ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 22/QĐ-UBND
|
Ninh Bình, ngày
13 tháng 01 năm 2025
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ
DUYỆT ĐỀ ÁN “HỆ GIÁ TRỊ VĂN HÓA, CON NGƯỜI NINH BÌNH TRONG XÂY DỰNG THÀNH PHỐ
TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG VỚI ĐẶC TRƯNG ĐÔ THỊ DI SẢN THIÊN NIÊN KỶ, THÀNH PHỐ SÁNG
TẠO”
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
Căn cứ Luật Tổ chức chính
quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật sửa, đổi bổ sung
một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương
ngày 22 tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Luật Di sản văn hoá
ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản
văn hoá ngày 18 tháng 6 năm 2009;
Căn cứ Nghị quyết số 33-NQ/TW
ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương
khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước;
Căn cứ Kết luận số 76-KL/TW
ngày 04 tháng 6 năm 2020 về tiếp tục thực hiện Nghị Quyết số 33-NQ/TW ngày 09
tháng 6 năm 2014 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về
xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước;
Căn cứ Quyết định số
1230/QĐ-TTg ngày 15 tháng 7 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương
trình bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam giai
đoạn 2021-2025;
Căn cứ Quyết định số
1909/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030;
Căn cứ Quyết định số
218/QĐ-TTg ngày 04 tháng 3 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Quy hoạch tỉnh Ninh Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050;
Căn cứ Nghị quyết số
10-NQ/TU, ngày 26 tháng 6 năm 2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Bình về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Ninh Bình đến năm 2020, định hướng đến
năm 2030 đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững;
Căn cứ Kết luận số 90-KL/TU
ngày 12 tháng 10 năm 2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Bình về việc tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 26/6/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa
XXI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Ninh Bình đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030 đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững;
Thực hiện sự chỉ đạo của
Thường trực Tỉnh ủy tại Thông báo số 1890-TB/TU ngày 18 tháng 11 năm 2024;
Theo đề nghị của Hiệu trưởng
Trường Đại học Hoa Lư tại Văn bản số 856/ĐHHL-TCTTr ngày 31 tháng 10 năm 2024.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án
“Hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình trong xây dựng thành phố trực thuộc
Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo” (có
Đề án kèm theo).
Điều 2. Giao Sở Văn hóa
và Thể thao chủ trì, phối hợp với Trường Đại học Hoa Lư và các cơ quan, đơn vị
liên quan tổ chức triển khai thực hiện Đề án.
Điều 3. Quyết định này
có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.
Điều 4. Chánh Văn phòng
Ủy ban nhân dân tỉnh, Giám đốc Sở Văn hoá và Thể thao, Hiệu trưởng Trường Đại
học Hoa Lư; Thủ trưởng các sở, ban, ngành; Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện,
thành phố và các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết
định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 4;
- Thường trực Tỉnh uỷ;
- Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh;
- Lãnh đạo UBND tỉnh;
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy;
- Lãnh đạo VPUBND tỉnh;
- Các sở, ban, ngành, đoàn thể;
- UBND các huyện, thành phố;
- Lưu: VT, VP6,2,5.
TN_VP6_03.QĐ
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Tống Quang Thìn
|
ĐỀ ÁN
HỆ
GIÁ TRỊ VĂN HOÁ, CON NGƯỜI NINH BÌNH TRONG XÂY DỰNG THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG
ƯƠNG VỚI ĐẶC TRƯNG ĐÔ THỊ DI SẢN THIÊN NIÊN KỶ, THÀNH PHỐ SÁNG TẠO
(Ban hành kèm theo Quyết định số 22/QĐ-UBND ngày 13/01/2025 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Ninh Bình)
Phần
thứ nhất
SỰ CẦN THIẾT VÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY
DỰNG ĐỀ ÁN
Xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng, mang lại ý nghĩa lâu dài đối
với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Vì vậy, Đảng ta luôn chú trọng việc xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam nhằm củng cố và kiến tạo nền tảng
tinh thần cho đất nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương
5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc đã nêu những quan điểm chỉ đạo cơ bản: “văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội; nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng; văn hóa là
một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu
dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng”.
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014
của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước cũng khẳng định: “Xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân -
thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.
Ngày 04/6/2020, Bộ Chính trị
khóa XII ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết
33-NQ/TW, trong đó nhấn mạnh: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hoá trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân
tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp
tục khẳng định vai trò, ý nghĩa đặc biệt của việc xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam, định hướng cho giai đoạn 2021 - 2030 là: “Phát
triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát
triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”; “Tập trung nghiên cứu và triển khai
xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt
Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ
mới. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và
lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là
thanh niên”; “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người
Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ,
hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”.
Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày
24/11/2021 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là một sự kiện
đặc biệt quan trọng, tiếp tục khẳng định, làm rõ quan điểm, đường lối nhất
quán của Đảng về phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước trong giai đoạn mới. Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, cố Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định vai trò to lớn của văn hóa: “Văn hóa
còn là dân tộc còn”. Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển
nền văn hóa của dân tộc, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ 06 nhiệm
vụ quan trọng và cấp thiết:
“Một là, khơi dậy mạnh mẽ
hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị
văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn
lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển
đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Hai là, xây dựng con người
Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù
hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn
hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền
thống với giá trị thời đại: yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung
thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo,...
Ba là, phát triển toàn diện
và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa: bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn
hóa mới. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, gắn liền với đấu
tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo
vệ những giá trị chân - thiện - mỹ. Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân;
xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh
lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước.
Bốn là, phát huy vai trò chủ
thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự
biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền;
phát triển các phong trào văn hóa sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện,
nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, bảo đảm sự công bằng. Đề cao,
phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người
làm công tác văn hóa.
Năm là, chú trọng xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta
thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người
Việt Nam. Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu
gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nâng cao vai
trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia
tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp
phát triển văn hóa.
Sáu là, xây dựng môi trường
văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn
hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn
hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh.”
Những quan điểm chỉ đạo trên
của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam là cơ sở nền
tảng để các cơ quan Trung ương và địa phương nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện
“Hệ giá trị quốc gia, Hệ giá trị văn hóa, Hệ giá trị gia đình, chuẩn mực con
người Việt Nam trong thời kỳ mới”[1], góp phần hoàn thành thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Vì vậy, việc xây dựng Đề án “Hệ giá trị văn hóa, con người
Ninh Bình trong xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng Đô thị
di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo” là hết sức cần thiết trong bối cảnh
tỉnh Ninh Bình đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2035 trở thành thành phố trực
thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo.
II. CƠ SỞ CHÍNH TRỊ, PHÁP LÝ
1. Chủ trương, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng hệ giá trị văn hóa, con
người
1.1. Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, năm 1996;
1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, năm 2001;
1.3. Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, năm 2006;
1.4. Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, năm 2011;
1.5. Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, năm 2016;
1.6. Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, năm 2021;
1.7. Nghị quyết số 03-NQ/TW
ngày 16/7/1998 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
1.8. Nghị quyết số 33-NQ/TW
ngày 09/6/2014 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về
xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước.
1.9. Kết luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020
về tiếp tục thực hiện Nghị Quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị lần
thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
1.10. Nghị quyết số 06-NQ/TW
ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển
bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
1.11. Nghị quyết số 30-NQ/TW
ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm
quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045;
1.12. Quyết định số 1909/QĐ-TTg
ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển
văn hóa đến năm 2030;
1.13. Quyết định số 218/QĐ-TTg
ngày 04/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tỉnh Ninh
Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
2. Các văn bản chỉ đạo của
Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình
2.1. Chương trình hành động số 23-CTr/TU
ngày 28/7/2014 của BCH Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày
09/6/2014 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về xây
dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước;
2.2. Nghị quyết số 10-NQ/TU,
ngày 26/6/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Ninh Bình đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đáp ứng yêu cầu hội
nhập và phát triển bền vững;
2.3. Kết luận số 90-KL/TU ngày
12/10/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XXII về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 10-NQ/TU ngày 26/6/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Bình về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Ninh Bình đến năm 2020, định hướng đến
năm 2030 đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững;
2.4. Kế hoạch số 112-KH/TU ngày
27/02/2022 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23/11/2022 của
Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng
đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
2.5. Nghị quyết số 48/NQ-HĐND
ngày 30/7/2024 của HĐND tỉnh thông qua Chương trình phát triển đô thị tỉnh Ninh
Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050;
2.6. Quyết định số 1007/QĐ-UBND
ngày 14/9/2021 của UBND tỉnh về phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị
lịch sử, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của con người, vùng đất Cố đô Hoa Lư
giai đoạn 2021-2030;
2.7. Quyết định số 1080/QĐ-UBND
ngày 30/9/2021 của UBND tỉnh phê duyệt Đề án xây dựng các sản phẩm văn hóa
nhằm phát huy giá trị văn hóa, lịch sử Cố đô Hoa Lư phục vụ phát triển du lịch
giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực tiễn xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong phạm vi cả nước
Quán triệt chủ trương, đường
lối của Đảng về văn hóa và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, trong những
năm qua, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương trong cả nước đã luôn quan
tâm, lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”[2], phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế,
xã hội. Công tác xây dựng và phát triển văn hóa, con người đạt được một số kết
quả chủ yếu như sau:
Thứ nhất, nhận thức của
cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới được nâng cao. Các
cấp, các ngành đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện các nghị
quyết của Trung ương với nhiều giải pháp sáng tạo, phù hợp và hiệu quả. Cùng
với đẩy mạnh phát triển kinh tế, việc đẩy mạnh phát triển văn hóa luôn được các
cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm thực hiện, thông qua nhiều chương trình,
cuộc vận động lớn.
Thứ hai, đời sống văn
hóa có sự chuyển biến sâu sắc, rõ nét, khẳng định vai trò to lớn của nhân dân
trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn
mới, đô thị văn minh” được triển khai rộng khắp và được các tầng lớp nhân dân
tích cực hưởng ứng, tham gia, đã góp phần nâng cao đời sống văn hóa và phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo và thụ hưởng văn hóa của nhân dân trong công cuộc
xây dựng đời sống văn hóa mới. Phong trào xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều
thành tựu tích cực, làm thay đổi diện mạo thôn quê, cùng với quá trình đô thị
hóa mạnh mẽ gắn với phong trào xây dựng đô thị văn minh, hiện đại, đã góp phần
thay đổi căn bản đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội từ nông thôn đến thành thị.
Thứ ba, thiết chế văn
hóa từ tỉnh đến cơ sở ngày càng hoàn thiện, nhất là hệ thống nhà văn hóa thôn,
khu dân cư. Đến nay, cơ bản 100% thôn, khu dân cư có nhà văn hóa với đầy đủ
trang thiết bị và điều kiện sinh hoạt, nhờ đó, phong trào văn hóa, văn nghệ
quần chúng được duy trì, phát triển, đáp ứng phần lớn nhu cầu sáng tạo và hưởng
thụ văn hóa của nhân dân.
Thứ tư, công tác lãnh
đạo, chỉ đạo việc bảo tồn các di sản văn hóa được thực hiện bài bản, có hiệu
quả, chất lượng và đúng quy định của Nhà nước. Hầu hết các tỉnh, thành đã hoàn
thành tổng kiểm kê, phân loại di sản văn hóa thuộc địa phương quản lý; đồng
thời làm tốt công tác xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực dành cho việc trùng
tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, cách mạng. Đến nay, phần lớn di tích
lịch sử, văn hóa đã được tu bổ, tôn tạo bằng nguồn ngân sách Trung ương, của
địa phương và hàng trăm di tích được tu tổ, tôn tạo bằng nguồn vốn xã hội hóa
của nhân dân.
Thứ năm, trong công tác
giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục thế hệ trẻ, trong những năm qua, quy mô,
mạng lưới trường, lớp học phát triển đồng bộ, từng bước được chuẩn hóa. Ngành
giáo dục và đào tạo đã thực hiện tốt chủ trương giáo dục và đào tạo theo định
hướng phát triển năng lực của người học, đồng thời lồng ghép, tích hợp với
giáo dục đạo đức, giáo dục hướng nghiệp và nghề phổ thông; gắn kết các chương
trình giảng dạy lịch sử với tìm hiểu về lịch sử văn hóa, danh nhân ở địa
phương, nhằm khơi dậy lòng tự hào dân tộc, truyền thống cách mạng của quê
hương, đất nước.
Thứ sáu, sự nghiệp phát
triển văn học, nghệ thuật được quan tâm qua các cuộc thi, liên hoan, triển
lãm... nhiều văn nghệ sĩ đạt giải cao, được vinh danh. Văn nghệ quần chúng có
sự phát triển nhanh chóng, với nhiều hình thức hoạt động phong phú, đa dạng;
bảo tồn hiệu quả những giá trị nghệ thuật truyền thống của các địa phương.
Hiện tại, tất cả các địa phương
trong cả nước đều đang trong quá trình nghiên cứu xây dựng hệ giá trị văn hóa, con
người theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ
XIII.
2. Thực tiễn xây dựng văn
hóa, con người tỉnh Ninh Bình và yêu cầu cần xác lập hệ giá trị văn hóa, con
người Ninh Bình trong bối cảnh mới
2.1. Điều kiện tự nhiên, con
người và lịch sử, văn hóa tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình là một tỉnh ở phía
nam châu thổ sông Hồng. Tỉnh Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội khoảng gần 100km, có
vị trí địa lý là “cửa ngõ” phía nam khu vực đồng bằng Bắc Bộ, thuộc hành lang kinh
tế quốc gia Bắc - Nam (Bắc Ninh - Hà Nội - Hà Nam - Ninh Bình); hành lang kinh
tế ven biển Vịnh Bắc Bộ từ Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh) đến Kim Sơn (tỉnh Ninh
Bình); điểm kết nối trung chuyển của 3 vùng kinh tế: vùng đồng bằng sông Hồng,
vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, vùng trung du và miền núi phía Bắc
(khu vực Tây Bắc). Những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, giao thông với
các vùng, miền trong khu vực, trong nước, quốc tế… đã tạo lợi thế cho tỉnh Ninh
Bình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp, du lịch,
dịch vụ, lưu thông hàng hóa, giao lưu văn hóa…
Với diện tích tự nhiên không
lớn (khoảng 1.412km2), địa hình Ninh Bình có 3 vùng sinh thái rõ rệt gồm: vùng
núi phía Tây; vùng đồng bằng xen kẽ với núi đá vôi; vùng đồng bằng, bãi bồi ven
biển; được thiên nhiên ưu đãi nhiều cảnh quan thiên nhiên phong phú, đặc sắc với
nhiều danh lam thắng cảnh gắn với truyền thống văn hóa, lịch sử hào hùng của
dân tộc.
Ninh Bình là vùng đất có con
người cư trú rất sớm. Các di chỉ khảo cổ học được phát hiện ở Ninh Bình cho
thấy, cách nay chừng 3-4 vạn năm đã có con người sinh sống nơi đây. Những trống
đồng cổ được phát hiện ở Ninh Bình (6 chiếc) cho thấy, đây là một trong những
địa bàn quan trọng của nền văn minh Đông Sơn - nền văn minh đầu tiên của
người Việt cổ. Ninh Bình có hai dân tộc chính là dân tộc Kinh và dân tộc Mường.
Hiện nay, có trên 3 vạn người Mường sống xen kẽ với người Kinh, chủ yếu ở
huyện Nho Quan.
Trong suốt hàng nghìn năm dựng
nước, giữ nước của dân tộc ta, vùng đất Ninh Bình luôn là địa bàn chiến lược,
ghi dấu những mốc lịch sử hào hùng về bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của đất nước. Đặc biệt nhất là ở thế kỷ X, Ninh Bình là quê hương của
người anh hùng Đinh Bộ Lĩnh. Sau khi dẹp loạn cát cứ, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ
Lĩnh xưng đế, đặt quốc hiệu là Đại Việt/Đại Cồ Việt, lập quốc đô Hoa Lư, đặt
niên hiệu là Thái Bình, "đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đủ".
Nhà nước Đại Việt/Đại Cồ Việt được đánh giá là Nhà nước phong kiến tập quyền đầu
tiên trong lịch sử Việt Nam. Hoa Lư là kinh đô của nhà Đinh, nhà Tiền Lê và giai
đoạn đầu nhà Lý, là đô thị - cảng thị tựa núi, nhìn sông, mở ra biển Đông, khai
mở, đặt cơ sở nền tảng cho sự phát triển của văn minh Đại Việt… Hoa Lư là trung
tâm của nền văn hóa Hoa Lư - văn hóa kinh kỳ còn tiếp nối, vang vọng đến hôm
nay.
Ninh Bình cũng là nơi hội tụ,
giao thoa văn hóa và tôn giáo theo nghĩa nhân văn nhất. Mảnh đất này là chứng
tích của những con người đất Việt với những đức tin tôn giáo khác nhau, sống
hòa hợp, yên bình, tương kính và nhân văn.
Vị trí địa lý, điều kiện tự
nhiên, truyền thống lịch sử và con người Ninh Bình hàng nghìn năm qua đã tạo ra
một nền văn hóa Ninh Bình tương đối năng động, mang đặc trưng khác biệt trên
nền tảng văn minh châu thổ sông Hồng. Theo kết quả kiểm kê năm 2023, toàn tỉnh
có 1.821 di tích, thuộc nhiều loại hình khác nhau, trong đó: Chùa: 343; Đình:
263; Đền: 447; Miếu, phủ, tĩnh, lầu, lăng mộ: 234; Nhà thờ họ: 255; Nhà thờ
công giáo: 165; Di tích khảo cổ: 68; Loại hình khác (núi, hang động, nhà cổ,
cầu cống, văn chỉ, vườn bia): 46”. Hiện mới chỉ có 412 di tích đã được xếp hạng
(331 di tích cấp tỉnh, 81 di tích cấp Quốc gia, trong đó có 03 di tích cấp Quốc
gia đặc biệt, 01 Di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới). Theo kết quả kiểm kê
di sản văn hóa phi vật thể năm 2023, “trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có 393 di sản
được kiểm kê, trong đó: Nghệ thuật trình diễn dân gian: 33; Tri thức dân gian:
25; Nghề thủ công truyền thống: 23; Lễ hội truyền thống: 208; Tập quán xã hội:
33; Tiếng nói, chữ viết: 02; Ngữ văn dân gian: 69. Có 09 di săn văn hóa vật thể
được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định đưa vào Danh mục di sản văn hóa
phi vật thể cấp Quốc gia, gồm: Lễ hội Hoa Lư; Nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân (xã Ninh
Vân, thành phố Hoa Lư); Nghệ thuật trình diễn hát xẩm; lễ hội truyền thống làng
Bình Hải (xã Yên Nhân, huyện Yên Mô); Nghề thủ công truyền thống thêu ren Ninh
Hải (xã Ninh Hải, thành phố Hoa Lư); Tập quán xã hội và tín ngưỡng Mo Mường tỉnh
Ninh Bình; Cói mỹ nghệ Kim Sơn”, Lễ hội đền Thánh Nguyễn (xã Gia Tiến và xã Gia
Thắng, huyện Gia Viễn); Lễ hội Báo Bản (làng Nộn Khê, xã Yên Từ huyện Yên Mô).
Nhiều danh nhân nổi tiếng như Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú,
Lưu Cơ, Dương Vân Nga, Nguyễn Minh Không, Trương Hán Siêu, Ninh Tốn, Vũ Duy
Thanh, Vũ Phạm Khải, Phạm Thận Duật… và các vị khoa bảng, nhà văn hoá, nhà khoa
học đương đại được sinh ra và lớn lên ở vùng đất này. Mỗi ngọn núi, con sông
trên đất Ninh Bình đều là những địa danh ghi lại những dấu tích về văn hoá,
lịch sử trong tiến trình thích ứng với thiên nhiên, chống thù trong, giặc ngoài
để đứng vững và phát triển. Mỗi tên đất, tên làng đều thể hiện khát vọng về một
cuộc sống hoà bình, hạnh phúc bền vững của Nhân dân trên mảnh đất Ninh Bình…
Những điểm nổi bật về vị trí
địa lý, điều kiện tự nhiên và lịch sử, văn hóa đã góp phần hình thành hệ giá
trị văn hóa, con người Ninh Bình truyền thống và hiện đại.
2.2. Tình hình xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Ninh Bình
Phát huy những giá trị truyền
thống lịch sử, văn hóa và con người Ninh Bình trong công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội, những năm qua, cấp ủy đảng và chính quyền các cấp trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, toàn
diện, có hiệu quả việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người; gắn phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa, bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa, di sản của vùng đất Cố đô Hoa Lư lịch sử. Một số kết quả chủ yếu đạt
được như sau:
Một là, cấp ủy đảng,
chính quyền các cấp tỉnh Ninh Bình đã cụ thể hóa những chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng văn hóa, con người thành các
nghị quyết, chương trình hành động, đề án, dự án cụ thể của tỉnh như: Chương
trình hành động số 22-CTr/TU ngày 21/11/2008 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh
Bình về thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị (khóa
X) về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa, nghệ thuật trong thời kỳ mới”;
Chương trình hành động số 23-CTr/TU ngày 28/7/2014 của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Ninh Bình thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày
26/6/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Ninh Bình đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đáp ứng yêu cầu hội nhập
và phát triển bền vững”; Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử, văn hóa,
truyền thống tốt đẹp của con người, vùng đất Cố đô Hoa Lư giai đoạn 2021-2030;
Đề án xây dựng các sản phẩm văn hóa nhằm phát huy giá trị văn hóa, lịch sử Cố
đô Hoa Lư phục vụ phát triển du lịch giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp
theo; Đề án khôi phục, bảo tồn và phát huy nghệ thuật hát Xẩm trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình; Quyết định số 10/2021/QĐ-UBND ngày 26/5/2021 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Ninh Bình về “Quy chế văn hóa công sở trong các cơ quan, đơn vị trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình”; Công văn số 601/UBND-VP6 ngày 17/9/2021 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Ninh Bình về việc “Triển khai thực hiện Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã
hội”;...
Hai là, công tác xây
dựng văn hóa chính trị được chú trọng đặc biệt, coi đây là nhân tố quan trọng
để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Công tác xây dựng văn hóa
trong hoạt động kinh tế được các cấp, các ngành quan tâm tổ chức thực hiện, các
doanh nghiệp, người dân hưởng ứng tham gia. Môi trường văn hóa được quan tâm ở
cả trong gia đình, nhà trường và xã hội. Thực hiện có hiệu quả công tác bảo
tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, nghệ thuật hát chèo, hát xẩm. Chú trọng
công tác nghiên cứu về lịch sử - truyền thống quê hương, nhất là các giá trị
lịch sử văn hóa liên quan đến triều đại nhà Đinh và không gian văn hóa Hoa Lư.
