HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
*******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******
|
Số:
65-CP
|
Hà
Nội, ngày 15 tháng 05 năm 1963
|
NGHỊ ĐỊNH
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ VIỆC XỬ LÝ CÁC VỤ VI PHẠM CHẾ ĐỘ
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TRONG NƯỚC
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Nghị định số 004-TTg
ngày 04-01-1960 của Thủ tướng Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về chế độ hợp
đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và các cơ quan Nhà nước;
Căn cứ Nghị định số 29-CP ngày 23-02-1962 của Hội đồng Chính phủ ban hành điều
lệ tạm thời quy định những nguyên tắc xử lý trong việc chấp hành chế độ hợp đồng
kinh tế;
Theo đề nghị của ông Chủ tịch Hội đồng trọng tài trung ương;
Căn cứ nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong hội nghị của Thường vụ Hội đồng
Chính phủ ngày 23-01-1963,
NGHỊ ĐỊNH :
Điều 1.
– Nay ban hành, kèm theo nghị định này, điều lệ tạm thời về việc xử lý các vụ
vi phạm chế độ hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước.
Điều 2.
– Ông Chủ tịch Hội đồng trọng tài trung ương chịu trách nhiệm giải thích và quy
định chi tiết thi hành bản điều lệ này.
Điều 3.
– Ông Chủ tịch Hội đồng trọng tài trung ương, các ông Bộ trưởng các Bộ, các ông
Tổng cục trưởng các Tổng cục có liên quan, các ông Chủ tịch các Ủy ban hành
chính các khu, thành, tỉnh, chịu trách nhiệm thi hành nghị định này.
|
T.M.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|
ĐIỀU LỆ TẠM THỜI
VỀ VIỆC XỬ LÝ CÁC VỤ VI PHẠM CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA TRONG NƯỚC
NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều 1.
– Bản điều lệ tạm thời này cụ thể hóa những nguyên tắc và thể lệ đã ban hành về
chế độ hợp đồng kinh tế, nhằm làm cơ sở cho việc xử lý các vụ tranh chấp về từ
chối ký kết hợp đồng và vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước.
Điều 2.
– Trong khi xử lý các vụ tranh chấp về từ chối ký kết hợp đồng và vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa trong nước, cần phải quán triệt các mục đích sau đây:
1. Đẩy mạnh sản xuất và
lưu thông hàng hóa, đưa sản xuất và lưu thông hàng hóa đi vào kế hoạch.
2. Đề cao tinh thần trách
nhiệm, ý thức tổ chức và ý thức kỷ luật trong việc thực hiện chế độ hợp đồng,
tăng cường sự hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa các cơ quan Nhà nước và các đơn vị
sản xuất, kinh doanh.
3. Tăng cường ý thức đảm
bảo chất lượng hàng hóa, góp phần nâng cao tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng
hàng hóa, khắc phục khuynh hướng chạy theo số lượng, coi nhẹ phẩm chất, tránh ứ
động vốn, ứ đọng hàng hóa.
4. Bảo đảm lợi ích vật chất
của cả hai bên đã ký kết hợp đồng, củng cố và tăng cường chế độ hạch toán kinh
tế.
Điều 3.
- Hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước nói trong điều lệ này bao gồm:
- Hợp đồng cung cấp vật tư kỹ
thuật, cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu cho sản xuất, xây dựng và vận
tải;
- Hợp đồng mua bán hàng
công nghệ, hàng nông sản, lâm sản, thổ sản, hải sản, sách báo;
- Hợp đồng gia công đặt hàng, hợp
đồng bán nguyên liệu, vật liệu, thu mua thành phẩm.
THỂ LỆ KÝ KẾT, THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG VÀ XỬ PHẠT CÁC VỤ VI
PHẠM
A. Trước lúc
ký kết hợp đồng:
Điều 4. –
Cơ sở để ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa là chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước và chỉ
tiêu kế hoạch của các Bộ, Tổng cục, Ủy ban hành chính các khu, thành, tỉnh đã
được Nhà nước phê chuẩn.
