BỘ Y TẾ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2207/QĐ-BYT
|
Hà Nội, ngày 29
tháng 06 năm 2011
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ
DUYỆT KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI CỦA NGÀNH Y TẾ GIAI ĐOẠN 2011-2015
BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25/12/2001;
Căn cứ Nghị định số 188/2007/NĐ-CP ngày 27/12/2007
của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Y tế và Nghị định số 22/2010/NĐ-CP ngày 9/3/2010 sửa đổi Điều 3 Nghị định số
188/2007/NĐ-CP ngày 27/12/2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế;
Căn cứ Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011-2020;
Xét đề nghị của Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ -
Bộ Y tế,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê
duyệt Kế hoạch hành động về bình đẳng giới của ngành Y tế giai đoạn 2011-2015.
Điều 2. Quyết
định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.
Điều 3. Chánh
Văn phòng Bộ, Chánh Thanh tra Bộ, Vụ trưởng các Vụ, Cục trưởng các Cục, Tổng
Cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Trưởng Cơ quan đại diện Bộ
Y tế
tại thành phố Hồ Chí Minh, Trưởng Ban Vì sự nghiệp tiến bộ phụ nữ Bộ Y tế, Thủ
trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ, Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, Thủ trưởng các đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành
Quyết định này./.
Nơi nhận:
-
Như Điều 3;
- Bộ trưởng BYT (để b/c);
- Các Thứ trưởng BYT (để chỉ đạo);
- UBQGVSTBCPN Việt Nam;
- Các thành viên Ban VSTBPNBYT;
- Lưu: VT, Ban VSTBPN BYT.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
TRƯỞNG BAN VSTBPN
Nguyễn Bá Thủy
|
KẾ HOẠCH HÀNH
ĐỘNG
VỀ
BÌNH ĐẲNG GIỚI CỦA NGÀNH Y TẾ GIAI ĐOẠN 2011-2015
(Ban
hành kèm theo Quyết định số 2207/QĐ-BYT ngày 29 tháng 6 năm 2011 của Bộ trưởng
Bộ Y tế)
Phần 1.
CƠ SỞ
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
I. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Sự cần thiết phải
thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
Ngành Y tế liên quan trực tiếp đến hoạt động
cung cấp dịch vụ xã hội, góp phần quan trọng nhằm đảm bảo an sinh xã hội. Để
nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe (CSSK) cần thiết phải có sự phân
tích giới cả trong nhóm cung cấp dịch vụ cũng như nhóm sử dụng dịch vụ để nhận
diện những bất cập và lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi các chính
sách liên quan đến cả 2 lĩnh vực này.
Trong cung cấp dịch vụ CSSK có một số khác
biệt về giới đáng lưu ý, bao gồm:
- Đặc điểm giới có ảnh hưởng rõ rệt tới kết
quả công việc: với sức khỏe thể chất và tinh thần, nam thường đáp ứng tốt hơn
với chức danh phẫu thuật viên thường xuyên phải làm việc trong tâm trạng căng
thẳng, đứng mổ cho bệnh nhân kéo dài liên tục trong nhiều giờ; bản tính tỷ mỉ,
chu đáo, dịu dàng của nữ thường đáp ứng phù hợp hơn so với những công việc của
chức danh điều dưỡng[1].
- Vai trò giới chi phối khả năng đáp ứng cũng
như cơ hội thăng tiến về công việc của phụ nữ như: trong thời gian mang thai
không được tiếp xúc với môi trường làm việc độc hại, phụ nữ nuôi con nhỏ không
đi trực, khó khăn khi tham gia phòng chống dịch bệnh, phụ nữ thường gặp nhiều
trở ngại trong quá trình phấn đấu tích tụ các tiêu chuẩn cần thiết để có thể
khẳng định các vị thế cao trong chuyên môn và quản lý.
- Nam giới luôn chiếm số đông trong số người
có chức danh chuyên môn với học hàm, học vị ở trình độ cao[2],
nam giới cũng giữ vai trò chủ chốt trong lãnh đạo, quản lý và các tổ chức Đảng,
đoàn thể[3].
Trong thụ hưởng dịch vụ CSSK cũng có nhiều
khác biệt về giới cần phải được quan tâm giải quyết; cụ thể như:
- Định kiến giới thường cản trở phụ nữ trong
tiếp cận và sử dụng dịch vụ CSSK: phụ nữ thường hay lựa chọn các cơ sở khám
chữa bệnh ở tuyến dưới[4],
nam giới dân tộc H’Mông không cho người khác giới can thiệp khi vợ đẻ, phụ nữ ở
vùng nông thôn, vùng sâu thường ngại tiếp xúc với bác sỹ nam hơn so với bác sỹ
nữ.
- Trong khám chữa bệnh: phụ nữ thường gặp khó
khăn trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ bởi những bất bình đẳng giới ngay từ
trong gia đình: nam giới sử dụng thu thập của hộ gia đình cho các hoạt động
giải trí của bản thân (uống bia rượu, hút thuốc lá, cờ bạc…) gây hạn chế đến
kinh phí dành cho CSSK của phụ nữ nhất là với các hộ nghèo[5].
