ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 626/QĐ-UBND
|
Quảng
Ngãi, ngày 05 tháng 09 năm 2017
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI QUẢNG NGÃI
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015;
Căn cứ Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày
16/6/2008 của Bộ Chính trị khóa X "về tiếp tục xây dựng và phát triển văn
học nghệ thuật trong thời kỳ mới";
Căn cứ Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày
09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương (Khóa XI) về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước";
Căn cứ Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020;
Căn cứ Quyết định số 22/QĐ-TTg
ngày 05/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án “Phát triển văn hóa nông thôn đến năm 2015, định hướng
đến năm 2020”;
Căn cứ Quyết định số 2198/QĐ-TTg
ngày 03/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển
thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020;
Căn cứ Quyết định số 1270/QĐ-TTg
ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”;
Căn cứ Quyết định số 2164/QĐ-TTg
ngày 11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển
hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn
2013-2020, định hướng đến năm 2030;
Căn cứ Quyết định số 2054/QĐ-TTg
ngày 13/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể
phát triển văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch vùng Kinh tế trọng điểm
Miền Trung đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
Căn cứ Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày
19/10/2016 của Tỉnh ủy Quảng Ngãi về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững;
Căn cứ Nghị quyết số
39/2017/NQ-HĐND ngày 14/7/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh Khóa XII - Kỳ họp thứ
6 về việc thông qua Đề án Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi
đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững;
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tại Tờ trình số 1063/TTr-SVHTTDL ngày 15/8/2017,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt kèm theo Quyết định này Đề án Xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập
và phát triển bền vững.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày
ký.
Điều 3. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Thủ trưởng
các sở, ban, ngành, hội, đoàn thể tỉnh và các đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân
tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
- Thường trực Tỉnh ủy;
- Thường trực HĐND tỉnh;
- CT, các PCT UBND tỉnh;
- Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh;
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh;
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy;
- Đài PTTH tỉnh, Báo Quảng Ngãi;
- VPUB: C, PCVP(KGVX), CBTH;
- Lưu: VT, KGVX(bnt624).
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
CHỦ TỊCH
Trần Ngọc Căng
|
ĐỀ ÁN
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI QUẢNG NGÃI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI
MỚI, HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
(Kèm theo Quyết định số 626/QĐ-UBND
ngày 05/9/2017 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi)
Phần I
SỰ CẦN THIẾT VÀ
CĂN CỨ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
I. SỰ CẦN THIẾT ĐỂ
BAN HÀNH ĐỀ ÁN
Trong những năm qua, công tác quản lý
nhà nước trong lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa, con người đạt được những
kết quả quan trọng. Nhận thức trong xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa, con người đối với sự phát triển có nhiều chuyển biến
tích cực. Các hoạt động, sản phẩm văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng. Quản lý
nhà nước về văn hóa được tăng cường, các thiết chế văn hóa từng bước được đầu
tư; nhiều di sản văn hóa - lịch sử - tôn giáo được bảo tồn, phát huy. Những đức
tính: giàu lòng nhân ái, yêu lẽ phải, trung thực, thẳng thắn, hiếu học, cần cù,
tiết kiệm, sáng tạo, nhẫn nại, cố kết cộng đồng... của con người Quảng Ngãi được
kế thừa và phát huy. Các giá trị mới về văn hóa, con người của thời kỳ công
nghiệp hóa, hội nhập đang hình thành và được khẳng định; giao lưu, hợp tác về
văn hóa của tỉnh từng bước được mở rộng.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được
trên lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng với phát triển kinh tế; thụ hưởng văn hóa
còn chênh lệch lớn giữa các vùng miền, các tầng lớp nhân dân; đời sống tinh thần
ở một bộ phận dân cư còn nghèo nàn. Xây dựng con người và môi trường văn hóa
lành mạnh tuy được quan tâm nhưng chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Văn hóa
chưa thẩm thấu sâu và vững chắc vào các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Một
số hoạt động văn hóa thiếu chiều sâu, hiệu quả thấp; tác phẩm văn học, nghệ thuật
có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật còn ít. Bảo tồn, phát huy một số di sản
văn hóa - lịch sử chưa hiệu quả. Thiết chế văn hóa, phương tiện kỹ thuật phục vụ
hoạt động văn hóa còn thiếu và lạc hậu, hiệu quả sử dụng thấp, còn mang nặng
tính hình thức, bao cấp; xã hội hóa các hoạt động văn hóa chưa mạnh. Các biểu
hiện văn hóa thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, tệ nạn xã hội có chiều
hướng gia tăng. Chưa phát huy đúng mức những giá trị văn hóa truyền thống và đức
tính tốt đẹp của con người Quảng Ngãi; chưa khắc phục thực sự hiệu quả tính hẹp
hòi, khắc khe, cố chấp, cứng nhắc, thụ động, thiếu hợp tác, ý thức chấp hành kỷ
luật lao động thấp trong một bộ phận cán bộ và nhân dân Quảng Ngãi.
Nhằm phát huy các kết quả đạt được,
khắc phục những hạn chế, tồn tại trên và để triển khai thực hiện có hiệu quả và
thể chế hóa Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 19/10/2016 của Tỉnh ủy Quảng Ngãi về
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội
nhập và phát triển bền vững (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 03), Nghị quyết
số 39/2017/NQ-HĐND ngày 14/7/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thông qua
Đề án xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi
mới, hội nhập và phát triển bền vững, Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Đề án xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng
yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững là cần thiết.
II. CĂN CỨ XÂY DỰNG
ĐỀ ÁN
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI, XII;
- Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày
16/7/1998 Hội nghị lần thứ năm BCHTW (Khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày
16/6/2008 của Bộ Chính trị khóa X "về tiếp tục xây dựng và phát triển văn
học nghệ thuật trong thời kỳ mới";
- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
01/12/2011 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát
triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020;
- Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày
09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương (Khóa XI) về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước";
- Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 09/01/2016
của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần cho công nhân lao động khu công nghiệp, khu chế xuất;
- Kết luận Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX của Đảng đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 5 (khóa VIII);
- Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày
06/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020;
- Quyết định số 22/QĐ-TTg ngày
05/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển văn hóa nông
thôn đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”;
- Quyết định số 2198/QĐ-TTg ngày
03/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển thể
dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020;
- Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày
27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Bảo tồn,
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”;
- Quyết định số 2164/QĐ-TTg ngày
11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ
thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm
2030;
- Quyết định số 2054/QĐ-TTg ngày
13/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch vùng Kinh tế trọng
điểm Miền Trung đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
- Văn kiện Đại hội Đảng tỉnh Quảng
Ngãi lần thứ XIX;
- Nghị quyết 05-NQ/TU ngày 13/10/2011
của Tỉnh ủy khóa XVIII về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011 -
2015 và định hướng đến năm 2020;
- Chỉ thị 26-CT/TU ngày 14/11/2013 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc nâng cao
chất lượng bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn tỉnh;
- Chương trình hành động số 51-CTr/TU
ngày 23/7/2014 của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về
đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế;
- Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày
19/10/2016 của Tỉnh ủy Quảng Ngãi về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững;
Các văn bản khác có liên quan đến
lĩnh vực liên quan đến văn hóa, nguồn nhân lực, giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y
tế, khoa học công nghệ, thông tin truyền thông, báo chí...
Phần II
THỰC TRẠNG VĂN
HÓA, CON NGƯỜI QUẢNG NGÃI
I. ĐẶC ĐIỂM TRUYỀN
THỐNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI QUẢNG NGÃI
Quảng Ngãi là một tỉnh duyên hải miền
Trung, hiện có 14 huyện, thành phố, trong đó có 6 huyện đồng bằng, 6 huyện miền
núi, 1 huyện đảo và 1 thành phố trực thuộc tỉnh. Tổng dân số tính sơ bộ đến cuối
năm 2014 là 1.241.400 người, gồm 4 dân tộc chính: Kinh, Hrê, Cor, Cadong, ngoài
ra còn một số dân tộc khác. Mật độ dân cư phân tập trung khá cao ở thành phố và
các huyện đồng bằng; vùng miền núi chiếm gần 2/3 diện tích, nhưng dân cư thưa
thớt. Toàn tỉnh có 184 xã, phường, thị trấn, trong đó có 56 xã miền núi đặc biệt
khó khăn. Nhân dân Quảng Ngãi có truyền thống yêu nước, cách mạng, có lịch sử
văn hóa lâu đời với nhiều nét văn hóa độc đáo, góp phần làm phong phú nền văn
hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Các dân tộc trên địa bàn Quảng Ngãi
và từng vùng miền đều có những nét riêng, nhưng có nhiều điểm tương đồng, nằm
trong dòng chảy văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Hiện nay, cùng với sự
phát triển của công nghệ thông tin, truyền thông, trong bối cảnh hội nhập quốc
tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, các nhân tố văn hóa từ nước ngoài du nhập sâu
rộng, đan xen nhiều yếu tố tích cực, lẫn tiêu cực, nhất là
trong giới trẻ. Di sản văn hóa truyền
thống tốt đẹp bị mai một, thay vào đó văn hóa ngoại lai trái với thuần phong, mỹ
tục của dân tộc ngày càng tác động tiêu cực trong cộng đồng dân cư.
Sau khi tái lập tỉnh, qua các nhiệm kỳ,
UBND tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã
hội. Nhờ đó, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp, dịch vụ và
đạt được những thành tựu to lớn; ngân sách đầu tư cho văn hóa đều tăng lên hàng
năm; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tuy
nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và những thành tựu đạt được trên
lĩnh vực kinh tế thì những kết quả đạt được trong lĩnh vực văn hóa, xây dựng
con người Quảng Ngãi còn khiêm tốn, chưa tương xứng và chưa bền vững.
Do đặc điểm địa lý, điều kiện tự
nhiên và kinh tế, con người Quảng Ngãi mang tính cách chung của con người Việt
Nam như tình yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc, ý chí phấn đấu, nổi trội là ở
đức tính: giàu lòng nhân ái, yêu lẽ phải, trung thực, thẳng thắn, hiếu học, cần
cù, tiết kiệm, sáng tạo, nhẫn nại, cố kết cộng đồng... của con người Quảng Ngãi
được kế thừa và phát huy. Các giá trị mới về văn hóa, con người của thời kỳ
công nghiệp hóa, hội nhập như năng động, cởi mở, thân thiện, hợp tác, chia sẻ,
thích ứng nhanh với cái mới, khát khao làm giàu... đang hình thành và được khẳng
định; tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực thì một bộ phận người Quảng Ngãi có
những hạn chế sau: tính hẹp hòi, khắc khe, cố chấp, cứng nhắc, thụ động, thiếu
hợp tác, ý thức chấp hành kỷ luật lao động thấp trong một bộ phận cán bộ và
nhân dân Quảng Ngãi, gây cản trở, ít nhiều làm chậm tiến trình đổi mới, hội nhập
và phát triển của tỉnh.
II. KẾT QUẢ XÂY
DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI QUẢNG NGÃI TỪ NĂM 19981 ĐẾN NAY
1. Xây dựng con người Quảng Ngãi
Trong những năm qua, các cấp ủy đảng,
chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chú trọng đến công tác quán triệt, phổ biến
tuyên truyền các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước cho cán bộ, đảng viên, hội viên và quần chúng nhân dân nhằm nâng cao nhận
thức và củng cố niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, củng cố
tinh thần đoàn kết, thống nhất trong Đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể
chính trị, nhờ đó tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức trong hệ thống chính trị được nâng lên, tinh thần dân chủ,
tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được thể
hiện sâu rộng trong Đảng, cơ quan nhà nước và toàn xã hội.
Trong đội ngũ cán bộ, đảng viên tinh
thần tự giác, tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như
nhận thức về chính trị, về tình hình thế giới, trong nước, trong tỉnh có những
chuyển biến rõ rệt; ý thức tổ chức kỷ luật trong thực thi công vụ, trong sinh hoạt, học tập được đề cao gắn với việc Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Qua phân loại hàng năm, số tổ chức
cơ sở đảng trong sạch vững mạnh và đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, đảng viên
đủ tư cách tăng lên.
Các cấp, các ngành, Mặt trận, các
đoàn thể và nhân dân triển khai thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước2. Thông qua các phong trào thi đua yêu nước này đã khơi
dậy trong cán bộ, đảng viên hội viên, đoàn viên, học sinh, lực lượng vũ trang
và các tầng lớp nhân dân nêu cao tính tự giác, đoàn kết, hợp lực, hăng hái thi đua trong học tập, lao động sản xuất, phát triển
kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống; tích cực tham gia
bảo vệ an ninh tổ quốc. Nhiều phong trào đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo, từ thiện,
xây dựng đời sống văn hóa, dân số kế hoạch hóa gia đình, hội thi, hội diễn văn
hóa, nghệ thuật, phát triển các làng nghề truyền thống, đã có tác dụng tích cực
góp phần xây dựng, củng cố mối quan hệ tình làng nghĩa xóm, lòng nhân ái, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Quy chế dân chủ ở cơ sở được triển
khai thực hiện, tạo sự đồng thuận trong xã hội, khơi dậy được sức mạnh đoàn kết,
tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, lao động sáng tạo trong công nhân, công chức,
viên chức và các tầng lớp nhân dân.