Số lượng và giá trị những loại
hàng chủ yếu ghi trong hợp đồng cụ thể phải phù hợp với số lượng và giá trị ghi
trong hợp đồng nguyên tắc. Đối với các mặt hàng mà trong khi chỉ ghi bằng chỉ
tiêu giá trị, không ghi bằng chỉ tiêu hiện vật, thì hai bên phải căn cứ vào chỉ
tiêu giá trị để quy định cụ thể với nhau. Hai bên mua và bán có thể thỏa thuận
với nhau để ký kết thêm về những sản phẩm vượt chỉ tiêu.
Điều 5. –
Nội dung hợp đồng phải rõ ràng và cụ thể theo Thông tư số 32-TTg, ngày
01-07-1960 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định. Hai bên có thể thỏa thuận ghi
thêm những điều khoản cần thiết khác, nhưng không được ghi những điều khoản
trái với luật lệ Nhà nước hoặc những điều khoản nhằm giảm nhẹ trách nhiệm cho
nhau.
Điều 6. –
Để bảo đảm thời gian ký kết hợp đồng, sau khi chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước hoặc
chỉ tiêu kế hoạch của mỗi Bộ, Tổng cục, khu, thành, tỉnh được thông qua, bên
mua cũng như bên bán đều có trách nhiệm cùng nhau thảo luận, thương lượng để việc
ký kết hợp đồng được nhanh, gọn và tốt.
Để phân rõ trách nhiệm trong việc
xúc tiến ký kết hợp đồng, nay quy định:
- Đối với hàng công nghệ và vật
tư kỹ thuật, bên bán phải chủ động lập các bản hợp đồng nguyên tắc và hợp đồng
cụ thể, ký trước, gửi cho bên mua;
- Đối với hàng lương thực, thực
phẩm và nông sản, lâm sản, thổ sản, hải sản, bên mua phải chủ động lập xong các
bản hợp đồng nguyên tắc và hợp đồng cụ thể, ký trước, gửi cho bên bán.
Khi nhận được hợp đồng của một
bên đã ký thì bên kia phải nghiên cứu và ký, rồi trả lại trong thời hạn 10 ngày
kể từ ngày nhận được. Nếu có những điều chưa nhất trí với nhau thì bên nhận được
hợp đồng vẫn phải ký và có kiến nghị gửi kèm theo. Nhất thiết không được từ chối
hoặc trì hoãn việc ký kết hợp đồng.
Sau khi nhận được kiến nghị kèm
theo hợp đồng đã ký trả lại, bên chủ động lập hợp đồng có nhiệm vụ giải quyết
các kiến nghị trong thời hạn 15 ngày; nếu quá hạn này mà không có ý kiến gì thì
coi như đã chấp thuận kiến nghị của bên kia. Trong trường hợp có những kiến nghị
mà hai bên không thể nhất trí được, bên chủ động lập hợp đồng phải báo cáo lên
Hội đồng trọng tài có thẩm quyền để giải quyết, đồng thời phải báo cho bên kia
biết.
Điều 7.
- Từ chối ký kết hoặc ký dưới chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đều coi là vi phạm kỷ
luật ký kết hợp đồng.
Vi phạm kỷ luật ký kết hợp đồng
nguyên tắc hoặc hợp đồng cụ thể, đều bị xử lý bằng biện pháp hành chính.
B. Sau khi hợp
đồng đã ký kết:
Điều 8.
– Hàng hóa phải cung cấp đúng số lượng, trọng lượng đã ký kết trong hợp đồng cụ
thể. Quá thời hạn cung cấp đã ký kết, bên nào không cung cấp đủ số lượng hay trọng
lượng sẽ bị phạt từ 1 đến 3% giá trị của số hàng cung cấp còn thiếu.
Điều 9.
