vì lý do chính đáng, trừ trường hợp
có thể xét xử vắng mặt các đương sự;
c) Cần đợi kết quả giải quyết vụ
án hình sự, vụ án dân sự, vụ án kinh tế, vụ án lao động, vụ án hành chính khác
có liên quan.
2- Toà án tiếp tục giải quyết vụ
án khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn.
3- Quyết định tạm đình chỉ việc
giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị.
Điều 41
1- Toà án quyết định đình chỉ việc
giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:
a) Đương sự là cá nhân đã chết
mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; pháp nhân đã giải thể mà không có
cá nhân, pháp nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng;
b) Nguyên đơn
rút đơn kiện;
c) Nguyên đơn đã được triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng;
d) Thời hạn khởi kiện đã hết trước
ngày Toà án thụ lý đơn khởi kiện;
đ) Sự việc đã được giải quyết bằng
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc của cơ quan có
thẩm quyền khác;
e) Sự việc không thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án.
2- Quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị, trừ trường hợp quy định tại điểm b
khoản 1 Điều này.
Điều 42
Khi có các quyết định quy định tại
các điều 39, 40 và 41 của Pháp lệnh này, Toà án phải gửi
ngay các quyết định đó cho Viện kiểm sát cùng cấp, các đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Chương 8:
PHIÊN TOÀ SƠ THẨM
Điều 43
1- Phiên toà sơ thẩm được tiến
hành với sự có mặt của các đương sự hoặc người đại diện của đương sự. Phiên toà
sơ thẩm vẫn có thể được tiến hành vắng mặt một bên đương sự khi họ có yêu cầu
và được Toà án chấp nhận hoặc trong trường hợp người bị kiện đã được triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
2- Đối với vụ án mà nội dung đã
rõ ràng, có đủ chứng cứ được các bên thừa nhận và không có yêu cầu tham gia
phiên toà, thì Toà án tiến hành phiên toà sơ thẩm không cần sự có mặt của người
tham gia tố tụng.
3- Viện kiểm
sát phải tham gia phiên toà sơ thẩm hoặc phải có ý kiến bằng văn bản trong trường
hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án và trong trường hợp có đương sự là người chưa
thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần hay đối với các vụ án
về khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính: giáo dục tại
xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa
vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. Đối với các vụ án khác, Viện kiểm sát
có thể tham gia tố tụng từ bất cứ giai đoạn nào nếu thấy cần thiết.
Điều 44
1- Khi bắt đầu
phiên toà sơ thẩm với sự có mặt của người tham gia tố tụng, Chủ toạ phiên toà đọc
quyết định đưa vụ án ra xét xử, kiểm tra sự có mặt và căn cước của những người
được triệu tập đến phiên toà, giải thích cho họ biết quyền, nghĩa vụ của họ tại
phiên toà. Nếu người được triệu tập mà vắng mặt, thì Hội đồng xét xử quyết định
hoãn hoặc tiếp tục phiên toà.
Chủ toạ phiên toà giới thiệu các
thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà,
người giám định, người phiên dịch, người làm chứng và giải thích cho những người
tham gia tố tụng biết quyền yêu cầu thay đổi thành phần Hội đồng xét xử, Kiểm
sát viên, Thư ký phiên toà, người giám định, người phiên
dịch, nếu có ý kiến yêu cầu thay đổi, thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.
Chủ toạ phiên toà giải thích cho
người giám định, người phiên dịch về quyền, nghĩa vụ của họ. Những người này phải
cam đoan làm tròn nghĩa vụ.
Chủ toạ phiên toà giải thích cho
người làm chứng về quyền, nghĩa vụ của họ. Người làm chứng phải cam đoan khai
đúng sự thật. Nếu người làm chứng có thể bị ảnh hưởng bởi lời khai của người
khác, thì Chủ toạ phiên toà cho cách ly người làm chứng với người đó trước khi
lấy lời khai của người làm chứng.
Chủ toạ phiên toà hỏi đương sự
hoặc người đại diện của đương sự, Kiểm sát viên, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự về việc cung cấp thêm chứng cứ hoặc yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng; nếu có người yêu cầu, thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết
định.