Quan niệm về giới trong cộng đồng thường gắn phụ nữ với vai trò chăm lo sức
khỏe cho các thành viên trong gia đình vì vậy mà phụ nữ thường cân nhắc, tính
toán, chấp nhận sự thiệt thòi đối với bản thân để dành sự chăm sóc cho người
thân… Vai trò quyết định của nam giới trong sử dụng thu nhập hộ gia đình cũng
có thể gây hạn chế cho phụ nữ trong tiếp cận dịch vụ CSSK.
- Trong chăm sóc sức khỏe sinh sản: vẫn còn
một tỷ lệ đáng kể phụ nữ ở nông thôn mắc các bệnh phụ khoa do điều kiện nước
sạch và vệ sinh môi trường hoặc do điều kiện lao động. Phụ nữ còn bị lây nhiễm
các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs) từ chồng hoặc bạn tình. Tỷ lệ nam
giới tự nguyện chia sẻ với phụ nữ trong thực hiện các biện pháp KHHGĐ chưa
nhiều nhất là ở khu vực nông thôn, hiện tượng nạo hút thai vẫn còn khá phổ
biến.
- Trong phòng chống HIV/AIDS: cơ hội tiếp cận
với các kênh truyền thông và dự phòng lây nhiễm HIV của phụ nữ còn hạn chế nhất
là ở vùng sâu, vùng xa. Phụ nữ ít có khả năng thực hiện được quyền tự quyết
trong sử dụng các biện pháp dự phòng[6].
Sự tham gia của nam giới trong thực hiện các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV
còn nhiều hạn chế do chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng “Tam tòng”. Phụ nữ ít
có quyền lực trong thương thuyết tình dục an toàn với bạn tình của họ[7].
Những định kiến về giới cũng tạo nên những rào cản đối với phụ nữ nhiễm HIV
trong tiếp cận sớm với các dịch vụ chăm sóc điều trị.
Có thể khẳng định rằng khác biệt giới là một
hiện tượng khá phổ biến cả trên phương diện cung cấp dịch vụ cũng như trên
phương diện thụ hưởng dịch vụ CSSK gây nhiều cản trở đối với việc thực hiện mục
tiêu phát triển hệ thống Y tế theo định hướng công bằng, hiệu quả và phát triển
đã được đề cập trong Nghị quyết số 46/NQ-TW của Bộ Chính trị về “Bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”.
2. Thực trạng bình
đẳng giới trong ngành Y tế:
Để từng bước khắc phục tình trạng trên, trong
những năm vừa qua, ngành Y tế đã tích cực triển khai các chủ trương chính sách
của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác cán bộ nữ trong các đơn vị y tế
và đặc biệt quan tâm đến chương trình chăm sóc sức khỏe nhằm cải thiện từng
bước tình trạng sức khỏe phụ nữ, nam giới và trẻ em trong cộng đồng.
Trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ CSSK, nhận
thức của các cấp ủy Đảng, Chính quyền tại các đơn vị về vai trò, vị trí của
công tác cán bộ nữ đã có chuyển biến tích cực hơn so với giai đoạn trước. Các
đơn vị đã quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ nữ
đảm nhận các chức vụ trong quản lý đơn vị, trong các cấp ủy cũng như trong lãnh
đạo các tổ chức đoàn thể. Bên cạnh đó, các đơn vị còn thường xuyên chăm lo đến
quyền lợi và thực hiện nghiêm túc các chế độ, chính sách dành cho cán bộ nữ[8].
Tỷ lệ nữ tham gia quản lý, tham gia công tác đảng, đoàn thể gia tăng qua các
năm và vượt chỉ tiêu quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ giai đoạn 2006-2010[9].
Trong thụ hưởng dịch vụ Y tế, với những nỗ
lực vượt bậc của Ngành, một số chỉ tiêu của Mục tiêu 3 về cải thiện và nâng cao
sức khỏe cho phụ nữ cũng đã đạt và vượt so với kế hoạch đề ra[10],
[11].
Tuy nhiên, công tác bình đẳng giới vẫn còn
một số tồn tại như:
- Việc quán triệt các nội dung về Chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đối với công tác cán bộ nữ ở một số đơn vị chưa
đầy đủ, thiếu thường xuyên, hoạt động tuyên truyền phổ biến các văn bản này còn
chưa được quan tâm đúng mức, chưa đề ra chỉ tiêu phấn đấu và giải pháp cụ thể
nhằm phát huy hơn nữa vị thế, vai trò của cán bộ nữ trong toàn ngành.
- Một số cấp ủy Đảng chưa nhận thức đầy đủ
yêu cầu khách quan của việc tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ
nữ, chưa quan tâm sắp xếp và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ nữ tham gia đảm
nhận những cương vị lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Tỷ lệ phụ nữ đứng đầu các đơn
vị trực thuộc còn thấp. Tỷ lệ nữ làm công tác quản lý tuy có tăng so với trước
nhưng chưa tương xứng với tỷ lệ cán bộ nữ của các đơn vị trong ngành Y tế. Từ
nay đến 2015, số cán bộ nữ đảm nhận cương vị quản lý tại các đơn vị thuộc cơ
quan Bộ Y tế và các cơ sở trực thuộc sẽ giảm đi đáng kể do đến tuổi nghỉ hưu,
nguồn cán bộ nữ thuộc diện quy hoạch chưa nhiều do vậy việc duy trì và nâng cao
tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý trong ngành là rất khó khăn.
- Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ và
trẻ em, hầu hết các chỉ tiêu đã đạt và vượt so với kế hoạch đề ra song vẫn còn
một số chỉ tiêu về sức khỏe phụ nữ hiện vẫn chưa tổng hợp được đầy đủ và khó
đánh giá do không có trong danh mục niên giám thống kê Y tế. Tỷ lệ nam giới
tham gia chia sẻ trách nhiệm với phụ nữ trong KHHGĐ và phòng chống các bệnh
STDs thông qua sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục chưa cao[12].
Đặc biệt tỷ lệ giới tính khi sinh ở nước ta khá cao (110,5)[13],
đây vấn đề cần phải được đặc biệt quan tâm điều chỉnh trong thập kỷ sắp tới bởi
sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất lợi đối với phụ nữ và trẻ em gái khi cơ cấu dân số
dư thừa nhiều nam giới. Tỷ lệ phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình được các
cơ sơ y tế sàng lọc, phát hiện, tư vấn và CSSK còn thấp do hầu hết các cơ sở y
tế bị quá tải; kiến thức, kỹ năng của cán bộ y tế trong hỗ trợ bệnh nhân bị bạo
lực gia đình còn hạn chế.
Nguyên nhân của những tồn tại trên là do:
- Định kiến giới vẫn còn tồn tại trong nhận
thức chung của xã hội, nhận thức về bình đẳng giới trong các cấp ủy Đảng, chính
quyền ở nhiều nơi còn giản đơn, phiến diện, không đầy đủ, chưa thực sự quan tâm
đến lồng ghép giới vào hoạch định và thực thi chính sách.
- Một số chị em còn mặc cảm, tự ti, chưa có ý
thức tự vươn lên trong học tập và công tác. Tiền lương và thu nhập của công
chức, viên chức y tế nhìn chung còn thấp so với các ngành khác nên đời sống còn
gặp nhiều khó khăn, chị em phải dành thời gian để chăm lo đến cuộc sống gia
đình, không có đủ điều kiện để phấn đấu nên cán bộ nữ luôn bị hạn chế về tiêu
chuẩn khi xem xét quy hoạch và bổ nhiệm vào các cương vị lãnh đạo quản lý.
- Thiếu cơ sở dữ liệu: Các chỉ số đo lường về
bình đẳng giới với từng nhóm xã hội đặc biệt là với các nhóm yếu thế (phụ nữ
nghèo, dân tộc thiểu số…) thuộc nhiều dịch vụ khác nhau trong lĩnh vực CSSK
cũng như nguồn thông tin, dữ liệu có liên quan hiện vẫn đang còn là khoảng
trống cần phải nhanh chóng được bổ sung. Do không có cơ sở thông tin dữ liệu
nên khi xây dựng Kế hoạch Vì sự tiến bộ phụ nữ giai đoạn 2006-2010 đã đề xuất
một số chỉ tiêu không phù hợp, thiếu khả thi. Đặc biệt là có một số chỉ tiêu
của Ngành đã không phù hợp với chỉ tiêu của Kế hoạch hành động Quốc gia nên
việc thực hiện còn gặp nhiều khó khăn.
- Hoạt động của Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ ở
một số đơn vị còn mang tính hình thức, chậm được kiện toàn, hoạt động còn chưa
thường xuyên, không có quy chế hoạt động, kế hoạch hành động chưa sát với thực
tế nên thường gặp khó khăn trong tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện. Ban Vì
sự tiến bộ của Bộ Y tế gồm các thành viên kiêm nhiệm, không có đầu mối thường
trực và cán bộ chuyên trách nên hoạt động đôn đốc kiểm tra giám sát với các đơn
vị trực thuộc còn nhiều bất cập. Chế độ báo cáo của Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ
các đơn vị không thường xuyên và chưa đầy đủ.
- Nguồn lực để duy trì hoạt động của Ban Vì
sự tiến bộ phụ nữ ngành Y tế còn hạn chế: Thiếu nhân lực đáp ứng được yêu cầu
vừa có am hiểu về lồng ghép giới vừa nắm vững chức năng nhiệm vụ của các đơn vị
trong ngành. Kinh phí để triển khai hoạt động của Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ rất
hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách thường xuyên của đơn vị. Cho đến nay việc
triển khai thực hiện các hoạt động về bình đẳng giới trong toàn ngành vẫn chưa
nhận được sự tài trợ từ bất cứ nhà tài trợ nào. Các nhà tài trợ mới chỉ quan
tâm đến hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới cho các chương trình, hoạt động CSSK cụ
thể mà chưa quan tâm đến hỗ trợ cho việc lồng ghép và giám sát triển khai thực
hiện ở tầm vĩ mô của ngành.
- Hành lang pháp lý để thực hiện bình đẳng
giới trong CSSK hiện vẫn còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Mặc dù nhân lực y tế
đặc biệt là nhóm có trình độ chuyên môn tay nghề cao hiện đang thiếu hụt một
cách nghiêm trọng song các quy định về tuyển dụng, nghỉ hưu của cán bộ y tế vẫn
chưa có những điều chỉnh mang tính linh hoạt, thích hợp. Một số quy định tại
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa phù hợp với tinh thần của Luật
Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nhưng chưa được sửa đổi, bổ
sung nên đã gây nhiều trở ngại trong việc thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh
vực CSSK. Mặc dù Thông tư số 16/2009/TT-BYT hướng dẫn việc tiếp nhận, chăm sóc
y tế và thống kê, báo cáo đối với người bệnh là nạn nhân bạo lực gia đình tại
cơ sở khám chữa bệnh đã được Bộ Y tế ban hành song việc triển khai thực hiện
còn chưa được quan tâm thỏa đáng.