2. Xây dựng môi trường văn hóa
a) Các cấp ủy đảng, chính quyền,
các ngành, Mặt trận và đoàn thể quan tâm đến việc xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh: Ở cơ sở đã tổ chức nhiều
mô hình sinh hoạt văn hóa phong phú, thiết thực, phù hợp với điều kiện của địa
phương, đơn vị3. Nhiều loại hình sinh hoạt văn
hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc ở miền núi được khôi phục, giữ gìn và
phát huy. Nhiều hội thi, hội diễn nghệ thuật quần chúng, sinh hoạt cộng đồng
dân cư, các làng nghề truyền thống được khôi phục, nhờ vậy mà đã khơi dậy, phát
huy tính sáng tạo trong lao động, sản xuất; các giá trị đạo lý truyền thống,
thuần phong mỹ tục được giữ gìn góp phần đẩy lùi, xóa bỏ các tập tục lạc hậu;
tác động tích cực đến mỗi cá nhân, từng gia đình, cơ quan, đơn vị, cộng đồng
dân cư với những quy tắc ứng xử tốt đẹp, những giá trị văn hóa truyền thống, thắt chặt tình làng, nghĩa xóm, tương thân, tương ái giúp
đỡ nhau trong lao động, sản xuất, kinh doanh, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát
triển kinh tế, làm giàu chính đáng cho gia đình và xã hội.
b) Xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội: Thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị và Chỉ
thị số 15/CT-UBND ngày 22/4/2001 của UBND tỉnh, trong những năm qua việc thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội đã có những chuyển biến,
góp phần nâng cao nhận thức, cách nghĩ, cách làm của cán bộ và nhân dân theo hướng
tích cực, xóa bỏ dần các hủ tục, tập quán lạc hậu, giảm bớt
phiền hà, tốn kém thời gian, vật chất
của xã hội.
- Trong việc cưới: Đa phần nam nữ
thanh niên đều đến UBND xã, phường, thị trấn để đăng ký kết hôn, làm đúng các
thủ tục trao nhận giấy đăng ký kết hôn theo đúng pháp luật quy định. Việc tổ chức
đám cưới linh đình, trong nhiều ngày đã được hạn chế. Tình trạng thách cưới cao
mang tính gả bán được xóa bỏ, tục tảo hôn được hạn chế.
- Trong việc tang: Tổ chức theo phong
tục truyền thống nhưng được giản lược, gọn nhẹ. Các tập tục như khóc mướn, trừ
tà, bắt ma, những ràng buộc của việc tang đối với việc lấy vợ, lấy chồng cơ bản
đã được đẩy lùi từng bước. Nhiều địa phương thành lập ban tang lễ, vận động các
hộ gia đình đóng góp, đầu tư mua sắm xe tang, cờ, trống...
- Trong lễ hội: Các địa phương đã ý
thức chú trọng khôi phục yếu tố nguyên gốc các lễ hội truyền thống như: Lễ hội
ăn trâu, lễ ăn cơm mới, lễ cầu mưa và tín ngưỡng cúng tế các thần linh của đồng
bào miền núi, lễ ra quân đánh bắt hải sản đầu năm của ngư dân vùng biển, đảo, Lễ
khao lề thế lính Hoàng Sa, lễ hội đua thuyền... Thông qua lễ hội và các sinh hoạt
văn hóa tín ngưỡng của các dân tộc, các giá trị truyền thống văn hóa được bảo tồn
và phát triển trong cộng đồng, tạo nên bản sắc văn hóa đặc thù của Quảng Ngãi4. Nhìn chung, hoạt động sinh hoạt lễ hội được tổ chức chu đáo, tiết kiệm và thực hiện tốt phương châm xã hội hóa hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, nhà nước
và nhân dân cùng thực hiện. Công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện thường
xuyên nên đã hạn chế những hiện tượng tiêu cực phát sinh trong lễ hội như: mê
tín, dị đoan, đồng bóng, cờ bạc...
c) Phong trào Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa (TDĐKXDĐSVH): Phong trào TDĐKXDĐSVH được các cấp ủy Đảng, chính
quyền, Mặt trận và các đoàn thể xác định là một hoạt động thiết thực góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh. Hầu hết
Ban Chỉ đạo phong trào TDĐKXDĐSVH các cấp đã phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, tổ chức nhiều hoạt động có hiệu quả, chất lượng, đóng góp tích cực
vào việc phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương, tạo sự
chuyển biến sâu sắc về nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với vai
trò, vị trí của việc xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở. Từ phong trào này đã xuất hiện nhiều
gương người tốt, việc tốt, gia đình, thôn, tổ dân phố, cơ quan văn hóa, khu dân
cư tiên tiến làm hạt nhân trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, góp
phần tạo nên diện mạo mới trong sự phát triển xã hội ở các huyện, thành phố
trong toàn tỉnh. Phong trào TDĐKXDĐSVH đều đạt và vượt chỉ tiêu hàng năm đề ra5.
3. Đầu tư xây dựng các thiết chế
văn hóa, thể thao
Từ khi tái lập tỉnh đến nay, tỉnh Quảng
Ngãi tập trung đầu tư xây dựng nhiều thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ nhu cầu
văn hóa tinh thần và nâng cao thể chất cho cán bộ, nhân dân, học sinh trong tỉnh6.
Hệ thống bảo tàng, nhà lưu niệm và đền
thờ các vị anh hùng dân tộc, chí sỹ yêu nước được đầu tư và đưa vào khai thác
nhằm góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho mọi tầng lớp nhân
dân trong tỉnh, góp phần phát triển du lịch7...
Các huyện, thành phố cũng đầu tư xây
dựng các công trình văn hóa phục vụ nhiệm vụ chính trị và nhu cầu giải trí của
nhân dân ở địa phương.8 Bên cạnh đó, nhiều sở,
ban, ngành của tỉnh, các trường đại học, cao đẳng, các trường học trung học phổ
thông, các nhà máy ở các khu công nghiệp, các đơn vị lực lượng vũ trang trên địa
bàn tỉnh đã chú trọng đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao9; đáp ứng một phần nhu cầu sinh hoạt văn hóa, thể
thao cho cán bộ, đảng viên, công nhân, học sinh, sinh viên,
lực lượng vũ trang và nhân dân.
Ngoài ra nhiều cá nhân, doanh nghiệp
đã đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao theo phương thức xã hội hóa.
Tuy nhiên, xã hội hóa hoạt động văn hóa, thể dục thể thao ở Quảng Ngãi còn nhỏ
lẻ, manh mún, chưa có tổ chức, cá nhân nào đầu tư những công trình văn hóa quy
mô lớn.
4. Các hoạt động văn hóa
a) Hoạt động điện ảnh: Toàn tỉnh có 7 Đội chiếu phim lưu động và Rạp chiếu bóng Hòa Bình thuộc
Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng tỉnh10.
Các đội chiếu bóng lưu động đã làm tốt công tác tuyên truyền đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, kết hợp tuyên truyền, vận động
nhân dân thực hiện nếp sống văn minh, ăn ở vệ sinh, phòng, chống bệnh tật, bài
trừ mê tín dị đoan, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia đình, làng,
xã văn hóa đến với đồng bào miền núi, vùng sâu, ven biển, hải đảo.
b) Hoạt động văn hóa, văn nghệ quần
chúng: Hoạt động văn hóa,
nghệ thuật phát triển khá mạnh, đều khắp ở nhiều địa phương, đơn vị, đoàn thể,
doanh nghiệp và trở thành phong trào sôi nổi, thu hút sự
hưởng ứng của đông đảo cán bộ, học sinh, sinh viên, người lao động và nhân dân
tham gia. Nhiều cuộc liên hoan, hội diễn văn nghệ quần chúng, thi kể chuyện,
triển lãm tranh, ảnh, sách, báo được tổ chức, góp phần tuyên truyền nhiệm vụ
chính trị, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong quần chúng nhân dân, qua đó khơi dậy
sự sáng tạo, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống11.
Trung tâm Văn hóa tỉnh và Trung tâm
Văn hóa - Thể thao các huyện, thành phố đã thực hiện nhiều buổi biểu diễn văn
nghệ kết hợp tuyên truyền nhiệm vụ chính trị, phục vụ nhân dân. Các hội thi, hội
diễn cấp tỉnh, khu vực, toàn quốc được thường xuyên tổ chức, hoặc tham gia và đạt
được nhiều thành tích cao. Phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng trong những
năm qua đã góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, chú trọng
trong việc khai thác, kế thừa và phát huy các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền
thống của các dân tộc trong tỉnh.
c) Hoạt động nghệ thuật chuyên
nghiệp: trong thời gian qua, Đoàn Ca múa nhạc dân tộc
tỉnh đã tích cực dàn dựng các chương trình biểu diễn nghệ thuật có chất lượng phục
vụ nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh và biểu diễn phục
vụ nhân dân vùng sâu, vùng xa12. Ngoài ra, Đoàn
còn dàn dựng nhiều chương trình tham gia các cuộc liên hoan, hội diễn ca múa nhạc
chuyên nghiệp toàn quốc (03 năm một lần) và đạt được kết quả đáng khích lệ13.
Để nâng cao chất lượng biểu diễn
nghệ thuật của Đoàn ca múa nhạc dân tộc tỉnh, tỉnh đã đầu tư nâng
cấp trụ sở làm việc, tập luyện của Đoàn, đồng thời chỉ đạo xây dựng Đề án nâng
cấp Đoàn để trình UBND tỉnh xem xét ban hành trong thời gian đến.
d) Hoạt động thư viện: Từ năm 2011 đến nay, các thư viện không ngừng bổ sung sách báo, phục vụ
nhu cầu đọc sách báo của bạn đọc trong tỉnh14.
Thư viện Tổng hợp tỉnh tổ chức nhiều đợt trưng bày sách và nói chuyện chuyên đề,
tổ chức ngày sách Việt Nam, trưng bày sách báo Xuân hàng năm thu hút đông đảo độc
giả tham gia. Hiện nay, Thư viện tỉnh đã triển khai Dự án Tin học hóa Thư viện
nhằm nâng cao chất lượng phục vụ thông tin cho bạn đọc trong tỉnh, phấn đấu trở
thành trung tâm lưu trữ sách báo, nghiên cứu khoa học, phổ biến tri thức của tỉnh.
Hệ thống thư viện địa phương cơ sở,
các trường học được củng cố, đầu tư. Hầu hết các huyện, thành phố, trường học đều
có thư viện. Công tác phát triển các điểm đọc cơ sở được chú trọng; các xã, phường
đều xây dựng tủ sách. Hàng năm, Thư viện tỉnh tổ chức luân chuyển sách, báo đến
các điểm đọc cơ sở. Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về văn hóa, hàng
năm đều tổ chức cấp phát sách cho 13 thư viện trong tỉnh để triển khai phục vụ
đọc sách cho cán bộ, nhân dân, học sinh các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo.
đ) Phát triển sự nghiệp văn học-nghệ
thuật: Tỉnh ủy, UBND tỉnh thường xuyên quan tâm tạo điều
kiện cho Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh hoạt động; kịp thời chỉ đạo, định hướng
tư tưởng, tạo điều kiện để văn nghệ sĩ của tỉnh tham gia sáng tạo, biểu diễn. Đội
ngũ văn nghệ sĩ được tham dự nhiều buổi sinh hoạt chính trị, trại sáng tác, hội
thi...ở địa phương và khu vực; được hỗ trợ kinh phí sáng tác và quảng bá tác phẩm
văn học, nghệ thuật. Hằng năm có hàng chục buổi biểu diễn; 4-5 cuộc triển lãm
các tác phẩm văn học, nghệ thuật với quy mô lớn cấp tỉnh, cấp khu vực. Công tác
sưu tầm, sáng tác, quảng bá, giới thiệu các tác phẩm, tác giả được quan tâm. Có
nhiều văn nghệ sĩ của tỉnh đã đoạt giải thưởng văn học, nghệ thuật cấp tỉnh,
khu vực và toàn quốc, như các giải thưởng toàn quốc về nhiếp ảnh, mỹ thuật, âm
nhạc, văn nghệ dân gian.
Đội ngũ văn nghệ sĩ của tỉnh tăng về
số lượng và chất lượng; hằng năm số văn nghệ sĩ của tỉnh được kết nạp vào các hội
chuyên ngành của Trung ương đều tăng lên.
e) Đầu tư, tôn tạo, trùng tu, bảo
tồn và phát huy các di tích lịch sử văn hóa
Nhiều đề án, dự án, đề tài nghiên cứu
khoa học về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa được triển khai và đạt được
kết quả nhất định. Tỉnh đã phối hợp với một số ngành ở Trung ương tổ chức nhiều
hội thảo khoa học cấp quốc gia và quốc tế 15, tiêu
biểu như các Hội thảo quốc tế có hàng trăm nhà khoa học hàng đầu thế giới về
lĩnh vực chuyên ngành tham dự, như Hội thảo: “100 năm phát hiện và nghiên cứu
Văn hóa Sa Huỳnh”; “Khảo cổ học dưới nước Việt Nam và Đông Nam Á - hợp tác và
phát triển”...
Toàn tỉnh hiện có 29 di tích lịch sử
văn hóa cấp Quốc gia và 63 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng cấp tỉnh, 121
di tích lịch sử văn hóa được UBND tỉnh ra quyết định bảo vệ; trong đó một số di
tích, thắng cảnh thu hút đông đảo lượng khách đến tham quan, du lịch. Trong các
năm qua, các cấp chính quyền, đoàn thể trong tỉnh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
và phối hợp thực hiện quản lý di tích trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã ban hành
Quyết định số 28/2013/QĐ-UBND ngày 24/6/2013 của UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành
Quy định phân cấp quản lý di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên
địa bàn tỉnh và nhiều Chỉ thị, kế hoạch, văn bản chỉ đạo công tác này.