Công tác phát triển văn học nghệ thuật cũng được quan tâm. Phát huy các giá trị
tốt đẹp trong văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo. Các thiết chế văn hóa, thể thao
được đầu tư, xây dựng. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, nếp sống văn hóa, văn minh được đẩy mạnh. Các hoạt động văn hóa, văn học,
nghệ thuật được tổ chức sâu rộng, nhiều sự kiện văn hóa mang tầm quốc gia, quốc
tế. Quê hương Ninh Bình ngày càng đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được nâng lên. Hợp tác giao lưu văn hóa được mở rộng. Các giá trị văn
hóa mới, con người mới đang dần được hình thành.
Ba là, để bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa, con người Ninh Bình trong thời kỳ mới, tỉnh
Ninh Bình đã tổ chức nhiều Hội thảo khoa học về xây dựng và phát triển tỉnh
Ninh Bình nói chung, phát triển văn hóa nói riêng, như: Hội thảo khoa học “Văn
hóa, con người Ninh Bình trong phát triển bền vững” (năm 2017); Hội thảo khoa
học “Ninh Bình - 30 năm đổi mới, sáng tạo và phát triển” (năm 2022); Hội thảo
“Định dạng bản sắc Ninh Bình gắn với xây dựng thương hiệu địa phương”; Hội thảo
khoa học quốc tế “Giải quyết mối quan hệ giữa phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa
và phát triển kinh tế - xã hội: Nhìn từ quản trị vùng và địa phương” (2023);
Hội thảo khoa học “Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống văn bia tại
di tích quốc gia đặc biệt núi Non Nước”; Hội thảo khoa học “Xác lập quan điểm,
nguyên tắc cơ bản trong tiếp cận nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Ninh Bình và
vấn đề phân kỳ lịch sử, phân tập bộ sách”; Hội thảo khoa học “Đinh Tiên Hoàng:
Tầm vóc lịch sử và khát vọng dân tộc”; Tọa đàm khoa học “Tư vấn về chiến lược
bảo tồn, phỏng dựng, phục dựng và phát huy giá trị di sản Kinh đô Hoa Lư bằng
giải pháp khoa học và công nghệ”; Hội thảo khoa học “Phát huy văn hóa, lối sống
Tràng An trong xây dựng đô thị di sản thiên niên kỷ” (năm 2024)... Kết quả của
các Hội thảo khoa học đã định hình dần các giá trị văn hóa, chuẩn mực con người
Ninh Bình truyền thống và hiện đại.
Công tác chăm lo xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Ninh Bình được các cấp ủy Đảng và chính quyền
hết sức chú trọng, qua đó khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào về truyền
thống văn hóa, lịch sử cách mạng của quê hương; giúp người dân nâng cao ý thức
trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, ý thức xây dựng nếp sống văn
minh, gìn giữ thuần phong mỹ tục, xây dựng hình ảnh con người Ninh Bình vừa
thấm đẫm những vẻ đẹp truyền thống - hiện đại của con người Việt Nam, vừa mang
đậm nét đặc trưng của con người vùng đất Cố đô Hoa Lư, thân thiện, hiền hòa,
thanh lịch, mến khách; hướng tới chuẩn mực con người văn minh, hiện đại, trí
tuệ, bản lĩnh, tự tin, đột phá, dám nghĩ, dám làm, có ý chí vươn lên mạnh mẽ để
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập và phát triển bền vững.
2.3. Việc xác lập hệ giá trị
văn hóa, con người Ninh Bình trong bối cảnh mới
Ngày 04/3/2024, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 218/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tỉnh Ninh Bình
thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Căn cứ Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền, tổ chức
chính trị - xã hội các cấp tham mưu xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện,
trong đó có nội dung phát triển toàn diện văn hóa, bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp của con người vùng đất Cố đô. Đây là cơ sở quan
trọng để xây dựng và triển khai Đề án “Hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình
trong xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng Đô thị di sản
thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo”.
Phần
thứ hai
XÁC LẬP HỆ GIÁ TRỊ VĂN HOÁ, CON NGƯỜI NINH BÌNH TRONG
XÂY DỰNG THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG VỚI ĐẶC TRƯNG ĐÔ THỊ DI SẢN THIÊN NIÊN
KỶ, THÀNH PHỐ SÁNG TẠO
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Văn hóa
Đến nay, có rất nhiều cách hiểu
về văn hóa. Trong đó, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hoá mang tính tổng
quát: “Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của
cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng
như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một
hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân
tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”[3].
Theo cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng,
“dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hóa là nói đến những
gì là tinh hoa, tinh tuý nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những
giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa,
nhân tình, tiến bộ (một con người có văn hóa, một gia đình có văn hóa, một dân
tộc có văn hóa; lối sống văn hóa, nếp sống văn hóa, cách ứng xử có văn hóa,
...)”[4]. Đây là những gợi
ý và định hướng quan trọng để chúng ta xây dựng, xác lập hệ giá trị văn hoá, hệ
giá trị con người Việt Nam trong tình hình mới.
2. Giá trị
Thuật ngữ giá trị có nhiều cách
tiếp cận nhưng tựu trung lại, đã nói đến giá trị là đề cập đến các yếu tố tích
cực, có ích cho đời sống con người và xã hội, được đa số cá nhân và cộng đồng
thừa nhận là đúng đắn, tốt đẹp, được con người mong muốn, khát khao vươn tới và
đạt được.
3. Giá trị văn hóa
Giá trị văn hoá bao gồm tổng
thể các giá trị văn hóa vật chất và các giá trị văn hóa tinh thần; các giá trị
này có được từ kết quả lao động, sáng tạo của con người trong quá trình lịch
sử, nó thể hiện sức mạnh bản chất của con người và định hướng cho các hoạt
động văn hóa của con người. Giá trị văn hóa tạo ra phương châm, triết lý sống
và chính phương châm, triết lý sống là sự thể hiện giá trị của cá nhân, cộng
đồng, tộc người.
4. Hệ giá trị văn hóa
Hệ giá trị là một tổ hợp các
giá trị được sắp xếp lại thành hệ thống theo những nguyên tắc nhất định, thực
hiện chức năng đặc thù trong việc đánh giá của con người theo những phương
thức vận hành nhất định của giá trị[5].
Trong hệ thống ấy, các giá trị
không phải khi nào cũng ngang bằng với nhau mà “các giá trị được sắp xếp theo
những trật tự nhất định, được coi là hệ giá trị”[6]. Mặt khác, các giá trị trong hệ thống luôn có sự
tác động qua lại, ảnh hưởng, điều chỉnh, bổ sung, quy định ý nghĩa cho nhau,
đồng thời tuân thủ các nguyên tắc của hệ thống.
Hệ giá trị là nền tảng, là
chuẩn mực quy định và đánh giá hành vi “tốt” hay “xấu”, “phù hợp” hay “không
phù hợp”. Hệ giá trị là yếu tố quan trọng trong tổng thể văn hoá, góp phần
khẳng định bản sắc và giá trị riêng biệt của mỗi nền văn hoá.
Hệ giá trị văn hóa do con người
sáng tạo trong tương tác với tự nhiên và xã hội, tạo thành nền tảng cho phương
châm và hành vi sống. Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể trong hệ giá
trị này. Những giá trị văn hóa được hình thành trong lịch sử, ổn định và truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác, được gọi là giá trị văn hóa truyền thống, thể
hiện các giá trị tốt đẹp của xã hội.
5. Hệ giá trị con người
Hệ giá trị con người là một tổ
hợp các giá trị, phẩm chất và nguyên tắc mà con người coi trọng và tuân thủ
trong cuộc sống được sắp xếp lại thành hệ thống. Những giá trị này không chỉ
phản ánh khía cạnh cá nhân, mà còn thể hiện các chuẩn mực và lý tưởng do xã hội
đặt ra, từ đó định hướng hành vi, tư duy và quyết định của mỗi cá nhân trong
cộng đồng. Hệ giá trị con người thường gắn liền với triết lý, tôn giáo, văn hóa
và truyền thống của một quốc gia hoặc một cộng đồng cụ thể.
Trong mối quan hệ với các hệ
giá trị cơ bản như hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia
đình... thì hệ giá trị con người là hệ giá trị trung tâm, hệ giá trị cốt lõi
với nhiều giá trị xuyên suốt các hệ giá trị khác. Hệ giá trị con người ẩn chứa,
kết tinh, thấm đẫm trong nhiều mặt, nhiều nội dung của các hệ giá trị ấy.
II. XÁC LẬP HỆ GIÁ TRỊ VĂN
HOÁ, CON NGƯỜI NINH BÌNH TRONG XÂY DỰNG THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG VỚI ĐẶC
TRƯNG ĐÔ THỊ DI SẢN THIÊN NIÊN KỶ, THÀNH PHỐ SÁNG TẠO
1. Hệ giá trị văn hóa Ninh
Bình
Giá trị văn hóa Ninh Bình là
giá trị văn hóa của vùng đất và con người Ninh Bình, được hình thành trong quá
trình lịch sử, tương đối ổn định và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác, thể hiện đặc trưng của quê hương, con người Ninh Bình từ xưa đến nay.
Nghiên cứu về giá trị văn hóa
Việt Nam, từ năm 1980, tác giả Trần Văn Giàu đã xác định hệ giá trị văn hóa
của dân tộc bao gồm 7 giá trị cốt lõi: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo,
lạc quan, thương người và vì nghĩa. Trong đó, tác giả khẳng định yêu nước là
“tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” là “động lực tình cảm
lớn nhất, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống các giá trị đạo đức
của dân tộc”[7]. Tác giả
Vũ Khiêu tiếp tục nhấn mạnh các giá trị quan trọng khác như lòng yêu nước,
truyền thống đoàn kết, lao động cần cù, tinh thần nhân đạo và lòng yêu thương
con người. Tác giả Nguyễn Quang Ngọc đúc kết những giá trị: Tinh thần yêu nước,
ý chí tự lực tự cường, truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc, lao động cần
cù, sáng tạo, tính thích nghi và hội nhập, lối ứng xử mềm mỏng, truyền thống
hiếu học, trọng học vấn, trọng nghĩa khí, tính cộng đồng và tinh thần nhân ái,
khoan dung “thương người như thể thương thân”[8]. Đến năm 2014, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 33- NQ/TW) đã khái quát
thành các giá trị: “dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”[9].
Giá trị văn hóa, hệ giá trị văn
hóa được hình thành do con người và chịu ảnh hưởng bởi những điều kiện lịch sử,
tự nhiên, xã hội khác nhau thì cũng khác nhau. Trong phạm vi một quốc gia, về
cơ bản thì hệ giá trị văn hóa, nhất là hệ giá trị văn hóa truyền thống là giống
nhau. Tuy nhiên, do những đặc điểm về tự nhiên, lịch sử, xã hội khác nhau nên giá
trị văn hóa ở mỗi địa phương cũng có những khác biệt ở mức độ nhất định.
Hệ giá trị văn hóa Ninh Bình
mang đầy đủ các giá trị của hệ giá trị văn hóa Việt Nam nhưng nổi bật ở những
giá trị: dân tộc, dân chủ, nhân văn, hòa hợp và tiến bộ.[10]
1.1. Giá trị dân tộc
a) Khái niệm
Dân tộc (Nation/Ethnic group[11]) có hai nghĩa: Thứ
nhất, dân tộc - tộc người là một cộng đồng có chung tên gọi, ngôn ngữ, giá
trị văn hóa, tạo nên tính cách và ý thức tự giác tộc người, với khát vọng cùng
chung sống và số phận lịch sử chung. Tộc người không nhất thiết có cùng lãnh
thổ hay sinh hoạt kinh tế; Thứ hai, dân tộc - quốc gia là một cộng đồng
chính trị - xã hội, do nhà nước điều hành, thiết lập trên lãnh thổ nhất định,
có ngôn ngữ hành chính, kinh tế chung và các biểu tượng văn hóa, tạo nên tính
cách dân tộc.
Giá trị dân tộc (National
values/Ethnic values) là khái niệm dùng để chỉ hệ thống những yếu tố, thuộc
tính và đặc trưng tốt đẹp của dân tộc, được hình thành và phát triển qua quá
trình lịch sử lâu dài. Những giá trị này phản ánh bản chất, phẩm chất và sức
mạnh riêng của dân tộc, đồng thời thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo, phong phú
và sức sống của nền văn hóa dân tộc. “Giá trị dân tộc được phản ánh qua cả nội
dung và hình thức của nền văn hóa, thể hiện sự phong phú, độc đáo, sức sống
của văn hóa dân tộc. Giá trị dân tộc Việt Nam mang đậm bản sắc văn hóa, thể
hiện truyền thống văn hiến của dân tộc, được nuôi dưỡng từ mạch nguồn dân tộc.
Đó cũng là nền văn hóa độc lập, tự chủ, không bị nô dịch, bị lấn át trước văn
hóa ngoại lai, nhưng đồng thời có khả năng tiếp thu, “dân tộc hóa”, “Việt hóa”
những ảnh hưởng tốt đẹp của văn hóa bên ngoài, làm giàu và nâng tầm văn hóa
dân tộc ngang tầm thế giới và thời đại”[12].
b) Biểu hiện của giá trị dân
tộc
Năm 1943, “Đề cương về văn hóa
Việt Nam” nhấn mạnh nguyên tắc dân tộc hóa, khẳng định rằng văn hóa Việt Nam
phải phát triển độc lập, không bị nô dịch hay lệ thuộc. Tại Hội nghị Văn hóa
toàn quốc năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao nền văn hóa Việt Nam phải gắn
liền với hạnh phúc của dân tộc, mang tính “thuần túy Việt Nam” và biết tiếp
thu những giá trị tốt đẹp của thế giới.
Nguyên tắc dân tộc hóa là giá
trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam, vừa chống lại sự xâm nhập của những yếu tố
văn hóa ngoại lai không phù hợp, vừa tiếp thu, Việt hóa những yếu tố tốt đẹp từ
bên ngoài. Bản sắc văn hóa dân tộc, với tâm hồn, tính cách và di sản đặc trưng,
giúp Việt Nam “hòa nhập mà không hòa tan” trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Điều
này tạo nên sức mạnh để bảo vệ độc lập, tự cường trên lĩnh vực văn hóa.
Trong quá khứ, dù đối mặt với
ngoại xâm, Việt Nam vẫn giữ gìn văn hóa và phong tục tập quán của dân tộc.
Ngày nay, trong quá trình đổi mới và hội nhập, Việt Nam tiếp tục bảo vệ và lan
tỏa giá trị dân tộc, đồng thời tham gia vào sự đa dạng văn hóa toàn cầu.
Văn hóa Ninh Bình là một trong
những biểu hiện rõ ràng cho tính độc lập, tự chủ và khả năng tiếp biến văn
hóa bên ngoài của văn hóa Việt Nam. Là một phần quan trọng trong bức tranh văn
hóa dân tộc, Ninh Bình không chỉ giữ vững bản sắc riêng mà còn biết tiếp thu,
Việt hóa những giá trị tích cực từ các nền văn hóa ngoại lai để làm giàu cho
văn hóa địa phương.
Những giá trị ấy được hình
thành và hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, từ thời Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12
sứ quân cho đến ngày nay. Người dân Ninh Bình luôn giữ vững tinh thần kiên
cường trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, từ quân Nguyên Mông, thực dân
Pháp đến đế quốc Mỹ. Tinh thần dân tộc thấm sâu vào văn hóa địa phương, từ lối
sống đến các giá trị tinh thần, thể hiện rõ qua việc giữ gìn ngôn ngữ, phong
tục tập quán và tinh thần yêu nước, đoàn kết…
Người dân Ninh Bình không chỉ
bảo vệ bản sắc truyền thống mà còn làm chủ việc tiếp nhận và Việt hoá những
giá trị ngoại lai sao cho phù hợp với văn hóa Việt Nam. Ví dụ, các công trình
kiến trúc như Cố đô Hoa Lư, nhà thờ đá Phát Diệm, chùa Bái Đính, các kiến trúc
không gian văn hoá, kiến trúc nhà ở Ninh Bình không chỉ mang đậm nét kiến trúc
truyền thống Việt Nam mà còn khéo léo kết hợp với những yếu tố tinh hoa trong
kiến trúc phương Đông và phương Tây, kết hợp giữa truyền thống với hiện đại,
mang tâm thức, khát khao, ước muốn của con người vùng đất Cố đô. Điều này cho
thấy các giá trị văn hoá Việt vừa được bảo lưu và được phát triển đa dạng, làm
phong phú cho văn hóa Ninh Bình.
Bên cạnh đó, tín ngưỡng, tôn
giáo ở Ninh Bình cũng cho thấy khả năng tiếp biến văn hóa. Mặc dù Phật giáo và
Công giáo du nhập từ rất sớm, nhưng các nghi lễ truyền thống Việt - Mường và
phong tục thờ cúng tổ tiên vẫn được duy trì, cho thấy sự dung hòa giữa văn hóa
ngoại lai và bản địa. Người dân Ninh Bình không chỉ bảo vệ giá trị truyền thống
mà còn biết tiếp nhận cái mới một cách có chọn lọc, sáng tạo.
Như vậy, văn hóa Ninh Bình, với
đặc trưng độc lập, tự chủ và khả năng tiếp thu, biến đổi văn hóa, là một điển
hình của văn hóa Việt Nam. Không chỉ đậm đà bản sắc truyền thống, văn hóa Ninh
Bình còn góp phần nâng cao giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời đóng góp tích cực
vào sự giao lưu và hội nhập văn hóa trên toàn cầu.
1.2. Giá trị dân chủ
a) Khái niệm
Về mặt ngữ nghĩa, ngôn ngữ Hy
Lạp cổ dùng thuật ngữ “demokratos” để diễn đạt dân chủ, trong đó “demos” là
nhân dân và “kratos” là quyền lực. Theo cách diễn đạt này, dân chủ trong tiếng
Hy Lạp cổ được hiểu là quyền lực thuộc về nhân dân hoặc quyền lực của nhân dân[13]. Cách hiểu trên cơ bản
được giữ nguyên cho đến ngày nay. Dân chủ là một quá trình vận động không
ngừng. Trong quá trình đó luôn diễn ra những thay đổi quan trọng về tính chất,
nội dung cũng như về thể chế của nền dân chủ. Dân chủ ngày nay không chỉ
giới hạn trong lĩnh vực chính trị mà còn mở rộng ra khía cạnh kinh tế, văn hóa
và xã hội. Dân chủ không chỉ tồn tại qua hiến pháp hay pháp luật, mà cần được
nuôi dưỡng bởi văn hóa dân chủ và những con người dân chủ. Nó là giá trị hiện
thực, thể hiện chủ nghĩa nhân đạo, tôn trọng quyền con người và các giá trị
nhân văn như tự do, công bằng và bình đẳng. Dân chủ là mục tiêu, động lực phát
triển và phương tiện điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức và xã hội.
Giá trị dân chủ đề cao
các quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do sáng tạo văn hóa, mọi công dân đều
bình đẳng và được tôn trọng, hướng tới lợi ích và tự do của một cộng đồng xã
hội. Người dân vừa là chủ thể vừa là khách thể của văn hóa, vừa là người sáng
tạo, vừa là người hưởng thụ các giá trị văn hóa.
b) Biểu hiện của giá trị dân
chủ
Trong lịch sử Việt Nam, độc lập
và chủ quyền luôn là điều kiện tiên quyết, sau đó mới đến dân chủ và dân
quyền, với các chính sách “an dân” và “khoan thư sức dân” nhằm đề cao vai trò
của nhân dân. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” giúp các triều đại phong kiến củng
cố sức mạnh toàn dân, bảo vệ và phát triển đất nước.
Từ thời Đinh và Tiền Lê, các vị
vua đã thể hiện tinh thần dân chủ khi dựa vào sức mạnh của nhân dân để xây
dựng và bảo vệ đất nước. Đinh Tiên Hoàng khơi dậy lòng yêu nước, đồng thời kêu
gọi sự đồng lòng và ủng hộ từ nhân dân, thu phục các sứ quân mà không gây
thiệt hại lớn cho dân. Sau khi thống nhất đất nước, ông xây dựng bộ máy chính
quyền mạnh mẽ, coi trọng lòng dân và tận dụng tài năng từ nhiều tầng lớp, kể cả
từ các sứ quân đối lập.
Vua Lê Đại Hành tiếp tục phát
huy tư tưởng dân chủ khi dựa vào sức mạnh của nhân dân để phát triển đất
nước. Chính sách trọng nông của hai triều đại Đinh và Tiền Lê khuyến khích
nhân dân phát triển nông nghiệp, với việc Vua Lê Đại Hành đích thân cày ruộng
tịch điền như một biểu tượng của tinh thần chăm lo đời sống nhân dân. Các
ngành kinh tế như trồng trọt, chăn nuôi và thủ công nghiệp cũng được chú trọng
phát triển, đóng góp vào sự thịnh vượng của đất nước.
Dưới triều Lý - Trần
(1070-1400), dù là chế độ quân chủ tập quyền, các vua vẫn nhận thức rõ vai
trò quan trọng của dân chủ. Triều đình luôn tham vấn ý kiến các vị Tam Thái
(Thái sư, Thái phó, Thái bảo) để ngăn ngừa những quyết định không hợp lòng dân.
Thời Trần, Thái thượng hoàng giám sát chính sự, ngăn chặn việc lộng quyền, và
chiến thắng ba lần chống quân Mông - Nguyên là minh chứng cho sức mạnh đoàn kết
giữa vua, quan và nhân dân. Cả hai triều đại đều đặt chuông trước cung điện để
dân có oan khuất được trực tiếp giải quyết, và Hội nghị Diên Hồng là biểu tượng
dân chủ khi vua Trần Nhân Tông tham khảo ý kiến quân thần, bô lão trong chiến
tranh. Tư tưởng “khoan sức dân” và “lấy ý dân làm ý mình” được các nhân vật như
Trần Hưng Đạo và sư Phù Vân đề xuất khi được nhà vua tham vấn. Nguyễn Trãi phát
triển thêm khi nói “dân như nước”, có thể nâng đỡ hoặc lật đổ. Thời Nguyễn, dân
chủ được thể hiện qua việc tuyển chọn đại thần, thi cử và cơ chế giám sát
quyền lực. Tiếp nối truyền thống, Đảng ta rất đề cao tư tưởng dân chủ, gắn
liền với pháp quyền, lấy lợi ích của nhân dân làm trung tâm của mọi chủ
trương, chính sách.
Ngày nay, Ninh Bình là một tỉnh
có nền kinh tế phát triển khá toàn diện, thu hút sự quan tâm quốc tế, đặc biệt trong
lĩnh vực du lịch.