2- Đối với phiên toà sơ thẩm được
tiến hành không cần sự có mặt của người tham gia tố tụng, thì sau khi nghe Chủ
toạ phiên toà tóm tắt nội dung sự việc, Hội đồng xét xử xem xét các tài liệu có
trong hồ sơ vụ án và sau khi nghe đại diện Viện kiểm sạt trình bày ý kiến hoặc
sau khi công bố ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án
(nếu có), Hội đồng xét xử thảo luận và nghị án.
Điều 45
Hội đồng xét xử hoãn phiên toà
trong các trường hợp sau đây:
1- Vắng mặt Kiểm sát viên hoặc
chưa có ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát trong trường hợp Viện kiểm sát phải
tham gia phiên toà hay phải có ý kiến bằng văn bản;
2- Người khởi kiện, bên bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc người đại diện của
họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng đối với phiên toà sơ thẩm được tiến
hành với sự có mặt của người tham gia tố tụng;
3- Thành viên của Hội đồng xét xử,
Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch bị thay đổi
mà không có người thay thế ngay.
Điều 46
1- Hội đồng xét xử xác định đầy
đủ các tình tiết của vụ án bằng cách nghe ý kiến của người khởi kiện, bên bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người
đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người
làm chứng, người giám định, đối chiếu các ý kiến này với tài liệu, chứng cứ đã
thu thập được.
2- Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử
hỏi trước, sau đó đến Kiểm sát viên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Những người tham gia tố tụng có quyền đề xuất với Hội đồng xét xử những
vấn đề cần được hỏi thêm.
Điều 47
Sau khi Hội đồng xét xử kết thúc
việc xét hỏi, các đương sự hoặc người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự, tham gia tranh luận; Kiểm sát viên tham gia
phiên toà trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Điều 48
Tại phiên toà, nếu có một trong
các trường hợp quy định tại Điều 40 của Pháp lệnh này, thì Hội
đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án; nếu có một trong
các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này, thì
ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Điều 49
1- Các quyết định của Hội đồng
xét xử phải được các thành viên thảo luận và quyết định theo đa số. Khi nghị án
phải lập biên bản ghi các ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử.
2- Bản án phải
có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm, địa điểm tiến
hành phiên toà;
b) Họ, tên thành viên Hội đồng
xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà;
c) Tên, địa chỉ của các đương sự,
người đại diện của họ;
d) Yêu cầu của các đương sự;
đ) Những tình
tiết đã được chứng minh, những chứng cứ, căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án;
e) Các quyết
định của Toà án;
g) án phí, người phải chịu án
phí;
h) Quyền kháng cáo của đương sự.
3- Chủ toạ phiên toà công bố
toàn văn bản án và giải thích cho đương sự biết quyền kháng cáo và nghĩa vụ chấp
hành bản án.
Điều 50
1- Toà án ra các quyết định để
giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.
2- Trước khi mở phiên toà, Thẩm
phán được phân công giải quyết vụ án có quyền ra các quyết định; tại phiên toà,
việc ra các quyết định do Hội đồng xét xử thực hiện.
3- Nội dung quyết định bao gồm:
a) Toà án giải quyết vụ án;
b) Ngày, tháng, năm ra quyết định;
c) Tên, địa chỉ của các đương sự
và những người tham gia tố tụng khác;
d) Yêu cầu của đương sự hoặc lý
do ra quyết định;
đ) Căn cứ
pháp luật để ra quyết định;
e) Các quyết định cụ thể;
g) Quyền kháng cáo của đương sự.
Điều 51
Toà án không được sửa chữa, bổ
sung bản án, quyết định đã tuyên, trừ trường hợp có sai sót rõ ràng về số liệu
tính toán hoặc về chính tả, nhưng phải thông báo ngay cho đương sự, Viện kiểm
sát, cá nhân, tổ chức khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Điều 52
1- Mọi diễn biến của phiên toà
phải được phản ánh rõ trong biên bản phiên toà. Chủ toạ phiên toà kiểm tra biên
bản phiên toà và cùng Thư ký phiên toà ký vào biên bản.