Công tác trùng tu tôn tạo các di tích
lịch sử văn hóa cấp quốc gia được quan tâm, có 19 di tích cấp quốc gia được
trùng tu, tôn tạo, có 11 di tích cấp tỉnh và 62 di tích đã được UBND tỉnh ra
quyết định bảo vệ được cắm mốc, xây dựng bia, bảng. Hiện tỉnh đang triển khai lập
hồ sơ đề nghị công nhận Bình Châu, Lý Sơn và khu vực phụ cận là công viên địa
chất toàn cầu, lập hồ sơ công nhận Giếng Tiền, Thới Lới là di tích cấp quốc
gia, di tích văn hóa Sa Huỳnh, Khu di tích Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, Khu Chứng
tích Sơn Mỹ là di tích quốc gia đặc biệt. Đang triển khai quy hoạch các di tích
lịch sử văn hóa, quy hoạch khảo cổ, quy hoạch các thiết chế văn hóa... Trong những
năm qua hoạt động quản lý di tích được chú trọng, các ngành chức năng phối hợp
với chính quyền địa phương xử lý một số trường hợp vi phạm, xâm hại di tích và
tình trạng xuống cấp của di tích16.
g) Bảo tồn, phát huy và phát triển
văn hóa của các dân tộc thiểu số miền núi và cư dân vùng biển Quảng Ngãi: Công tác nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát triển văn hóa, nghệ thuật,
lễ hội, các loại nhạc cụ dân tộc, trò chơi dân gian, dân ca, dân vũ, nghề truyền
thống được chú trọng; những nét đẹp văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số miền
núi, miền biển được phát huy17. Các hủ tục, mê
tín dị đoan dần dần được xóa bỏ.
UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch thực
hiện Đề án "Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến
năm 2020" trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Đặc biệt, năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đã công nhận Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa ở huyện Lý Sơn là di
sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia; Lễ hội Điện Trường Bà ở Trà Bồng đã được
xếp hạng là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2017. Nhiều địa phương
làm tốt công tác bảo tồn và phát huy các lễ hội dân gian, đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt văn hóa tinh thần của người địa phương. Tuy có mai một dần, nhưng các làng
nghề truyền thống như: dệt thổ cẩm, đan lát, nghề làm gốm,
nghề rèn, nghề làm mắm, nghề làm mạch nha, đường phèn, đường phổi... cũng được
duy trì, đặc biệt là nghề dệt thổ cẩm của người Hrê, hiện đang duy trì và phát
triển trong cộng đồng khá tốt.
Các hội thi, hội diễn nghệ thuật quần
chúng cũng góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc
thiểu số miền núi. Việc giữ gìn tiếng nói của đồng bào các dân tộc thiểu số miền
núi được khuyến khích lưu truyền, sử dụng thường xuyên trong giao tiếp và sinh
hoạt hàng ngày. Công tác đào tạo đội ngũ trí thức là người dân tộc thiểu số được
các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ về kinh phí, chọn lựa
cử đi đào tạo, bồi dưỡng và bố trí công tác phù hợp với trình độ chuyên môn, sở
trường. Đã có nhiều trí thức là người dân tộc tham gia tích cực trong lĩnh vực
văn hóa, nghệ thuật, báo chí và quản lý văn hóa ở tỉnh và huyện. Việc phát hiện
và phát huy tài năng của các nghệ nhân là người dân tộc thiểu số được chú trọng.
Tỉnh thường xuyên đưa các nghệ nhân là người dân tộc thiểu số tham gia các hội
thi, hội diễn nghệ thuật quần chúng ở khu vực, toàn quốc và đạt nhiều huy
chương, giải thưởng. Việc bảo tồn, phát huy, biểu diễn và tổ chức giảng dạy các
làn điệu dân ca, nghệ thuật bài chòi, quảng bá và phát triển nghệ thuật ca múa
nhạc dân gian truyền thống đặc thù của các dân tộc tỉnh Quảng Ngãi đã được chú
trọng. Đến thời điểm hiện nay đã có 9 nghệ nhân được Chủ tịch nước phong tặng
nghệ nhân ưu tú, 2 nghệ nhân được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tặng danh hiệu
nghệ nhân dân gian.
h) Hoạt động văn hóa trong các tôn
giáo: Các tổ chức tôn giáo có nhiều hoạt động sinh hoạt
văn hóa xã hội phong phú. Ngoài việc sinh hoạt, hành đạo theo hiến chương, điều
lệ và quy định của pháp luật, các tôn giáo còn vận động chức sắc, tín đồ tham
gia công tác từ thiện xã hội, nhân đạo.
Hiện nay toàn tỉnh có nhiều di tích,
thiết chế tôn giáo tín ngưỡng được xếp hạng di tích cấp tỉnh và cấp quốc gia18, góp phần bảo tồn di sản văn hóa tôn giáo, đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng cho nhân dân địa phương và phát triển du lịch.
Các Lễ hội tôn giáo như: Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan, Lễ giỗ Tổ đình Thiên Ấn, Lễ
Giáng sinh... được chính quyền địa phương quan tâm tạo điều kiện tổ chức.
5. Hoạt động thể dục thể thao
- Phong trào TDTT quần chúng có nhiều
khởi sắc và phát triển rộng khắp trên địa bàn tỉnh. Nhất là phong trào rèn luyện
thân thể của nhân dân được với các hình thức: đi bộ, tắm biển, thể dục dưỡng
sinh, đạp xe đạp... Mạng lưới câu lạc bộ, điểm tập luyện thể dục ngày càng được
mở rộng, chất lượng phong trào thể dục thể thao quần chúng được tăng lên qua từng
năm19. Về hoạt động thể dục
thể thao trong trường học: có 90% học sinh, sinh viên đạt chuẩn về rèn luyện
thân thể. Các sở ban, ngành, đoàn thể, địa phương, lực lượng vũ trang trên địa
bàn tỉnh hàng năm đều tổ chức các giải đấu, các hội thi thể thao tạo không khí
luyện tập thể dục thể thao quần chúng sôi nổi.
- Trong những năm gần đây có nhiều tổ
chức, cá nhân đầu tư mở các phòng tập thể dục dụng cụ, phòng tập thể hình,
yoga, sân bóng đá mini... thu hút khá đông người đến tập luyện hàng ngày. Trong
các dịp lễ tết, nhiều địa phương tổ chức tốt các hoạt động thể dục thể thao quần
chúng phục vụ nhu cầu vui chơi, rèn luyện của nhân dân. Các môn thể thao truyền
thống đậm nét dân tộc vùng, miền đã được nhiều địa phương gìn giữ, phát huy20.
- Thể thao thành tích cao của tỉnh Quảng
Ngãi đạt nhiều kết quả khá21. Trường Năng Khiếu
thể dục thể thao tỉnh thường xuyên mở các lớp năng khiếu22, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể dục thể thao duy trì huấn
luyện các đội tuyển, triển khai công tác kiểm tra, tuyển chọn lực lượng vận động
viên gởi đi tập huấn tại các Trung tâm huấn luyện khu vực, quốc gia vào các thời
điểm chuẩn bị lực lượng vận động viên tham gia các giải toàn quốc đạt kết quả.
Có nhiều vận động viên đạt huy chương vàng, huy chương bạc, huy chương đồng tại
các giải SEAgames, giải PARAgames, châu Á, thế giới.
6. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn
hóa
Trong những năm qua, công tác ngoại
giao nhân dân được tăng cường, thông qua các cuộc hội thảo khoa học về văn hóa23, tạo điều kiện cho một số đoàn nghệ nhân tham
gia các cuộc Liên hoan nghệ thuật, giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực
và trên thế giới24. Trong những năm gần đây, với
sự phát triển của Khu kinh tế Dung Quất, Khu Công nghiệp Đô thị và Dịch vụ
VSIP, sự đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài trên địa bàn đã góp phần rất lớn
trong việc giao lưu hợp tác văn hóa quốc tế.
Nhằm phục vụ du khách người nước
ngoài, cũng như tăng cường công tác quảng bá, giới thiệu văn hóa, con người Quảng
Ngãi đến với bạn bè quốc tế, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xuất bản một số
tập gấp được in hai thứ tiếng Việt - Anh và sẽ tiếp tục xuất bản, in ấn một số
sản phẩm văn hóa nhằm phục vụ khách du lịch, góp phần tăng cường công tác ngoại
giao của tỉnh.
7. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện
thể chế văn hóa
Để có cơ sở pháp
lý cho việc thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh và các quy định liên quan,
Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành nhiều văn bản trên các lĩnh vực như bảo tồn bảo
tàng, quảng cáo, dịch vụ karaoke, thư viện; ban hành các văn bản, hướng dẫn xây
dựng hương ước, quy ước ở cơ sở; các quy định, quy chế về gia đình văn hóa,
thôn, tổ dân phố văn hóa, xã văn hóa; quy định phường, thị trấn đạt chuẩn văn
minh đô thị, xã văn hóa nông thôn mới; Kế hoạch thực hiện Chỉ thị 46-CT/TW ngày
27/10/2010 của Ban Bí thư (khóa X) về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn
hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội... Mặt khác, tỉnh đã kịp thời rà soát
và bãi bỏ những văn bản pháp luật về lĩnh vực quản lý văn hóa không còn phù hợp
với các quy định của Chính phủ, Bộ, ngành Trung ương và điều kiện thực tế của địa
phương.
Trong những năm qua, UBND tỉnh đã phê
duyệt nhiều đề án, dự án, quy hoạch lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch, y tế,
giáo dục, thông tin truyền thông, khoa học25...
nhằm mục đích xây dựng văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
8. Phát triển sự nghiệp giáo dục-đào
tạo và y tế
a) Phát triển giáo dục-đào tạo,
hình thành nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới
Công tác giáo dục đạo đức, truyền thống
yêu nước và cách mạng được chú trọng. Thông qua các giờ học giáo dục công dân,
lịch sử, địa lý, ngữ văn, nhạc, họa, hoạt động Đoàn, Đội, và các hội thi, hội
diễn... ngành giáo dục đã đẩy mạnh giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử,
trong học sinh, sinh viên26. Tổ chức biên soạn bộ
tài liệu giáo dục văn hóa lịch sử địa phương từ cấp tiểu học đến trung học phổ
thông. Một số trường học phối hợp với Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh tổ chức
cho học sinh, đoàn viên thanh niên tham gia bảo vệ cảnh quan, môi trường ở các
nghĩa trang liệt sĩ, di tích lịch sử, di tích cách mạng tại địa phương.
Sự nghiệp giáo dục-đào tạo của tỉnh
được đầu tư, phát triển cả về quy mô, số lượng, chất lượng, góp phần đáp ứng
nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Phong trào khuyến
học, khuyến tài được chú trọng, việc xây dựng xã hội học tập được quan tâm hơn.
Số lượng trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng27, nhiều loại hình đào tạo được
mở ra.
b) Nâng cao chất lượng chăm sóc sức
khỏe nhân dân
Hệ thống y tế từ tỉnh đến cơ sở được
tăng cường đầu tư; trang thiết bị, nhân lực y tế được tăng cường về số lượng và
chất lượng28. Hệ thống y tế tuyến tỉnh đến xã,
phường, thị trấn đã được thành lập và củng cố, xây dựng và phát triển hoàn chỉnh,
nâng cao về số lượng và chất lượng công chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân
trong tỉnh29. Hệ thống y tế dự phòng tăng cường30, nhiều dịch bệnh nguy hiểm được khống chế đẩy
lùi. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản được
chủ động, góp phần giảm tỷ lệ sinh duy trì mức sinh thay thế, hạn chế sinh con
thứ 3 và mất cân bằng giới tính31.
9. Phát triển thông tin, truyền
thông góp phần xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi
Trong những năm qua, hoạt động thông
tin, truyền thông trong tỉnh có bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện cả về tính
chất, nội dung, hình thức và loại hình, đã thật sự là phương tiện thiết yếu của
đời sống xã hội, phục vụ đắc lực sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và nhu
cầu thông tin liên lạc của các tầng lớp nhân dân. Hoạt động thông tin ngày càng
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân trong việc nắm bắt tình hình thời sự chính
trị trong nước và quốc tế, những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, khoa học, công nghệ và mọi mặt của cuộc sống.
Mạng viễn thông được đầu tư trang thiết
bị hiện đại, nâng cao chất lượng đường truyền cáp quang, các mạng di động ngày
càng được mở rộng và nâng cấp32. Hạ tầng truyền
dẫn phát sóng phát thanh truyền hình ngày càng được củng cố, mở rộng phủ sóng,
tăng chất lượng và số lượng chương trình phục vụ nhu cầu của người dân và đảm bảo
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng của Đảng và Nhà nước33. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của Đài Phát thanh -
Truyền hình tỉnh từng bước được đầu tư nâng cấp, diện tích phủ sóng tăng cao34.
Toàn tỉnh hiện
có 6 cơ quan báo chí địa phương35; 12 cơ quan
báo chí trung ương, ngành có phóng viên làm thường trú36;
2 cơ quan báo chí Trung ương đặt văn phòng đại diện tại Quảng Ngãi (Phân xã
thông tấn xã Việt Nam, Báo Nhân dân). Báo Quảng Ngãi in và điện tử chất lượng nội
dung được nâng cao, hình thức được cải tiến đẹp, nội dung phong phú, từng bước
đáp ứng yêu cầu thông tin định hướng dư luận, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội, ổn định chính trị và đảm bảo an ninh quốc phòng. Đến đầu tháng 7/2013 báo
in tăng thêm 1 kỳ, thành 5 kỳ/tuần (8 trang/kỳ), phát hành bình quân 5.100 tờ/kỳ
với chất lượng nội dung và hình thức tờ báo được cải tiến.