Từ góc độ văn hóa, dân chủ thể
hiện là nền văn hóa của dân, do dân và vì dân. Người dân vừa là chủ thể vừa
là khách thể của văn hóa, vừa là người sáng tạo vừa là người thụ hưởng các giá
trị văn hóa. Nền văn hóa giàu bản sắc của Ninh Bình, với sự đóng góp của quần
chúng nhân dân, đóng vai trò quan trọng trong việc định vị Ninh Bình trên bản đồ
văn hóa Việt Nam. Từ các công trình tôn giáo, di tích lịch sử đến các lễ hội truyền
thống, văn hóa Ninh Bình không chỉ là sự kết tinh của quần chúng nhân dân mà
còn là điểm nhấn đặc sắc trong sự phát triển văn hóa của quốc gia. Bên cạnh
dòng văn hóa bác học, văn hóa dân gian Ninh Bình là sản phẩm kết tinh của quần
chúng nhân dân lao động trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, điều kiện
kinh tế - xã hội đặc trưng của một vùng đất nằm ở cực Nam đồng bằng châu thổ
Bắc Bộ. Kho tàng di sản văn hóa tại Ninh Bình, dù tồn tại ở dạng vật thể hay
phi vật thể đều mang dấu ấn của chủ thể sáng tạo đó là nhân dân lao động Ninh
Bình.
Tinh thần dân chủ được thể
hiện qua sự gắn kết giữa cá nhân, gia đình và làng xã trong quá trình phát
triển. Làng xã Việt Nam, đặc biệt ở Ninh Bình, phản ánh sự độc lập tự chủ
trong mối quan hệ với Nhà nước phong kiến. Nhà nước chỉ can thiệp vào các vấn
đề như thu thuế, bắt lính, kiểm soát dịch bệnh và xử lý án lớn. Những việc khác
thuộc quyền tự trị của làng xã. Mỗi làng có sự tự cung tự cấp và quy định cụ
thể trong hương ước, từ phong tục tập quán đến lễ hội dân gian.
Ngày nay, giá trị dân chủ là
nền tảng để Ninh Bình thực hiện thành công nhiều chính sách kinh tế, xã hội mà
điển hình là phong trào xây dựng nông thôn mới. Người dân tham gia tích cực vào
các dự án phát triển địa phương, đóng góp công sức và tài chính để xây dựng cơ
sở hạ tầng và nâng cao chất lượng cuộc sống. Tính cộng đồng và đoàn kết trong
quá trình phát triển là minh chứng rõ nét cho tinh thần dân chủ mạnh mẽ của
người dân Ninh Bình, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của địa phương
trong thời kỳ hiện đại.
1.3. Giá trị nhân văn
a) Khái niệm
Khái niệm “nhân văn” trong
tiếng Việt tương đương với “humanity” (tiếng Anh) và bắt nguồn từ từ “humanus”
trong tiếng La-tinh, có nghĩa là “thuộc về con người”. Tư tưởng nhân văn phát
triển từ phong trào Phục hưng châu Âu, đề cao giá trị con người, tự do và hạnh
phúc cá nhân, với các nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong xã hội. Nhân văn
nhấn mạnh vào sự tốt đẹp, hài hòa trong đời sống xã hội: “Nhân văn chính là
biểu hiện bản chất con người, luôn hướng đích đến sự hoàn thiện, hướng đến chân
- thiện - mĩ. Giá trị nhân văn vừa là những giá trị mang yếu tố tinh thần, có
sức lan tỏa mạnh mẽ, vừa góp phần tạo ra những giá trị vật chất cho sự phát
triển kinh tế - xã hội”[14].
Giá trị nhân văn thể
hiện tình yêu thương, sự tôn trọng và đề cao các vẻ đẹp con người, cũng như
việc thúc đẩy quá trình giải phóng, phát triển và hoàn thiện con người trên
phương diện cá nhân và xã hội. Giá trị nhân văn chính là sự chắt lọc
những gì tinh tuý nhất, khái quát nhất và mang tính đặc thù chủ quan của chủ
thể sáng tạo ra nó. Đồng thời nó được xã hội thừa nhận và tôn vinh.
b) Biểu hiện của giá trị
nhân văn
Giá trị nhân văn trong văn hóa
Việt Nam xuất hiện từ rất sớm và phản ánh lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc.
Nó thể hiện sự yêu thương, tôn trọng con người và niềm tin vào phẩm giá cao quý
của mỗi cá nhân. Những giá trị này làm nền tảng cho xã hội, từ lòng nhân ái,
tình đoàn kết đến sự đấu tranh bảo vệ lẽ phải. Tình yêu thương và sự đồng cảm
giữa con người trở thành nét đẹp đặc trưng, hình thành các mối quan hệ gia đình
và cộng đồng bền vững. Người Việt luôn khoan dung, tôn trọng phẩm giá và đấu
tranh bảo vệ những giá trị cao đẹp. Các giá trị này không chỉ là tình yêu
thương mà còn là sự bảo vệ quyền con người và khát vọng hòa bình. Nhờ đó, văn
hóa Việt Nam phát triển theo hướng hòa hợp, tiến bộ và gắn kết với các giá trị
nhân văn toàn cầu.
Giá trị nhân văn là một trong
những nét đẹp nổi bật trong văn hóa Ninh Bình. Người dân nơi đây luôn đặt tình
yêu thương và nhân ái làm nền tảng cho các mối quan hệ, giúp đỡ lẫn nhau trong
cuộc sống. Tinh thần trọng tình cảm trở thành triết lý sống, khuyến khích các
thành viên trong gia đình hòa thuận, hiếu thảo và gắn bó với nhau, thể hiện qua
truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.
Trong gia đình, người Ninh Bình
coi trọng tình thân và trong quan hệ họ hàng, tình yêu thương và đùm bọc trở
thành quy tắc sống. “Anh em như thể tay chân/Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ
đần”; vợ chồng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, xây dựng gia đình đầm ấm: “Kể
chi trời rét đồng sâu/Có chồng, có vợ rủ nhau đi bừa…”, “Anh lên Tam
Điệp, anh men non Trình/Củi than nhem nhuốc với tình/Ghi lời vàng đá xin mình
chớ quên”. Người Ninh Bình xem láng giềng như anh em, hỗ trợ lẫn nhau trong
mọi hoàn cảnh: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, “Anh em Bồng
Hải, đạo ngãi Kim Sơn”.
Tinh thần nhân văn còn thể hiện
qua việc trân trọng phẩm giá con người và lên án cái xấu, cái ác. Người Ninh
Bình có thái độ khoan dung, bao dung với những người lầm đường lạc lối. Trong
quá trình giao tranh, Đinh Bộ Lĩnh, một biểu tượng cao đẹp của con người Ninh Bình,
luôn có tư tưởng đối xử khoan dung, ông kiên trì quan điểm không trả thù với
những người thua cuộc. Trái lại, phải thu phục họ, sử dụng và khuyến khích họ
đem tài năng phục vụ bộ máy chính quyền của mình, để xây dựng quốc gia hùng mạnh.
Điển hình là các trường hợp như Phạm Bạch Hổ, Ngô Nhật Khánh…
Trong văn hóa Ninh Bình, tình
yêu thương của con người còn được thể hiện qua sự cảm thông đối với những khó khăn,
vất vả của con người. “Lá lành đùm lá rách”, “Thương người như thể thương
thân”.
Trong nạn đói khủng khiếp năm
1945, Ninh Bình ghi nhận 37.939 người chết đói, nhưng Ninh Bình vẫn tích cực
đóng góp cho kháng chiến, cho công cuộc cứu đói của Nhà nước. Tháng 9 năm
1945, khi Pháp xâm lược Nam Bộ, chỉ “sau 20 ngày, nhân dân Ninh Bình đã góp
được 213.905 đồng, Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh tiết kiệm 8.960 đồng, đóng góp
vào quỹ Nam Bộ kháng chiến”[15].
Và “Từ ngày 17 đến ngày 24/9/1945, nhân dân trong tỉnh đóng góp 105 lạng vàng,
1.200.000 đồng vào Quỹ độc lập”[16].
Thực dân Pháp mở rộng xâm lược
ra cả nước, nhân dân nhiều tỉnh phải tản cư. Người dân Ninh Bình đã thể hiện
tinh thần tương thân tương ái, đón nhận đồng bào các địa phương khác tản cư đến
Ninh Bình. Năm 1947 đã “có 3 vạn đồng bào từ thành phố Nam Định và một số nơi
đến ở”[17]. Ngày
10/02/1947, Bộ Canh Nông chủ trì Hội nghị Điền chủ tại nhà ông Quách Đình Hy
ở làng Sào Thượng, xã Lạng Phong, huyện Nho Quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về
dự. Tại hội nghị, về vấn đề tản cư, di cư của nhân dân vùng địch hậu ra vùng
tự do, Hội nghị đã kêu gọi các điền chủ hãy nhận về các đồn điền giúp họ công
ăn, việc làm. Ngay sau hội nghị, người Ninh Bình “đã nhận giúp đỡ 885 đồng bào,
góp 48 tấn thóc, 110 mẫu ruộng ủng hộ cho đồng bào tản cư”[18]. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, Ninh
Bình đã “tổ chức và nuôi dưỡng 1.480 thương binh, bệnh binh nặng từ chiến
trường trở về; đỡ đầu nuôi dạy hơn 4.000 con em của tỉnh Quảng Bình và Vĩnh
Linh (Quảng Trị) - tuyến lửa anh hùng ra học tập tại tỉnh Ninh Bình”[19].
Trong suốt hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Ninh Bình vẫn thực hiện tốt nghĩa vụ hậu phương
với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Riêng “Từ
năm 1965 đến năm 1975, nhân dân Ninh Bình đã đóng góp hàng chục vạn tấn lương
thực, thực phẩm chi viện cho cách mạng miền Nam”[20].
Trong giai đoạn hiện nay, dù
giữa sự phức tạp của nền kinh tế thị trường, nhiều người dân Ninh Bình vẫn
luôn yêu thương, chia sẻ và bao dung. Hoạt động nhân đạo, từ thiện được thực
hiện thường xuyên. Hằng năm các chiến dịch hiến máu lớn được tổ chức, thu hút
đông đảo nhân dân tham gia. Và “từ năm 2017 đến năm 2022 tỉnh Ninh Bình thực
hiện vận động Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa và an sinh xã hội” với tổng số tiền trên 74
tỷ đồng. Nguồn Quỹ trên đã kịp thời hỗ trợ xây dựng mới và sửa chữa 935 nhà
tình nghĩa, nhà đại đoàn kết cho hộ chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo;… hỗ trợ
xây dựng Nhà khách Điện Biên Phủ, ủng hộ các nước gặp thiên tai, dịch bệnh
(Lào, Thổ Nhĩ Kỳ và Xy-ri)… với số tiền hỗ trợ trên 55 tỷ đồng”[21]. Trong giai đoạn dịch
Covid-19 diễn ra, “Ninh Bình đã huy động được 96,9 tỷ đồng, đóng góp vào Quỹ
phòng, chống dịch Covid-19. Trong đó, đóng góp bằng tiền là 67,9 tỷ đồng; đóng
góp bằng hiện vật: Trang thiết bị, vật tư y tế; lương thực, thực phẩm, nhu yếu
phẩm khác trị giá là 29 tỷ đồng”[22].
Như vậy, trong suốt chiều dài
lịch sử cho đến ngày nay, giá trị nhân văn luôn luôn là dòng chảy nổi bật trong
văn hóa Ninh Bình. Đó cũng là niềm tự hào của người Ninh Bình trong công cuộc chống
ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng đất nước, quê hương.
1.4. Giá trị hòa hợp
a) Khái niệm
Trong tiếng Anh, hòa hợp:
Harmony, được định nghĩa là: “Sự đồng thuận về ý tưởng, cảm xúc hoặc hành động,
hoặc là sự kết hợp hài hòa của các thành phần khác nhau”[23]. Theo Từ điển tiếng Việt thì “Hòa hợp:
Hợp lại thành một khối do có sự hài hòa với nhau”[24].
Như vậy, hòa hợp là khái niệm
mô tả sự hài hòa giữa các yếu tố hoặc thành phần khác nhau trong xã hội, tự
nhiên hoặc bất kỳ hệ thống nào; thể hiện sự thống nhất mà trong đó các yếu tố
khác biệt cùng tồn tại và phát triển, không xung đột nhau.
Hòa hợp không chỉ là việc tồn
tại song song của các nền văn hóa mà còn là sự thấu hiểu, tôn trọng và chia sẻ
các giá trị, tập quán và truyền thống khác nhau. Sự hòa hợp văn hóa thúc đẩy sự
đa dạng, tạo ra môi trường nơi mà các nhóm khác nhau có thể giao lưu, học hỏi
lẫn nhau mà không dẫn đến xung đột hay phân biệt.
Như vậy, giá trị hòa hợp trong
văn hóa là giá trị thể hiện những ý nghĩa sự hợp lại giữa các nhóm, các yếu tố,
các nền văn hóa khác nhau thành một thể thống nhất, hài hoà với nhau trong một cộng
đồng, quốc gia, hoặc trên toàn cầu.
b) Biểu hiện của giá trị hòa
hợp
Hòa hợp có cội rễ sâu xa từ
trong phương thức sinh tồn (phương thức tổ chức xây dựng và quản lý điều hành
các công trình thủy lợi - yếu tố sống còn của nền sản xuất nông nghiệp trồng
lúa nước nói riêng, yêu cầu cố kết chống thiên tai nói chung; yêu cầu đoàn kết chống
giặc ngoại xâm...) và từ trong phương thức tổ chức xã hội truyền thống (căn bản
dựa trên các cộng đồng gia đình, dòng tộc, làng, liên làng). Trải qua hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần hòa hợp, ý thức cộng đồng trở thành
giá trị văn hoá chủ đạo của người Ninh Bình cũng như của dân tộc Việt Nam.
Có thể thấy, trong văn hóa Ninh Bình, giá trị hòa hợp được biểu hiện trên mấy
phương diện: hòa hợp giữa con người với con người, hòa hợp giữa con người với
xã hội và hòa hợp giữa con người với tự nhiên.
Thứ nhất, sự hòa hợp giữa
con người với con người. Đó là sự đoàn kết, sẻ chia và gắn bó mạnh mẽ giữa
những người Ninh Bình cả trong và ngoài nước. Trải qua các giai đoạn lịch sử,
từ cuộc đấu tranh chống ngoại xâm đến công cuộc chinh phục và cải tạo thiên
nhiên, cư dân Ninh Bình đã phát triển giá trị đoàn kết như một phần thiết yếu
của văn hóa. Vào thế kỷ X, người Ninh Bình đã tập hợp xung quanh Đinh Bộ Lĩnh
để cùng dẹp loạn và thống nhất quốc gia dân tộc. Đây là một trong những biểu
hiện rõ nét của sự hòa hợp giữa con người với con người, khi họ cùng chung
tay vượt qua thử thách để bảo vệ độc lập của đất nước.
Năm 980, khi Thập đạo tướng
quân Lê Hoàn lên ngôi, nhân dân kinh đô Hoa Lư và phần lớn triều đình đã thể
hiện tinh thần đoàn kết, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Sự đoàn kết này đã
giúp họ tôn vinh Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đồng thời chuẩn bị và tiến hành
cuộc kháng chiến chống lại nhà Tống thành công. Đây là minh chứng rõ ràng cho
giá trị hòa hợp, khi không có sự chuyển giao hoà bình giữa hai triều đại, đất
nước khó có thể duy trì nền độc lập và phát triển mạnh mẽ như vậy.
Vào thế kỷ XIII, trong cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, người Ninh Bình một lần nữa đoàn kết với
triều đình nhà Trần, cung cấp lương thực, vũ khí và bảo vệ lực lượng kháng
chiến. Những hành động này đã đóng góp quan trọng vào thắng lợi chung của dân
tộc, thể hiện sự hòa hợp trong ý thức chung của người dân, luôn sẵn sàng đứng
lên bảo vệ quê hương, đất nước.
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn,
tinh thần đoàn kết của người dân Ninh Bình được phát huy mạnh mẽ. Ngay từ khi
khởi nghĩa bùng nổ, nhiều người dân nơi đây đã hăng hái tham gia và trở thành
những nghĩa sĩ kiên cường. Những cá nhân như Mai Tuyên, Trần Dinh, Trần Kỳ đã
có những đóng góp to lớn cho sự thành công của cuộc khởi nghĩa và triều đại Lê
sơ sau này.
Khi đối diện với quân Mãn Thanh
ở thế kỷ XVIII, tinh thần đoàn kết, hòa hợp một lần nữa được thể hiện qua sự
đoàn kết của nhân dân Ninh Bình cùng nghĩa quân Tây Sơn lập phòng tuyến chiến
lược Tam Điệp - Biện Sơn. Nơi đây không chỉ ngăn chặn bước tiến quân thù mà còn
là điểm xuất phát cho cuộc tấn công giải phóng Thăng Long, mang lại hòa bình
cho đất nước trong Tết Kỷ Dậu 1789.
Thời kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, truyền thống đoàn kết của nhân dân Ninh Bình
tiếp tục được phát huy mạnh mẽ. Trong kháng chiến chống Pháp, Ninh Bình là căn
cứ cách mạng quan trọng với chiến khu Quỳnh Lưu, nơi nhân dân cùng nhau chiến
đấu và bảo vệ quê hương. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Ninh Bình
không chỉ là hậu phương vững chắc mà còn cung cấp lương thực, vũ khí và sức
người cho chiến trường miền Nam. Tinh thần đoàn kết đó còn được thể hiện qua
việc Ninh Bình tổ chức và nuôi dưỡng 1.480 thương binh, bệnh binh nặng từ chiến
trường trở về, cũng như đỡ đầu, nuôi dưỡng hơn 4.000 con em của tỉnh Quảng
Bình và Vĩnh Linh (Quảng Trị)[25].
Tinh thần hòa hợp và ý thức
cộng đồng giúp nhân dân Ninh Bình vượt qua những thử thách khắc nghiệt của
thiên nhiên, cùng nhau đoàn kết khai phá, cải tạo đất đai, thau chua rửa mặn,
đắp đê trị thủy, dựng nên những cánh đồng, làng mạc trù phú. Nhờ đó, con người
Ninh Bình ý thức được mình thuộc về một địa phương, ý thức về cách sống, cũng
như quyền lợi và nghĩa vụ của mình trước cộng đồng.
Trong giai đoạn hiện nay, tinh
thần hòa hợp, ý thức cộng đồng của người Ninh Bình tiếp tục được phát huy.
Khối đoàn kết trong Đảng bộ, chính quyền, nhân dân tỉnh Ninh Bình luôn được
củng cố. Các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, nhất là cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, phong trào “Vì
người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau” được thực hiện có hiệu quả. Chính
sự đoàn kết là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thành công của Ninh Bình
hiện nay.
Không dừng lại ở mức độ cộng
đồng địa phương, tinh thần đoàn kết và hòa hợp ở Ninh Bình đã vượt ra ngoài
phạm vi quốc gia. Người dân Ninh Bình không chỉ tham gia vào các hoạt động
quyên góp, hiến máu nhân đạo mà còn hỗ trợ các nạn nhân của thiên tai, chất
độc màu da cam và cùng chung tay trong cuộc chiến chống lại đại dịch toàn cầu,
như đại dịch Covid-19…
Thứ hai, hòa hợp giữa con
người với xã hội. Đó là sự cộng sinh, cộng tồn, sự dung hòa giữa các tín
ngưỡng, tôn giáo, và tộc người trong suốt chiều dài lịch sử.
Ninh Bình là nơi hội tụ của
nhiều tôn giáo lớn như Phật giáo, Công giáo và Đạo giáo. Trong đó, Phật giáo đã
có mặt và phát triển từ rất sớm, đặc biệt là vào thời Đinh - Tiền Lê, khi Kinh
đô Hoa Lư trở thành một trung tâm lớn của Phật giáo. Những ngôi chùa lớn được
xây dựng từ thời ấy như chùa Nhất Trụ, nơi còn lưu giữ cột kinh Phật bằng đá do
Vua Lê Đại Hành cho dựng, đã trở thành di sản văn hóa và lịch sử quan trọng
của quốc gia. Các hiện vật độc bản này không chỉ có giá trị tôn giáo mà còn là
biểu tượng cho sự giao thoa giữa Phật giáo và văn hóa bản địa, được người dân
Ninh Bình gìn giữ qua nhiều thế hệ. Điều này thể hiện rõ ở việc “bộ sưu tập
Cột kinh Phật thời Đinh và Cột kinh Phật chùa Nhất Trụ” đã được công nhận là
Bảo vật quốc gia.
Hiện nay, Phật giáo tại Ninh
Bình vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tôn giáo và văn hóa của người
dân. Với số lượng lớn tín đồ và các chùa, Phật giáo không chỉ là nơi thực hành
tôn giáo mà còn tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, góp phần phát triển
cộng đồng.
Phật giáo ở Ninh Bình cũng như
ở Việt Nam không phải là Phật giáo lánh đời mà nhập thế tích cực, đồng hành,
đóng góp tích cực vào sự phát triển của quê hương, đất nước. Phật giáo ở Ninh
Bình có sự dung hợp, hòa hợp với văn hóa, tín ngưỡng truyền thống, bản địa.
Điều này thể hiện rõ trong kiến trúc các ngôi chùa, lễ nghi, lễ hội tại các
chùa và trong sinh hoạt của tăng ni, Phật tử tại Ninh Bình. Phật giáo ở Ninh
Bình phần lớn theo truyền thống Đại chúng bộ (Bắc truyền, Đại thừa). Mặc dù tồn
tại các phái Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông nhưng giữa các phái này dung
hợp hài hòa với nhau đến mức nhiều khi không có sự phân biệt rạch ròi.
Đạo giáo ở Ninh Bình có nguồn
gốc lâu đời và ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa và đời sống con người Ninh Bình.
Các vị thần của Đạo giáo được tôn thờ ở nhiều nơi, trong đó nổi bật nhất là
Động Thiên Tôn (thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư). Bản thân danh từ “Thiên Tôn”
cũng đã mang màu sắc Đạo giáo. Có ý kiến cho rằng cái tên động Thiên Tôn chính
là lấy từ tên hiệu của các vị thần tối cao của Đạo giáo (Ngọc Thanh Nguyên
Thuỷ Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn
(còn được gọi là Thái Thượng Lão Quân)).
Thần tích làng Bích Đào, làng
Đại Phong, Tổng Yên Phong huyện Gia Khánh tỉnh Ninh Bình, vào ngày 10 tháng 3
năm Tự Đức 6 (1853), cho biết Thần nguyên là hoàng tử nước Tịnh Lạc, sinh năm
625, tên là Huyền Nguyên. Lớn lên hoàng tử vào núi Dũng Đương (tức núi động
Thiên Tôn) tu luyện suốt 42 năm trời, khi đắc đạo có thể bay lượn, biến hóa,
diệt trừ tà ma quỷ quái. Khi vùng đất Ninh Bình nổi lên nhiều giặc cướp, yêu ma
hại người, Thần Thiên Tôn vâng mệnh Ngọc hoàng truy diệt chúng suốt từ Gián
Khẩu xuống Đa Giá, Cam Giá, Đại Đăng... Sau đó thần phóng gươm ở dưới núi Cánh
Diều rồi hóa.