2- Trong thời hạn ba ngày, kể từ
ngày tuyên án, các đương sự, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích
pháp của đương sự, được xem biên bản phiên toà, có quyền yêu cầu sửa chữa, bổ
sung biên bản. Chủ toạ phiên toà, Thư ký phiên toà và người
có yêu cầu ký tên xác nhận những điều sửa chữa, bổ sung. Nếu yêu cầu sửa chữa,
bổ sung biên bản phiên toà không được chấp nhận, thì người yêu cầu có quyền ghi
ý kiến của mình bằng văn bản để đưa vào hồ sơ vụ án.
Điều 53
Ngay sau khi phiên toà kết thúc,
các đương sự được Toà án cấp trích lục bản án hoặc quyết định về vụ án. Chậm nhất
là bảy ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định, Toà án phải cấp cho đương sự bản
sao bản án hoặc quyết định theo yêu cầu của họ, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát
cùng cấp.
Điều 54
Người vi phạm trật tự phiên toà,
tuỳ từng trường hợp, có thể bị Chủ toạ phiên toà cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời
khỏi phòng xử án hoặc bị bắt giữ.
Cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ bảo
vệ phiên toà và thi hành lệnh của Chủ toạ phiên toà về việc buộc người vi phạm
trật tự phiên toà rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ người vi phạm.
Chương 9:
THỦ TỤC PHÚC THẨM
Điều 55
1- Đương sự
hoặc người đại diện của đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc
trên một cấp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
việc giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án trên một cấp xét
xử phúc thẩm, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 41 của
Pháp lệnh này.
2- Người kháng cáo phải làm đơn
kháng cáo; Viện kiểm sát kháng nghị bằng văn bản. Trong đơn kháng cáo, bản
kháng nghị phải nêu rõ:
a) Nội dung phần quyết định của
bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị;
b) Lý do kháng cáo, kháng nghị;
c) Yêu cầu của người kháng cáo,
kháng nghị.
Điều 56
1- Thời hạn kháng cáo là mười
ngày, kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định; nếu đương sự vắng mặt tại
phiên toà, thì thời hạn này tính từ ngày bản sao bản án, quyết định được giao
cho họ, thân nhân của họ hoặc được niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn nơi họ cư trú hoặc nơi có trụ sở, nếu đương sự là pháp
nhân.
2- Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm
sát cùng cấp là mười ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là hai mươi ngày, kể từ
ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định. Nếu Kiểm sát viên không tham gia phiên
toà, thì thời hạn kháng nghị được tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được
bản sao bản án, quyết định của Toà án.
3- Trong trường hợp do trở ngại
khách quan, mà không thể kháng cáo, kháng nghị được trong thời hạn quy định tại
các khoản 1 và 2 Điều này, thì thời gian bị trở ngại khách quan không tính vào
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4- Kháng cáo, kháng nghị được gửi
đến Toà án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày
nhận được kháng cáo, kháng nghị hoặc kể từ ngày người kháng cáo xuất trình biên
lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, nếu người đó phải nộp khoản tiền đó, Toà
án cấp sơ thẩm phải gửi kháng cáo, kháng nghị kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ án cho
Toà án phúc thẩm.
Điều 57
1- Khi gửi kháng cáo, kháng nghị
kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm, Toà án cấp sơ thẩm phải
thông báo việc kháng cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, Viện kiểm sát phải gửi bản sao bản kháng
nghị cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị.
2- Đương sự và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị phải gửi cho Toà án cấp phúc thẩm
ý kiến của mình về kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn bảy ngày, kể từ này nhận
được thông báo.
Điều 58
1- Trước hoặc
tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị có quyền rút
một phần hoặc toàn bộ nội dung kháng cáo, kháng nghị.
2- Toà án ra quyết định đình chỉ
việc xét xử phúc thẩm vụ án trong trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng
cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị.
Điều 59
1- Trước khi xét xử hoặc tại phiên
toà phúc thẩm, người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự có quyền bổ sung chứng cứ mới.
2- Toà án cấp phúc thẩm tự mình
hoặc theo yêu cầu của đương sự tiến hành hoặc uỷ thác cho Toà án khác tiến hành
xác minh chứng cứ mới được bổ sung.
Điều 60
1- Toà án cấp phúc thẩm xem xét
nội dung kháng cáo, kháng nghị và phần bản án, quyết định có liên quan đến nội
dung kháng cáo, kháng nghị.