– Hàng hóa cung cấp phải đúng phẩm chất, quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhà
nước. Đối với loại hàng nào chưa có tiêu chuẩn kỹ thuật, thì hai bên phải thỏa
thuận với nhau và ghi vào hợp đồng, nếu là những quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật
do các đơn vị cơ sở tự ấn định với nhau, thì phải được cấp trên của cả hai bên
đồng ý.
Nếu cung cấp hàng hóa không đúng
phẩm chất, tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhà nước hoặc tiêu chuẩn do hai bên đã thỏa
thuận ghi trong hợp đồng, thì sẽ bị phạt từ 1 đến 3% giá trị của số hàng hóa
không đúng phẩm chất, tiêu chuẩn kỹ thuật. Đối với những hàng hóa kém phẩm chất
nhưng vẫn sử dụng được, thì bên cung cấp hàng hóa không được đem bán ra thị trường
tự do mà phải căn cứ vào giá trị thực tế của hàng hóa để giảm giá và giao cho
bên mua.
Nếu cung cấp hàng hóa không đúng
quy cách thì sẽ bị phạt từ 1 đến 2% giá trị của số hàng sai quy cách. Nếu hàng
sai quy cách có thể sửa chữa được thì bên bán phải sửa chữa lại, tiền công sửa
chữa do bên bán chịu và không được tính vào giá bán. Nếu được bên bán đồng ý
thì bên mua có thể sửa chữa, nhưng mọi phí tổn sửa chữa do bên bán chịu.
Điều 10. –
Hàng hóa phải cung cấp đủ bộ, đúng loại hàng, mặt hàng, đúng ký hiệu. Đối với
máy móc thiết bị, các hàng công nghệ dễ biến chất như hóa chất, dược phẩm, thực
phẩm đóng hộp, đóng chai… phải ghi rõ ngày xuất xưởng và thời gian sử dụng có đảm
bảo. Nếu cung cấp hàng hóa không đủ bộ, thì sẽ bị phạt từ 1 đến 2% giá trị của
toàn bộ mặt hàng không đủ bộ.
Trong thời gian sử dụng có đảm bảo,
nếu hàng hóa bị hư hỏng do sản xuất gây nên, thì bên bán phải sửa chữa hoặc đổi
thứ khác; nếu do bên mua bảo quản không tốt, thì bên bán không chịu trách nhiệm.
Điều 11. –
Nếu cung cấp hàng hóa hoàn toàn không tiêu thụ được thì, ngoài việc chịu phạt
theo các điều 9 và 10, bên bán còn phải cung cấp theo yêu cầu của bên mua số lượng
hàng hóa khác theo đúng phẩm chất, quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật ghi trong hợp
đồng đã ký kết.
Điều 12. –
Nếu vì thiếu nguyên liệu, vật liệu, phải dùng thế phẩm mà phải hạ thấp chỉ tiêu
chất lượng, hoặc vì muốn thay đổi mặt hàng, thay đổi quy cách mà phải sửa đổi
thiết bị, thì phải được cấp trên của hai bên ký hợp đồng đồng ý. Trong khi chưa
có quyết định của cấp trên, hai bên phải tiếp tục thực hiện đúng theo phẩm chất
quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật đã ghi trong hợp đồng.
Điều 13. –
Bao bì đóng gói phải theo đúng tiêu chuẩn Nhà nước quy định. Loại nào chưa được
Nhà nước quy định thì hai bên thỏa thuận với nhau trên tinh thần tiết kiệm, phù
hợp với thể lệ vận chuyển và phải bảo đảm cho hàng hóa khỏi bị hư hỏng, đổ vỡ,
mất mát; giảm phẩm chất trong quá trình vận chuyển và lưu kho.
Nếu cung cấp hàng hóa không đúng
tiêu chuẩn bao bì và quy cách đóng gói đã được Nhà nước quy định, hoặc tiêu chuẩn
do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng, thì bị phạt 0,05% giá trị hàng hóa đựng trong
bao bì, nhưng số tiền bị phạt không được thấp hơn giá trị của bao bì đúng tiêu
chuẩn.