Truyền thuyết địa phương còn
cho biết, Đinh Bộ Lĩnh đã từng vào động Thiên Tôn cầu thần phù trợ cho việc dẹp
loạn, thống nhất đất nước. Sau khi lên ngôi, Vua Đinh Tiên Hoàng sắc phong thần
là “An Quốc Tôn Thần” và xây dựng các công trình thờ cúng. Các triều đại sau như
Lý và Trần tiếp tục sắc phong và bảo vệ đền thờ thần Thiên Tôn.
Ngay từ thế kỷ X, Vua Đinh Tiên
Hoàng đã lập chức vụ Sùng Chân Uy Nghi để quản lý Đạo giáo trên cả nước, cho thấy
thời gian này Đạo giáo đã rất phát triển và có ảnh hưởng lớn trong chính trị và
đời sống tâm linh của Đại Việt cũng như vùng đất Ninh Bình.
Vào thế kỷ XI, thiền sư Nguyễn
Minh Không không chỉ nổi danh là một nhà tu hành Phật giáo mà còn được xem như
một đạo sĩ với nhiều năng lực siêu nhiên. Việc ông chữa khỏi bệnh “hóa hổ” cho
vua Lý Thần Tông, khả năng đi trên mặt nước, tiêu diệt yêu ma và điều khiển
thiên nhiên… mang đậm dấu ấn của Đạo giáo. Ông tu luyện tại núi Bái Đính, nơi
lập vườn thuốc Sinh Dược, trồng thuốc chữa bệnh và tìm cách kéo dài tuổi thọ
cho con người - một trong những phương pháp tu luyện điển hình của Đạo giáo
nhằm đạt được trường sinh bất lão.
Đạo giáo, với triết lý hòa hợp
giữa con người và tự nhiên, thể hiện rõ trong các nghi lễ cầu an, trừ tà và
cầu phúc. Các nghi lễ này được người Ninh Bình cũng như nhiều địa phương khác
dung hợp vào các nghi lễ của Phật giáo. Thậm chí Phật giáo coi đó là phương
tiện để đưa giáo lý của Đức Phật đến với người dân.
Ngoài ra, ảnh hưởng của Đạo
giáo đối với văn hóa, con người Ninh Bình được thể hiện qua ba tín ngưỡng: tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng. Đây là những
tín ngưỡng mang đậm màu sắc của Đạo giáo, thể hiện niềm tin và sự ngưỡng mộ
của con người vào các lực lượng thần bí siêu nhiên. Người Ninh Bình tin rằng,
những lực lượng ấy có ảnh hưởng, chi phối đời sống, số phận con người và tạo
thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng ấy. Sự hòa quyện giữa các
tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống này cho thấy rõ sự giao thoa hài hòa giữa
các tôn giáo và tín ngưỡng trong văn hóa Ninh Bình.
Không chỉ ở lĩnh vực tôn giáo,
sự hòa hợp còn thể hiện rõ trong cộng đồng các dân tộc tại Ninh Bình. Nơi đây
là mái nhà của nhiều dân tộc thiểu số, trong đó chủ yếu là người Mường. Ninh Bình
là nơi sinh sống của nhiều tộc người khác nhau, trong đó người Kinh chiếm đa
số (97%). Người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 3% dân số toàn tỉnh (trong đó chủ
yếu là dân tộc Mường, chiếm tới 98,56%).
Người Mường ở Nho Quan vẫn giữ
gìn những giá trị bản sắc dân tộc do ông cha truyền lại với nhiều nét văn hóa truyền
thống cần được bảo tồn, lưu giữ như: dân ca, các trò chơi dân gian, đánh cồng
chiêng, các phong tục tập quán bản địa. Dân ca là một nét đặc sắc trong văn hóa
của người Mường, thể hiện sự phong phú về giai điệu, nội dung và hoàn cảnh
biểu diễn. Người Mường hát dân ca trong nhiều dịp, từ lao động, ru con, lễ hội,
đến tỏ tình hay gặp gỡ bạn bè. Các làn điệu dân ca phổ biến bao gồm Hát Xắc
bùa, Rằng thường, Bộ mẹng và Ví đúm. Người Mường Ninh Bình còn có các hình thức
hát đặc trưng khác như Đập hoa, hát Đố, hát Mo và hát Mỡi trong trò chơi “Đánh mảng”.
Các tộc người thiểu số ở Ninh
Bình (nhất là người Mường) vẫn giữ gìn nhiều phong tục tập quán truyền thống
của dân tộc mình, nhưng đồng thời cũng có sự giao thoa với văn hóa của người
Kinh, tạo nên sự phong phú và đa dạng trong đời sống văn hóa của địa phương.
Không có sự phân biệt hay xung đột giữa các cộng đồng dân tộc, mà ngược lại, sự
hòa hợp giữa các dân tộc đã trở thành nét đặc trưng của vùng đất này. Họ chia
sẻ nhiều yếu tố chung về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu, thờ phụng các vị
thần bảo hộ làng bản, nghi thức cưới hỏi, tang ma. Người Mường cũng tiếp nhận kiểu
kiến trúc nhà đất của người Kinh, nhưng vẫn giữ lại các yếu tố văn hóa bản địa
như cách bố trí không gian và sinh hoạt trong gia đình. Ngược lại, các sinh
hoạt văn hóa, nhất là lễ hội của người Kinh ở Ninh Bình vẫn có sự tham gia
đông đảo của người Mường, các tộc người khác, thể hiện tinh thần đoàn kết trong
đa dạng. Các lễ hội của người Mường như lễ hội xuống đồng, lễ hội cồng chiêng
không chỉ là dịp để người Mường thể hiện bản sắc văn hóa của mình mà còn là cơ
hội để người Kinh và các tộc người khác cùng tham gia, trải nghiệm và giao lưu
văn hóa.
Như vậy, sự hòa hợp trong văn
hóa Ninh Bình được thể hiện trên nhiều phương diện, không chỉ là sự chung sống
giữa các tôn giáo mà còn là sự dung hợp giữa các tộc người và văn hóa. Từ sự
giao thoa giữa Phật giáo, Đạo giáo đến sự hòa quyện trong đời sống văn hóa của
người Mường và người Kinh, tất cả đã tạo nên một cộng đồng Ninh Bình đoàn kết, đa
dạng và giàu bản sắc.
Thứ ba, hòa hợp giữa con
người với tự nhiên, thể hiện thái độ tận dụng và ứng phó với tự nhiên, tạo
ra “thiên nhiên thứ hai” nhưng lại rất hài hòa với “thiên nhiên thứ nhất”.
Trong bối cảnh địa lý và môi
trường tự nhiên đa dạng với sự kết hợp giữa đồng bằng, miền núi và ven biển,
Ninh Bình là nơi có sự hình thành của nhiều loại hình cư trú khác nhau. Các
làng, xóm ở Ninh Bình không chỉ hòa hợp với nhau về mặt địa lý mà còn là kết
quả của sự phát triển từ các nền tảng kinh tế - văn hóa địa phương. Cư dân
sinh sống ở đây tạo ra các làng xóm nhỏ, có quy mô khác nhau, với dân số từ vài
trăm đến hàng nghìn người, phân bố rải rác khắp các vùng đồng bằng, trung du và
ven biển.
Nét độc đáo trong sự phát triển
của các làng ở Ninh Bình là sự tồn tại của ba loại hình làng truyền thống:
làng đồng bằng, làng miền núi và làng ven biển. Ở mỗi loại hình làng, tên gọi
thường phản ánh rõ nét đặc điểm tự nhiên và môi trường sinh thái của khu vực
cư trú. Điều này thể hiện qua việc các làng có những đặc trưng về sản xuất nông
nghiệp hoặc thủ công nghiệp, như làng nghề chế tác đá ở Ninh Vân (huyện Hoa
Lư), làng nghề thêu ren ở Ninh Hải (huyện Hoa Lư), và nghề chế tác cói ở Kim
Sơn. Đây chính là sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, khi cư dân ở mỗi
làng tận dụng điều kiện tự nhiên để phát triển nghề truyền thống và kinh tế địa
phương.
Làng truyền thống ở Ninh Bình
không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa đồng bằng Bắc Bộ mà còn chứa đựng dấu ấn văn
hóa địa phương, tạo ra sự đa dạng trong văn hóa nông thôn. Một đặc trưng riêng
của Ninh Bình là "văn hóa lấn biển", đặc biệt ở các làng ven biển
Kim Sơn, bên cạnh các loại hình văn hóa lúa nước và văn hóa làng xã đặc trưng
của miền Bắc Việt Nam. Đây là minh chứng cho sự dung chứa và hài hòa giữa các
yếu tố địa lý và văn hóa, giữa làng miền núi, đồng bằng và ven biển.
Sự hòa hợp giữa con người và
thiên nhiên còn được thể hiện qua kiến trúc, điêu khắc và các công trình văn
hóa vật thể ở Ninh Bình. Các công trình như đình, đền, chùa không chỉ là nơi
thờ cúng mà còn là không gian văn hóa cộng đồng, hòa quyện với cảnh quan tự
nhiên xung quanh. Đặc biệt, các đình, đền, chùa ở Ninh Bình thường nằm gần các
vị trí quan trọng như núi, sông hoặc vùng đất cao, góp phần tạo nên một cảnh
quan hài hòa, thanh bình. Ví dụ, chùa Bái Đính nổi tiếng được xây dựng giữa
cảnh núi non hùng vĩ, hòa mình vào thiên nhiên để tạo ra không gian yên bình
cho những ai đến chiêm bái và cầu nguyện.
Đền thờ Vua Đinh, Vua Lê ở Cố
đô Hoa Lư cũng là những minh chứng tiêu biểu cho sự giao thoa và hòa hợp giữa
kiến trúc cung đình và dân gian. Đặc biệt, kiến trúc của đền thờ Vua Đinh mang
đậm phong cách cung đình, với những chi tiết chạm khắc tinh xảo, đồng thời vẫn
giữ được nét giản dị, mộc mạc từ kiến trúc làng xã truyền thống. Các chi tiết
như mái cong, cột đá chạm khắc hoa văn trong đền đều mang tính biểu tượng, thể
hiện sự dung hòa giữa quyền lực cung đình và văn hóa dân gian, một sự kết nối
giữa con người và môi trường tự nhiên. Điển hình cho sự giao thoa văn hóa này
là hình tượng Long sàng trong đền thờ Vua Đinh. Long sàng, biểu tượng của
quyền lực hoàng gia, được làm từ đá - một vật liệu phổ biến ở Ninh Bình, vừa
thể hiện sự uy nghiêm của cung đình, vừa mang đậm nét dân gian qua các họa
tiết chạm khắc. Điều này phản ánh sự hài hòa giữa cung đình và văn hóa địa
phương, giữa thiên nhiên và con người.
Đền thờ Thánh Nguyễn Minh Không
cũng là một minh chứng cho sự kết hợp hài hòa giữa tín ngưỡng dân gian và Phật
giáo. Về mặt kiến trúc, đền Thánh Nguyễn có nhiều nét tương đồng với các ngôi
chùa Phật giáo, với cổng tam quan và sân vườn rộng. Các chi tiết trang trí bên
trong đền, như cột, mái ngói và phù điêu chạm trổ, đều mang đậm phong cách nghệ
thuật dân gian, phản ánh sự linh hoạt trong tín ngưỡng của người dân Ninh Bình
và sự hòa quyện giữa thiên nhiên và tôn giáo.
Nhà thờ Công giáo ở Ninh Bình
cũng là một ví dụ điển hình cho sự kết hợp giữa kiến trúc phương Tây và yếu tố
kiến trúc truyền thống Việt Nam. Nhà thờ Công giáo ở Ninh Bình được xây dựng từ
sớm (năm 1627)[26]. Theo
số liệu thống kê thì đến năm 2021, tại tỉnh Ninh Bình có Tòa Giám mục Phát Diệm
với 77 giáo xứ, 348 giáo họ, 315 nhà thờ, nhà nguyện. Các nhà thờ Công giáo tại
Ninh Bình thể hiện sự kết hợp tinh tế giữa kiến trúc phương Tây và yếu tố kiến
trúc truyền thống Việt Nam. Đặc biệt, các nhà thờ có bộ khung gỗ cổ truyền tạo
nên sự độc đáo, như nhà thờ Phát Diệm, Hiếu Thuận và Dưỡng Điềm... Hầu hết các
nhà thờ này mang phong cách “thuần Nam” với kiến trúc chịu ảnh hưởng từ đình,
chùa Việt Nam: mái dốc, đầu đao cong, và hệ khung gỗ với các chi tiết chạm khắc
hoa văn. Bố cục tổng thể của các nhà thờ cũng theo nguyên tắc của kiến trúc
đình làng Việt, với mặt bằng hình chữ nhật, cửa chính nằm ở đầu hồi, và hướng
nhà thờ chủ yếu về phía Nam hoặc Đông, tương tự với các đình làng Việt.
Các nhà thờ này cũng tuân theo
quan niệm phong thủy truyền thống của người Việt, với hồ nước phía trước
tượng trưng cho “minh đường” và phía sau có “núi”, tạo sự hài hòa với thiên
nhiên. Tiêu biểu là Nhà thờ Phát Diệm. Phương Đình của nhà thờ này có kiến
trúc vuông, tượng trưng cho sự giao hòa giữa yếu tố “trời tròn, đất vuông”
trong triết lý truyền thống Á Đông. Mặc dù các yếu tố phương Tây vẫn hiện diện,
sự hòa quyện với kiến trúc Việt Nam làm nổi bật nét mềm mại và truyền thống.
Phần lớn các nhà thờ có khung
gỗ ở Ninh Bình, ở phần lối vào nhà thờ thường được thiết kế giống như tam quan
(hoặc ngũ quan) của đình, chùa Việt. Tiêu biểu như nhà thờ Hiếu Thuận, nhà thờ
Phát Diệm, nhà thờ Khiết Kỷ… Đặc biệt, Phương Đình của Nhà thờ Phát Diệm là
tháp chuông cao 25m, mang dáng dấp kiến trúc tam quan chùa Việt, với mái ngói
và hệ con sơn gỗ, đầu đao cong đặc trưng.
Về vật liệu, các nhà thờ này sử
dụng nhiều vật liệu địa phương như gỗ, vữa vôi trộn rơm, đá và gạch, tạo nên sự
phù hợp với khí hậu và điều kiện xây dựng của Việt Nam. Kiến trúc gỗ truyền
thống của các nhà thờ này không chỉ chịu ảnh hưởng từ văn hóa phương Đông mà
còn kết hợp với các yếu tố trang trí cổ điển châu Âu, như cuốn vòm và các chi
tiết kiến trúc mang phong cách châu Âu cổ như nhà thờ Khiết Kỷ, nhà thờ Dưỡng
Điềm… Tuy nhiên, đặc trưng lớn nhất vẫn là các yếu tố trang trí truyền thống
Việt Nam như hoa sen, rồng, mây, và các đề tài về Nho giáo, Phật giáo được sử
dụng để tô điểm thêm cho các nhà thờ.
“Như vậy, nhà thờ Công giáo có
khung gỗ cổ truyền ở Ninh Bình không chỉ phong phú mà còn mang giá trị cao về
kiến trúc, thẩm mỹ và nghệ thuật. Những ngôi nhà thờ này đã tạo nên dấu ấn
riêng biệt cho kiến trúc nhà thờ Công giáo Ninh Bình, kết hợp hài hòa giữa tinh
hoa kiến trúc phương Tây và nét đẹp truyền thống Việt Nam”[27]. Quá trình bản địa hóa kiến trúc được thấy rõ
qua việc sử dụng các yếu tố văn hóa, khí hậu, kỹ thuật và vật liệu xây dựng đặc
trưng của Việt Nam. Điều này tạo nên các công trình độc đáo, thể hiện sự sáng
tạo, giao thoa, hài hòa trong văn hóa Ninh Bình.
Đặc biệt nhất là Quần thể danh
thắng Tràng An là một minh chứng điển hình cho sự hòa hợp giữa con người và
thiên nhiên, thể hiện thái độ ứng xử thông minh và sáng tạo của người xưa với
môi trường tự nhiên. Với sự kết hợp tuyệt vời giữa yếu tố thiên nhiên hùng vĩ
và di sản văn hóa đặc sắc, Tràng An không chỉ là điểm đến du lịch nổi tiếng mà
còn là di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận. Sự hòa
quyện giữa văn hóa và thiên nhiên trong Quần thể danh thắng Tràng An thể hiện
sự sáng tạo của con người khi biết tận dụng thiên nhiên để tạo nên văn hóa,
đồng thời bảo tồn môi trường sinh thái. Việc duy trì một môi trường tự nhiên ở
Tràng An, cùng với các di chỉ khảo cổ, không chỉ tôn vinh giá trị văn hóa mà
còn là minh chứng về mối quan hệ bền vững giữa con người và thiên nhiên qua
hàng ngàn năm lịch sử.
Như vậy, sự hòa hợp giữa con
người và tự nhiên được biểu hiện rõ trong văn hóa Ninh Bình, được thể hiện từ
làng xóm truyền thống đến các công trình kiến trúc, từ nền kinh tế nông nghiệp
đến các lễ hội tôn giáo. Những giá trị này không chỉ làm phong phú thêm bản sắc
văn hóa mà còn minh chứng cho sự phát triển bền vững, nơi con người luôn giữ
gìn mối quan hệ hài hòa với thiên nhiên. Điều này khẳng định rằng, hài hòa
chính là một trong những giá trị nổi bật, quan trọng của văn hóa Ninh Bình.
1.5. Giá trị tiến bộ
a) Khái niệm
Thuật ngữ “tiến bộ”, theo gốc
Latinh của từ “Progressio”, có nghĩa là sự vận động tiến về phía trước,
là khuynh hướng phát triển được đặc trưng bởi sự chuyển biến từ thấp đến cao,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
Giá trị tiến bộ là khái
niệm phản ánh những yếu tố tích cực thúc đẩy sự phát triển, cải thiện và nâng
cao trong nhiều khía cạnh khác nhau theo hướng hiện đại, văn minh và tốt đẹp
hơn. Nó bao gồm những giá trị gắn liền với sự thay đổi tích cực về kinh tế,
chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống và tạo ra một xã hội công bằng, nhân đạo và bền vững. Giá trị tiến bộ
cũng bao hàm sự tôn trọng và thúc đẩy quyền con người, dân chủ, bình đẳng, môi
trường sống tốt hơn và khả năng thích ứng với những thay đổi, đổi mới trong xã
hội.
Trong văn hóa, giá trị tiến bộ thường
là những yếu tố, đặc trưng của nền văn hóa chứa đựng những sự kết tinh của
những tinh hoa, tốt đẹp, đổi mới, phát triển và tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa từ bên ngoài, đồng thời vẫn duy trì bản sắc dân tộc.
b) Biểu hiện của giá trị
tiến bộ
Khoa học trong văn hoá là thể
hiện nền văn hóa đó được xây dựng trong môi trường văn hoá tiến bộ, xoá bỏ chủ
nghĩa kinh nghiệm, giáo điều, quan liêu, những phong tục tập quán, lối sống lạc
hậu,… góp phần xác lập tính chuyên nghiệp trong phong cách làm việc có kế hoạch,
có tinh thần trách nhiệm, tác phong công nghiệp, rèn luyện tính độc lập, tự
chủ, hợp tác trong lao động.
Khoa học là giá trị được đề cao
và nhất quán trong đường lối lãnh đạo văn hoá, văn nghệ của Đảng từ trước tới nay:
từ Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943 xác định xây dựng nền văn hoá dân chủ
với ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng (trong đó khoa học hóa - chống
lại tất cả những cái làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ), đến Nghị
quyết Trung ương 5 (khoá VIII)[28]
tinh thần và nội dung của Đề cương văn hoá được lĩnh hội, phát triển, bổ sung,
cụ thể thêm các lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống; di sản văn hoá, giáo dục
và đào tạo; khoa học và công nghệ, văn học, nghệ thuật, thông tin đại chúng,
giao lưu văn hoá với thế giới; thể chế và thiết chế văn hoá. Sau 15 năm thực
hiện, năm 2014, Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI[29] tiếp tục khẳng định “xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học”.
Trong văn hóa, giá trị khoa học
là những đặc trưng của nền văn hóa mà những đặc trưng đó hướng các hoạt động
xây dựng con người có thế giới quan khoa học, nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri
thức cho con người[30].
Khoa học là một trong những yếu tố thúc đẩy tiến bộ, mà còn có thể được coi là
cơ sở định hình và cải thiện các giá trị tiến bộ trong xã hội, hướng tới một
cuộc sống hiện đại, văn minh, công bằng và bền vững. Tiến bộ còn có ý nghĩa bảo
lưu (không chỉ là bảo tồn) những gì là nền tảng, tinh hoa, bền vững,
bên cạnh việc tiếp thu cái mới một cách sáng tạo và năng động, phù hợp với xu
thế của thời đại.
Trong văn hóa Ninh Bình, giá
trị khoa học được biểu hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất ở sự tiến bộ với ý
nghĩa trên. Ninh Bình là một vùng đất có bề dày lịch sử, gắn liền với những sự
kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ thời Hai Bà Trưng, nhà Đinh,
nhà Lê, nhà Trần cho đến phong trào Tây Sơn, nơi đây đã chứng kiến nhiều chiến thắng
vang dội. Các cuộc kháng chiến chống lại quân Nam Hán, quân Tống, quân Nguyên
Mông và quân Thanh đều có sự đóng góp quan trọng từ Ninh Bình, khẳng định vai
trò của vùng đất này trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Mặc dù trải qua
nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt, Ninh Bình hiện vẫn bảo tồn một hệ thống di
tích phong phú với nhiều di tích lịch sử và tôn giáo nổi tiếng, cùng các giá
trị thiên nhiên và văn hóa độc đáo. Những giá trị này hòa quyện với nhau, tôn
vinh giá trị toàn cầu của Di sản Quần thể danh thắng Tràng An. Ninh Bình cũng
nổi bật với các loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo như hát Đúm, hát Rằng
Thường trong cộng đồng dân tộc Mường, hát Chèo, hát Văn, hát Xẩm... Những di
sản văn hóa này đã được hình thành từ nhiều lớp trầm tích văn hóa và sự giao
thoa của ba vùng: đồng bằng sông Hồng, rừng núi Tây Bắc và duyên hải Bắc Trung
Bộ. Qua các thế hệ, cư dân nơi đây đã sáng tạo, bảo tồn và truyền tải nhiều giá
trị văn hóa đặc sắc, trong đó Cố đô Hoa Lư thể hiện tập trung giá trị văn hóa
Ninh Bình. Ninh Bình không chỉ là kho tàng phản ánh vẻ đẹp lịch sử và truyền
thống dân tộc mà còn là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa mà cha ông đã gìn giữ
qua nhiều thế hệ. Điều quan trọng là các giá trị văn hoá này không chỉ được
người dân Ninh Bình nâng niu, gìn giữ, bảo tồn mà còn coi đây như những thực
thể sống động, là tài sản vô giá mà thiên nhiên và cha ông đã trao tặng cho Ninh
Bình; đồng thời luôn ý thức việc phát huy các giá trị văn hoá đó trong các lĩnh
vực phát triển kinh tế - xã hội, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong kiến trúc, điêu khắc,
nghệ thuật, người Ninh Bình đã sáng tạo nên những công trình, tác phẩm mang giá
trị tiến bộ, mang tầm thời đại. Điểm độc đáo của kiến trúc Ninh Bình là sự kết
hợp hài hòa giữa truyền thống bản địa và những ảnh hưởng từ các nền văn hóa bên
ngoài, tạo nên bản sắc riêng biệt. Những công trình như các nhà thờ Công giáo, đền
thờ Vua Đinh, Vua Lê, đền Thánh Nguyễn là minh chứng tiêu biểu cho sự giao thoa
này.