Xuất phát từ bối cảnh trên, việc xây dựng Kế
hoạch hành động về bình đẳng giới của ngành Y tế giai đoạn 2011-2015 là hết sức
cấp thiết, không chỉ có ý nghĩa thiết thực đối với việc triển khai thực hiện
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 mà còn góp phần quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khỏe nhân dân.
II. CƠ SỞ PHÁP LÝ
1. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm
2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
2. Luật Bình đẳng giới ngày 29 tháng 11 năm
2006.
3. Luật Phòng chống bạo lực gia đình ngày 21
tháng 11 năm 2007.
4. Pháp lệnh Dân số kế hoạch hóa gia đình.
5. Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 6
năm 2008 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình
đẳng giới.
6. Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 5
năm 2009 của Chính phủ Quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới.
7. Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 01 tháng 12
năm 2009 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn
đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ
Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
8. Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011-2020.
Phần 2.
MỤC TIÊU
VÀ GIẢI PHÁP
I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT
Tăng cường bình đẳng giữa nam và nữ trong
cung cấp và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, góp phần cải thiện chất
lượng bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân theo định hướng công bằng,
hiệu quả và phát triển.
II. MỤC TIÊU CỤ THỂ
VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Nhóm các chỉ tiêu
quốc gia nhằm bảo đảm bình đẳng giữa nam và nữ trong tiếp cận và thụ hưởng dịch
vụ CSSK
Mục tiêu 1: Đảm bảo bình đẳng
giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
a) Các chỉ tiêu đến năm 2015:
- Chỉ tiêu 1: Góp phần bảo đảm tỷ
số giới tính khi sinh không vượt quá 113 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái
thông qua các chỉ số sau:
+ 100% các cơ sở y tế cam kết không thông báo
giới tính thai nhi cho phụ nữ có thai và người thân của họ và không loại bỏ
thai nhi vì lý do giới tính.
+ Ít nhất có 80% các cơ sở y tế công lập và
ngoài công lập được thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định không thông báo
giới tính thai nhi cho phụ nữ mang thai và người thân của họ.
+ Ít nhất có 80% các cơ sở y tế công lập và
ngoài công lập được thanh kiểm tra việc chấp hành quy định không cung cấp dịch
vụ loại bỏ thai nhi vì lý do giới tính.
- Chỉ tiêu 2: Giảm tỷ lệ tử vong bà
mẹ liên quan đến thai sản xuống còn 58,3/100.000 trẻ đẻ sống.
- Chỉ tiêu 3: Giảm tỷ lệ phá thai
xuống còn 27/100 trẻ đẻ sống.
- Chỉ tiêu 4: Giảm tỷ lệ lây truyền
HIV từ mẹ nhiễm HIV sang con xuống dưới 5%.
- Chỉ tiêu 5: Ít nhất có 80% vị
thành niên và nam, nữ từ 18 tuổi trở lên ở thành thị được tiếp cận với các dịch
vụ CSSKSS và phòng chống HIV/AIDS, tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 70% và ở
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn là 60%.
b) Giải pháp thực hiện:
Triển khai thực hiện có hiệu quả các chính
sách và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình hình sức khỏe
sinh sản, duy trì mức sinh thấp hợp lý, quy mô gia đình ít con, hạn chế xu
hướng gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh, góp phần cải thiện chất lượng
cuộc sống của nhân dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cụ thể như:
- Ban hành kịp thời các văn bản triển khai
Chiến lược Dân số, Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020, tích cực triển khai
thực hiện đề án Can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh và tăng
cường kiểm tra, giám sát nhằm kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh.
- Đẩy mạnh triển khai chương trình làm mẹ an
toàn tại các tỉnh/thành phố trong cả nước, chú trọng thực hiện các giải pháp
can thiệp phù hợp tại các vùng khó khăn, miền núi (cấp phát miễn phí gói đỡ đẻ
sạch, đào tạo cô đỡ thôn bản, tăng cường năng lực phát hiện và xử lý tai biến
sản khoa cho trạm y tế xã và cơ sở y tế tuyến huyện).
- Xây dựng và triển khai thực hiện đề án Lồng
ghép truyền thông và nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục
và phòng chống HIV/AIDS cho vị thành niên, phụ nữ và nam giới trong phạm vi cả
nước.
- Từng bước thiết lập và duy trì mạng lưới
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, phòng chống HIV/AIDS
cho vị thành niên, phụ nữ và nam giới tại các vùng miền trong cả nước. Tăng độ
bao phủ xét nghiệm HIV cho phụ nữ có thai, tăng số lượng các huyện triển khai
cung cấp dịch vụ toàn diện về dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, tăng số
cặp mẹ con được theo dõi sau khi sinh bao gồm mẹ được điều trị ARV và con được
chẩn đoán sớm nhiễm HIV và điều trị ARV cho con.