Nhìn chung, các cơ quan thông tấn báo
chí đã tập trung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các tầng lớp nhân dân về tinh
thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, nâng cao nhận thức về tư tưởng chính trị, lịch
sử văn hóa, bản sắc dân tộc, truyền thống văn hóa. Trên các chuyên mục của hệ
thống thông tin đại chúng đã giới thiệu, quảng bá về các danh lam thắng cảnh,
các di tích lịch sử văn hóa, các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, âm nhạc có giá trị về tư tưởng, nghệ thuật để định hướng về tư tưởng, thẩm
mỹ, hướng con người hoàn thiện “chân - thiện - mỹ”. Ngoài ra, thông qua các
chuyên mục, đã kịp thời biểu dương, phản ánh các gương người tốt, việc tốt, các
điển hình tiên tiến trong xây dựng nếp sống văn hóa, môi trường văn hóa của địa
phương, chống lại sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại, làm hủy hoại
thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
10. Đào tạo nghề, giải quyết việc
làm và một số vấn đề xã hội
Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực
của tỉnh đã có sự chuyển biến tích cực và ngày càng được nâng lên, dần dần đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Tính đến năm 2016, tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh Quảng Ngãi đạt
mức 47%, có 40 cơ sở dạy nghề và tham gia dạy nghề, đáp ứng tốt nhu cầu học nghề
và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Đến nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo
trong các doanh nghiệp trên địa bàn đã có sự chuyển biến tích cực, cụ thể, tại
các Khu Công nghiệp tỉnh là 95%; Khu Kinh tế Dung Quất khoảng 80%.
Công tác giải quyết việc làm được triển
khai đồng bộ tại các địa phương, nhất là tại các huyện miền núi. Chương trình mục
tiêu việc làm đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tạo việc làm, phát triển
thị trường lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động đúng hướng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Cơ
cấu lao động chuyển dịch dần theo hướng tăng tỷ lệ lao động công nghiệp, giảm tỷ
trọng lao động nông nghiệp. Tính đến cuối năm 2016, đã giải quyết việc làm cho
39.000 người, trong đó có lao động nữ là 19.900 người. Thông qua 24 phiên giao
dịch việc làm đã có 9.670 lao động được tuyển dụng.
Công tác giảm nghèo được triển khai đồng
bộ và quyết liệt tại các địa phương, đến năm 2016 tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới)
giảm còn 2,13% so với cuối năm 2015. Chất lượng cuộc sống
của người dân dần được cải thiện, nhất là nhóm hộ nghèo, đồng bào dân tộc ở miền
núi và phụ nữ; hầu hết các hộ nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội đều được tiếp cận
và thụ hưởng các chính sách của Nhà nước.
Công tác đền ơn, đáp nghĩa, chăm sóc
giúp đỡ người có công cách mạng được quan tâm và triển
khai sâu rộng trong nhân dân37. Công tác phòng
chống các tệ nạn xã hội, thực hiện bình đẳng giới, bảo vệ và chăm sóc trẻ em đạt
kết quả khá, góp phần tạo môi trường xã hội lành mạnh, tiến bộ và công bằng.
III. NHỮNG HẠN CHẾ,
YẾU KÉM
1. Lĩnh vực văn hóa, con người
- Sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tình trạng kèn cựa,
bon chen, chạy chức, chạy quyền...; nhiều giá trị truyền thống, đạo đức nghề
nghiệp hiện không còn được coi trọng như trước đây, có mặt bị mai một, đảo lộn;
chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền có xu hướng gia
tăng, chi phối đời sống xã hội, gây hậu quả xấu đối với việc xây dựng con người
và môi trường văn hóa. Đạo đức nghề nghiệp sa sút trên nhiều lĩnh vực, cả ở những
lĩnh vực vốn được xã hội tôn vinh.
- So với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
và những thành tựu đạt được trên lĩnh vực kinh tế thì những kết quả đạt được
trong lĩnh vực văn hóa của tỉnh chưa tương xứng và chưa bền vững. Sự suy thoái
về đạo đức, lối sống; tình trạng trộm, cướp, lừa đảo; bạo lực gia đình, khiếu
kiện, tranh chấp tài sản, đất đai trong gia đình và dòng tộc, làng xóm vẫn còn
xảy ra ở nhiều nơi trong tỉnh. Ở miền núi tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết
thống vẫn còn xảy ra. Lối sống thực dụng, sính ngoại đã và đang trở thành trào
lưu trong giới trẻ. Đời sống văn hóa ở vùng nông thôn, miền núi, khu kinh tế,
khu công nghiệp còn đơn điệu. Một số hủ tục, mê tín, dị đoan, thói quen xấu
chưa được loại bỏ hoàn toàn. Ý thức của nhân dân trong việc giữ gìn, bảo vệ cảnh
quan, môi trường và các giá trị văn hóa truyền thống chưa cao. Một số di tích
văn hóa, lịch sử bị lấn chiếm diện tích đất và có các hình thức hoạt động phi
văn hóa38.
- Một số di sản văn hóa của đồng bào
dân tộc thiểu số ở các huyện trong tỉnh đang có nguy cơ mai một hết sức nhanh
chóng. Sự lai căng văn hóa xuất hiện trong một số thanh niên người dân tộc thiểu
số39. Văn hóa cồng chiêng
trong đồng bào dân tộc thiểu số có nguy cơ thất truyền40.
Một số nghề thủ công truyền thống như: đan lát, dệt, luyện rèn sắt, một số lễ hội,
nghi lễ truyền thống giàu tính nhân văn, cố kết cộng đồng của đồng bào dân tộc
Cor, Cadong, Hrê cũng bị mai một; nhà sàn, trang phục truyền thống của đồng bào
Cadong không còn41.
- Chưa phát huy cao văn hóa với du lịch,
cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch còn yếu kém, sản phẩm văn hóa, du lịch nghèo nàn
chưa đáp ứng nhu cầu của du khách trong và ngoài tỉnh, cũng như du khách nước
ngoài. Hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa chưa nhiều.
- Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” nhiều nơi còn chạy theo chỉ tiêu, thành tích, chất lượng chưa
cao, chưa bền vững, nhiều mô hình mới, cách làm hay chưa được nhân rộng. Môi
trường ô nhiễm, tai nạn giao thông, tranh chấp đất đai, tội phạm không giảm.
- Vẫn còn ít tác
phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Hoạt động
nghệ thuật chuyên nghiệp chưa được đầu tư đúng mức. Chưa có cơ chế chính sách
khuyến khích, động viên các văn nghệ sĩ tham gia sáng tác những tác phẩm văn học,
nghệ thuật có giá trị cao xứng tầm với một tỉnh có truyền thống văn hóa, cách mạng;
đề án giải thưởng văn học nghệ thuật chỉ mới được bước đầu xây dựng.
- Đầu tư về nhân lực, đầu tư ngân
sách nhà nước đối với sự nghiệp văn hóa chưa tương xứng với phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh. Các thiết chế văn hóa từ tỉnh đến cơ sở thiếu thốn, lạc hậu
và chắp vá, một số loại hình thiết chế văn hóa đưa vào hoạt động hiệu quả chưa
cao42. Mô hình tổ chức hoạt động của ngành văn
hóa ở các địa phương chưa thống nhất43. Các thiết
chế văn hóa của tỉnh hầu như không có, chưa có Nhà văn hóa đa năng, Trung tâm hội
nghị, Nhà triển lãm. Đến nay, không còn thiết chế văn hóa
tương xứng cấp tỉnh để chủ động tổ chức các hoạt động văn hóa,
thể thao của tỉnh, khu vực và toàn quốc. Rạp chiếu bóng Hòa Bình xuống cấp,
trang thiết bị lạc hậu không đáp ứng nhu cầu phục vụ nhân dân.
- Hệ thống thiết chế văn hóa phục vụ
người lao động chưa được đầu tư thỏa đáng, nhất là tại các
Khu Công nghiệp và Khu Kinh tế. Nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến đời sống
văn hóa tinh thần của người lao động; môi trường văn hóa ở nơi làm việc và nơi
sinh sống của người lao động chưa được quan tâm xây dựng và phát triển.
- Các thành phần kinh tế tham gia vào
hoạt động văn hóa còn ít, chủ yếu là hoạt động dịch vụ mau thu hồi vốn; trên địa
bàn tỉnh chưa có công trình văn hóa lớn như khu vui chơi giải trí, dịch vụ văn
hóa cao cấp để phục vụ nhu cầu giải trí ngày càng cao của nhân dân và du khách
đến Quảng Ngãi. Đầu tư cho công tác thông tin, cổ động, triển lãm, trưng bày...
còn thấp; hiện chưa có những cụm pano lớn sử dụng công nghệ hiện đại phục vụ
công tác tuyên truyền nhiệm vụ chính trị trọng tâm của tỉnh.
- Lực lượng cán bộ phục vụ cho ngành
văn hóa từ tỉnh đến xã còn nhiều bất cập44. Chế
độ tiền lương, bồi dưỡng, đãi ngộ cho văn nghệ sĩ, nghệ nhân còn hạn chế; nghệ
nhân dân gian, nghệ nhân ưu tú đã được công nhận nhưng chưa có chế độ đãi ngộ để
động viên khuyến khích việc truyền dạy, lưu giữ, phát huy vốn văn hóa dân gian
của địa phương. Việc điều tra di sản văn hóa phi vật thể đã tiến hành, nhưng
chưa làm tổng kiểm kê số lượng nghệ nhân nên việc xét công nhận danh hiệu theo
quy định của Nhà nước còn khó khăn, bất cập.
2. Về
giáo dục- đào tạo, dạy nghề, việc làm, chăm sóc sức khỏe nhân dân, an sinh xã hội:
Chất lượng giáo dục vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào thiểu số từng bước được cải thiện nhưng kết quả chưa cao;
tình trạng học sinh bỏ học vẫn còn nhiều, nhất là đối với học sinh ở các trường
thuộc khu vực miền núi, các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Đặc biệt đáng
lo ngại một bộ phận học sinh có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng,
sống thực dụng, không có mơ ước, hoài bão lập thân, lập
nghiệp vì tương lai.
Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp,
chưa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Lòng say mê nghề
nghiệp, ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong
công nghiệp của người lao động còn hạn chế. Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm;
việc làm của người lao động thiếu tính bền vững; tình trạng thất nghiệp và thiếu
việc làm vẫn tiếp diễn, nhất là tại vùng nông thôn và miền núi.
Đời sống một bộ phận nhân dân còn khó
khăn, nhất là ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo ngày càng xa. Hiệu quả thực hiện một
số chính sách an sinh xã hội còn thấp. Ở một số địa phương
việc thực hiện phong trào đền ơn đáp nghĩa chưa đạt hiệu quả cao. Tình trạng ô
nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Chất lượng khám, chữa bệnh
và tinh thần thái độ phục vụ tuy có cải thiện nhưng chưa thật sự đáp ứng được sự
kỳ vọng của người dân.
3. Về
khoa học, công nghệ, thông tin và truyền thông:
Hạ tầng công nghệ thông tin chưa đáp ứng
nhu cầu sử dụng, tốc độ xử lý chậm. Trình độ và khả năng sử dụng công nghệ
thông tin của đội ngũ cán bộ ở cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu. Việc triển khai hệ
thống một cửa tại các cơ quan hành chính nhà nước còn thấp so với mức trung
bình trong cả nước, ứng dụng công nghệ thông tin chưa thực sự tác động làm đổi
mới hẳn lề lối làm việc, chưa phục vụ tốt công lãnh đạo, quản lý và điều hành.
Việc triển khai xây dựng hạ tầng viễn
thông thụ động với các hạ tầng kỹ thuật khác chưa đồng bộ, thiếu cơ chế, chính
sách dùng chung hạ tầng kỹ thuật. Hạ tầng viễn thông thụ động chủ yếu đầu tư
phát triển mạnh ở đồng bằng, khu vực miền núi, vùng sâu của tỉnh chưa đáp ứng
nhu cầu sử dụng dịch vụ của người dân. Việc quản lý, đôn đốc,
giám sát hội viên Hội Nhà báo thực hiện Quy định đạo đức nghề nghiệp của người
làm báo, có trường hợp chưa chặt chẽ, chưa nghiêm. Chất lượng hoạt động của từng
chi hội cơ sở không đồng đều, còn thụ động, ít tìm tòi sáng tạo nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của chi hội.
Công tác xuất bản và phát hành Báo in
Quảng Ngãi còn hạn chế. Nội dung các trang, mục chưa ổn định; còn ít những bài viết chuyên sâu mạnh mẽ chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu
cực trong xã hội, thiếu bài viết sắc bén đấu tranh phản bác các luận điệu sai
trái, thù địch.
IV. NGUYÊN NHÂN HẠN
CHẾ, YẾU KÉM
1. Nguyên nhân khách quan:
Do tác động của tình hình thế giới, sự
phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin diễn ra nhanh
chóng, tác động lên các lĩnh vực đời sống xã hội làm cho tư tưởng, nhận thức
con người thay đổi theo hướng tích cực nhưng cũng dễ bị ảnh
hưởng tiêu cực. Công tác lãnh đạo, quản lý tổ chức các hoạt động văn hóa có lúc
không theo kịp với tốc độ phát triển của xã hội và khoa học công nghệ, nên dẫn
tới sự lúng túng bị động. Mặt trái của cơ chế thị trường, của sự bùng nổ của
công nghệ thông tin làm cho người dân tiếp cận thông tin đa chiều, trong đó, có
những thông tin có hại, những tư tưởng lạc hậu còn tồn tại trong đời sống hàng
ngày... đã ảnh hưởng tiêu cực đến suy nghĩ, nhận thức của con người. Sự chống
phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, đặc biệt trên các
trang mạng xã hội, ngày càng phức tạp làm cho công tác lãnh đạo, quản lý về văn
hóa gặp nhiều khó khăn.