Người dân Ninh Bình, sống trong
môi trường tự nhiên giàu núi đá vôi, đã tận dụng tài nguyên để khai phá núi,
đào sông, lấn biển, và cải tạo đầm lầy thành đồng ruộng trù phú, phát triển nền
kinh tế đa dạng. Công cuộc khai hoang ở Kim Sơn là một ví dụ điển hình cho tinh
thần sáng tạo của người dân Ninh Bình, kế thừa và phát triển kinh nghiệm khai
hoang của cha ông. Hệ thống thủy nông được hình thành trong công cuộc khẩn hoang
thành lập huyện Kim Sơn đầu thế kỷ XIX đến nay vẫn còn giá trị (đến nay ở huyện
Kim Sơn hầu như không phải sử dụng máy bơm mà việc tưới tiêu vẫn dựa vào thủy triều
theo hệ thống kênh mương để dẫn nước) cho thấy tính khoa học, tiến bộ, khoa
học, vượt thời đại của nó.
Trong hoạt động sản xuất, Ninh
Bình đã sáng tạo ra nhiều ngành nghề, trở thành cái nôi của nhiều nghề thủ
công truyền thống, được duy trì, phát triển đến tận ngày nay. Điển hình như chế
tác đá, thêu ren, nghề gốm, nghề mộc… Những làng nghề này không chỉ tạo ra sản
phẩm độc đáo mà còn thể hiện sự sáng tạo, khéo léo của người dân trong quá
trình lao động sản xuất. Những năm gần đây, Ninh Bình đã kịp thời chuyển đổi
thành công từ nền kinh tế “nâu” dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên sang
nền kinh tế “xanh” dựa trên sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Chủ trương
đúng đắn này cùng với sự sáng tạo của Ninh Bình trong phát triển kinh tế, xã
hội đã đặt nền tảng cho sự phát triển bền vững của Ninh Bình. Năm 2023, tỉnh
đón 6,6 triệu lượt khách (riêng Quần thể danh thắng Tràng An đón khoảng 4,6
triệu lượt khách), doanh thu gần 6.500 tỷ đồng. Nhiều năm liền, Ninh Bình giữ
vững vị trí trong nhóm 15 điểm đến hàng đầu, 10 tỉnh thu hút lượng khách cao
nhất trong cả nước. Trong những năm gần đây, Ninh Bình đã được công nhận bởi
nhiều tổ chức quốc tế với những danh hiệu như “Top 10 điểm đến thân thiện nhất
thế giới” hay “Một trong 23 điểm nghỉ dưỡng tuyệt vời nhất thế giới”. Ninh Bình
vẫn tiếp tục được nhiều chuyên trang du lịch uy tín (như TripAdvisor, Telegraph,
Business Insider...) đánh giá là điểm đến an toàn và hấp dẫn. Không chỉ phát
triển kinh tế, Ninh Bình còn gắn liền với việc bảo vệ môi trường và phát huy
nguồn lực văn hóa. Chính quyền tỉnh đã và đang đẩy mạnh phát triển nông nghiệp
sinh thái, kết hợp giữa bảo tồn thiên nhiên và phát triển các ngành kinh tế.
Điều này giúp duy trì bền vững tài nguyên thiên nhiên, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển du lịch.
Giá trị tiến bộ của văn hóa
Ninh Bình được thể hiện rõ nét qua những sáng tạo trong mô hình quản lý
đất nước, quản lý xã hội. Ngay từ những ngày đầu dựng nước, khi nhà Lê mới
dựng nghiệp tại kinh đô Hoa Lư, Vua Lê Đại Hành đã trù tính, hoạch định sách
lược trị quốc, an dân và thường đem các vấn đề của đất nước đàm đạo với các
nhà sư thông tuệ, trong đó có thiền sư Pháp Thuận. Bài thơ Quốc tộ của
nhà sư - tác phẩm văn học viết sớm nhất của nước ta hiện sưu tầm được - đã lần
đầu tiên xác lập một nguyên lý trị quốc an dân, một mô thức dựng xây đất nước,
bảo vệ chủ quyền từ góc nhìn uyên áo của Phật giáo để trả lời tham vấn của
nhà vua.“Vận nước như mây cuốn/Trời Nam mở thái bình/Vô vi trên điện các/Xứ
xứ hết đao binh”. Nó khác hẳn về chất so với đức trị, pháp trị của các
triều đại láng giềng Trung Quốc. Đạo pháp lấy tâm khoan hòa làm kim chỉ nam cho
kế sách lâu dài trị nước, an dân, cũng như tư tưởng về cuộc sống hoà bình và an
lạc đã đồng hành cùng với dân tộc ta trong suốt hàng nghìn năm lịch sử, mà điểm
xuất phát của tư tưởng ấy chính là từ kinh đô Hoa Lư[31].
Hiện nay, Đảng bộ, chính quyền
Ninh Bình đã có chủ trương xây dựng thành phố trực thuộc trung ương với đặc
trưng là đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo - một loại hình đô thị
hiện đại, tiến bộ, phù hợp với tiềm năng, đặc trưng của địa phương và yêu cầu
phát triển bền vững. Mô hình thành phố di sản trực thuộc trung ương là minh
chứng cho sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, tạo nên một hướng
đi mới trong phát triển đô thị gắn liền với văn hóa di sản.
Tóm lại, văn hóa Ninh Bình qua
các thời kỳ đã thể hiện rõ giá trị tiến bộ trong việc bảo tồn và phát huy các
di sản văn hóa truyền thống, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại,
trong tư duy chính trị tiến bộ, mô hình quản lý xã hội, sáng tạo nghệ thuật, và
hoạt động sản xuất… Từ một vùng đất giàu truyền thống lịch sử, Ninh Bình đang
ngày càng khẳng định vị thế tiên phong trong phát triển bền vững và hội nhập
quốc tế, góp phần tạo nên sự phát triển toàn diện của tỉnh.
2. Hệ giá trị con người Ninh
Bình
Hệ giá trị con người Việt Nam
là tổng thể các giá trị con người Việt Nam được thể hiện dưới dạng các phẩm
chất, các nguyên tắc, các lý tưởng, các triết lý được sắp xếp theo một trật tự
logic nhất định, góp phần định hình và kiến tạo, định hướng, hướng dẫn hành vi
tạo nên bản sắc, dấu ấn, đặc trưng của con người Việt Nam. Hệ giá trị con
người Việt Nam là một bộ phận cấu thành quan trọng, cơ bản, xuyên suốt trong hệ
thống nhiều hệ giá trị, được hình thành và phát triển qua quá trình phát triển
lâu dài của lịch sử, có ý nghĩa tích cực, tốt đẹp, hữu ích, thúc đẩy sự phát
triển con người và xã hội.
Hệ giá trị con người Việt Nam
được đề cập đến trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng và nhiều công trình nghiên
cứu, bài viết của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia, như: Học giả
Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, GS Trần Văn Giàu, GS Nguyễn Hồng Phong, PGS Trần
Đình Hượu, PGS Phan Ngọc…. Theo Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII (năm 1998)
thì hệ giá trị con người Việt Nam gồm: 1) Yêu nước, ý chí tự cường dân tộc; 2)
Tinh thần đoàn kết; 3) Ý thức cộng đồng (cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ
quốc); 4) Nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, trọng đạo lý; 5) Cần cù, sáng
tạo; 6) Tinh tế trong ứng xử; giản dị trong lối sống. Nghị quyết Trung ương 9,
khóa XI (năm 2014) khẳng định lại: 1) Yêu nước; 2) Nhân ái, nghĩa tình; 3)
Trung thực; 4) Đoàn kết; 5) Cần cù, sáng tạo. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã xác định hệ giá trị văn hóa của con người Việt Nam gồm: “Yêu nước, đoàn
kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo”.
Ninh Bình là vùng đất cổ, có bề
dày truyền thống lịch sử và văn hóa. Những phát hiện về dấu tích người cổ xưa
của khảo cổ học ở thung Lang (nay thuộc phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp);
khu vực động Người Xưa trong Vườn Quốc gia Cúc Phương; di chỉ Mán Bạc thuộc xã
Yên Thành, huyện Yên Mô, đã chứng minh Ninh Bình là “một trong những cái nôi
của xã hội loài người”, có quá trình định cư, quần cư liên tục. Theo PGS.TS
Đoàn Minh Huấn, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình: “Đặc sắc của địa bàn Cố đô Hoa Lư
chính là quá trình định cư, quần cư liên tục từ sau biển thoái đến ngày nay. Kể
cả sau khi nhà Lý dời đô ra Thăng Long thì vùng đất này vẫn liên tục duy trì
các hình thái quần cư đa dạng, làm cho sức sống di sản được duy trì, bồi đắp
trong đời sống sinh hoạt và sinh kế của cư dân Tràng An”[32]. Trải qua thời gian, những tác động của các
yếu tố tự nhiên (địa hình, địa lý, khí hậu…); điều kiện về lịch sử - xã hội,
đấu tranh chống ngoại xâm với tần suất liên tục và thường trực trong việc bảo
vệ sản xuất, bảo vệ mùa màng trước thiên tai, bão lũ; cùng với phương thức
sống, sản xuất, sinh tồn, các thế hệ cư dân nơi đây đã kiến trúc, hun đúc, tạo
dựng, sáng tạo, lưu truyền, lan tỏa hệ giá trị, chuẩn mực con người Ninh Bình
phong phú, độc đáo, đặc sắc.
Là một trong cái nôi của người
Việt, chứng kiến mọi sự phát triển của lịch sử dân tộc, nên Ninh Bình là vùng đất
tạo nên các giá trị của con người Việt Nam. Vì thế, Hệ giá trị con người Ninh
Bình nằm trong Hệ giá trị con người Việt Nam xen lẫn đặc trưng của vùng Đồng
bằng sông Hồng. Hệ giá trị con người Ninh Bình được hình thành, phát triển lâu
dài trong lịch sử, được lưu giữ, truyền bá từ thế hệ này qua thế hệ khác, trở
thành tài sản, hành trang của các thế hệ, mang suốt cuộc đời và là “khuôn mẫu”,
“chuẩn mực” để mỗi người và cả cộng đồng con người Ninh Bình định hướng cho các
suy tư, hành vi và hoạt động của mình. Việc xác lập hệ giá trị con người Ninh
Bình là một công việc phức tạp, đòi hỏi nhiều nghiên cứu chuyên sâu. Trong phạm
vi nghiên cứu của Đề án, bước đầu những giá trị cơ bản của con người Ninh
Bình được xác định như là những phẩm chất nổi bật, quý báu của con người nơi
đây, đó là: Yêu đất nước, yêu quê hương; đoàn kết, tình nghĩa; thân thiện,
mến khách; bản lĩnh, sáng tạo.[33]
2.1. Giá trị yêu quê hương,
đất nước
a) Khái niệm
Trong tiếng La-tinh, thuật ngữ
yêu nước là Patriotism (có gốc từ chữ Hy Lạp: patris nghĩa là Tổ quốc) được
hiểu là “Tình yêu đối với Tổ quốc, là tình cảm sâu sắc nhất, được củng cố và
tăng cường qua hàng trăm, hàng ngàn năm của những người trong cùng một nước”.
Lòng yêu nước là trạng thái tình cảm thể hiện tình yêu đối với đất nước, lòng
trung thành với Tổ quốc, biểu hiện ở khát vọng và hành động tích cực để phục vụ
và đem lại nhiều lợi ích cho Tổ quốc và nhân dân. Yêu nước là “...tiêu điểm
của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị”, là “tư tưởng chủ yếu, là sợi
chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử của dân tộc Việt Nam”[34], là “động lực tình cảm lớn nhất của đời sống
dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống các giá trị đạo đức
của dân tộc ta”[35]; là
“nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã hội mà nội dung của nó là lòng
trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý
chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc”[36]. Nội dung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam rất phong phú,
song cơ bản đó là ý thức cộng đồng về một tổ tiên, một cộng đồng dân tộc, ý
thức về một Tổ quốc, quê hương, làng xóm; là ý thức về khí thiêng, sông núi; là
khát vọng về một cuộc sống hòa bình, hạnh phúc, bình đẳng giữa các dân tộc; là
ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ cuộc sống bình yên, tự do, hạnh
phúc, nền độc lập của nhân dân, của dân tộc mình. Truyền thống yêu nước Việt
Nam là giá trị tinh thần thiêng liêng, cao quý của dân tộc, thể hiện tình cảm,
tư tưởng và hành động của con người Việt Nam đối với quê hương, đất nước; được
cô đọng, kết tinh qua thử thách và gạn lọc của lịch sử dân tộc, được truyền
thừa và phát triển từ thế hệ này qua thế hệ khác. Giáo sư Trần Văn Giàu viết:
“Trông vào lịch sử cũng dài nhiều nghìn năm của dân tộc Việt Nam, từ Văn Lang,
Âu Lạc cho đến nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thì người quan sát có thể thấy ngay rằng các tư tưởng chủ đạo,
cái “lý thường hằng” nhất, quán triệt cổ kim, là chủ nghĩa yêu nước, chống xâm
lăng, bảo vệ sự tồn tại của dân tộc, là tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập
tự do”. Tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của
nhân dân, dân tộc Việt Nam,... một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt
Nam”[37]. Theo đó,
truyền thống yêu quê hương, đất nước của con người Ninh Bình là giá trị tinh
thần thiêng liêng, cao quý của con người Ninh Bình, thể hiện tình cảm, tư
tưởng và hành động của con người Ninh Bình đối với quê hương, đất nước; được
cô đọng, kết tinh qua thử thách, truyền thừa và phát triển từ thế hệ này qua
thế hệ khác. Truyền thống yêu quê hương, đất nước của con người Ninh Bình là
dòng tư tưởng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử; là giá trị cơ bản,
chi phối hệ thống các giá trị khác của con người Ninh Bình.
b) Biểu hiện của giá trị yêu
quê hương, đất nước
Truyền thống yêu yêu quê hương,
đất nước của con người Ninh Bình được thể hiện phong phú, đa dạng, sinh động, nhưng
cơ bản được thể hiện qua các khía cạnh, phương diện chủ yếu sau:
* Tinh thần đấu tranh chống
ngoại xâm kiên cường, bất khuất, bền bỉ của nhân dân Ninh Bình qua các thời
kỳ lịch sử
Lịch sử của nhân dân Ninh Bình
là lịch sử đồng hành dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bởi thế, nói Ninh
Bình là hình ảnh nước Việt Nam thu nhỏ không những đúng về non sông gấm vóc mà
còn đúng cả về chiều sâu lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Dấu ấn
lịch sử của mọi thời đại đều in đậm trên dải đất này kể từ thời Tiền sử, sơ sử
tiếp nối buổi bình minh dựng nước thời đại các vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh
vĩ đại.
Trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc, vùng đất và con người Ninh Bình đã để lại những dấu ấn đặc
biệt. Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, nhân dân Ninh Bình luôn một
lòng kề vai sát cánh bên nhau và kề vai sát cánh với các địa phương trong cả
nước để bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, nhân
dân Ninh Bình đã nhiệt tình tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng, đóng góp sức
người, sức của trong cuộc chiến chống lại ách đô hộ của quân Hán. Nghĩa quân
hai Bà Trưng đã dựa vào tuyến địa hình núi rừng của chân núi từ Ba Vì đến Tam
Điệp - Thần Phù để chống cự lại cuộc tiến công đàn áp của quân Hán do Mã Viện
chỉ huy. Sau khi căn cứ Cấm Khê bị mất, nghĩa quân lui xuống vùng Tam Điệp -
Thần Phù để tiếp tục cuộc chiến đấu. Nhân dân các vùng này vừa che chở nghĩa
quân, vừa cung cấp lương thực, thực phẩm và tích cực tham gia nghĩa quân để
chống giặc.
Đầu thế kỷ thứ X, Dương Đình
Nghệ và Ngô Quyền dựa vào bức trường thành Tam Điệp để xây dựng và bảo vệ lực
lượng ở Thanh Hoá, rồi tiến ra đánh bại quân xâm lược Nam Hán, lập nên chiến
công lẫy lừng ở Đại La năm 930, Bạch Đằng năm 938. Ninh Bình - vùng đất hiểm trở
đã từng là căn cứ địa và cung cấp sức người, sức của nhiều nhất để Đinh Bộ
Lĩnh phất cờ tụ nghĩa, chiêu binh, khởi nghĩa dẹp loạn 12 sứ quân, dựng nền
chính thống năm Mậu Thìn, 968, đặt tên nước là Đại Cồ Việt/ Đại Việt, lập ra
Kinh đô Hoa Lư, đóng đô ở Hoa Lư. Nhà nước Đại Cồ Việt/ Đại Việt có vị trí và
vai trò quan trọng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước; tiếp tục khẳng định,
củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc đã được xác lập từ họ Ngô (năm 938); xóa
bỏ tình trạng cát cứ phân liệt, thực hiện thống nhất đất nước, phục hưng dân
tộc, xây dựng Nhà nước quân chủ Trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam; nâng tầm vị thế quốc gia - dân tộc trong cấu trúc quyền lực khu vực
Đông Á đầy biến động vào thế kỷ X, đầu thế kỷ XI; tạo nền tảng cho định đô
Thăng Long - Hà Nội. Ngót nửa thế kỷ, kinh đô Hoa Lư với vị trí là trung tâm
chính trị, văn hóa, quân sự của cả nước, bảo vệ vững chắc vương triều Đinh -
Tiền Lê, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước; là nơi hoạch định kế sách và
xuất phát các đạo thần binh phá Tống, bình Chiêm, lập nên võ công oanh liệt
của dân tộc ta ở nửa cuối thế kỷ X. Kinh đô Hoa Lư cũng là cái nôi khai sinh
ra nhà Lý và tạo tiền đề vật chất, lực lượng, tinh thần và ý chí độc lập, tự
cường dân tộc cho Thăng Long tỏa sáng, đưa nước ta bước vào thời kỳ phục hưng
dân tộc rực rỡ ở những thế kỷ sau.
Thế kỷ thứ XIII, lịch sử triều
Trần, phải đứng bên cạnh một đế quốc mạnh, nhiều lần mang quân xâm lược Đại
Việt, nhà Trần phải thực hiện nhiều hình thức chiến tranh, trong đó chủ đạo là
chiến tranh du kích. Năm 1285, vương triều Trần thực hiện chính sách “vườn
không nhà trống” rút khỏi kinh thành Thăng Long về vùng đất Ninh Bình sử dụng
bức tường thành Tam Điệp để bảo vệ hậu phương Ái - Diễn (Thanh Hóa và Nghệ An)
và làm chỗ dựa cho căn cứ địa Thiên Trường - Trường Yên. Trần Thái Tông đã cho
xây dựng cung Thái Vi (Ninh Hải - Hoa Lư) mở đầu cho việc xây dựng hành cung Vũ
Lâm - làm địa điểm đầu não quan trọng nhất, là nơi giúp vua tôi triều Trần
chiêu tập, củng cố lực lượng, tạo dụng cơ sở kháng chiến để chiến thắng quân
xâm lược Nguyên Mông. Từ căn cứ này, các vua Trần tổ chức quân dân Đại Việt
phản công đánh thắng quân Mông - Nguyên xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập
và toàn vẹn lãnh thổ nước nhà. Cư dân Ninh Bình khi đó, đã tham gia ủng hộ
tích cực và có những đóng góp quan trọng vào cuộc kháng chiến chống quân Mông -
Nguyên lần thứ hai (1285).
Thế kỷ thứ XV, núi rừng và nhân
dân vùng Ninh Bình vừa là áo giáp, vừa là vùng hậu cứ vững chắc của vua tôi
nhà Trần xuất quân đánh giặc. Năm 1400, nhà Minh xâm lược nước ta, Trần Ngỗi,
dòng dõi nhà Trần đã lấy vùng đất Mô Độ (huyện Yên Mô) xây dựng căn cứ địa
kháng chiến. Từ đây phát triển lực lượng, tổ chức các cuộc tấn công, quân Trần
đã làm nên chiến thắng Bô Cô (Ý Yên) vang dội. Năm 1426 - 1427, nhân dân Ninh
Bình đã tham gia cuộc kháng chiến chống quân Minh do Bình Định Vương Lê Lợi
lãnh đạo nhiều lần qua lại vùng Tam Điệp, huyện Khôi (nay thuộc huyện Nho Quan,
tỉnh Ninh Bình) trên đường tiến ra giải phóng các lộ vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Thế kỷ thứ XVIII, cuối năm
1788, 29 vạn quân Mãn Thanh tràn vào xâm lược nước ta. Trước so sánh tương quan
lực lượng quá chênh lệch và tình hình chính trị bất lợi ở Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm
đã đề ra chủ trương sáng suốt, rút lui chiến lược, lập phòng tuyến Tam Điệp - Biện
Sơn để bảo toàn, chiêu mộ, tập hợp lực lượng và chờ thời cơ tiêu diệt quân thù.
Nhân dân Ninh Bình khi đó, đã tích cực ủng hộ chủ trương này, góp phần to lớn
làm nên chiến thắng vang dội mùa xuân Kỷ Dậu 1789, giải phóng kinh thành Thăng Long,
quét sạch 29 vạn quân Mãn Thanh xâm lược ra khỏi bờ cõi nước ta.
Truyền thống yêu nước, chống
giặc ngoại xâm ngày càng được nhân dân Ninh Bình kế thừa, hun đúc và phát huy
mạnh mẽ trong những năm đầu thế kỷ 20. Khi Đảng ta ra đời, Ninh Bình là một trong
những địa phương có cơ sở Đảng sớm nhất, 9/1927, đồng chí Nguyễn Văn Hoan đã thành
lập Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên tại Ninh Bình ở Lũ Phong
(Quỳnh Lưu - Nho Quan) và 10/1927, Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở
Côi Trì (Yên Mỹ - Yên Mô) được thành lập do đồng chí Tạ Uyên làm Bí thư. Tháng
10/1929, Tỉnh uỷ Đông Dương Cộng sản Đảng Ninh Bình được thành lập. Tỉnh uỷ
Đông Dương Cộng sản Đảng Ninh Bình đã lãnh đạo cao trào cách mạng 1930 - 1931,
giữ vững và củng cố cao phong trào cách mạng những năm 1932 - 1935; đấu tranh
chống phản động thuộc địa, tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình (1936
- 1939); xây dựng lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng
tháng 8/1945. Trong Cách mạng tháng 8/1945, chỉ sau một tuần giành chính quyền
ở Hà Nội, ngày 25/8/1945, Ninh Bình hoàn toàn giải phóng, thành lập chính quyền
cách mạng của nhân dân trong toàn tỉnh. Thắng lợi đó thể hiện sinh động “tinh
thần yêu nước sâu sắc, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp của cán bộ, đảng viên và quần chúng”[38] nhân dân tỉnh Ninh
Bình.
Trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vùng đất Ninh Bình luôn là tâm điểm trong
các cuộc hành quân đánh chiếm và ném bom phá hoại của kẻ thù. Trong 9 năm
kháng chiến chống Pháp, Ninh Bình có hơn 7 năm (từ 23/3/1947 - 30/6/1954) trở
thành chiến trường nóng bỏng, đọ sức quyết liệt giữa ta và địch. “Trong 9 năm
kháng chiến, địch đã trút hàng ngàn tấn bom đạn, đốt 27.413 nóc nhà, giết hại
2.279 người, làm bị thương 1.362 người, bắt đi 11.929 người, cướp và đốt hàng
vạn tấn gạo, phá hàng nghìn thôn xóm và hàng nghìn mẫu ruộng.”[39]. Biến căm thù thành
sức mạnh, quân và dân Ninh Bình dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thực hiện đường
lối “trường kỳ kháng chiến, ta nhất định thắng, địch nhất định thua”, đoàn kết
đứng lên chiến đấu kiên cường, dũng cảm, “…đánh trên 3.000 trận lớn nhỏ, tham
gia 6 chiến dịch lớn, phá 59 vị trí, giết 11.743 tên, gọi ra hàng 506 lính Âu -
Phi, 7.046 lính ngụy, vận động 1.046 thanh niên không đi lính cho Pháp. Quân
dân đã thu 2.354 súng các loại, thu 32 xe, phá 300 ôtô, bắn rơi 4 máy bay. Đảng
bộ, quân và dân trong tỉnh đã được Đảng và Nhà nước tặng 11.677 huân, huy
chương, 2.436 bằng khen”[40].
Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình đã quán triệt
và thực hiện nghiêm túc 2 nhiệm vụ chiến lược “Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Ngày
22/5/1965, máy bay Mỹ ném bom khu vực Nông trường Đồng Giao, doanh trại bộ đội
Trung đoàn 154, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đối với Ninh
Bình. Giặc Mỹ đã tàn phá, hủy diệt thị xã Ninh Bình gần như hoàn toàn, 123/125
xã, thị trấn trong tỉnh bị Mỹ ném bom bắn phá. Từ ngày 13/4/1972 đến ngày
26/12/1972, đối với Ninh Bình, Mỹ sử dụng 1.177 lần máy bay đánh phá 535 trận
vào 523 mục tiêu, trong đó có 201 mục tiêu giao thông, 123 mục tiêu kinh tế,
174 mục tiêu dân cư. Thực hiện khẩu hiệu: “Thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người”, quân và dân Ninh Bình đã chi viện tích cực cho tiền tuyến, từ
năm 1959 đến 1975 với 39 đợt tuyển quân, tỉnh đã có 59.785 thanh niên tham gia
vào bộ đội (gấp 5,4 lần so với thời kỳ chống Pháp) chiến đấu trên khắp các
chiến trường. Đã bổ sung cho chiến trường và các đơn vị chủ lực 3 tiểu đoàn và
4 đại đội bộ binh, 3 đại đội; huy động 3,5 triệu ngày công làm trận địa và công
trình quốc phòng; 245.700 ngày công bốc dỡ và bảo quản an toàn 81.284 tấn hàng
quốc phòng; vận chuyển 16.186 tấn hàng vào chi viện cho tiền tuyến lớn miền
Nam; hàng chục vạn ngày công làm 2.467 km hào giao thông và 945.177 hầm hố;
665.723 công lao động phục vụ chiến đấu, giao thông vận tải và phòng tránh, cấp
cứu. Từ năm 1965 đến năm 1975, nhân dân Ninh Bình đã đóng góp hàng chục vạn tấn
lương thực, thực phẩm chi viện cho cách mạng miền Nam[41]. Đánh giá về đóng góp của Đảng bộ và nhân dân
Ninh Bình trong chặng đường lịch sử chống Mỹ, cứu nước đầy khó khăn, gian khổ
và thử thách (1965 - 1975), Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đánh giá: “Sức mạnh tổng hợp
của nhân dân toàn tỉnh đã được huy động đến mức cao nhất, tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Sự đóng góp sức người, sức
của cho kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Ninh Bình là rất to lớn”[42]. Ngoài ra, Đảng bộ và
nhân dân Ninh Bình còn đóng góp sức người, sức của to lớn trong các cuộc kháng
chiến bảo vệ biên giới phía Bắc, phía Tây Nam.
* Tinh thần tự lực, tự tôn,
tự cường dân tộc của nhân dân Ninh Bình qua các thời kỳ lịch sử
Tinh thần tự lực, tự tôn, tự
cường dân tộc là biểu hiện của lòng yêu nước; “là điều kiện thể hiện lòng yêu
nước, tinh thần tự tôn dân tộc và khát vọng đưa đất nước vươn lên. Có thể nói,
tinh thần tự lực tự cường làm phong phú nội hàm của phạm trù yêu nước. Đồng
thời, tinh thần yêu nước được biểu đạt cụ thể, mang tính thực tiễn cao khi chúng
ta xác lập giá trị tự lực, tự cường”[43]. Tinh thần tự lực, tự tôn, tự cường dân tộc của nhân dân
Ninh Bình thể hiện sinh động, phong phú, đa dạng trên nhiều phương diện, khía
cạnh khác nhau. Trong đó, tập trung thể hiện ở các phương diện, khía cạnh chủ
yếu, cơ bản sau: Đoàn kết, phấn đấu vươn lên khắc phục khó khăn, thiên tai,
địch họa, xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước; niềm tự hào, tự tôn dân tộc,
khát vọng đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất đất nước; tinh
thần phấn đấu, nỗ lực vươn lên khắc phục khó khăn thúc đẩy cho sự phát triển…
của dân tộc qua các thời kỳ.
Các thế hệ người dân Ninh Bình
qua các thời kỳ lịch sử luôn thể hiện tinh thần tự hào, tự lực, tự tôn, tự
cường dân tộc; luôn có ý chí khẳng định, đề cao các giá trị dân tộc; có khát
vọng đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Người dân Ninh Bình
đã theo Hai Bà Trưng đánh quân Nam Hán, nhiều người trở thành tướng lĩnh; đấu
tranh chống các triều đại phong kiến phương Bắc xâm lược trong gần 1000 năm Bắc
thuộc. Đinh Bộ Lĩnh đã cùng các bạn thân thiết như Đinh Điền, Nguyễn Bặc tổ
chức lực lượng, rèn vũ khí và chiếm giữ vùng đất Hoa Lư, được nhân dân địa
phương suy tôn và ủng hộ nhiệt liệt, đã lần lượt dẹp yên 12 sứ quân, chấm dứt
cuộc “nội loạn” ở giữa thế kỷ X, thu non sông về một mối vào cuối năm 967. Năm
968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế trở thành vị hoàng đế đầu tiên của Việt
Nam sau thời Bắc thuộc, lập ra Nhà nước Đại Cồ Việt, lấy Hoa Lư làm kinh đô.
Hành động xưng đế của Đinh Tiên Hoàng thể hiện tinh thần “Vô tốn Hoa Hạ”
(Không thua kém người Hoa Hạ), vua nước Việt sánh ngang với Hoàng đế Trung Hoa.
Nhà nước Đại Cồ Việt dưới thời nhà Đinh ra đời, tồn tại, phát triển cùng với
việc thiết lập triều đình riêng do một hoàng đế đứng đầu, có niên hiệu riêng,
quản lý một lãnh thổ riêng biệt là sự khẳng định mạnh mẽ nền độc lập, tự chủ
của đất nước vừa mới được khôi phục sau một thiên niên kỷ lệ thuộc vào phong
kiến phương Bắc. Đây là Nhà nước mở đầu cho thời kỳ độc lập, tự chủ lâu dài
của dân tộc. Đinh Tiên Hoàng, lấy tên kinh đô của hai triều đại Hán Đường
thịnh trị, tồn tại lâu dài của Trung Hoa để đặt tên cho kinh đô của mình,
phản ánh mong muốn xây dựng một triều đại trường tồn, sánh ngang với Trung Hoa.
Sánh ngang ở danh nghĩa Hoàng đế, hay quốc hiệu đất nước to lớn, và cả kinh đô
cũng không hề thua kém Trung Hoa. Tinh thần này được phản ánh ở đôi câu đối tại
đền vua Đinh - tương truyền là do Định Quốc công Nguyễn Bặc sai người đắp có
nội dung như sau: “Cồ Việt Quốc đương Tống Khai Bảo, Hoa Lư đô thị Hán Tràng
An.”; tạm dịch: “Nước Đại Cồ Việt ngang hàng với nhà Tống đời Khai Bảo, Kinh đô
Hoa Lư như kinh đô Tràng An nhà Hán.”[44]. Ninh Bình là nơi phát nghiệp đế vương[45]. Đất và người Ninh Bình trở thành căn cứ, hậu
phương, nơi quy binh, tụ nghĩa cho Lê Hoàn phá Tống, bình Chiêm; các vua Trần
chống đạo quân xâm lược hùng mạnh Nguyên - Mông, quân Minh; Nguyễn Huệ Bắc tiến
đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu 1789, xoá bỏ tình hình rất rối ren và phân liệt
chia cắt Đàng Trong và Đàng Ngoài, thống nhất đất nước. Sau cách mạng Tháng
8/1945, quân dân Ninh Bình đã tích cực trực tiếp tham gia, ủng hộ sức người,
sức của cùng với quân, dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam để kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước thành công, góp phần vào
việc thực hiện giải phóng dân tộc, thống nhất, phát triển đất nước.
Các thế hệ người dân Ninh Bình
qua các thời kỳ lịch sử luôn có tinh thần phấn đấu, nỗ lực vươn lên khắc phục
khó khăn, có tầm nhìn hướng biển thúc đẩy cho sự phồn thịnh, phát triển của
quê hương, dân tộc. Ở thế kỷ XV, vùng Ninh Bình là trung tâm của chiến lược
đắp đê, lấn biển của triều Lê sơ. Tuyến đê Hồng Đức hiện nay vẫn còn dấu vết ở
các huyện Yên Mô, Yên Khánh. Thế kỷ XVI, tuyến đê Cự Lĩnh từ Thần Phù (Yên Mô)
đến Cự Lĩnh (Thượng Kiệm, Kim Sơn) lại được nhân dân phủ Trường Yên dưới sự tổ
chức của Nguyễn Nghiễm dày công đào đắp, làm cho lãnh thổ đất nước tiếp tục
được mở rộng. Những năm cuối của thế kỉ XVII, nhân dân lại đắp đê Hồng Lĩnh,
dân gian gọi là đê Đường Quan. Đầu thế kỷ XIX, dưới sự tổ chức của Nguyễn Công
Trứ, công cuộc khẩn hoang ở khu bãi biển phía nam của trấn Ninh Bình được thực
hiện nhanh chóng. Năm 1829, huyện Kim Sơn với 7 tổng, 60 ấp, trại, lý, 1260
nhân đinh, 14.600 mẫu ruộng ra đời. Từ năm 1959 đến nay tỉnh đã tổ chức 04 lần
quai đê lấn biển từ đê Bình Minh I đến đê Bình Minh IV với diện tích trên 5.000
ha đất; trong đó: Đê Bình Minh I: Đắp năm 1959, chiều dài 7,8 km lấn biển được
gần 880 ha. Đê Bình Minh II: Đắp năm 1980, với chiều dài là hơn 25 km, lấn biển
được 2.000 ha. Đê Bình Minh III: Đắp năm 1998, chiều dài 15 km, lấn biển được 1.450ha.
Đê Bình Minh IV: Đang thực hiện dự án từ năm 2018 với chiều dài giai đoạn I là
6,3km (từ đê Bình Minh III đến đường ra Cồn Nổi), tổng mức đầu tư 480 tỷ đồng
(trong đó vốn trung ương 360 tỷ), lấn biển được 700 ha. Năm 1992, Ninh Bình tái
lập tỉnh trong điều kiện vô cùng khó khăn, biến động tình hình chính trị thế
giới - sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
trong nước ngày càng trầm trọng, nhưng thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
trong gần 40 năm qua, nhân dân Ninh Bình đã nỗ lực phấn đấu, vươn lên đạt được
những thành quả cách mạng to lớn. Hiện nay, trong điều kiện bên cạnh những thuận
lợi, tỉnh còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ, chính quyền, nhân dân
trong tỉnh đã và đang có quyết tâm, khát vọng rất cao đẩy nhanh tiến độ thực
hiện chủ trương quy hoạch, xây dựng, phát triển đô thị, trong đó tiến tới
thành lập thành phố Hoa Lư với đặc trưng là Đô thị di sản thiên niên kỷ, thành
phố sáng tạo: “Phát triển đô thị gắn với bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên
nhiên, hệ sinh thái đa dạng; bảo vệ nguồn nước, khai thác, quản lý sử dụng hiệu
quả đất đai, tài nguyên; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; giảm phát
thải khí nhà kính; sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên biển, đảo; chủ động
thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai, dịch bệnh; hình thành
đô thị đảm bảo năng lực bảo tồn, phát huy giá trị nổi trội, đặc sắc riêng có
của con người, vùng đất Cố đô và giá trị nổi bật toàn cầu của di sản văn hóa
vật thể đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc
(UNESCO) công nhận”[46] .Đến
năm 2035: “Trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di
sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo; một trung tâm lớn, có giá trị thương
hiệu cao về du lịch, công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản của cả nước và khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương; một trung tâm hàng đầu đất nước về công nghiệp cơ
khí giao thông hiện đại; một trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của các
tỉnh phía Nam vùng đồng bằng sông Hồng. Đến năm 2050: Là thành phố trực thuộc
Trung ương văn minh, hiện đại, thông minh, có bản sắc riêng, ngang tầm các đô
thị di sản, thành phố sáng tạo trên thế giới; có vị thế, giá trị thương hiệu
cao trong mạng lưới di sản sở hữu danh hiệu UNESCO; là một trong những địa
phương đi đầu đưa phát thải khí nhà kính về mức “0” của Việt Nam, tiêu biểu về
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, phát huy sức mạnh mềm trong hội nhập quốc tế, bảo
vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu[47].
* Tinh thần lao động xây
dựng quê hương, đất nước của con người Ninh Bình thể hiện ở việc tạo dựng nên
nhiều trầm tích, di tích, di sản lịch sử - văn hóa vô giá, mang giá trị vật
chất và tinh thần phong phú đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát
triển kinh tế - văn hoá - xã hội của quê hương, đất nước.
Các thế hệ người dân Ninh Bình
đã khai sơn phá thạch, tạo dựng quê hương, phát triển nền sản xuất nông nghiệp
đa dạng, bạt núi xẻ đồi, mở mang làng bản, quai đê lấn biển xây dựng vùng quê
trù phú, màu mỡ với núi sông, rừng biển kỳ thú. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử,
nhân dân Ninh Bình đã tạo ra bao giá trị vật chất và tinh thần, tạo nguồn nuôi dưỡng,
phát triển liên tục con người, định cư và quần cư nơi đây, sáng tạo, làm nảy nở
một nền văn hóa đa dạng, đặc sắc, năng động. Ninh Bình là vùng đất có bề dày
lịch sử và truyền thống văn hóa, nơi lưu giữ những di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc hòa quyện trong cảnh quan thiên nhiên
hùng vĩ của núi non, sông nước và hệ thống hang động xuyên thủy lung linh,
huyền ảo. Theo PGS.TS Đoàn Minh Huấn: “Theo thời gian hàng nghìn năm lịch sử,
trên vùng đất Cố đô Hoa Lư ken dày nhiều lớp di sản văn hóa chồng xếp hoặc đan
xen nhau, từ lớp tiền sử - sơ sử, lớp tiền Hoa Lư, lớp kinh đô Hoa Lư, lớp hậu
kinh đô Hoa Lư - thời kỳ trung đại, lớp thời kỳ cận đại, rồi lớp thời kỳ hiện
đại”[48]. Trong hệ thống
di tích này, nổi bật là kinh đô Hoa Lư. Kinh thành Hoa Lư là một trong số ít
các kinh đô cổ của Việt Nam; được đánh giá là một kinh thành đá, kinh thành
nước; là một trong những đỉnh cao của sự tận dụng điều kiện tự nhiên kết hợp
với sự sáng tạo của con người tạo nên một kinh thành độc đáo nhất trong lịch
sử Việt Nam, có tầm nhìn hướng biển. Nhân dân Ninh Bình đã phát huy khả năng
khéo léo của đôi bàn tay và trí tuệ của mình tạo nên các nghề thủ công mĩ
nghệ cũng được phát triển như: Dệt chiếu cói ở huyện Kim Sơn và huyện Yên
Khánh; khai thác đá và chạm trổ đá mỹ nghệ ở Ninh Vân (thành phố Hoa Lư); thêu
ren ở Văn Lâm - Ninh Hải (thành phố Hoa Lư); đồ mộc ở Phúc Lộc - Ninh Phong
(thành phố Hoa Lư); nghề chế biến bún bánh ở huyện Yên Khánh, Yên Mô, Kim Sơn;
nghề gốm ở Gia Thủy (huyện Gia Viễn); nghề đan lát ở Gia Tân (huyện Gia
Viễn)... Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cộng đồng xã hội của nhân dân Ninh
Bình đã làm nảy nở những thành tựu rực rỡ về kiến trúc, điêu khắc, văn thơ, lễ
hội, ca múa trong đó có hát chèo từ thời Đinh, hát ca trù ở Yên Phong (Yên Mô),
hát xẩm,… còn tồn tại đến ngày nay. Những trầm tích, di tích lịch sử, di chỉ
khảo cổ học, các giá trị văn hóa phong phú, đa dạng, độc đáo, đặc sắc được tạo
ra từ đất và người Ninh Bình là tài nguyên, nguồn nội lực cơ bản, quan trọng
trong tiến trình phát triển lịch sử địa phương và dân tộc hiện nay. Nhân dân
Ninh Bình đời này, qua đời khác, thế hệ này, qua thế hệ khác đã lao động, sáng
tạo không mệt mỏi để tạo ra động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình lịch sử hình
thành lâu dài và phát triển liên tục của tỉnh Ninh Bình, khẳng định vị thế
của Ninh Bình trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam hiện nay.
* Ninh Bình là mảnh đất
nhiều bậc tài danh (nhân kiệt), nhiều cá nhân xuất sắc trong lao động, sản
xuất, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, với ý chí khát khao xây dựng dân tộc hùng
cường, đất nước phồn vinh, quê hương giàu mạnh.
Vùng đất Ninh Bình đã sinh ra
những “nhân kiệt” như: Nhà Đinh có Vua Đinh Tiên Hoàng người xã Gia Phương,
huyện Gia Viễn; các danh tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ; Thái
hậu Dương Vân Nga tương truyền ở xã Gia Vân, huyện Gia Viễn; Nhà Lý có Thánh Nguyễn
Minh Không (1065-1141) người xã Gia Thắng, Gia Tiến, huyện Gia Viễn, là một
Thiền sư, một danh y thiên tài đã được ban hiệu “Quốc sư”; Nhà Trần có Danh
nhân văn hoá Trương Hán Siêu (?-1354) người thành phố Ninh Bình, tác giả của
“Bạch Đằng giang phú” bất hủ. Nhà Hậu Lê có “Trường Yên thất hào” (7 người
Ninh Bình nổi danh ở thời Hậu Lê) và Tiến sỹ Ninh Tốn (1743-?) người xã Yên Mỹ,
huyện Yên Mô, là một nhà văn, nhà thơ. Nhà Nguyễn có Bảng nhãn Vũ Duy Thanh
(1807-1859) người xã Khánh Hải, huyện Yên Khánh; Tạ Uyên (1898-1940) người làng
Côi Trì, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình (nay là xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh
Ninh Bình); Cử nhân Vũ Phạm Khải (1807-1872) người xã Yên Mạc, huyện Yên Mô; Cử
nhân Nguyễn Tử Mẫn (1816-1901); Cử nhân Phạm Thận Duật (1825-1885); Lương Văn
Thăng (1865-1940); Lương Văn Tuỵ (1914-1932), người xã Quỳnh Lưu, huyện Nho
Quan, tỉnh Ninh Bình; Đinh Tất Miễn (1891-1939), người xã Sơn Thành, Nho Quan,
Ninh Bình; Linh mục Phạm Bá Trực (1898-1954) người làng Bạch Liên, xã Yên
Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình…
Trong giai đoạn hiện nay, Ninh
Bình cũng có nhiều cá nhân xuất sắc, đã và đang giữ các chức vụ chủ chốt của
Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó là đội ngũ các nhà khoa học hùng hậu, các tướng
lĩnh trong lực lượng vũ trang các nhà văn, nhà thơ, các doanh nhân nổi tiếng
trong nước và quốc tế, là con em Ninh Bình đang nỗ lực hết mình cống hiến tài
năng, trí tuệ, công sức cho sự nghiệp xây dựng đất nước nói chung và quê hương
Ninh Bình nói riêng. Họ là niềm tự hào của đất và người Ninh Bình...
Như vậy, trải hàng nghìn năm
lịch sử, danh nhân, hào kiệt đất Ninh Bình gắn bó với đất nước, quê hương, đời
nào cũng có. Đây là những nhân tố quan trọng góp phần làm rạng rỡ gương mặt
lịch sử - văn hoá Ninh Bình, là biểu tượng kết tinh, hội tụ, thăng hoa, toả
sáng tinh thần yêu nước, yêu quê hương của bao thế hệ người dân Ninh Bình.
2.2. Giá trị đoàn kết, tình
nghĩa
a) Khái niệm
Đoàn kết là kết thành một khối,
thống nhất ý chí, không mâu thuẫn, chống đối nhau, là việc cùng chung sức lực, tinh
thần và ý chí để đạt mục tiêu chung. Tình nghĩa là tình cảm son sắt, lòng biết
ơn, chân thành, trước sau như một, có trước có sau, có trên có dưới với đạo lý
uống nước nhớ nguồn, thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách,
giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn khó khăn. Đoàn kết càng trở nên chặt chẽ, khăng khít
hơn khi dựa trên cơ sở tình yêu thương, nhân ái, sự nhường nhịn, sẻ chia, đùm
bọc lẫn nhau.