2- Trong thời hạn sáu mươi ngày,
kể từ ngày nhận đủ hồ sơ do Toà án cấp sơ thẩm gửi đến, Toà án cấp phúc thẩm phải
mở phiên toà phúc thẩm; trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, thì
thời hạn đó không được quá chín mươi ngày.
Điều 61
Hội đồng xét xử phúc thẩm không
phải mở phiên toà, không phải triệu tập các đương sự trong các trường hợp sau
đây:
1- Xét kháng cáo, kháng nghị quá
hạn;
2- Xét kháng cáo, kháng nghị về
phần án phí;
3- Xét kháng cáo, kháng nghị những
quyết định của Toà án cấp sơ thẩm.
Điều 62
Trước khi xét xử phúc thẩm, Toà
án có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc
giải quyết vụ án theo các quy định của Pháp lệnh này.
Điều 63
1- Viện kiểm
sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm hoặc phải có ý kiến bằng văn bản
đối với các vụ án quy định tại khoản 3 Điều 43 của Pháp lệnh
này và trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị; đối
với các trường hợp khác, Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm khi thấy cần
thiết. Nếu Viện kiểm sát tham gia phiên toà, thì Toà án chuyển hồ sơ vụ án cho
Viện kiểm sát nghiên cứu trong thời hạn mười ngày.
2- Đương sự kháng cáo, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị được triệu tập tham gia
phiên toà.
3- Toà án chỉ triệu tập người giám
định, người phiên dịch, người làm chứng khi có yêu cầu của đương sự và khi cần
thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị.
4- Nếu Kiểm sát viên phải tham
gia phiên toà hoặc có yêu cầu tham gia phiên toà mà vắng mặt hay chưa có ý kiến
bằng văn bản của Viện kiểm sát, thì Hội đồng xét xử hoãn phiên toà. Nếu những
người quy định tại các khoản 2 và 3 Điều này mà vắng mặt, thì Toà án vẫn có thể
tiến hành xét xử.
5- Đối với các vụ án khi xét xử
sơ thẩm không cần sự có mặt của người tham gia tố tụng hoặc không có yêu cầu
tham gia phiên toà phúc thẩm thì Toà án tiến hành phiên toà phúc thẩm không cần
sự có mặt của người tham gia tố tụng.
Điều 64
1- Phiên toà phúc thẩm được tiến
hành theo các thủ tục như phiên toà sơ thẩm. Trước khi xem xét kháng cáo, kháng
nghị, một thành viên Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, quyết định của bản
án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.
2- Toà án cấp phúc thẩm có quyền:
a) Bác kháng cáo, kháng nghị và
giữ nguyên các quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm;
b) Sửa một phần hoặc toàn bộ phần
quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm;
c) Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm
và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại trong trường hợp có vi
phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc việc xác minh, thu thập chứng cứ
không đầy đủ mà Toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung được;
d) Tạm đình chỉ việc giải quyết
vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 40 của
Pháp lệnh này;
đ) Huỷ bản
án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các
trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này.
3- Bản án, quyết định sơ thẩm bị
sửa đổi một phần hoặc toàn bộ khi:
a) Nội dung trái pháp luật,
không phù hợp với hồ sơ vụ án;
b) Có chứng cứ mới cho thấy bản
án, quyết định sơ thẩm trái pháp luật, không đúng với sự thật khách quan của vụ
án.
Điều 65
1- Ngoài nội dung quy định tại
các Điều 49 và 50 của Pháp lệnh này, trong bản án, quyết định
phúc thẩm phải nêu rõ phần quyết định của bản án, quyết định bị kháng cáo hoặc
kháng nghị, nội dung kháng cáo, kháng nghị và quyết định của Toà án cấp phúc thẩm.
2- Bản sao bản án, quyết định
phúc thẩm phải được gửi cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra bản án,
quyết định.
Điều 66
1- Khi phúc thẩm quyết định của
Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Toà án không phải mở phiên toà,
không phải triệu tập các đương sự, trừ trường hợp cần nghe ý kiến của họ trước
khi ra quyết định.
2- Toà án cấp phúc thẩm phải ra
quyết định giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn mười lăm ngày,
kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị.
3- Khi xem xét quyết định của
Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp phúc thẩm có những quyền
hạn quy định tại Điều 64 của Pháp lệnh này.