- Đề xuất sửa đổi và bổ sung các quy định
chưa phù hợp với Luật bình đẳng giới trong một số văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành thuộc lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS, Dân số KHHGĐ và SKSS.
- Xây dựng bộ chỉ số về bình đẳng giới trong
thụ hưởng dịch vụ CSSK làm cơ sở để thực hiện giám sát đánh giá và áp dụng thí điểm
tại một số địa phương.
c) Giải pháp về kinh phí:
- Kinh phí triển khai các chương trình Dân số
KHHGĐ, CSSK bà mẹ trẻ em, CSSKSS, phòng chống HIV/AIDS sẽ được huy động từ
nguồn các chương trình mục tiêu Y tế quốc gia và các nhà tài trợ quốc tế.
- Kinh phí xây dựng bộ chỉ số về bình đẳng
giới và áp dụng thí điểm trong thống kê báo cáo tại một số địa phương ước tính khoảng
10 tỷ đồng. Trong số này 20% dự kiến huy động từ ngân sách hoạt động thường
xuyên của ngành Y tế; 80% sẽ huy động từ hỗ trợ của các tổ chức quốc tế.
- Kinh phí triển khai hoạt động theo dõi,
giám sát, đánh giá của Ban VSTBPN đối với bình đẳng giới trong lĩnh vực thụ
hưởng dịch vụ CSSK ước tính khoảng 3 tỷ đồng. Trong số này 20% dự kiến sẽ huy
động từ ngân sách hoạt động thường xuyên của ngành Y tế; 80% huy động từ hỗ trợ
của các tổ chức quốc tế.
Mục tiêu 2: Nâng cao nhận thức về
bình đẳng giới cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong ngành Y
tế; hỗ trợ giảm thiểu hậu quả đối với sức khỏe của người bệnh là nạn nhân bạo
lực gia đình.
a) Các chỉ tiêu đến năm 2015:
- Chỉ tiêu 1: 100% các đơn vị trong
ngành tổ chức phổ biến, tuyên truyền về Luật bình đẳng giới, Luật Phòng chống
bạo lực gia đình cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.
- Chỉ tiêu 2: 100% cán bộ viên
chức, người lao động trong các đơn vị trực thuộc ký cam kết thực hiện bình đẳng
giới và phòng chống bạo lực trong gia đình.
- Chỉ tiêu 3: 100% cơ sở khám, chữa
bệnh thực hiện chăm sóc y tế, thống kê báo cáo và tư vấn cho người bệnh là nạn
nhân bạo lực gia đình.
- Chỉ tiêu 4: Ít nhất có 20% cơ sở
khám, chữa bệnh tại các tuyến trung ương, tỉnh, huyện có cán bộ tư vấn, hỗ trợ
cho người bệnh là nạn nhân bạo lực gia đình.
- Chỉ tiêu 5: Xây dựng chương trình
đào tạo về kỹ năng sàng lọc, phát hiện, thống kê báo cáo, tư vấn, hỗ trợ cho
người bệnh là nạn nhân bạo lực gia đình và áp dụng thí điểm tại 3 trường đại
học Y, 7 trường cao đẳng/ trung cấp Y; tiến tới triển khai trong tất cả các
trường Y vào giai đoạn 2016-2020.
b) Giải pháp thực hiện:
- Ban hành văn bản hướng dẫn đơn vị tổ chức
thực hiện cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ký cam kết thực
hiện bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trong gia đình, đưa nội dung này
thành một trong các chỉ tiêu chấm điểm thi đua của mỗi đơn vị.
- Tổ chức các khóa tập huấn nâng cao nhận
thức và kỹ năng sàng lọc, phát hiện, tư vấn, hỗ trợ cho người bệnh là nạn nhân
bạo lực gia đình cho cán bộ y tế tại các cơ sở khám, chữa bệnh. Đưa nội dung
trên vào chương trình đào tạo của các trường Y.
- Ban hành văn bản hướng dẫn và tổ chức thí điểm
thành lập trung tâm/phòng tư vấn, hỗ trợ cho người bệnh là nạn nhân bạo lực gia
đình tại một số cơ sở khám chữa bệnh thuộc các tuyến trung ương, tỉnh, huyện.
- Hướng dẫn và tổ chức triển khai công tác
thống kê, báo cáo về bạo lực gia đình tại cơ sở khám, chữa bệnh.
- Nghiên cứu đánh giá việc triển khai Thông
tư số 16/2009/TT-BYT để đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả chăm sóc y tế
cho nạn nhân bạo lực gia đình.
- Chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị trong toàn
ngành phối hợp với ngành Văn hóa - Thể thao - Du lịch, Lao động - Thương binh
và Xã hội, Hội Liên hiệp phụ nữ và các cơ quan có liên quan tổ chức tuyên
truyền, lập kế hoạch triển khai và thực hiện Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng
chống Bạo lực gia đình, Thông tư số 16/2009/TT-BYT và các văn bản có liên quan.
c) Giải pháp về kinh phí:
- Bố trí ngân sách từ nguồn chi thường xuyên của
các đơn vị cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới,
phòng chống bạo lực gia đình; phát động thi đua cam kết thực hiện trong cán bộ
viên chức, người lao động.