2. Nguyên nhân chủ quan:
Một số cấp ủy đảng và chính quyền còn
có biểu hiện xem nhẹ vai trò của văn hóa, chưa nhận thức sâu sắc và đúng đắn
“văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội” .
Xuất phát điểm của tỉnh thấp, trước
khi có nhà máy Lọc dầu Dung Quất tỉnh ta là tỉnh thuần nông, kinh tế chậm phát
triển nên đầu tư cho văn hóa không đáng kể. Tiếp đó, tỉnh tập trung mọi nguồn lực
để thúc đẩy kinh tế phát triển, chưa chú trọng đúng mức đến
đầu tư cho văn hóa.
Sự thụ động, trông chờ ỷ lại của một
số cấp ủy, chính quyền còn diễn ra nhiều nơi. Sự phối hợp của các cơ quan chức
năng thiếu đồng bộ, vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa phát
huy mạnh mẽ. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ
các cấp trong tỉnh còn thiếu và yếu, chưa làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền lãnh đạo, quản lý có hiệu quả. Việc đầu tư ngân sách cho sự nghiệp
văn hóa, vốn đã quá ít lại còn có hiện tượng dàn trải, chưa đi vào trọng tâm,
trọng điểm. Công tác kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên. Việc đầu tư cho phát
triển nguồn nhân lực còn hạn chế. Sự phối hợp của các cấp, các ngành thiếu chặt
chẽ.
Cơ chế chính sách thu hút đầu tư đối
với lĩnh vực xã hội thiếu cởi mở, chưa thông thoáng. Công tác quản lý nhà nước
về văn hóa còn có những bất cập, lúng túng. Các vi phạm trong lĩnh vực văn hóa
xã hội xử lý chưa nghiêm theo quy định.
Nhận thức của một bộ phận phụ huynh về
công tác giáo dục, việc học của con em mình chưa cao, một số phụ huynh ít quan
tâm đến việc học của con em. Công tác phối hợp giữa gia
đình, nhà trường và xã hội trong công tác vận động học sinh đến trường có lúc
chưa thường xuyên, hiệu quả thấp. Nhiều học sinh, sinh viên ra trường chưa tìm
được việc làm, hoặc làm việc không đúng chuyên ngành đào tạo làm ảnh hưởng đến
tâm lý của các em học sinh bậc học phổ thông trung học, nên dẫn đến tình trạng
bỏ học nhiều và có chiều hướng tăng. Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục
được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và khả năng quản lý nhưng
một số vẫn còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ giáo dục trong
tình hình mới.
Các cấp ủy đảng chưa quan tâm nhiều đến
việc ứng dụng và triển khai công nghệ thông tin để phục vụ công tác quản lý việc
phát triển kinh tế - xã hội. Việc ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ công
tác quản lý hành chính nhà nước còn yếu kém.
Chậm ban hành một số cơ chế chính
sách ưu đãi về hoạt động báo chí, xuất bản và phát hành; chế độ nhuận bút chưa
thỏa đáng; chính sách đãi ngộ văn nghệ sỹ tham gia sáng tác văn học nghệ thuật
còn hạn chế nên khó thu hút được người có năng lực tham gia. Có một số hội viên
Hội Văn học Nghệ thuật và Hội Nhà báo chưa thật sự nhiệt tình trong hoạt động,
còn thờ ơ với công tác hội, ý thức tổ chức kỷ luật trong sinh hoạt và công tác
hội chưa cao, thiếu sự cố gắng và nghiêm túc trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật.
Kinh phí đầu tư cho sự nghiệp phát triển văn học nghệ thuật còn thấp.
V. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Trong những năm qua, bên cạnh việc đầu
tư phát triển kinh tế tỉnh cũng quan tâm phát triển văn hóa; đầu tư phát triển y
tế, giáo dục, khoa học, công nghệ thông tin truyền thông, góp phần tích cực
trong việc nâng cao trình độ dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, góp phần giáo dục ý thức công dân, phẩm chất chính trị, lý tưởng cách mạng
cho các thế hệ con người Quảng Ngãi, lực lượng trí thức của tỉnh tăng về số lượng.
Lực lượng và trình độ lao động qua đào tạo có phát triển; hợp tác quốc tế được
mở rộng. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa và truyền thống tốt đẹp
luôn được các cấp ủy đảng, chính quyền và các sở ban, ngành quan tâm.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế thì thực trạng xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Quảng Ngãi còn nhiều hạn chế, yếu kém. Công tác bảo tồn, phát
huy giá trị di sản văn hóa chưa được quan tâm đúng mức. Công tác giáo dục - đào
tạo, hướng nghiệp dạy nghề còn nhiều bất cập, chạy theo thành tích, số lượng,
nhưng chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công tác định
hướng nghề nghiệp, phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp THPT đạt kết quả chưa
cao, vì vậy số lượng lớn học sinh tốt nghiệp đại học, trên đại học về tỉnh
không có việc làm; trong khi đó ở các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đang
thiếu đội ngũ công nhân chất lượng cao đã qua đào tạo nghề và có kinh nghiệm.
Trong lao động, sản xuất, con người
Quảng Ngãi còn thụ động, trì trệ, thiếu tính hợp tác. Việc ứng dụng khoa học kỹ
thuật, công nghệ thông tin, ngoại ngữ vào đời sống, lao động sản xuất còn nhiều
bất cập. Đời sống văn hóa ở các khu công nghiệp, vùng sâu vùng xa, vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số còn nhiều thiếu thốn. Chất lượng y tế, giáo dục, khoa
học công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; chưa tạo ra lợi
thế cạnh tranh mạnh mẽ về nguồn nhân lực chất lượng so với các tỉnh lân cận.
Nguồn kinh phí đầu tư cho phát triển văn hóa và con người còn hạn chế. Thiếu
tính dự báo, công tác quy hoạch còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu tầm nhìn trong
tương lai.
VI. DỰ BÁO NHỮNG
TÁC ĐỘNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI QUẢNG NGÃI
Trong thời gian tới, xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Quảng Ngãi có những thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời
cũng có những khó khăn, thách thức đan xen tác động nhiều mặt. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chung. Thành tựu, kinh
nghiệm của những năm đổi mới đã tạo cho đất nước sức mạnh tổng hợp lớn hơn. Nhận
thức về vai trò, vị trí của văn hóa ngày càng sâu sắc, toàn diện hơn. Khoa học,
công nghệ phát triển mạnh, thúc đẩy hình thành xã hội thông tin, tạo điều kiện
để nâng chất lượng hoạt động. Sự phát triển các hình thức thể hiện mới về văn hóa, nghệ thuật, xã hội hóa hoạt động văn hóa; mở rộng,
đa dạng, đa phương trong giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, nghệ thuật...đang
tác động thúc đẩy các hoạt động văn hóa. Đồng thời với phát triển kinh tế, phát
triển văn hóa gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng con người, xây dựng gia đình
đang là xu thế của thời đại...
Tuy nhiên tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa khắc phục được. Cuộc đấu tranh
cho chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc vẫn diễn biến phức tạp; tranh chấp lãnh
thổ, lãnh hải ngày càng gay gắt, khó lường. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới,
biến đổi khí hậu, mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, kinh tế thị trường, công
nghệ thông tin, sản phẩm độc hại tác động tiêu cực đến văn hóa, gây biến đổi các giá trị văn hóa truyền thống. Tâm lý bao cấp, thụ động; đội
ngũ cán bộ quản lý và trình độ chỉ đạo, quản lý văn hóa bất cập; âm mưu, thủ đoạn
"diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; những biểu hiện
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa" xa rời mục tiêu xã hội chủ
nghĩa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân ngày càng phức tạp, tác động
tiêu cực đến cả xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa.
Bối cảnh tình hình trên sẽ tác động đến
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi, đòi hỏi các cấp ủy đảng,
chính quyền, Mặt trận, hội đoàn thể và toàn thể xã hội nỗ lực phấn đấu thực hiện
thắng lợi các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Quảng Ngãi trong thời gian sắp đến.
Phần III
XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI QUẢNG NGÃI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP VÀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG
I. PHẠM VI ĐIỀU
CHỈNH, ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG
1. Phạm vi điều chỉnh
Đề án này đề ra mục tiêu, chỉ tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu và nguồn kinh phí để xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập
và phát triển bền vững.
2. Đối tượng áp dụng
- Tổ chức chính trị, cơ quan hành
chính nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trên địa
bàn tỉnh.
- Các thành phần kinh tế hoạt động
trên địa bàn tỉnh.
- Cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức và người lao động trên địa bàn tỉnh.
- Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
II. QUAN ĐIỂM
1. Nhiệm vụ xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Quảng Ngãi phải được đặt ngang hàng với nhiệm vụ phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
bền vững của tỉnh.
2. Xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Quảng Ngãi phải đặt trong sự thống nhất, phát triển đa dạng của cộng
đồng cư dân Quảng Ngãi và các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học.
3. Phát triển văn hóa nhằm hoàn thiện
nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa; bảo tồn, phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp; bài trừ hủ tục, mê tín; lấy gia
đình, cộng đồng dân cư, tổ chức trong xã hội làm nền tảng để xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Quảng Ngãi.
4. Xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Quảng Ngãi là trách nhiệm của cả hệ thống cơ quan hành chính nhà nước
và toàn dân; nhân dân là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa; đội ngũ trí thức
giữ vai trò quan trọng.
III. MỤC TIÊU
Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Quảng Ngãi phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ. Văn hóa thực
sự trở thành nền tảng tinh thần, là động lực cho sự phát triển của xã hội, là sức
mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của tỉnh. Xây dựng môi
trường văn hóa trong từng gia đình, địa phương, khu dân cư, cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp. Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp gắn với xây dựng,
hình thành các giá trị mới của con người Quảng Ngãi với các đặc tính cơ bản:
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tự trọng, tự chủ, sống nhân ái, nghĩa tình,
trung thực, đoàn kết, cần cù, có tri thức, sức khỏe, năng động, sáng tạo, có
trách nhiệm công dân, tuân thủ pháp luật, có tinh thần hợp tác cao, khẳng khái,
khoan dung, thân thiện, có ý thức bảo vệ môi trường; đồng thời, từng bước khắc
phục những khiếm khuyết trong tính cách của một bộ phận dân cư như tính hẹp
hòi, đố kỵ, cố chấp, thụ động, cứng nhắc, thiếu hợp tác, ý thức lao động thấp.
IV. CHỈ TIÊU CHỦ
YẾU ĐẾN NĂM 2020
1. Phấn đấu thực hiện đạt và vượt các
chỉ tiêu: 88% gia đình, 78% thôn, tổ dân phố, 96% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn
hóa; 35 - 40% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới và văn minh
đô thị.
2. Thực hiện đạt 26 giường bệnh/vạn
dân; 07 bác sĩ/vạn dân; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,92%; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm
y tế đạt 90 % dân số.
3. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia: Mầm
non 35%, Tiểu học, THCS 75%, THPT 60%, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi
100%, tỷ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học 99%, trung học cơ sở 95%,
80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương
đương; tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 35 đạt 99%.
4. Trên 90% hộ gia đình được tiếp cận
thông tin qua các phương tiện thông tin và truyền thông; tỷ lệ người sử dụng
Internet đạt từ 55 - 65% dân số; 100% xã, phường, thị trấn có điểm cung cấp dịch
vụ bưu chính, viễn thông, Internet và điểm đọc sách.
5. Trên 36% dân số, 25% gia đình tập
thể dục, thể thao, thường xuyên.
6. Tuổi thọ trung bình 75 tuổi; chiều
cao trung bình đối với nam 18 tuổi đạt 165 cm, đối với nữ 18 tuổi đạt 156 cm;
chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,75; 89% dân cư thành thị sử dụng
nước sạch; 95% dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ
sinh, trong đó có 50% sử dụng nước sạch; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm (trong đó: miền núi giảm 4%/năm; đồng bằng
giảm 1,6%/năm); tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%; đạt
trên 450 sinh viên/1 vạn dân.
7. Huy động nhiều nguồn lực trùng tu,
tôn tạo, nâng cấp các thiết chế văn hóa hiện có; đầu tư công viên, khu vui
chơi, giải trí, các khu du lịch, nghỉ dưỡng theo quy hoạch. Trong đó, tập trung
xây dựng và hoàn thành các dự án văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí đã được
xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, ưu tiên
xây dựng Bảo tàng biển đảo Việt Nam (Bảo tàng lịch
sử Hoàng Sa - Trường Sa), Trung tâm Văn hóa đa năng, Khu
Liên hợp thể dục thể thao (giai đoạn 1). Phấn đấu 100% huyện, thành phố và 40%
xã, phường, thị trấn có trung tâm văn hóa - thể thao; 43% thôn có nhà sinh hoạt
văn hóa, khu luyện tập thể thao cơ bản đạt tiêu chí theo quy định của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch; 100% khu kinh tế, khu công nghiệp có quỹ đất để xây dựng
các thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ công nhân, người lao động; trùng tu,
tôn tạo 70-80% di tích quốc gia và 50 - 60% di tích văn hóa lịch sử cấp tỉnh.