Đoàn kết, tình nghĩa là giá trị
biểu hiện của đạo đức, lối ứng xử có văn hóa và là chất kết dính tạo nên sức
mạnh của con người Ninh Bình. Theo thời gian, đoàn kết, tình nghĩa trở thành
hành vi ứng xử hàng ngày, đồng thời trở thành khuôn mẫu, thước đo hành vi của
mỗi người. Đoàn kết, tình nghĩa ở người Ninh Bình được thể hiện rõ nét qua
công cuộc đấu tranh xây dựng thời đại độc lập, tự chủ và chế độ quân chủ tập
quyền đầu tiên ở Việt Nam đến cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách
mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới; qua hoạt động lao động sản xuất; qua
các mối quan hệ đa chiều giữa chính quyền với nhân dân, giữa nhân dân Ninh Bình
với nhân dân các tỉnh thành khác, giữa các tôn giáo với nhau... Đoàn kết, tình nghĩa
đã tạo ra thế trận, sức mạnh để người dân Ninh Bình chiến đấu và chiến thắng kẻ
thù, góp phần hoàn thành nhiệm vụ do lịch sử đặt ra kể từ thời kỳ phong kiến
đến công cuộc đổi mới hiện nay. Đoàn kết, tình nghĩa đã kết tinh thành văn hóa,
thành giá trị đặc trưng của người Ninh Bình, đóng góp quan trọng vào việc kiến
trúc, định dạng dòng chảy lịch sử cho vùng đất Cố đô kể cả trong thời đại mới.
b) Biểu hiện của giá trị
đoàn kết, tình nghĩa
Đoàn kết, tình nghĩa là đặc
trưng giá trị của người Việt Nam và đặc trưng ấy lại được thể hiện qua con
người Ninh Bình một cách đầy đủ, trọn vẹn. Đoàn kết, tình nghĩa không chỉ là
yếu tố liên kết, nhu cầu, nguyện vọng tự thân mà trở thành lẽ sống tự nhiên,
hành vi ứng xử hàng ngày, nét văn hóa của người Ninh Bình.
Đoàn kết, tình nghĩa trước hết
thể hiện qua cuộc đấu tranh, xây dựng thời đại độc lập, tự chủ và chế độ quân
chủ tập quyền đầu tiên ở Việt Nam đến cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới. Ngay từ nửa cuối thế kỷ X,
đất nước luôn có biến động: các vương triều phong kiến liên tục thay thế nhau;
các cuộc xâm lược liên tiếp của phong kiến phương Bắc và cuộc đấu tranh bảo vệ
đất nước của cư dân Việt. Đoàn kết, tình nghĩa đã góp phần tạo ra thế trận,
sức mạnh, kết tinh thành tri thức, nghệ thuật giúp Đinh Bộ Lĩnh hoàn thành đại nghiệp.
Người con của quê hương Ninh Bình đã đứng lên chiêu mộ hào kiệt, quy tụ nhân
tài, tập trung nhân dân, đặc biệt nhân dân địa phương “quân bản bộ” đồng tâm,
nhất trí, ủng hộ, giúp ông dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi vua, lập nên vương
triều phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở nước ta. Sau triều Đinh, triều
Lê được thiết lập bởi Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Lấy xã tắc làm trọng, vì lợi
ích trăm dân, ông nhanh chóng tập hợp lực lượng, củng cố, thống nhất triều
đình, lãnh đạo, đoàn kết toàn dân đứng lên kháng chiến chống quân Tống xâm
lược. Chính bởi sự đồng tâm, hiệp lực, trên dưới một lòng cùng tài mưu lược, kế
sách đúng đắn của Lê Hoàn cuộc kháng chiến của nhân dân Đại Việt đã giành
thắng lợi vẻ vang, góp phần củng cố vững chắc nền độc lập, thống nhất của đất
nước. Thế kỷ XIII, trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên các
vua Trần chọn vị trí đóng quân dựa vào dãy núi Tam Điệp. Cư dân nơi đây đồng
tình, thuận theo chính sách “vườn không nhà trống” của vua Trần vì nghĩa lớn.
Họ nỗ lực giúp đỡ quân lương, góp phần tạo nên sức mạnh để nhà Trần chiến thắng
đội quân xâm lược tinh nhuệ và thiện chiến nhất lúc bấy giờ. Ở những giai đoạn
sau, các thủ lĩnh, nhà cầm quân như Lê Lợi, Ngô Thì Nhậm, Quang Trung - Nguyễn
Huệ… khi dẫn quân đánh giặc ngoại xâm, qua đất Ninh Bình đều được nhân dân đứng
lên hưởng ứng, tham gia và tiếp tế lương thảo nuôi quân. Những chiến công hiển
hách của họ có sự giúp sức người, sức của của nhân dân Ninh Bình. Đền Quán
Cháo là một ví dụ, tích của đền gắn liền với chiến công hiển hách đại phá quân
Thanh của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Sang thế kỷ XX, tinh thần đoàn
kết, lối sống nghĩa tình của nhân dân Ninh Bình tiếp tục được phát huy. Năm
1927, Chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đầu tiên được thành lập tại làng
Lũ Phong, tổng Quỳnh Lưu (Nho Quan). Với sự dẫn dắt của tổ chức, nhân dân Ninh
Bình đoàn kết, tích cực tham gia cách mạng, chiến đấu dũng cảm vì nền độc lập, tự
do của Tổ quốc. Người Ninh Bình là một minh chứng điển hình cho tinh thần tương
thân tương ái, sẵn sàng trở thành hậu phương chiến lược, cung cấp, chi viện sức
người sức của cho các mặt trận trong mọi giai đoạn cách mạng. Họ sẵn sàng cống
hiến[49] để cùng nhân
dân cả nước làm nên chiến thắng của cuộc cách mạng Tháng 8/1945 và cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ.
Đoàn kết, tình nghĩa còn được
thể hiện trong lao động sản xuất xây dựng quê hương đất nước. Sinh sống trong
vùng có điều kiện địa lý đa dạng, người Ninh Bình vừa khai thác tốt thế mạnh
của đồng bằng, vừa biết tận dụng lợi thế vùng núi đồi để sản xuất, sinh sống;
đồng thời luôn có ý thức, khát vọng vươn ra biển. Hoạt động lao động sản xuất
đã tôi luyện sức sống mạnh mẽ, tinh thần đoàn kết, hợp tác với nhau của cư dân
Ninh Bình. Và cũng chính trong điều kiện lao động cần đến sức mạnh tập thể đã
hình thành lối sống nghĩa tình, đùm bọc lẫn nhau. Lịch sử ghi chép lại, Vua Lê
Đại Hành trong thời gian trị vì chủ trương thực hiện một số biện pháp nhằm đem
lại đời sống no đủ hơn cho dân. Hàng năm vào đầu xuân, ông thường thân chinh
xuống ruộng cày vài đường - còn gọi là cày Tịch điền. Ông là vị hoàng đế mở đầu
cho lễ Tịch điền (năm 987), sau này nó trở thành một mỹ tục được các triều đại
thực hiện trang trọng và thành kính. Nghi lễ này không chỉ thể hiện tư tưởng
gần dân, thân dân mà hơn thế nữa thể hiện là sự quan tâm, coi trọng nông
nghiệp, khuyến khích, động viên nông dân chăm chỉ làm ăn.
Xây dựng đê điều là nhiệm vụ
trọng tâm gắn liền với hoạt động sản xuất ở một vùng đất có điều kiện tự nhiên
như Ninh Bình. Từ thời Tiền Lê, nhà nước đã quan tâm tới việc đào kênh mương,
sông ngòi, tạo thuận lợi cho giao thông, vừa để tưới tiêu nước cho đồng ruộng.
Tuy thời điểm đó, nhà Lê chưa có điều kiện tập trung giải quyết vấn đề đê sông,
nhưng chắc chắn nhân dân các làng xã, các bộ tộc vẫn tiến hành công việc đắp đê,
khoanh vùng để tự bảo vệ[50].
Công việc đắp đê được duy trì tiếp ở các thế hệ sau và cho đến tận ngày nay[51]. Công trình vĩ đại đó không
phải là việc của một hai người, không phải là việc của một hai thế hệ, đó là
công việc của tất cả mọi người, mọi thời đại. Vậy nên, hệ thống đê điều ngoài
giá trị vật chất, nó còn là minh chứng thuyết phục nhất cho tinh thần đoàn kết,
sức mạnh của nhân dân toàn tỉnh.
Đoàn kết, tình nghĩa thể hiện
qua hành động giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau và thực hành đạo lý “uống nước nhớ
nguồn”. Người Ninh Bình từ lâu luôn coi trọng hành động giúp đỡ, hỗ trợ cho
nhau, kể từ thời phong kiến cho đến hiện nay. Đầu Công nguyên, khi Hai Bà Trưng
kéo quân đi đánh quân Đông Hán, tại rừng núi Tam Điệp, nhân dân trong vùng đã
ủng hộ nhiệt tình về nhiều mặt cho nghĩa quân. Sau này, trong kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ, nhân dân Ninh Bình từng là nơi đón và giúp đỡ đồng bào
tản cư, di cư từ nhiều nơi chuyển đến[52]; nơi nhận đón và nuôi dạy con em huyện Vĩnh Linh thuộc tỉnh
Quảng Trị theo Kế hoạch K8 của Trung ương Đảng[53]; là địa phương làm tốt nhiệm vụ hậu phương
vững chắc cho Miền Nam ruột thịt, tích cực tham gia mọi hoạt động nhằm góp phần
vào xây dựng và bảo vệ chính quyền như hưởng ứng “Tuần lễ vàng”, xây dựng “Quỹ
độc lập”; kết nghĩa với tỉnh Bạc Liêu[54] và giúp đỡ, hỗ trợ tỉnh bạn trên nhiều mặt kể từ năm 1960 đến
nay.
Năm 1975, đất nước hòa bình
thống nhất, nhân dân Ninh Bình vẫn tiếp tục đóng góp sức người, sức của cùng
đồng bào cả nước bắt tay xây dựng, kiến thiết quê hương. Thời kỳ đổi mới, phát
huy tinh thần đoàn kết, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, toàn thể nhân dân Ninh
Bình người người, nhà nhà chung sức, chung lòng phấn đấu vì sự phát triển của
quê hương, đất nước. Những hoạt động nhân đạo, từ thiện sớm được triển khai với
sự đồng tình hưởng ứng của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, nhà hảo tâm và
các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Nhờ đó, việc chăm lo cho người có công[55], người yếu thế và thực
hiện an sinh xã hội được thực hiện rất tốt[56]. Nhân dân Ninh Bình có nhiều nghĩa cử cao đẹp
như: kịp thời thăm hỏi, ủng hộ, giúp đỡ về tiền, của có giá trị cho những
người gặp khó khăn như nhân dân miền Tây Nam Bộ, miền núi phía Bắc, miền Trung
Tây Nguyên thời điểm bị bị ảnh hưởng bởi thiên tai[57]; là tỉnh đầu tiên có người hiến giác mạc và
cũng là tỉnh dẫn đầu cả nước về số người hiến giác mạc - một hành động đẹp được
xã hội tôn vinh[58];
không hiếm người dân sẵn sàng hiến đất, hiến công, hiến của có giá trị để xây
dựng quê hương, phát triển sản xuất. Nhân dân Ninh Bình là những người sống có
nghĩa có tình. Họ biết trân trọng, nhớ ơn công lao của thế hệ đi trước, bằng
việc lập nhiều đền thờ các vị tiền nhân có công với đất nước, như: Đền thờ Vua
Đinh Tiên Hoàng, Vua Lê Đại Hành, Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ; Thiền sư
Nguyễn Minh Không, đền thờ các vị vua nhà Trần…
Đoàn kết, tình nghĩa thể hiện
qua mối quan hệ bình đẳng, thân thiện giữa các tôn giáo. Ninh Bình được đánh
giá là một điểm sáng trong thực hiện công tác tôn giáo. Tại Ninh Bình, mặc dù
cùng tồn tại hai tôn giáo lớn nhưng các tôn giáo, tín đồ tôn giáo và những
người không theo tôn giáo nào ở Ninh Bình luôn hợp tác, hòa thuận với nhau.
Chính quyền tỉnh Ninh Bình luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân,
phát huy dân chủ, cụ thể hóa những chủ trương, chính sách phù hợp với tình
hình thực tế địa phương, góp phần tạo sự ổn định chính trị - xã hội, phát huy
tinh thần đoàn kết trong nhân dân. Các tổ chức tôn giáo được hướng dẫn, giúp đỡ
hoạt động theo đúng quy định của pháp luật, các chức sắc, chức việc, người có
uy tín trong các tôn giáo và trong cộng đồng dân cư phát huy vai trò, nêu gương
đoàn kết, thống nhất cao về tư tưởng và hành động, phối hợp trách nhiệm đồng
hành cùng nhân dân trong tỉnh xây dựng, phát triển quê hương. Các tăng, ni và
linh mục chung tay, tham gia ủng hộ và tổ chức khởi công xây dựng những ngôi
nhà ấm tình đoàn kết Lương - Giáo. Nhiều đồng bào có đạo ngoài việc đóng góp
công sức còn tự nguyện hiến đất làm đường, ủng hộ đồng bào trong và ngoài tỉnh
bị thiên tai lũ lụt, nhận nuôi trẻ và khám chữa bệnh miễn phí cho nhân dân...
Một số ngày lễ lớn của các tôn giáo đang dần trở thành sự kiện chung, ngày vui
chung của nhiều người trong tỉnh thể hiện mối quan hệ gắn bó thuận hòa của
người dân, không phân biệt tôn giáo, lễ giáo.
2.3. Giá trị bản lĩnh, sáng
tạo
a) Khái niệm
Theo từ điển tiếng Việt, bản
lĩnh là “Đức tính tự quyết định một cách độc lập thái độ, hành động của mình,
không vì áp lực bên ngoài mà thay đổi quan niệm”[59].
Như vậy, bản lĩnh là một trong
những yếu tố phổ quát, đặc trưng nhất hình thành nền văn hóa Việt Nam với những
giá trị mang đậm tinh thần nhân văn. Bản lĩnh được thể hiện ngay từ những ngày
đầu ông cha ta lập quốc và không ngừng được hun đúc, phát triển cho đến thời
đại Hồ Chí Minh. Trong tiến trình hàng ngàn năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bản
lĩnh của dân tộc Việt Nam đã trở thành mạch nguồn nuôi dưỡng nhân cách, tâm
hồn người Việt Nam, tạo nên sức mạnh nội sinh, nguồn động lực to lớn trong sự nghiệp
xây dựng, phát triển đất nước.
Theo từ điển tiếng Việt, sáng
tạo là “Tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần”, “Tìm ra cái mới,
cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có”[60]. Sáng tạo được hiểu là khả năng giải quyết vấn
đề bằng cách tạo ra cái mới, bằng cách thức mới để đạt được kết quả cao. Dựa
trên cơ sở thực tiễn để phân tích lựa chọn các giải pháp để giải quyết vấn đề
một cách hiệu quả. Phương cách giải quyết này thường là mới, mang tính sáng tạo
và hướng đến đạt được kết quả tối ưu. Sáng tạo là đức tính nổi trội của con
người mới hiện nay, thể hiện ở quá trình lao động miệt mài, thuần thục, có kỹ
năng, kỹ xảo nhuần nhuyễn để đạt được kết quả cao trong lao động.
Sáng tạo có thể bắt nguồn từ
các yếu tố khác nhau như trải nghiệm, kiến thức, môi trường, tình huống, thử
thách, sự đam mê, sự tỏa sáng… Kích thích sự sáng tạo là phải xóa bỏ tư duy bảo
thủ, bởi “Tư tưởng bảo thủ là như những sợi dây cột chân cột tay người ta…
Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm”[61].
b) Biểu hiện của giá trị bản
lĩnh, sáng tạo ở con người Ninh Bình
Trong suốt tiến trình dựng xây
và phát triển, người Ninh Bình với bản lĩnh, trí tuệ, sáng tạo cùng ý chí và
khát vọng vươn lên mạnh mẽ đã kiên cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất. Bản lĩnh, khí phách và sự sáng tạo
ấy càng được nhân dân Ninh Bình kế thừa, hun đúc và phát huy mạnh mẽ trong
những năm đầu thế kỷ XX, nhất là trong thời đại Hồ Chí Minh.
Con người Ninh Bình với truyền
thống kiên cường, trí tuệ, luôn đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc. Ninh Bình là vùng đất cổ, có vị trí
trọng yếu, là “cổ họng Bắc - Nam”, một địa bàn có thế hiểm yếu về quân sự, một
vùng đất mang đầy dấu tích lịch sử chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước từ
thời Hai Bà Trưng đến ngày nay. Cùng với Nhân dân cả nước, trải hơn một ngàn
năm bị cai trị thời Bắc thuộc; gần một thập kỷ đầy biến cố, thăng trầm của các
triều đại phong kiến Việt Nam, bất cứ giai đoạn, hoàn cảnh, điều kiện nào, con
người Ninh Bình với sức sống mãnh liệt và tinh thần dân tộc sâu sắc, đã bản
lĩnh kiên cường, sáng tạo, góp phần trong chống ngoại xâm giành độc lập dân
tộc, xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp hơn.
Vào đầu Công nguyên, nghĩa quân
Hai Bà Trưng đã dựa vào tuyến địa hình núi rừng của chân núi từ Ba Vì đến Tam
Điệp - Thần Phù để chống cự lại cuộc tiến công đàn áp của quân Hán do Mã Viện
chỉ huy. Sau khi căn cứ Cấm Khê bị mất, nghĩa quân lui xuống vùng Tam Điệp -
Thần Phù để tiếp tục cuộc chiến đấu. Đường biển thời gian đó qua Thần Phù hiểm
trở, sóng to gió lớn, đi lại rất khó khăn, nguy hiểm, Mã Viện phải sai quân
lính phá núi, mở đường sông gọi là Tạc Khẩu để vào Thanh Hoá. Nhân dân Ninh
Bình các vùng này rất kiên cường, không quản ngại gian khổ, hy sinh, vừa che
chở nghĩa quân, vừa cung cấp lương thực, thực phẩm và tích cực tham gia nghĩa
quân để chống giặc.
Đặc biệt, Đinh Bộ Lĩnh đã
“không chịu bó thân chốn rừng xanh, sống trong cảnh thác loạn sứ quân, nước nhà
không chủ, mà phất cờ, chiêu binh mãi mã”[62], dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước,
“lập nên nước Đại Cồ Việt oai cường ngay trước mắt nhà Tống, tự xưng Hoàng đế,
tự đặt quốc hiệu, niên hiệu, phong vương, ban tước cho bách quan văn võ, chế
độ, nghi lễ chẳng kém gì vương triều nhà Tống. Nhà Tống hạch sách, ông chỉ cho
con trai là Đinh Liễn sang chầu, chứ mình không sang. Ấy cũng là cái khí độ
của bậc Đế Vương hiếm thấy như các nhà viết sử xưa bình luận”[63].
Trong cuộc kháng chiến chống
quân Mông - Nguyên thế kỷ thứ XIII, núi rừng và nhân dân vùng Ninh Bình vừa là
áo giáp, vừa là vùng hậu cứ vững chắc của vua tôi nhà Trần xuất quân đánh
giặc. Triều Trần đã sử dụng bức tường thành Tam Điệp để bảo vệ hậu phương Ái -
Diễn (Thanh Hóa và Nghệ An) và làm chỗ dựa cho căn cứ Thiên Trường - Trường
Yên. Trần Thái Tông đã cho xây dựng cung Thái Vi (Ninh Hải - Hoa Lư) mở đầu cho
việc xây dựng hành cung Vũ Lâm tạo dựng cơ sở kháng chiến chống giặc Mông -
Nguyên lần thứ hai (1285). Nhà Trần đã rút lui chiến lược về vùng núi Thiên
Dưỡng, nay là vùng núi Hệ Dưỡng, ngay sát hành cung Vũ Lâm, xây dựng căn cứ địa
Trường Yên để chống giặc.
Trong cuộc kháng chiến chống
quân Minh (thế kỷ XV), nhân dân Ninh Bình đã tích cực tham gia, ủng hộ cuộc
khởi nghĩa dưới nhiều hình thức khác nhau. Trịnh Lỗi, một người con của Ninh
Bình đã chiêu mộ binh sĩ, dẫn quân vào đất Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa. Từ
khi về dưới trướng của Lê Lợi, Trịnh Lỗi tham gia nhiều trận đánh, trước sau
chống giữ, trải qua nhiều gian lao nguy hiểm, mấy lần phong lên chức Thiếu úy”[64].
Có thể nói những chiến công
hiển hách của dân tộc ta đều in đậm, gắn liền với những tên đất, tên làng,
ngọn núi, con sông và những người con tuấn kiệt, bản lĩnh của quê hương Ninh
Bình. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, ngay từ đầu, nhiều người con của
Ninh Bình đã tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1860, trong đoàn quân 300
nghĩa dũng Nam tiến do Hoàng giáp Tam đăng Phạm Văn Nghị dẫn đầu, có nhiều
nghĩa sĩ là người Ninh Bình.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, bản
lĩnh của con người Ninh Bình đã được phát huy đến mức cao độ, trở thành động
lực, sức mạnh để Đảng bộ và Nhân dân đấu tranh giành được chính quyền trong
Cách mạng tháng Tám; xây dựng vùng tự do Ninh Bình thành hậu phương vững mạnh
toàn diện trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Ngay từ những năm 1930, thực dân
Pháp mở cuộc đàn áp, khủng bố lớn, cho lính và tay sai ở các huyện lùng sục
những nơi tình nghi có tổ chức cộng sản và hoạt động cách mạng, các đồng chí
Nguyễn Văn Hoan, Tạ Uyên, Lương Văn Tụy bị đày đi Côn Đảo. Đặc biệt, trong cuộc
chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, thị xã Ninh Bình là một trong 6
thị xã của miền Bắc bị bom Mỹ phá hủy hoàn toàn. Mặc dù, phải chịu đựng những
tổn thất, hy sinh nhiều vô kể, song Đảng bộ, quân và Nhân dân Ninh Bình đã nêu
cao bản lĩnh quyết tâm, ý chí tự lực, tự cường, sáng tạo, phát huy truyền thống
yêu nước, cách mạng, vừa cùng với miền Bắc là hậu phương lớn, đóng góp lương
thực, thực phẩm chi viện cho tiền tuyến miền Nam, vừa hăng hái tham gia, xông
pha trên những trận tuyến đầu đầy cam go, khốc liệt, kiên cường, anh dũng lập
nhiều chiến công hiển hách, góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng, thống
nhất đất nước, cùng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. “Đi qua các cuộc kháng
chiến, trên 17 nghìn người con ưu tú của quê hương đã anh dũng ngã xuống, hơn
13 nghìn người để lại một phần xương máu trên các chiến trường, tô thắm thêm
truyền thống yêu nước sáng ngời của đất Ninh Bình”[65].
Bằng bản lĩnh và trí tuệ của
chính mình, con người quê hương Ninh Bình đã không chịu khuất phục trước bạo
tàn, góp phần cùng với cả nước chung tay, chung sức tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc, gìn giữ, bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Mỗi một người con của quê hương
Ninh Bình đều có quyền tự hào về truyền thống quý báu đó của con người quê
hương mình.