- Huy động nguồn tài trợ của các tổ chức quốc
tế để tổ chức các khóa tập huấn nâng cao nhận thức của cán bộ y tế tại các cơ
sở khám, chữa bệnh về tầm quan trọng và kỹ năng sàng lọc, phát hiện, thống kê,
báo cáo, tư vấn hỗ trợ cho người bệnh là nạn nhân bạo lực gia đình (ước tính khoảng
4 tỷ đồng).
- Huy động kinh phí hỗ trợ đưa nội dung đào
tạo về kỹ năng sàng lọc, phát hiện, thống kê báo cáo, tư vấn hỗ trợ cho người
bệnh là nạn nhân bạo lực gia đình vào chương trình đào tạo chính khóa của các
trường Y. Ước tính khoảng 10 tỷ đồng trong đó có 80% dự kiến sẽ huy động từ
nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế.
- Huy động kinh phí từ các tổ chức quốc tế để
thí điểm hình thành các cơ sở tư vấn hỗ trợ cho người bệnh là nạn nhân bạo lực
gia đình và cập nhật dữ liệu thống kê tại một số cơ sở khám chữa bệnh (ước tính
khoảng 15 tỷ đồng).
- Huy động từ nguồn tài trợ của các tổ chức
Quốc tế để tiến hành nghiên cứu đánh giá việc triển khai Thông tư số 16/2009/TT-BYT
(ước tính 1 tỷ đồng).
2. Nhóm các chỉ tiêu
về đảm bảo quyền bình đẳng giới đối với cán bộ y tế
Mục tiêu 3: Tăng cường sự tham
gia của phụ nữ vào các cương vị lãnh đạo, quản lý trong toàn ngành nhằm từng
bước giảm dần khoảng cách về giới trong lĩnh vực này.
a) Các chỉ tiêu đến năm 2015:
- Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ cán bộ nữ trong
tổng số cán bộ lãnh đạo quản lý cấp Vụ và tương đương trở lên đạt 20%.
- Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ cán bộ nữ trong
tổng số cán bộ lãnh đạo quản lý các đơn vị trực thuộc Bộ đạt 18%, Sở Y tế đạt
25%.
- Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ cán bộ nữ tham
gia các cấp ủy Đảng trong toàn ngành đạt 40% trở lên.
b) Giải pháp thực hiện:
- Ban hành văn bản chỉ đạo của Ban Cán sự
Đảng Bộ Y tế về việc quy hoạch cán bộ, trong đó chú trọng đến công tác quy
hoạch cán bộ nữ sao cho tỷ lệ nữ trong ban lãnh đạo tương xứng với tỷ lệ cán bộ
nữ trong đơn vị.
- Xây dựng chỉ tiêu về bổ nhiệm cán bộ nữ
tham gia lãnh đạo quản lý đến năm 2015 trong Nghị quyết của Ban Cán sự Đảng Bộ
Y tế.
- Tăng cường hoạt động hiệp thương giữa Ban
Cán sự Đảng Bộ Y tế với cấp ủy Đảng của đơn vị và địa phương để đảm bảo tỷ lệ
cán bộ nữ tham gia lãnh đạo và tham gia cấp ủy Đảng các cấp.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra giám sát của
Ban VSTBPN Bộ Y tế đối với việc triển khai thực hiện mục tiêu này tại các đơn
vị và địa phương trong ngành.
c) Giải pháp về kinh phí: Kinh phí hỗ trợ cho
hoạt động kiểm tra, giám sát của Ban VSTBPN Bộ Y tế ước tính 1 tỷ đồng trong 5
năm, 80% số này dự kiến sẽ huy động từ nguồn hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, số
còn lại sử dụng từ nguồn kinh phí thường xuyên của Bộ Y tế.
Mục tiêu 4: Thu hẹp dần khoảng
cách giới trong lao động, việc làm của cán bộ, công chức, viên chức và người
lao động trong ngành y tế.
a) Các chỉ tiêu đến năm 2015:
- Chỉ tiêu 1: 100% các đơn vị không
có sự phân biệt về giới tính trong tiêu chí tuyển dụng (ngoại trừ các vị trí
làm việc nặng nhọc, độc hại theo quy định của Luật Lao động).
- Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ cán bộ nữ trong
tổng số cán bộ được đào tạo liên tục về chuyên môn kỹ thuật tạo các đơn vị
trong ngành tương đương với tỷ lệ nữ trong đơn vị.
b) Giải pháp thực hiện:
- Ban hành văn bản hướng dẫn về việc xây dựng
các tiêu chí trong tuyển dụng cán bộ mới của các đơn vị trong đó không cho phép
phân biệt đối xử về giới tính và độ tuổi của nam và nữ.
- Chỉ đạo các đơn vị chủ động xây dựng kế
hoạch và bố trí nguồn lực để thực hiện đào tạo liên tục theo Thông tư số 07/2008/TT-BYT
ngày 28/5/2008 của Bộ Y tế cho cán bộ, viên chức, người lao động về chuyên môn
kỹ thuật trong đó không có sự phân biệt giữa nam và nữ.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của
Ban VSTBPN Bộ Y tế đối với việc thực hiện những chỉ tiêu này.