8. Hoàn thiện hồ sơ và các thủ tục đề
nghị cấp có thẩm quyền công nhận: 02-03 di tích quốc gia đặc biệt (trong các di
tích: khảo cổ học Sa Huỳnh, Quần thể di tích Lý Sơn, Khu Chứng tích Sơn Mỹ, Quần
thể khu di tích Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ, Quần thể khu di
tích Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ); 02-03 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, ưu tiên
Lễ hội điện Trường Bà, Lễ hội đua thuyền Lý Sơn, cồng chiêng
dân tộc Cor; 02-03 di tích quốc gia (trong các di tích, thắng cảnh: thắng cảnh
Giếng Tiền và núi Thới Lới, đình làng An Định, di tích Lê Trung Đình và khởi
nghĩa Cần Vương, di tích quân tình nguyện Việt - Lào).
Hoàn thiện hồ sơ và các thủ tục đề nghị cấp có thẩm quyền công nhận khu vực Lý
Sơn, Bình Châu và vùng phụ cận là Công viên địa chất quốc gia và toàn cầu. Tổ
chức Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa quy mô cấp quốc gia.
V. NHIỆM VỤ VÀ
GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Xây dựng, phát triển toàn diện
con người Quảng Ngãi về đức, trí, thể, mỹ đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và
phát triển bền vững
a) Đẩy mạnh, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền:
- Cụ thể hóa các cơ chế, chính sách
nhằm triển khai và phổ biến, tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn
thể cán bộ, đảng viên, công chức, người lao động và nhân dân.
- Tuyên truyền, phổ biến lối sống “Mỗi
người vì mọi người, mọi người vì mọi người”; tập trung phê phán tính ích kỷ, hẹp hòi; khuyến khích tinh thần cống
hiến, sáng tạo vì cộng đồng; đức tính tốt đẹp của con người Quảng Ngãi.
- Gắn kết công tác tuyên truyền, giáo
dục về văn hóa, con người vào tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao để
xây dựng con người Quảng Ngãi có thể giới quan khoa học, hướng tới
chân - thiện - mỹ.
b) Phát huy vai trò của giáo dục
trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi:
- Triển khai có hiệu quả Chương trình
hành động của Tỉnh ủy về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo. Xây dựng
xã hội học tập, nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức, giáo dục nhân cách, đạo đức,
lối sống, thẩm mỹ, kiến thức pháp luật, ý thức công dân.
- Xây dựng mỗi trường học thực sự là
một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện phát triển toàn diện con người về lý
tưởng, phẩm chất đạo đức, nhân cách, lối sống. Tổ chức biên soạn và dạy tiếng
dân tộc thiểu số cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, giáo viên công
tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số
- Thực hiện có hiệu quả các cơ chế,
chính sách trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
c) Phát huy vai trò của văn học -
nghệ thuật phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng
Ngãi:
- Đổi mới phương thức hoạt động của Hội
Văn học - Nghệ thuật tỉnh; tạo điều kiện thuận lợi cho văn nghệ sĩ phát triển.
Khuyến khích văn nghệ sĩ, nghệ nhân, nhân dân sáng tạo, trao truyền và phát huy
các giá trị văn hóa dân tộc..
- Xây dựng và ban hành chế độ quy định
nội dung và mức chi giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Phạm Văn Đồng; Xây dựng
các cơ chế hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình nghệ thuật; chính
sách khuyến khích, đãi ngộ, thu hút, phát triển tài năng trẻ trong lĩnh vực văn
học, nghệ thuật, thể dục thể thao.
- Chú trọng bồi dưỡng, phát triển đội
ngũ văn nghệ sĩ trong các Hội chuyên ngành. Huy động các nguồn lực xã hội, có sự
hỗ trợ của Nhà nước để tổ chức các hoạt động đạt hiệu quả, thiết thực.
- Đẩy mạnh quảng bá, giới thiệu, phổ
biến tác phẩm văn học, nghệ thuật để văn học nghệ thuật thực sự có sức lan tỏa,
nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu
niên. Phát huy vai trò của văn học - nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn,
tình cảm của con người.
d) Chăm lo phát triển sức khỏe
toàn dân, xây dựng và phát triển con người Quảng Ngãi có tầm vóc, thể lực phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
- Nâng cao chất lượng giống nòi; tầm
vóc, thể lực con người Quảng Ngãi. Gắn chăm lo giáo dục thể chất với giáo dục trí thức, đạo đức, kỹ năng sống.
- Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
nhân dân, nhất là chăm sóc sức khỏe học đường, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em,
người cao tuổi, người nghèo, các đối tượng chính sách; giảm tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng.
đ) Phát triển nguồn lao động đáp ứng
yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững
- Phát triển nguồn lao động đảm bảo đủ
về số lượng và không ngừng nâng cao chất lượng, đào tạo phát triển toàn diện về
trình độ chuyên môn, kỹ thuật, đạo đức, tác phong.
- Chú trọng giáo dục văn hóa ứng xử,
đạo đức nghề nghiệp, trí thức, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, tác
phong làm việc công nghiệp gắn với giải quyết việc làm cho lao động qua đào tạo.
- Đổi mới phương thức đào tạo nghề,
đào tạo gắn với giải quyết việc làm, đào tạo theo đặt hàng, đáp ứng nhu cầu của
doanh nghiệp và thị trường lao động.
2. Xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh
a) Đẩy mạnh công tác quản lý nhà
nước về gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình:
- Tiếp tục triển khai thực hiện việc
đẩy mạnh xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về phòng, chống
bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Xây dựng được chính sách hỗ trợ cho
cộng tác viên dân số, kế hoạch hóa gia đình kiêm công tác gia đình và phòng, chống
bạo lực gia đình.
- Tập trung đẩy mạnh công tác truyền
thông các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình, phê phán lối sống
thực dụng, ích kỷ, tệ nạn xã hội.
b) Nâng cao chất lượng, hiệu quả
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”:
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả Phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, đưa phong trào đi vào chiều
sâu, thiết thực. Xây dựng gia đình văn hóa, thôn - tổ dân phố văn hóa; xã đạt
chuẩn văn hóa nông thôn mới, phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị làm
nòng cốt của Phong trào.
- Thường xuyên rà soát, lồng ghép, bổ
sung các tiêu chí xét tặng các danh hiệu văn hóa trong Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở,
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, các
phong trào thi đua yêu nước của các sở, ban ngành, hội đoàn thể tỉnh và thực hiện
quy ước thôn, tổ dân phố trên từng địa bàn dân cư. Chú trọng tôn vinh và nhân rộng
các mô hình, điển hình tiên tiến trong xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh;
giữ gìn, phát huy truyền thống đoàn kết, gắn bó tình làng, nghĩa xóm, tương trợ,
giúp đỡ lẫn nhau đi đôi với phê phán, đẩy lùi lối sống vô
cảm, biệt lập, các hủ tục, mê tín, dị đoan trong một bộ phận nhân dân.
c) Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực của tôn giáo, tín ngưỡng:
- Khuyến khích các hoạt động tôn giáo
gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ. Động viên các tổ
chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo.
- Triển khai thực hiện Thông tư liên
tịch số 04/2014/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 30/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn việc thực hiện nếp sống văn minh
tại các cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo.
- Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu
tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Nhà nước,
gây mất đoàn kết tôn giáo, dân tộc.
d) Đẩy mạnh tổ chức, quản lý các
hoạt động văn hóa, nghệ thuật, tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh, bổ ích:
- Gắn kết chặt chẽ các hoạt động văn
hóa với các sự kiện chính trị, với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh. Khuyến khích đẩy mạnh và đa dạng hóa các hoạt động văn hóa, văn
nghệ quần chúng.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động văn hóa, nghệ thuật. Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống.
- Tổ chức đặt hàng các tác giả, đơn vị
nghệ thuật sáng tác, dàn dựng các tác phẩm nghệ thuật có chất lượng cao và thường
xuyên tổ chức biểu diễn phục vụ nhân dân.
- Từng bước xây dựng, hoàn thiện,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa, thể thao, ưu
tiên đầu tư các công trình văn hóa trọng điểm theo mục tiêu đề ra; khuyến khích
việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành du lịch, văn
hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao của tỉnh.
3. Xây dựng văn hóa trong chính trị,
văn hóa trong kinh tế
a) Xây dựng văn hóa trong đội ngũ
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức:
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật,
dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Nêu cao tính tiên
phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện nghiêm túc Quy định
số 55-QĐ/TW ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc
cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên.
- Đề cao vai
trò, trách nhiệm cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân; ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
tính hẹp hòi, khắt khe, đố kỵ, cố chấp, thụ động, cứng nhắc, tùy tiện, ít tranh
luận, ít cởi mở, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu hợp tác trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức.
- Triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ
thị số 17-CT/TU ngày 16/11/2012 của Tỉnh ủy về phát huy
dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao tinh thần trách nhiệm phục vụ
nhân dân của cán bộ, đảng viên đến từng cán bộ, công chức, viên chức trong đơn
vị; Chỉ thị số 31-CT/TU ngày 13/6/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy về chủ trương không dùng rượu, bia trong buổi trưa của các ngày làm việc;
Quyết định số 306-QĐ/TU ngày 25/5/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ngãi ban
hành Quy định trách nhiệm và xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu và cấp
phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý
trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
- Gắn việc thực hiện Nghị quyết số
04-NQ/TW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và thực
hiện Chỉ thị 05-CT/BCT ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh Học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
- Tăng cường vai trò của các cơ quan,
tổ chức và lực lượng giám sát phản biện xã hội nhằm minh bạch hóa hoạt động của
hệ thống chính trị; xây dựng nền công vụ tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
đẩy mạnh cải cách hành chính trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
b) Quan tâm xây dựng văn hóa trong
kinh tế; lấy con người làm trung tâm của quá
trình xây dựng văn hóa trong kinh tế:
- Phát huy vai trò tư vấn và phản biện
của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và các tổ chức phản biện xã hội trong quá
trình xây dựng và triển khai các chương trình kinh tế - xã hội.
- Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và ban
hành các quy định quản lý các hoạt động văn hóa, tạo môi trường thuận lợi cho
các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, tổ chức các hoạt động văn hóa.
- Phát triển kinh tế gắn chặt và tương
thích với phát triển văn hóa; các quy hoạch, đề án, dự án về kinh tế phải gắn với
văn hóa và cộng đồng.
- Tôn vinh, biểu dương, khen thưởng
các doanh nghiệp, doanh nhân vào Ngày Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam.
4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động văn hóa
a) Ban hành cơ chế, chính sách huy
động nguồn lực toàn xã hội cho phát triển văn hóa, xây dựng con người:
- Triển khai thực hiện có hiệu quả cơ
chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo
và xây dựng các thiết chế văn hóa.
- Xây dựng cơ chế, chính sách về lĩnh
vực văn hóa, con người, cụ thể:
+ Chính sách hỗ trợ sáng tác công
trình, tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật.
+ Chính sách đãi ngộ, tôn vinh các
nghệ nhân dân gian; tổ chức, cá nhân có công gìn giữ, trao truyền và phát huy
các giá trị di sản văn hóa phi vật thể.
+ Chính sách khuyến khích, ưu đãi các
tổ chức, cá nhân đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa, du lịch;
xây dựng các công trình văn hóa, du lịch.
+ Chính sách khuyến khích, đãi ngộ,
thu hút, phát triển tài năng trẻ trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, thể dục thể
thao; đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức là người đồng bào dân tộc thiểu
số làm công tác văn hóa ở miền núi.
- Bố trí nguồn lực của Nhà nước cho
phát triển văn hóa, con người tương thích ứng với mức tăng trưởng kinh tế của tỉnh;
công khai, minh bạch nguồn đầu tư Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên
miền núi, hải đảo và một số loại hình nghệ thuật truyền thống của tỉnh cần bảo
tồn, phát huy.
- Huy động các nguồn lực xã hội đầu
tư cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển văn hóa, thể dục, thể thao, nâng cao thể
chất con người Quảng Ngãi.
b) Thực hiện hiệu quả công tác bảo
tồn, phát huy các di tích lịch sử, văn hóa góp phần xây dựng văn hóa, con người
và phát triển kinh tế - xã hội:
- Chú trọng bảo tồn, tôn tạo các di
tích lịch sử, văn hóa và các loại hình nghệ thuật, lễ hội truyền thống đặc
trưng, các giá trị văn hóa tích cực của cư dân ven biển, hải đảo, của đồng bào
dân tộc thiểu số, của các tôn giáo.
- Tăng cường phân cấp quản lý di tích
lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh. Xây dựng và triển
khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch hệ thống di tích lịch sử văn hóa - danh lam
thắng cảnh trên địa bàn tỉnh, Quy hoạch khảo cổ học trên địa bàn tỉnh.
- Ưu tiên lập hồ sơ đề nghị xếp hạng
các di tích trên địa bàn tỉnh đã có quyết định bảo vệ; trùng tu, tôn tạo các di
tích đã xuống cấp; khẩn trương hoàn thiện bản đồ khoanh vùng bảo vệ; hồ sơ, thủ
tục cấp quyền sử dụng đất đối với di tích được công nhận. Kiểm kê, bảo vệ và
phát huy có chọn lọc, có định hướng các giá trị văn hóa truyền thống.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm
công tác quản lý, bảo vệ tại hệ thống bảo tàng có tâm huyết, trình độ, năng lực
chuyên môn. Tuyển chọn, đào tạo đội ngũ thuyết minh viên tại các di tích lịch sử
văn hóa được xếp hạng, trước hết là tại các di tích có khả năng khai thác phục
vụ du lịch.
c) Xây dựng mới hệ thống thiết chế
văn hóa, thể thao cơ sở; quản lý và sử dụng hiệu quả các thiết chế văn hóa, thể thao hiện có:
- Từng bước xây dựng và phát triển đồng
bộ hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở về quy mô xây dựng, trang thiết bị
hoạt động, phương thức hoạt động; củng cố, hoàn thiện hệ thống bảo tàng, nhà
truyền thống, thư viện các cấp.