Chương
10:
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM,
TÁI THẨM
Điều 67
1- Bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một
trong những căn cứ sau đây:
a) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng;
b) Phần quyết định trong bản án,
quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
c) Có sai lầm nghiêm trọng trong
việc áp dụng pháp luật.
2- Bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những
căn cứ sau đây:
a) Mới phát hiện được tình tiết
quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được khi giải quyết vụ án;
b) Đã xác định được lời khai của
người làm chứng, kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch rõ
ràng không đúng sự thật hoặc có giả mạo bằng chứng;
c) Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát
viên, Thư ký Toà án cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án;
d) Bản án, quyết định của Toà án
hoặc quyết định của của cơ quan nhà nước mà Toà án dựa vào đó để giải quyết vụ
án đã bị huỷ bỏ.
Điều 68
1- Chánh án
Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp.
2- Phó chánh án Toà án nhân dân
tối cao, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà
án nhân dân địa phương.
3- Chánh án
Toà án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án cấp huyện.
Điều 69
1- Thời hạn
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là sáu tháng, theo thủ tục tái thẩm là một
năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
2- Kháng nghị
phải được gửi cho Toà án đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị, Toà án sẽ xét
xử giám đốc thẩm, tái thẩm, đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến nội dung kháng nghị. Toà án phải gửi kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án cho Viện
kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu trong thời hạn mười lăm ngày.
3- Trong kháng nghị phải ghi rõ
căn cứ kháng nghị. Trước khi mở phiên Toà hoặc tại phiên toà, người kháng nghị
có quyền rút kháng nghị.
4- Người kháng nghị có quyền
hoãn hoặc tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
bị kháng nghị.
Điều 70
1- Hội đồng giám đốc thẩm, tái
thẩm chỉ có quyền xem xét phần nội dung của vụ án liên quan đến quyết định bị
kháng nghị.
2- Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh
giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiêu lực pháp
luật của Toà án cấp huyện bị kháng nghị.
3- Toà Hành chính Toà án nhân
dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án cấp tỉnh bị kháng nghị.
4- Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao bị
kháng nghị.
5- Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà quyết định của Uỷ ban
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị.
6- Trong thời hạn một tháng, kể
từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Toà án phải mở phiên toà giám đốc, tái thẩm.
Điều 71
1- Phiên toà giám đốc thẩm, tái
thẩm không phải triệu tập đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
kháng nghị, trừ trường hợp Toà án thấy cần phải nghe ý kiến của họ trước khi
quyết định.
2- Tại phiên toà, một thành viên
Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, nội dung kháng nghị. Trong trường hợp
Toà án có triệu tập những người tham gia tố tụng, thì người được triệu tập
trình bày ý kiến trước khi Kiểm sát viên trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ
án. Hội đồng xét xử thảo luận và ra quyết định.
Điều 72
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm,
tái thẩm có quyền:
1- Bác kháng nghị và giữ nguyên
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
2- Sửa đổi một phần hoặc toàn bộ
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
3- Huỷ bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại;
4- Huỷ bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này.
Chương
11:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 73
Các quy định của Pháp lệnh này
cũng được áp dụng đối với việc giải quyết vụ án hành chính, có đương sự là cá
nhân, pháp nhân nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc
tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Điều 74
1- Chính phủ thống nhất quản lý
nhà nước về công tác thi hành án hành chính trong phạm vi cả nước.
2- Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ
chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp
hành. Thủ trưởng cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp có trách nhiệm theo dõi,
giám sát việc thi hành án hành chính; trong trường hợp cần thiết có quyền buộc
phải chấp hành quyết định của Toà án về vụ án hành chính. Người nào thiếu trách
nhiệm trong việc thi hành án hành chính hoặc cố tình không chấp hành bản án,
quyết định của Toà án về vụ án hành chính, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm
có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
3- Các quyết
định về phần tài sản, quyền tài sản trong các bản án, quyết định của Toà án về
vụ án hành chính được thi hành theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự.
Điều 75
Pháp lệnh này có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 7 năm 1996.
Những quy định trước đây trái với
Pháp lệnh này đều bãi bỏ.
Điều 76
Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng của mình hướng dẫn
thi hành Pháp lệnh này.
Hà
Nội, ngày 21 tháng 5 năm 1996