- Xây dựng bộ chỉ số phản ánh bình đẳng giới
với mục tiêu này và áp dụng thí điểm trong thống kê báo cáo tại một số đơn vị.
c) Giải pháp về kinh phí: Kinh phí hỗ trợ cho
hoạt động kiểm tra, giám sát của Ban VSTBPN Bộ Y tế ước tính 1 tỷ đồng trong 5
năm; 80% số này dự kiến sẽ huy động từ nguồn hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, số
còn lại sử dụng từ nguồn kinh phí thường xuyên của Bộ Y tế.
Mục tiêu 5: Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực nữ, từng bước đảm bảo sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong
thụ hưởng giáo dục và đào tạo của toàn ngành.
a) Các chỉ tiêu đến năm 2015:
- Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ cán bộ nữ trong
tổng số cán bộ được đào tạo thạc sĩ và tương đương (BSCK I) đạt 45%.
- Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ cán bộ nữ trong
tổng số cán bộ được đào tạo tiến sĩ và tương đương (BSCK II) đạt 20%.
b) Giải pháp thực hiện:
- Ban hành văn bản của Bộ Y tế hướng dẫn các
đơn vị chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ (thạc sỹ/BSCK I và
Tiến sỹ/BSCK II) cho cán bộ, trong đó xác định một số tiêu chí ưu tiên đặc biệt
đối với cán bộ nữ như: thâm niên công tác tại đơn vị có thể rút ngắn hơn so với
nam, thời gian ôn tập được kéo dài hơn, được hỗ trợ thêm một phần kinh phí
trong khi ôn tập và đi học từ ngân sách tự chủ của đơn vị.
- Ban hành hướng dẫn về sử dụng ngân sách
trong triển khai kế hoạch đào tạo nâng cao cho cán bộ tại các đơn vị với mức
phân bổ ưu tiên cho đối tượng cán bộ nữ.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của
Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ Bộ Y tế đối với việc thực hiện mục tiêu này tại các
đơn vị.
- Xây dựng bộ chỉ số về bình đẳng giới trong
mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ và thí điểm thống kê báo cáo tại
một số đơn vị.
c) Giải pháp về kinh phí:
- Kinh phí đào tạo nâng cao cho cán bộ trong
đó có cán bộ nữ sẽ được huy động từ nguồn kinh phí thường xuyên của mỗi đơn vị.
- Kinh phí hỗ trợ cho hoạt động kiểm tra,
giám sát của Ban VSTBPN ước tính 1 tỷ đồng trong 5 năm, 80% số này dự kiến sẽ
huy động từ nguồn hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, số còn lại sử dụng từ nguồn
kinh phí thường xuyên của Bộ Y tế.
Mục tiêu 6: Nâng cao năng lực
quản lý nhà nước về bình đẳng giới trong các đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ.
a) Các chỉ tiêu đến năm 2015:
- Chỉ tiêu 1: 100% thành viên Ban
Vì sự tiến bộ phụ nữ tại các đơn vị trực thuộc được tập huấn về kiến thức
nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới trong ngành.
- Chỉ tiêu 2: Ít nhất có 70% lãnh
đạo đơn vị được tập huấn về bình đẳng giới.
- Chỉ tiêu 3: 80% dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật của ngành được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng
giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới được lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới.
- Chỉ tiêu 4: 100% các quy định
trong văn bản QPPL hiện hành liên quan đến CSSK chưa phù hợp với Luật bình đẳng
giới được đề xuất sửa đổi, bổ sung.
- Chỉ tiêu 5: Xây dựng và áp dụng
thí điểm bộ chỉ số về bình đẳng giới trong cung cấp và thụ hưởng dịch vụ CSSK
tại một số đơn vị làm cơ sở để chính thức áp dụng trong toàn ngành sau năm
2015.
b) Giải pháp thực hiện:
- Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng và
triển khai thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, Luật Bình đẳng giới,
Luật Phòng chống bạo lực gia đình, công ước CEDAW và kết quả 5 năm thực hiện
KHHĐVSTBPN giai đoạn 2006 - 2010 của ngành Y tế.
- Kiện toàn bộ máy tổ chức nhằm nâng cao năng
lực hoạt động cho Ban VSTBPN Bộ Y tế và Ban VSTBPN các đơn vị trực thuộc Bộ. Tổ
chức các lớp tập huấn về giới, lồng ghép giới cho các thành viên Ban VSTBPN các
cấp, cán bộ lãnh đạo và những người tham gia hoạch định, thực thi chính sách
các đơn vị. Tổ chức bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ công tác vì sự tiến bộ phụ nữ
cho các thành viên của Ban VSTBPN các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế.
- Ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Ban
Cán sự Đảng Bộ Y tế đối với các Vụ, Cục, Tổng cục, Thanh tra Bộ, Văn phòng Bộ,
Cơ quan đại diện Bộ Y tế tại thành phố Hồ Chí Minh về việc lồng ghép giới trong
việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực chuyên môn được
giao.
- Tăng cường phối hợp với các cơ quan, đơn vị
có liên quan trong và ngoài ngành, các tổ chức quốc tế, các tổ chức đoàn thể,
xã hội để triển khai thực hiện Kế hoạch hành động về bình đẳng giới của ngành Y
tế giai đoạn 2011 - 2015.