- Khôi phục nhà sàn truyền thống để sử
dụng trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng tại các địa phương có đông đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống; khôi phục một số nghề truyền thống của dân tộc thiểu số
bị mai một. Triển khai thực hiện hiệu quả Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa
các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Khuyến khích, tạo điều kiện thu hút
các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sở hoạt động và dịch
vụ văn hóa, thể thao theo phương thức xã hội hóa.
d) Phát huy vai trò, nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan báo chí và
truyền thông:
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước
đối hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh truyền hình, thông tin điện tử; chú
ý loại hình thông tin mạng internet để định hướng tư tưởng, thẩm mỹ cho nhân
dân, nhất là thanh thiếu niên.
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, quản
lý, định hướng các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích,
đối tượng phục vụ, nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, đề cao trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, góp phần xây dựng văn hóa, con người Quảng
Ngãi.
- Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo
chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiện quả, tạo ra những cơ
chế chính sách về tài chính, về đào tạo nguồn nhân lực, huy động đúng đắn các
nguồn lực trong xã hội để phát triển báo chí.
- Đẩy mạnh công tác tư tưởng, lý luận,
báo chí phải đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ và phát triển những giá trị tốt
đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, những tinh hoa văn hóa thế giới chiếm vị
trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Đấu tranh chống lai căng, bắt chước,
lệ thuộc nước ngoài.
5. Phát triển công nghiệp văn hóa
và thị trường dịch vụ, sản phẩm văn hóa
a) Phát triển sản phẩm văn hóa,
khai thác, phát huy tiềm năng và giá trị văn hóa đặc sắc:
- Xây dựng, hoàn thiện các thị trường
sản phẩm, dịch vụ gắn với định hướng giá trị văn hóa. Xây dựng cơ chế, chính sách
khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
- Củng cố các hoạt động sự nghiệp văn
hóa đáp ứng nhu cầu phục vụ người dân và nền kinh tế, góp phần hình thành và
phát triển công nghiệp văn hóa.
- Đổi mới cơ chế hoạt động các đơn vị
sự nghiệp, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, tài chính; hòa nhập
thị trường công nghiệp văn hóa.
- Xây dựng, ban hành các quy định quản
lý hoạt động văn hóa trên địa bàn, nhất là công tác quản lý lễ hội; quy hoạch
hoạt động dịch vụ karaoke, vũ trường trên địa bàn tỉnh; quy định hoạt động quảng
cáo trên địa bàn tỉnh.
- Thực hiện nghiêm túc các văn bản
quy phạm pháp luật về văn hóa; ngăn chặn, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm trong
lĩnh vực văn hóa; tăng cường thanh tra nhà nước về quản lý văn hóa, xã hội.
b) Tăng cường thực thi các quy định
của pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về quyền tác giả và quyền
liên quan trong hoạt động văn hóa nghệ thuật trên các phương tiện thông tin đại
chúng.
- Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với
điều kiện thực tế của địa phương về quyền tác giả và quyền liên quan.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật
về quyền tác giả, quyền liên quan.
6. Chủ động hội nhập quốc tế về
văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
a) Mở rộng, đa dạng hóa các hình
thức hợp tác giao lưu văn hóa:
- Tuyên truyền, vận động quần chúng
nhân dân vai trò, ý nghĩa của công tác ngoại giao văn hóa và văn hóa đối ngoại.
Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá văn hóa, con người Quảng Ngãi.
- Tăng cường liên kết, phối hợp với các
cơ quan thông tấn báo chí trong nước và quốc tế. Tham gia các hoạt động giao
lưu văn hóa quốc tế, tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và các sự
kiện lớn có quy mô khu vực, quốc gia và quốc tế.
- Phát triển ngoại giao kinh tế,
chính trị gắn với ngoại giao văn hóa; gắn kết ngoại giao văn hóa với kiều bào ở
nước ngoài.
b) Xây dựng và hoàn thiện các cơ
chế, chính sách về văn hóa đối ngoại:
- Triển khai thực hiện hiệu quả Nghị
quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế và Nghị
quyết số 31/NQ-CP ngày 13/5/2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về
hội nhập quốc tế, Quyết định số 210/QĐ-TTg ngày 08/02/2015
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt
Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
- Thực hiện tốt cơ chế, chính sách đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho
công tác đối ngoại; cơ chế, chính sách tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho
các hoạt động giao lưu, hợp tác văn hóa nghệ thuật của các đơn vị nghệ thuật,
nghệ sỹ, nghệ nhân nước ngoài tại tỉnh và các đơn vị nghệ thuật, nghệ sỹ, nghệ
nhân của tỉnh tham gia biểu diễn tại nước ngoài hoặc các chương trình tổ chức tại
Việt Nam có yếu tố nước ngoài
- Gắn công tác văn hóa đối ngoại với
các chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh phù
hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi và các
quy hoạch, đề án của ngành, địa phương;
VI. KINH PHÍ THỰC
HIỆN
1. Nguồn kinh phí thực hiện
Tổng vốn thực hiện Đề án; 1.200,26 tỷ
đồng (ngân sách tỉnh: 537,87 tỷ đồng, xã hội hóa: 662,39 tỷ đồng), trong
đó:
a) Trùng tu, tôn tạo các di tích cấp
quốc gia, cấp tỉnh: 223,2 tỷ đồng, trong đó:
- Ngân sách tỉnh: 198,7 tỷ đồng để
trùng tu, tôn tạo các di tích cấp quốc gia.
- Ngân sách cấp huyện có di tích:
24,5 tỷ đồng để trùng tu, tôn tạo các di tích cấp tỉnh.
b) Các dự án ưu tiên đầu tư của ngành
văn hóa, thể thao tỉnh Quảng Ngãi: 932,391 tỷ đồng, trong đó:
- Các dự án theo Nghị quyết số
32/2016/NQ-HĐND ngày 14/12/2016 của HĐND tỉnh Khóa XII, kỳ họp thứ 4 về kế hoạch
đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020: Ngân sách tỉnh 140 tỷ đồng, xã hội
hóa: 662,39 tỷ đồng45.
- Rà soát và trình cấp có thẩm quyền
bổ sung dự án ưu tiên đầu tư của ngành văn hóa, thể thao tỉnh Quảng Ngãi trong
kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 từ nguồn ngân sách tỉnh: 130
tỷ đồng.
c) Bảo tồn, phát triển di sản văn hóa
phi vật thể trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi: 18,28 tỷ đồng, trong đó:
- Ngân sách tỉnh: 7,08 tỷ đồng
- Ngân sách cấp huyện: 11,2 tỷ đồng để
thực hiện khôi phục các nhà sàn truyền thống dân tộc Cor tại các
địa phương có dân tộc Cor, Hrê sinh sống và sử dụng trong sinh hoạt văn hóa cộng
đồng (10 tỷ đồng); tổ chức các chương trình liên hoan, hội thi, trò diễn dân
gian, ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc thiểu số cấp huyện, tổ chức định
kỳ 2 năm 1 lần (600 triệu đồng/6huyện miền núi).
d) Xây dựng và thực hiện các cơ chế,
chính sách, quy hoạch, đề án và nguồn lực thực hiện về lĩnh vực văn hóa tỉnh Quảng
Ngãi từ nguồn ngân sách tỉnh: 26,39 tỷ đồng.
2. Phân kỳ kinh phí:
a) Phân kỳ kinh phí đầu tư các dự án
dự án ưu tiên đầu tư của ngành văn hóa, thể thao tỉnh Quảng Ngãi theo quyết định
của UBND tỉnh phê duyệt kế hoạch giao vốn đầu tư công trung hạn.
b) Phân kỳ kinh phí đầu tư tại điểm
a, c, d khoản 1 chương V phần thứ Ba được thực hiện theo từng năm:
- Trùng tu, tôn tạo các di tích cấp
quốc gia, cấp tỉnh (Có phụ lục số 01 kèm
theo).
- Các dự án ưu tiên đầu tư của ngành
văn hóa, thể thao tỉnh Quảng Ngãi (Có phụ lục số 02 kèm theo).
- Bảo tồn, phát triển di sản văn hóa
phi vật thể trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi (Có phụ lục số 03 kèm theo).
- Xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính
sách, quy hoạch, đề án và nguồn lực thực hiện về lĩnh vực văn hóa tỉnh Quảng
Ngãi (Có phụ lục số 04 kèm theo).
Phần IV
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
- Là cơ quan thường trực, có nhiệm vụ
phối hợp các sở, ban ngành liên quan, UBND các huyện, thành phố tham mưu triển
khai thực hiện Đề án này; Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thực
hiện và kịp thời điều chỉnh các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, phù hợp với yêu cầu
thực tế, bảo đảm thực hiện có hiệu quả Đề án này.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động cán
bộ, công chức, viên chức, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân
dân tham gia thực hiện bảo đảm thiết thực, hiệu quả cao.
- Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư,
Sở Tài chính và các sở, ban ngành, UBND các huyện, thành phố trong việc cân đối
và bố trí ngân sách nhà nước hằng năm cho lĩnh vực văn hóa để triển khai thực
hiện các nhiệm vụ của Đề án.
- Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp theo Đề án này.
- Định kỳ hàng năm, phối hợp với các
sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố, đơn vị liên quan tham mưu UBND tỉnh
tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Đề án này và định kỳ
hàng năm báo cáo kết quả thực hiện về UBND tỉnh trước ngày 15/12 hàng năm.
2. Sở Tài chính
- Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư,
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các sở, ban ngành, UBND các huyện, thành phố
bố trí kinh phí thực hiện Đề án phù hợp điều kiện, khả năng ngân sách địa
phương.
- Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp theo Đề án này.
3. Sở Kế hoạch và Đầu tư
- Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Tài chính và các sở, ban ngành, UBND các huyện, thành
phố bố trí kinh phí thực hiện Đề án phù hợp khả năng ngân sách địa phương.
- Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp theo Đề án này.
- Tham mưu phân bổ nguồn vốn ngân
sách đầu tư xây dựng công trình văn hóa trọng điểm; dự án trùng tu, tôn tạo, chống
xuống cấp các di tích lịch sử- văn hóa; thực hiện tiêu chí cơ sở vật chất văn
hóa trong Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng xã nông thôn mới và các
công trình, dự án khác trong Đề án này.
4. Sở Giáo dục và Đào tạo
Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp theo Đề án này. Tăng cường công tác quản lý nhà nước,
phát huy vai trò của giáo dục trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Quảng Ngãi.
5. Sở Y
tế
Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp theo Đề án này. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
nhân dân, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng nhằm phát triển thể chất.
6. Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội
Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp theo Đề án này. Tập trung phát triển nguồn lao động đáp ứng
yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.
7. Sở Nội vụ
Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp theo Đề án này. Tập trung phát huy các giá trị, nhân tố
tích cực của tôn giáo, tín ngưỡng; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân.
8. Sở Thông tin và Truyền thông
Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp theo Đồ án này. Phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của các cơ quan báo chí và truyền thông góp phần xây dựng văn
hóa, con người Quảng Ngãi.
9. Sở Ngoại
vụ
Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp theo Đề án này. Mở rộng, đa dạng hóa các hình thức hợp
tác giao lưu văn hóa; xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách về văn hóa
đối ngoại.
10. Hội
Văn học - Nghệ thuật tỉnh
Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp theo Đề án này. Đổi mới phương thức hoạt động, quảng bá,
giới thiệu, phổ biến tác phẩm văn học, nghệ thuật; phát huy vai trò của văn học
- nghệ thuật phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng
Ngãi.
11. Thủ trưởng các sở, ban ngành,
đơn vị có liên quan và Chủ tịch UBND các huyện, thành phố:
- Xây dựng kế hoạch chi tiết, triển
khai phù hợp với tình hình, điều kiện cụ thể của cơ quan,
đơn vị, địa phương; tập trung chỉ đạo, tăng cường kiểm tra,
đôn đốc việc thực hiện và bảo đảm thực hiện hiệu quả các nội dung của Đề án
này.
- Định kỳ hàng năm, gửi báo cáo về Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch để tổng hợp, báo cáo UBND tỉnh theo quy định.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, nếu
có khó khăn, vướng mắc, yêu cầu Thủ trưởng các sở, ban ngành, Chủ tịch UBND các
huyện, thành phố chủ động báo cáo UBND tỉnh (thông qua Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch) xem xét, sửa đổi, bổ sung./.
PHỤ LỤC I
CÁC DI TÍCH CẤP QUỐC GIA, CẤP TỈNH ƯU
TIÊN TRÙNG TU, TÔN TẠO GIAI ĐOẠN 2018-2020
(Kèm theo Quyết định số: 626/QĐ-UBND ngày 05 tháng 9
năm 2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi)
Đơn
vị tính: Tỷ đồng
STT
|
TÊN
DI TÍCH
|
ĐỊA
ĐIỂM THỰC HIỆN
|
GIAI
ĐOẠN 2018-2020
|
Năm
2018
|
Năm
2019
|
Năm
2020
|
A
|
DI TÍCH CẤP QUỐC GIA
|
|
|
|
|
1.
|
Di tích Quốc gia kiến trúc nghệ thuật
Chùa Ông
|
Huyện
Tư Nghĩa
|
13,7
|
|
|
2.
|
Di tích Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam Trung Bộ (Nghĩa Hành)
|
H.