Trong trường hợp bên bán cho mượn
bao bì, hoặc trong hợp đồng có ghi rõ thời hạn bên mua phải hoàn lại bao bì mà
bên mua hoàn lại chậm quá thời hạn thì phải bị phạt từ 20 đến 50% giá trị bao
bì chưa hoàn lại. Nếu bên mua không chịu hoàn lại bao bì thì ngoài việc nộp phạt
như trên, bên mua còn phải bồi thường từ 150 đến 200% giá trị bao bì không chịu
trả lại và phải bị kỷ luật về mặt hành chính.
Điều 14. –
Thời gian giao nhận, chế độ giao nhận, vận chuyển và bốc dỡ hàng hóa do hai bên
thỏa thuận quy định cụ thể với nhau, nhưng không được trái với các chế độ, thể
lệ về giao nhận, vận chuyển và bốc dỡ hàng hóa đã quy định trong Thông tư số
32-TTg ngày 01-02-1960 và các thông tư khác của Thủ tướng Chính phủ có liên
quan đến vấn đề này.
Tuỳ từng loại hàng có thể quy định
thời hạn giao nhận theo từng tháng, từng quý.
Đới với các mặt hàng sản xuất
theo thời vụ, bên bán có thể giao từ quý nọ sang quý kia, năm trước sang năm
sau. Đối với những hàng muốn giao nhận trước thời hạn, hoặc muốn giao nhận quá
mức đã quy định trong hợp đồng, phải báo cho nhau biết trước 10 ngày và phải được
sự thỏa thuận của cả đôi bên.
Nếu bên bán giao hàng không đúng
thời hạn quy định trong hợp đồng thì cứ một ngày quá hạn sẽ bị phạt 0,02% giá
trị hàng hóa giao chậm. Nếu giao chậm trên 10 ngày thì sẽ bị phạt từ 1 đến 3%
giá trị hàng hóa giao chậm.
Trong trường hợp hàng hóa giao tại
kho bên bán, nếu bên mua không đến nhận hàng đúng thời hạn đã quy định trong hợp
đồng, thì bên mua sẽ bị phạt 0,02% giá trị hàng hóa nhận chậm, đồng thời phải bồi
thường cho bên bán các khoản phí tổn về lưu kho, lưu bãi và bảo quản. Nếu quá
thời hạn, giao nhận 30 ngày mà bên mua vẫn chưa đến nhận, thì phải bồi thường gấp
đôi số phí tổn nói trên.
Trong trường hợp hàng hóa giao tại
kho bên mua, sau khi kiểm nghiệm theo đúng thủ tục quy định trong Thông tư số
32-TTg ngày 01-02-1960, nếu nhận thấy quy cách, phẩm chất, tiêu chuẩn kỹ thuật
không đúng với hợp đồng và không thể tiêu thụ được, thì bên mua vẫn phải nhận để
giải phóng phương tiện vận chuyển, đồng thời trong vòng ba ngày phải báo cho
bên bán biết. Khi nhận được giấy báo, bên bán phải giải quyết trong vòng 10
ngày. Nếu quá hạn 10 ngày bên bán không giải quyết, thì phải bồi thường gấp đôi
số phí tổn lưu kho, lưu bãi, và bảo quản cho bên nhận. Nếu bên mua trì
hoãn hoặc không nhận hết số hàng đã chở đến theo hợp đồng, thì sẽ bị phạt 0,02%
giá trị hàng không nhận và phải bồi thường mọi thiệt hại do việc từ chối không
nhận hàng gây ra.
Đối với các loại hàng chóng hư hỏng,
sau khi kiểm nghiệm thấy không đúng quy cách, phẩm chất, thì bên mua phải báo
cáo ngay với Ủy ban hành chính địa phương để thành lập một Hội đồng gồm đại diện
của Ủy ban hành chính địa phương chủ trì, và đại diện bên mua, đại diện bên
bán, đại diện cơ quan kiểm nghiệm (nếu có). Hội đồng này có trách nhiệm giải
quyết số hàng không đúng quy cách và phẩm chất ấy nhằm bảo đảm số hàng ấy được
tiêu thụ trước khi hư hỏng.