- Tổng hợp bộ chỉ số đo lường về bình đẳng
giới trong cung cấp và thụ hưởng dịch vụ CSSK để hình thành bộ chỉ số chung của
toàn ngành.
- Rà soát và đề xuất sửa đổi, bổ sung một số
văn bản QPPL hiện hành chưa phù hợp với Luật Bình đẳng giới.
b) Giải pháp về kinh phí:
- Kinh phí phục vụ cho hoạt động tập huấn
nâng cao năng lực cho các nhóm đối tượng có liên quan ước tính khoảng 6 tỷ đồng
trong số này 80% dự kiến sẽ huy động từ nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế.
- Kinh phí xây dựng, thí điểm áp dụng, tổng
hợp và hoàn thiện bộ chỉ số về bình đẳng giới của toàn ngành ước tính khoảng 10
tỷ đồng trong đó 80% dự kiến sẽ huy động từ nguồn tài trợ của các tổ chức quốc
tế.
III. KẾ HOẠCH HOẠT
ĐỘNG CHI TIẾT (phụ
lục kèm theo)
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Ban Vì sự tiến bộ
phụ nữ Bộ Y tế
a) Khẩn trương kiện toàn Ban Vì sự tiến bộ
phụ nữ Bộ Y tế, bổ sung thêm thành viên thuộc một số Vụ/Cục chức năng có liên
quan. Phân công cho Vụ Tổ chức cán bộ và Viện chiến lược và Chính sách Y tế là
đầu mối thường trực của Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ Bộ Y tế.
b) Hướng dẫn Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các đơn
vị trực thuộc Bộ, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương xây dựng Kế hoạch hành động về bình đẳng giới.
c) Triển khai các văn bản tổ chức thực hiện
và giám sát việc thực hiện nhiệm vụ được phân công trong Kế hoạch hành động về
bình đẳng giới của ngành Y tế giai đoạn 2011 - 2015 (Kế hoạch hoạt động chi tiết
- Phụ lục kèm theo) và đề xuất sửa đổi một số quy định chưa phù hợp với Luật
Bình đẳng giới trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
d) Phối hợp với các đơn vị chuyên môn tổ chức
các khóa tập huấn kiến thức về giới, phân tích và lồng ghép giới; tập huấn
nghiệp vụ, huấn luyện về kỹ năng hoạt động và nâng cao nhận thức về bình đẳng
giới.
đ) Tham gia và phối hợp với các đơn vị chức
năng trong và ngoài ngành, các tổ chức quốc tế, các tổ chức đoàn thể, xã hội để
huy động nguồn lực thực hiện các nghiên cứu, phát hiện và đề xuất giải quyết
vấn đề giới trong xây dựng và thực hiện các chương trình, nội dung công tác của
ngành; xây dựng cơ chế phối hợp, thẩm định yếu tố bình đẳng giới trong quá
trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
e) Phối hợp với Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ
phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011-2020.
g) Hướng dẫn Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các đơn
vị trực thuộc Bộ, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương tổ chức tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch hành
động và tiến độ thực hiện các chỉ tiêu trong nhóm các chỉ tiêu quốc gia và nhóm
chỉ tiêu đối với cán bộ y tế.
h) Tổ chức sơ kết, tổng kết hàng năm và báo
cáo Lãnh đạo Bộ, Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam về việc thực
hiện Kế hoạch hành động về bình đẳng giới của ngành Y tế giai đoạn 2011-2015.
2. Các Vụ, Cục, Tổng
cục, Văn phòng Bộ, Thanh tra Bộ, Cơ quan đại diện Bộ Y tế tại thành phố Hồ Chí
Minh tổ
chức thực hiện Kế hoạch hoạt động chi tiết (Phụ lục kèm theo). Tham gia cùng
một số
bộ, ngành chức năng chỉnh sửa một số quy định phù hợp với Luật Bình đẳng giới
trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thuộc lĩnh vực chuyên môn có
liên quan.
3. Thủ trưởng các đơn
vị trực thuộc Bộ, Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
a) Xây dựng Kế hoạch hành động về bình đẳng
giới nhằm thực hiện các chỉ tiêu đặt ra trong nhóm chỉ tiêu quốc gia và nhóm
chỉ tiêu đối với cán bộ y tế.
b) Chỉ đạo thường xuyên và kịp thời các hoạt
động nhằm thực hiện Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng
giới đã xây dựng.
c) Phối hợp với đơn vị chức năng và Ban vì sự
tiến bộ phụ nữ trong việc nghiên cứu, giải quyết vấn đề giới trong xây dựng và
thực hiện các chương trình, nội dung công tác của ngành thuộc đơn vị phụ trách.
d) Phân bổ kinh phí hàng năm theo dự toán của
Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ của đơn vị theo quy định tại Thông tư số 191/2009/TT-BTC
ngày 01/10/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí hoạt
động bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
đ) Tổ chức tổng kết, đánh giá tình hình thực
hiện Kế hoạch hành động về bình đẳng giới, tiến độ thực hiện và dự kiến hoàn
thành các chỉ tiêu trong nhóm các chỉ tiêu quốc gia và nhóm các chỉ tiêu đối
với cán bộ y tế của đơn vị và gửi báo cáo định kỳ (6 tháng, năm) về Ban Vì sự
tiến bộ phụ nữ Bộ Y tế./.