Nghĩa Hành
|
50
|
|
|
3.
|
Khu Chứng tích Sơn Mỹ
|
Tp.
Quảng Ngãi
|
20
|
|
|
4.
|
Bùi Tá Hán
|
P.
Quảng Phú, Tp. Quảng Ngãi
|
2,0
|
|
|
5.
|
Thành Châu Sa
|
Các
xã Tịnh Châu, Tịnh Khê, Tịnh An, Tịnh Thiện - th.p Quảng Ngãi
|
|
15
|
|
6.
|
Thắng cảnh núi Phú Thọ và Cổ Lũy cô
thôn
|
Nghĩa
Phú - TP Quảng Ngãi
|
|
10
|
|
7.
|
Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây
Quảng Ngãi (phục vụ kỷ niệm 60 năm)
|
Các
điểm di tích tại huyện Trà Bồng và Tây Trà
|
5
|
5
|
|
8.
|
Vụ thảm sát Bình Hòa
|
Xã
Bình Hòa - huyện Bình Sơn
|
|
5,0
|
|
9.
|
Nhà thờ Trần Cẩm
|
Xã Đức
Thạnh - huyện Mộ Đức
|
|
|
3,0
|
10.
|
Di tích Trường Lũy - Quảng Ngãi
|
8
huyện của tỉnh
|
|
|
70
|
B
|
DI TÍCH CẤP TỈNH
|
|
|
|
|
11.
|
Chiến thắng Khánh Lạc Đông
|
Xã
Nghĩa Hà, TP Quảng Ngãi
|
0,5
|
|
|
12.
|
Đình làng Sung Tích
|
Xã Tịnh
Long, TP Quảng Ngãi
|
0,5
|
|
|
13.
|
Đền Văn Thánh
|
Phường
Trương Quang Trọng, TP Quảng Ngãi
|
0,5
|
|
|
14.
|
Trụ sở Tỉnh ủy Quảng Ngãi
|
Xã
Sơn Kỳ, huyện Sơn Hà
|
0,5
|
|
|
15.
|
Chiến thắng Bãi Mầu
|
Xã
Sơn Tân, huyện Sơn Tây
|
0,5
|
|
|
16.
|
Di tích Chiến thắng Huy Măng
|
Xã
Sơn Dung, huyện Sơn Tây
|
0,5
|
|
|
17.
|
Cuộc biểu tình Ba La
|
Xã
Nghĩa Dõng, TP Quảng Ngãi
|
0,5
|
|
|
18.
|
Trụ sở Tỉnh ủy Quảng Ngãi
|
Xã
Sơn Kỳ, huyện Sơn Hà
|
1,0
|
|
|
19.
|
Trường Sư phạm dân tộc miền núi
|
Xã
Sơn Tân, huyện Sơn Tây
|
|
0,5
|
|
20.
|
Địa điểm biểu tình Trường Cháy
|
Xã
Phổ Cường, huyện Đức Phổ
|
|
0,5
|
|
21.
|
Đình Thi Phổ
|
Xã Đức
Tân, huyện Mộ Đức
|
|
0,5
|
|
22.
|
Căn cứ huyện Đông Sơn
|
Xã Bình
Tân, huyện Bình Sơn
|
|
0,5
|
|
23.
|
Mộ và nhà thờ Trần Kỳ Phong
|
Xã
Bình Thanh Tây, huyện Bình Sơn
|
|
0,5
|
|
24.
|
Chiến thắng Bến Lăng
|
Xã
Bình Đông, huyện Bình Sơn
|
|
0,5
|
|
25.
|
Mộ và nhà thờ Võ Thị Đệ
|
Xã Bình
Tân, huyện Bình Sơn
|
|
0,5
|
|
26.
|
Mộ và bia Trương Quang Cận
|
Xã Tịnh
Trà, huyện Sơn Tịnh
|
|
0,5
|
|
27.
|
Xưởng quân giới X1002
|
Xã
Sơn Thành, huyện Sơn Hà
|
|
0,5
|
|
28.
|
Đền Văn Thánh
|
Xã Đức
Chánh, huyện Mộ Đức
|
|
10
|
|
29.
|
Đình An Chuẩn
|
Xã Đức
Lợi, huyện Mộ Đức
|
|
|
0,5
|
30.
|
Mộ và đền thờ tiền hiền Võ Văn
Đương
|
Xã
Nghĩa Kỳ, huyện Tư Nghĩa
|
|
|
0,5
|
31.
|
Đình Lâm Sơn
|
Xã
Hành Nhân, huyện Nghĩa Hành
|
|
|
0,5
|
32.
|
Vụ thảm sát Phú Thọ
|
Xã
Hành Tín Tây, huyện Nghĩa Hành
|
|
|
0,5
|
33.
|
Chiến Thắng Hành Thịnh
|
Đồng
Ba Gò, xã Hành Thịnh
|
|
|
0,5
|
34.
|
Dinh thờ và vườn thờ Trương Định
|
Xã Tịnh
Thiện - thành phố Quảng Ngãi
|
|
|
0,5
|
35.
|
Hầm Xác Máu
|
Xã Đức
Phong - huyện Mộ Đức
|
|
|
0,5
|
36.
|
Xưởng Quân giới Từ Nhại
|
Xã Tịnh
Hiệp, huyện Sơn Tịnh
|
|
|
0,5
|
37.
|
Nhà thờ Họ Võ (Văn)
|
Xã
An Vĩnh, huyện Lý Sơn
|
|
|
0,5
|
38.
|
Điểm cập bến tàu không số (C41)
|
Bãi
biển An Thổ, xã Phổ An, huyện Đức Phổ
|
|
|
0,5
|
39.
|
Điểm cập bến
tàu không số (C43)
|
Bãi
biển Qui Thiện, huyện Đức Phổ
|
|
|
0,5
|
|
TỔNG
CỘNG
|
|
95,2
|
49,5
|
78,5
|
PHỤ LỤC II
CÁC DỰ ÁN ƯU TIÊN ĐẦU TƯ CỦA NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO TỈNH
QUẢNG NGÃI GIAI ĐOẠN 2017-2020
(Kèm theo Quyết định số: 626/QĐ-UBND ngày 05 tháng 9
năm 2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi)
Đơn
vị tính: Tỷ đồng
STT
|
Tên
dự án
|
Địa
điểm xây dựng
|
GIAI
ĐOẠN 2017- 2020
|
Ghi
chú
|
Năm
2017
|
Năm
2018
|
Năm
2019
|
Năm
2020
|
40.
|
Trung tâm Thông tin triển lãm tỉnh
|
Tp
Quảng Ngãi
|
20
|
|
|
|
Có trong Nghị quyết số
32/2016/NQ-HĐND
|
41.
|
Khu Du lịch văn hóa Thiên Ấn
|
Tp
Quảng Ngãi
|
|
10
|
|
|
Có trong Nghị quyết
số 32/2016/NQ-HĐND
|
42.
|
Khu Liên hợp
TDTT tỉnh(*)
|
Tp
Quảng Ngãi
|
|
80
|
|
|
- Có trong Nghị quyết số
32/2016/NQ-HĐND
- NS tỉnh chỉ thực hiện một số nhiệm
vụ thiết yếu, phần còn lại huy động đầu tư
|
43.
|
Công viên tỉnh
|
Tp Quảng
Ngãi
|
|
30
|
|
|
Có trong Nghị quyết số
32/2016/NQ-HĐND
|
44.
|
Cải tạo, nâng cấp Thư viện Tổng hợp
tỉnh
|
Tp.
Quảng Ngãi
|
|
|
5,0
|
|
Rà soát, bổ sung vốn đầu tư công
|
45.
|
Cải tạo, nâng cấp Bảo tàng Tổng hợp
tỉnh
|
Tp.
Quảng Ngãi
|
|
|
10
|
|
Rà soát, bổ sung vốn đầu tư công
|
46.
|
Bảo tàng Lịch sử Hoàng Sa, Trường
Sa tại đảo Lý Sơn
|
Huyện
Lý Sơn
|
|
|
|
115
|
Rà soát, bổ sung vốn đầu tư công
|
|
TỔNG CỘNG
|
|
20
|
120
|
15
|
115
|
|
(*) Ghi chú: Dự án Khu liên hợp TDTT
tỉnh: TMĐT: 742,39 tỷ, trong đó vốn ngân sách: 80 tỷ;
vốn kêu gọi XHH: 662,39 tỷ)
PHỤ LỤC III
BẢO TỒN PHÁT TRIỂN DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI GIAI ĐOẠN 2017-2020
(Kèm theo Quyết định số: 626/QĐ-UBND ngày 05 tháng 9
năm 2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi)
Đơn
vị tính: Triệu đồng
STT
|
NỘI
DUNG
|
GIAI
ĐOẠN 2017 - 2020
|
Năm
2017
|
Năm
2018
|
Năm
2019
|
Năm
2020
|
47.
|
Tổng kiểm kê di sản văn hóa và xây
dựng bộ chỉ số phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Hrê, Cor, Ca Dong đến năm 2020
|
|
100
|
|
700
|
48.
|
Hỗ trợ Khu bảo tồn văn hóa dân tộc
Hrê ở Sơn Hà
|
|
|
2.550
|
2.000
|
49.
|
Khôi phục các sàn nhà truyền thống
dân tộc Cor, Ca dong tại các địa phương có dân tộc Cor, Ca dong sinh sống và
sử dụng trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
|
|
|
3.000
|
3.000
|
50.
|
Tổ chức lớp nghệ nhân truyền dạy
dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc trong tỉnh
|
300
|
300
|
500
|
300
|
51.
|
Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, biên
soạn, xuất bản, phát hành trong nước và trong cộng đồng các dân tộc: sách
nghiên cứu về di sản văn hóa dân tộc Hrê, dân tộc Cor, dân tộc Ca Dong; về từng
di sản văn hóa đặc trưng của mỗi dân tộc; đĩa tiếng, đĩa hình văn hóa nghệ
thuật truyền thống của các dân tộc thiểu số trong tỉnh về dân ca, dân vũ, dân
nhạc, diễn xướng dân gian khác.
|
120
|
200
|
200
|
200
|
52.
|
Xây dựng bộ tài liệu về nghệ thuật
dân gian cho các đoàn nghệ thuật quần chúng, đoàn nghệ
thuật chuyên nghiệp trong tỉnh
|
|
200
|
200
|
200
|
53.
|
Tổ chức các chương trình liên hoan,
hội thi, trò diễn dân gian, ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc thiểu số
cấp huyện, cấp tỉnh (tổ chức định kỳ 1 - 2 năm 1 lần)
|
|
1.000
|
|
1.000
|
54.
|
Tổ chức lập hồ sơ xét tặng danh hiệu
“Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật
thể
|
240
|
|
|
250
|
55.
|
Tham gia Liên hoan Dân ca Việt Nam
|
270
|
|
300
|
|
56.
|
Tham gia các sự kiện, các hoạt động
tại Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam
|
450
|
200
|
200
|
00
|
|
TỔNG CỘNG
|
1.380
|
2.000
|
7.050
|
850
|
PHỤ LỤC IV
XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN CÁC CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH, QUY HOẠCH,
ĐỀ ÁN VÀ NGUỒN LỰC THỰC HIỆN VỀ LĨNH VỰC VĂN HÓA TỈNH QUẢNG NGÃI GIAI ĐOẠN
2017-2020
(Kèm theo Quyết định số: 626/QĐ-UBND ngày 05 tháng 9
năm 2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi)
Đơn
vị tính: Triệu đồng
STT
|
NỘI DUNG
|
GIAI
ĐOẠN 2017 - 2020
|
Năm 2017
|
Năm 2018
|
Năm 2019
|
Năm 2020
|
57.
|
Chính sách đãi ngộ, tôn vinh các
nghệ nhân, tổ chức, cá nhân có công gìn giữ, trao truyền và phát huy các giá trị
di sản văn hóa phi vật thể
|
20
|
500
|
500
|
500
|
58.
|
Chế độ về Quy định nội dung và mức
chi giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Phạm Văn Đồng
|
20
|
1.300
|
|
|
59.
|
Chính sách hỗ trợ sáng tác công
trình văn học, nghệ thuật
|
|
1.000
|
1.000
|
1.000
|
60.
|
Chính sách khuyến khích, ưu đãi các
tổ chức, cá nhân đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa, du lịch;
xây dựng các công trình văn hóa, du lịch
|
|
20
|
|
|
61.
|
Chính sách khuyến khích, đãi ngộ,
thu hút, phát triển tài năng trẻ trong lĩnh vực văn học,
nghệ thuật, thể dục thể thao; đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức là
người đồng bào dân tộc thiểu số làm công tác văn hóa ở miền núi.
|
|
1.000
|
1.000
|
1.000
|
62.
|
Đề án Ngân
hàng tên đường và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
|
230
|
|
|
|
63.
|
Quy hoạch hệ thống thiết chế văn
hóa, thể thao trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
|
500
|
5.000
|
5.000
|
5.000
|
64.
|
Quy hoạch hệ thống di tích lịch sử
- văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh
|
500
|
|
|
|
65.
|
Quy hoạch Khảo cổ học trên địa bàn
tỉnh
|
600
|
|
|
|
66.
|
Quy hoạch karaoke, vũ trường trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi
|
|
|
|
500
|
67.
|
Sửa đổi, bổ sung Quy hoạch Quảng
cáo ngoài trời trên địa bàn tỉnh
|
|
|
|
200
|
|
TỔNG CỘNG
|
1.870
|
8.820
|
7.500
|
8.200
|