Số tiền bán hàng ấy sẽ trả lại
cho bên bán sau khi đã trừ mọi phí tổn, và bên bán phải thay thế hàng khác cho
đủ số lượng, trọng lượng đã ghi trong hợp đồng.
Đối với hàng đã giao đúng quy
cách, phẩm chất, bên mua không được viện bất cứ lý do gì để từ chối không nhận
và phải thanh toán đầy đủ và đúng thời hạn cho bên bán.
Điều 15. –
Giá hàng ghi trong hợp đồng là giá của Nhà nước quy định (giá điều động nội bộ,
giá chỉ đạo mua vào, bán ra).
Đối với những loại hàng chưa có
giá của Nhà nước quy định, thì hai bên có thể thỏa thuận ghi giá tạm tính để
làm cơ sở thanh toán khi giao, nhận hàng. Nếu hai bên không thể nhất trí trong
việc quy định giá tạm tính, thì tạm lấy giá của bên bán để thanh toán. Đối với
những loại hàng nào có thể so sánh được với những loại hàng đã có giá tiêu chuẩn
bán lẻ, thì tạm lấy giá tiêu chuẩn bán lẻ để thanh toán. Sau khi hai bên đã thống
nhất với nhau về giá tạm tính, thì phải báo cáo lên cơ quan có thẩm quyền để
xin giá chính thức. Đối với loại hàng do Bộ, Tổng cục, hoặc các Ủy ban hành
chính các khu, thành phố, tỉnh, định giá thì trong vòng từ 30 đến 45 ngày phải
có giá chính thức. Đối với loại hàng do Hội đồng Chính phủ định giá, thì trong
vòng 30 ngày các Bộ, Tổng cục, các Ủy ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh,
phải chuẩn bị đầy đủ tài liệu để trình Hội đồng Chính phủ xét duyệt giá.
Sau khi đã có giá chính thức của
Nhà nước, nếu có chênh lệch về giá, thì hai bên phải thanh toán lại với nhau, đồng
thời phải bồi hoàn cả tiền lãi vay Ngân hàng do việc thanh toán trội gây ra.
Điều 16. –
Việc thanh toán phải theo đúng thể lệ thanh toán và quản lý tiền mặt của Ngân
hàng Nhà nước. Nếu thanh toán dây dưa, chậm trễ thì sẽ chịu phạt theo thể lệ của
Ngân hàng.
Điều 17. –
Bên vi phạm hợp đồng có thể được giảm hoặc miễn mức phạt và tiền bồi thường thiệt
hại thực tế trong những trường hợp đã quy định ở điều 11 của “Điều lệ tạm thời
quy định những nguyên tắc xử lý trong việc chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế”
ban hành theo Nghị định số 29-CP ngày 23 tháng 02 năm 1962 của Hội đồng Chính
phủ.
CÁC ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 18. –
Những vụ vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước sẽ do Hội đồng trọng tài
các cấp xử lý. Khi xử lý, Hội đồng trọng tài các cấp phải căn cứ vào điều lệ tạm
thời quy định những nguyên tắc xử lý trong việc chấp hành chế độ hợp đồng kinh
tế ban hành theo Nghị định số 29-CP ngày 23 tháng 02 năm 1962 của Hội đồng
Chính phủ, và các thông tư, chỉ thị có liên quan, đồng thời phải căn cứ vào
hoàn cảnh cụ thể của từng ngành, từng địa phương, từng loại hàng, từng trường hợp
bị vi phạm và thái độ hợp tác xã hội chủ nghĩa của cả hai bên mà quyết định mức
phạt tiền trong phạm vị đã quy định của bản điều lệ này.
Điều 19. –
Điều lệ tạm thời xử lý các vụ vi phạm chế độ hợp đồng mua bán hàng hóa này
không áp dụng đối với các loại hợp đồng mua bán hàng nhập khẩu.