Trong lao động sản xuất, xây
dựng quê hương đất nước, con người Ninh Bình luôn luôn thể hiện bản lĩnh không
sợ gian khó, dám nghĩ, dám làm, có tầm nhìn xa trông rộng. Vùng đất và con
người Ninh Bình trong lịch sử dựng xây đất nước, bao giờ cũng để lại những dấu
ấn rất đặc biệt.
Trong lịch sử, vùng đất Ninh
Bình đã từng phải oằn mình chống trả những hiểm hoạ do thiên nhiên tác động.
Điển hình là những trận “đại hồng thủy” gần như là hàng năm, gây vỡ đê, úng
lụt khiến hàng nghìn hộ dân rơi vào cảnh màn trời chiếu đất, gây ra thiệt hại
về tài sản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân. Chính sự khắc
nghiệt của thiên tai bão lũ đó đã buộc người dân Ninh Bình phải sống đoàn kết,
gắn bó và phải có bản lĩnh, tự chủ và sáng tạo, với tinh thần chung sống với
bão lũ, với phẩm chất kiên cường, dũng cảm đối mặt với thiên tai, bám đất bám
làng, vượt khó vươn lên xây dựng một cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Thiên nhiên đã ưu đãi cho Ninh
Bình nhiều thắng cảnh nổi tiếng, độc đáo, hấp dẫn như: Tam Cốc - Bích Động,
Tràng An, Thung Nham, Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long, suối nước nóng Kênh
Gà, Vườn quốc gia Cúc Phương và nhiều di tích lịch sử văn hóa như Cố đô Hoa Lư,
Nhà thờ đá Phát Diệm… Bên cạnh đó, cùng với bàn tay lao động khéo léo và sự
sáng tạo, người dân Ninh Bình đã xây dựng, sáng tạo ra một nền văn hóa Ninh
Bình tương đối năng động, mang đặc trưng khác biệt trên nền tảng văn minh châu
thổ sông Hồng. Đó là nguồn tiềm năng phát triển quý giá mà nhiều địa phương
khác trong cả nước không có được. Nhưng cũng do địa hình phân chia thành ba
vùng tương đối rõ nét, vùng đồi núi ở phía Tây và Tây Bắc; vùng đồng bằng và
vùng ven biển phía Đông và phía Nam; đặc biệt, phía giáp Hòa Bình và Thanh Hóa
là rừng núi, đồi trọc, đất trung du, nếu nắng kéo dài thì đất đai khô hạn; vùng
đồng chiêm trũng ở các huyện: Nho Quan, Gia Viễn như một cái túi trũng bốn mùa đầy
nước, khi có mưa to nơi đầu nguồn, nước trên cao dồn xuống gây ra úng lụt, nên
công tác thủy lợi ở Ninh Bình rất được coi trọng. Để mở rộng diện tích đất canh
tác và đất ở, ngay từ năm 1827, Nguyễn Công Trứ chiêu mộ dân nghèo đắp đê, bắt
đầu cuộc chiến lấn biển, khát vọng chinh phục bãi bồi ở vùng đất Kim Sơn - vùng
cửa biển ở Ninh Bình gió to, sóng lớn. Cả một vùng bãi bồi, sình lầy, lau lách
mênh mông, nên việc quai đê đắp đường, đào sông gặp không ít khó khăn. Song,
người dân Ninh Bình với quyết tâm và sự linh hoạt, sáng tạo đã hoàn thành việc
quai đê, lấn biển Kim Sơn trong một khoảng thời gian ngắn. Lịch sử đã ghi nhận
các thế hệ người dân Kim Sơn luôn luôn tiên phong, bản lĩnh, sáng tạo, gắn bó
với hành trình quai đê lấn biển, với biết bao mồ hôi, công sức, máu và nước mắt,
đấu tranh vật lộn, để chiến thắng, chinh phục thiên nhiên. Việc quai đê, lấn
biển, chinh phục bãi bồi, xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi đã làm tăng
diện tích tự nhiên của huyện Kim Sơn lên bốn lần. Đó thực sự là những kỳ tích,
là minh chứng thuyết phục cho bản lĩnh, tầm nhìn của người Ninh Bình trong
dựng xây quê hương, đất nước.
Là một tỉnh có lịch sử phát
triển với dấu tích của nền văn minh lúa nước có từ rất sớm, ngoài trồng trọt
là nghề chính, tại mảnh đất này, với bàn tay khéo léo, trí tuệ và sự sáng tạo,
con người Ninh Bình đã tạo nên nhiều nghề thủ công lâu đời nổi tiếng như: Nghề
thêu ren Văn Lâm (xã Ninh Hải, thành phố Hoa Lư); nghề chạm khắc đá Ninh Vân (Làng
Xuân Vũ, xã Ninh Vân, thành phố Hoa Lư); nghề mỹ nghệ cói (Kim Sơn); làng nghề
gốm Bồ Bát (xã Yên Thành, huyện Yên Mô); làng nghề mộc Phúc Lộc; làng nghề đan
cót Vân Thị (xã Gia Tân, huyện Gia Viễn)… Các làng nghề truyền thống ở các làng
quê qua thời gian đều có những thăng trầm, đổi thay để hòa nhập với đời sống
đương đại. Tuy nhiên, những hồn cốt, tinh túy, những giá trị truyền thống tốt
đẹp vẫn luôn được người dân trân trọng, giữ gìn, thể hiện niềm tự hào về tinh
thần lao động, sáng tạo của cha ông, đồng thời, tiếp tục phát huy trong giai
đoạn đổi mới hiện nay để vừa giải quyết công ăn việc làm cho người lao động,
vừa khai thác để phát triển du lịch.
Ninh Bình hôm nay đang từng
bước khẳng định được tầm vóc trên bước đường hội nhập. Kinh tế phát triển khá,
quy mô nền kinh tế được mở rộng, trong đó sản xuất công nghiệp tăng trưởng
mạnh, tiểu thủ công nghiệp duy trì ổn định, các ngành dịch vụ tiếp tục phát
triển, du lịch có nhiều chuyển biến về chất lượng, từng bước trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của tỉnh; sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, chuyển
mạnh sang hướng hàng hóa chất lượng cao và giá trị kinh tế cao, sản lượng chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản tăng; kết cấu hạ tầng được đầu tư nâng cấp nhanh,
đồng bộ. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội đảm bảo, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Công tác quốc
phòng, quân sự địa phương được tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội được giữ vững; hoạt động đối ngoại mở rộng. Công tác xây dựng chỉnh đốn
Đảng được quan tâm chỉ đạo toàn diện có trọng tâm, trọng điểm và đạt kết quả
tốt; lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được nâng lên… Kết quả đó
là nguồn động viên, khích lệ to lớn và tạo nền tảng quan trọng để Ninh Bình
tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu và sớm trở thành tỉnh công
nghiệp theo tinh thần Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020 - 2025
đã đề ra.
Sau gần 40 năm thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng, hơn 30 năm tái lập tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình
đã phát huy truyền thống quê hương, khắc phục khó khăn, có bản lĩnh kiên cường vượt
qua thách thức, không ngừng tìm tòi, sáng tạo trong lao động sản xuất, biến những
tiềm năng, thế mạnh thành nội lực, tạo đà phát triển kinh tế - xã hội và đã
giành được kết quả quan trọng và khá toàn diện về các mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội. “Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn toàn tỉnh (theo giá
so sánh năm 2010) ước đạt 53.389,8 tỷ đồng, tăng 7,27% so với năm 2022. Trong
đó: Giá trị tăng thêm khu vực I (nông, lâm nghiệp và thủy sản) ước đạt 4.693,9
tỷ đồng, tăng 2,86%; khu vực II (công nghiệp - xây dựng) ước đạt 18.969,3 tỷ
đồng, tăng 2,95% (riêng công nghiệp ước đạt 14.404,8 tỷ đồng, tăng 1,51%); khu
vực III (dịch vụ) ước đạt 20.402,2 tỷ đồng, tăng 13,23%, thuế sản phẩm trừ trợ
cấp sản phẩm 9.324,4 tỷ đồng, tăng 6,38%... Tổng thu ngân sách trên địa bàn
tỉnh (chưa bao gồm hoàn thuế GTGT) năm 2023 ước thực hiện 16.431 tỷ đồng, đạt
73,4% dự toán HĐND tỉnh giao và giảm 32,3% so với năm 2022. Trong đó: Thu nội
địa ước đạt 13.556 tỷ đồng (chiếm 82,5% tổng thu), đạt 75,1% dự toán năm; thu
từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 2.875 tỷ đồng (chiếm 17,5% tổng thu), đạt
66,4% dự toán. Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện năm 2023 là 16.112,2
tỷ đồng, đạt 91% dự toán, giảm 0,8% so với năm 2022. Tổng vốn đầu tư phát triển
trên địa bàn toàn tỉnh năm 2023 ước đạt 32.155,8 tỷ đồng, tăng 7,5% so với năm
2022”[66]; đời sống vật
chất, tinh thần cho Nhân dân không ngừng được nâng cao. Nhìn những miền quê
nông thôn mới đáng sống; những mô hình kinh tế, những cánh đồng rau củ năng
suất cao; những khu kinh tế, khu công nghiệp được đầu tư xây dựng quy mô, hiện
đại,… Đó là kết quả của ý Đảng, lòng dân; của ý chí, khát vọng, giá trị văn
hóa và sức mạnh con người Ninh Bình, trong đó, có sức mạnh của bản lĩnh kiên
cường, anh dũng, tinh thần lao động sáng tạo, kiên trì, bền bỉ phấn đấu của
lớp lớp các thế hệ cán bộ, đảng viên và Nhân dân Ninh Bình.
Nhìn lại tiến trình lịch sử hào
hùng của dân tộc qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, trong đó, có sức
trỗi dậy của mảnh đất và con người Ninh Bình với chặng đường nhiều năm qua,
chúng ta thêm tự hào về những giá trị tinh thần và đặc điểm nhân cách con người
Việt Nam nói chung, con người Ninh Bình nói riêng “Bản lĩnh, sáng tạo”. Đúng
như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã phát biểu trong Hội nghị công bố
Quy hoạch tỉnh Ninh Bình thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, ngày
28/5/2024 “Ninh Bình - vùng đất Cố đô ngàn năm lịch sử, “địa linh nhân kiệt”,
gắn liền với nhiều danh thắng nổi tiếng mang tầm dân tộc và nhân loại; là nơi
bảo tồn, lưu giữ nhiều giá trị văn hóa đặc sắc; chứng nhân của một giai đoạn
lịch sử hào hùng thể hiện bản lĩnh, khí phách Đại Cồ Việt”[67].
Trong điều kiện đổi mới hiện
nay, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với khát
vọng cống hiến, phát huy truyền thống cha ông về giá trị bản lĩnh và sáng tạo,
thế hệ trẻ Ninh Bình vẫn không ngừng nỗ lực, cố gắng để đóng góp sức lực, trí
tuệ tài năng, nhiệt huyết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Họ là
những thanh niên xung kích có bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm trong khởi nghiệp,
lập nghiệp. Trong họ luôn có tư duy mới, sáng tạo không ngừng và luôn có khát
vọng, hoài bão, cống hiến trí tuệ để thúc đẩy sự tiến bộ, văn minh của xã hội.
Tiêu biểu như tấm gương anh Vũ Nhật Linh, nhân viên kỹ thuật của Trung tâm
Viễn thông Tam Điệp - Yên Mô là đại diện duy nhất của tuổi trẻ Tỉnh Ninh Bình
trong số 54 gương mặt được vinh danh “Người thợ trẻ giỏi” toàn quốc năm 2023.
Tính từ năm 2021 đến năm 2023, anh Vũ Nhật Linh đã có 4 sáng kiến được Viễn
thông Ninh Bình công nhận và ứng dụng rộng rãi trong toàn tỉnh. Điển hình là
sáng kiến “Nhân viên kỹ thuật địa bàn tận dụng thế mạnh để phát triển các dịch
vụ băng rộng cố định, MyTV và đưa khách hàng lên môi trường số”[68]. Quá trình phát triển
tỉnh Ninh Bình ngày càng diễn ra nhanh hơn nhờ sự hy sinh, cống hiến, đặc biệt
là khát vọng phát triển của toàn thể người dân, nhất là của thế hệ trẻ giàu
nhiệt huyết, tài năng. Đó cũng chính là những giá trị tiêu biểu tạo nên sức
mạnh nội sinh của tỉnh Ninh Bình trong thời hiện đại.
Bản lĩnh, sáng tạo còn được tập
trung thể hiện con người Ninh Bình luôn có hoài bão, khát vọng lớn lao: Hàng mấy
ngàn năm, nhân dân Ninh Bình bạt núi, xẻ đồi, quai đê, lấn biển, mở mang làng
bản, xây dựng những vùng quê trù phú, mầu mỡ. Con người Ninh Bình đặc sắc và
nổi bật bởi tư duy và hành động dựa thế chế ngự núi rừng, hướng ra chinh phục
Biển Đông, để tạo dựng cơ đồ, làm nên một dải quê hương núi sông, rừng biển kỳ
thú. Chỉ tính từ thời Lê sơ (thế kỷ XV) đến nay, nhân dân Ninh Bình đã tiến ra
chinh phục và mở mang bờ cõi bằng cả gần nửa diện tích của tỉnh như hiện có.
Gần 30 km dấu tích con đê Hồng Đức (1471) ngang qua tỉnh từ Đại Nha (Phụng
Công, xã Khánh Cường, huyện Yên Khánh), đến cửa biển Thần Phù (xã Yên Lâm,
huyện Yên Mô) là minh chứng sống động cho chiến công mở cõi, quai đê lấn biển
trên vùng đất Ninh Bình. Đinh Tiên Hoàng có khát vọng xây dựng một giang sơn xã
tắc thái bình, thịnh vượng, một chính thể có quân đội, nền kinh tế hùng cường
ngang với các đế chế trong vùng, đặc biệt là nhà Tống, ngay từ thuở cờ lau.
Trương hán Siêu cũng khát vọng xây dựng nhà nước phong kiến điều hành bằng pháp
chế khi ông viết Hình thư... Bảng Nhãn Vũ Duy Thanh, Vũ Phạm Khải, Phạm Thận Duật
thế kỷ XIX cũng có khát vọng xây dựng nước Đại Nam toàn vẹn, độc lập, thống
nhất khi là những người đứng đầu phái chủ chiến kháng Pháp, giữ vững giang sơn
gấm vóc... Lương Văn Thăng, Lương Văn Tụy thành lập chi bộ Đảng đầu tiên, cắm
cờ búa liềm trên đỉnh núi Thuý cũng là khát vọng một đất nước theo hình thái Xô
Viết Công Nông... Ngày nay, trong điều kiện bên cạnh những thuận lợi, còn nhiều
khó khăn, thử thách, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII,
Ninh Bình đang tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ, sức mạnh đoàn kết của toàn dân, khơi dậy ý
chí, khát vọng, giá trị lịch sử, văn hóa, con người Cố đô Hoa Lư, phấn đấu đến
năm 2035, tỉnh Ninh Bình sẽ trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc
trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo.
Như vậy, bản lĩnh và sáng tạo
là một giá trị vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại, trở thành
một trong những giá trị cơ bản trong hệ giá trị con người Việt Nam nói chung,
con người Ninh Bình nói riêng hiện nay. Qua thời gian, những giá trị bản lĩnh
và sáng tạo của thế hệ đi trước được thế hệ sau gìn giữ, chọn lọc, phát triển
lên những giá trị mới, kết thành bản sắc, “hồn cốt” quê hương, tạo sức mạnh,
động lực tinh thần, củng cố khối đại đoàn kết, giúp Nhân dân Ninh Bình vượt
qua những khó khăn, thử thách để tiếp tục xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khẳng
định vị thế của đất nước, dân tộc mình trên bản đồ thế giới.
2.4. Giá trị thân thiện, mến
khách
a) Khái niệm
Thân thiện là có tình cảm tốt,
là sự đối xử tử tế, biết nhường nhịn, quan tâm tới nhau, biết biểu hiện tình
cảm quý mến một cách chân thành, niềm nở, vui vẻ, gần gũi, thân mật, không phân
biệt đối xử. Mến khách là có cảm tình, thích gần gũi vì thấy hợp ý mình[69], làm cho mọi người cảm
thấy hạnh phúc, an toàn.
b) Biểu hiện giá trị thân
thiện, mến khách
Thân thiện, mến khách là cốt
cách, nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam từ ngàn đời nay. Ở
Ninh Bình, nét đẹp đó không chỉ thể hiện qua lối sống, cách ứng xử với nhau mà
thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội với những sắc màu vô cùng sinh động.
Giá trị thân thiện của người
Ninh Bình thể hiện trước hết qua quan niệm trị quốc của bộ máy chính quyền. Có
thể lấy mốc sự kiện đầu tiên kể từ khi Đinh Tiên Hoàng khai mở triều đại nhà
Đinh, khẳng định quốc gia Đại Việt hoàn toàn độc lập với phương Bắc, quần thần
tôn ông là Đại Thắng Minh Hoàng đế. Với tư duy nhạy bén, Đinh Tiên Hoàng nhận
thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng quan hệ bang giao với triều đình
phương Bắc. Vì thế, ngay sau khi thiết lập chính quyền, Đinh Tiên Hoàng lập tức
thực hiện ngay việc kết hiếu, giao hảo với nhà Tống. Ông cẩn trọng trong việc
cắt cử sứ giả sang Tống để thực hiện các nghi thức cầu phong, thăm hỏi, biếu
các sản phẩm địa phương. Tất cả những hoạt động này đều nhằm xây dựng mối quan
bang giao hòa hiếu, mong muốn có được sự công nhận chính thức, hợp pháp địa vị
của mình trong buổi đầu của kỷ nguyên độc lập. Những quyết sách ngoại giao
của Đinh Tiên Hoàng đặt nền móng cho chính sách đối ngoại ngang bằng vững chắc
cho các triều đại phong kiến sau này, thể hiện rõ nhận thức “trong việc trị
nước, hòa hiếu với láng giềng là việc lớn”. Hành động nhanh nhẹn và việc chọn
cử sứ giả của Đinh Tiên Hoàng đưa tới cho nhà Tống thông điệp rất tích cực về
hành động tử tế, một thái độ chân thành, thân thiện. Chính bởi vậy, nhà Tống
rất hài lòng, luôn tỏ ra hữu hảo, quý chuộng và yêu mến triều Đinh nói chung và
Vua Đinh Tiên Hoàng nói riêng. Nhờ đó, suốt thời gian kết giao không xảy ra
xung đột trong quan hệ giữa hai nước.
Cách xử sự mềm dẻo, uyển chuyển
của Đinh Tiên Hoàng có ảnh hưởng sâu sắc đến các quyết sách của Lê Đại Hành
sau này. Trong thời gian trị vì, Vua Lê cũng rất khéo léo trong xử lý mối quan
hệ với phương Bắc bằng việc sau khi lên ngôi, đã cử một đoàn sứ bộ sang thông
hiếu với nhà Tống kèm theo cống phương vật (năm 982). Việc làm này liên tục duy
trì vào các năm sau đó đã tỏ rõ tình cảm, thái độ thành ý của Vua Lê Đại
Hành, nhờ đó giải quyết được mối nguy lớn ở phía Bắc. Đồng thời ông cũng vừa
thực hiện biện pháp mềm mỏng, nhường nhịn với phía Chiêm Thành bằng hành động
quyết định bỏ qua việc Chiêm Thành xâm phạm vào năm 979, nhượng bộ một bước
bằng việc cử hai sứ giả sang Chiêm Thành kết giao.
Đặc tính thân thiện, mến khách
của người Ninh Bình cũng được thể hiện qua hình ảnh của Nguyễn Công Trứ, một
vị quan trung quân, ái quốc có tư duy chính trị nhạy bén. Ông thật sự rất quan
tâm đến dân, lo cho dân nên nhận ra, dân đói lưu vong không có ruộng đất dễ trở
thành những kẻ “làm loạn”. Để ổn định, phát triển xã hội lâu dài cần giải quyết
tận gốc vấn đề là đem lại ruộng đất, cơm áo cho dân nghèo. Nguyễn Công Trứ chủ
trương thực hiện khai khẩn đất hoang để dân vừa có ruộng đất sản xuất vừa không
bỏ phí tài nguyên. Chủ trương của ông được xem là cái mốc mở đầu cho thời kỳ chinh
phục đất đai bỏ hoang cũng như tạo phong trào khẩn hoang về sau này. Trong công
cuộc doanh điền ở miền ven biển Thái Bình và Ninh Bình, ông đặc biệt khuyến
khích các làng sở tại, xem họ là thành phần nòng cốt, trên cơ sở đó chiêu mộ
dân nghèo, thu hút nghĩa quân cũ. Chủ trương, chính sách nhân đạo của ông đã
tạo ra lối thoát không những cho nông dân nghèo, nghĩa quân mà cho cả triều
đình phong kiến đương thời.
Tính thân thiện, đề cao hòa
bình, giao hảo hữu nghị đã trở thành giá trị tốt đẹp được người Ninh Bình gìn
giữ, tiếp tục duy trì trong suốt quá trình đấu tranh, xây dựng và phát triển
quê hương, đất nước. Ngày nay, đặc tính ấy được biểu hiện qua hình ảnh một Ninh
Bình với chính quyền thân thiện, công sở thân thiện vì nhân dân phục vụ như lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành
đều của dân”. Hướng đến một chính quyền mà cán bộ, công chức, viên chức thực
sự “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân
nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Một Ninh Bình có môi trường đầu tư, kinh doanh
thân thiện, an toàn, hấp dẫn hàm chứa trong đó tinh thần dân chủ, bình đẳng,
trọng đạo lý. Sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp với chính quyền tại
Ninh Bình được phản ánh phần nào qua bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI).[70]
Thân thiện, mến khách thể
hiện qua lối sống và cách ứng xử giữa người với người. Người Ninh Bình thể
hiện sự thân thiện rất rõ trong cách sống, cách ứng xử của mình. Họ tận tình,
chất phác, thật thà, biết giữ lời ăn tiếng nói: “Chẳng thơm cũng thể hoa
nhài/Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Người Ninh Bình sống lạc quan,
hồn nhiên, vui vẻ nhưng không thích hoa lá cành, sáo rỗng; chân thật, thực tế
nhưng không ưa sự thô kệch.
Từ xa xưa, khoảng cách giữa
tầng lớp trên của xã hội như vua, quan, các tăng lữ, quý tộc hay tướng lĩnh cao
cấp trong hoàng thành với dân không xa là mấy. Họ cũng có lối ứng xử bình dân,
thậm chí thô phác[71].
Bản thân vua Đinh Tiên Hoàng, Vua Lê Đại Hành vốn là những nhà cai trị thuần
nông. Các ông đều có cách ứng xử rất linh hoạt, thái độ lúc thân mật, hòa đồng,
vui vẻ, lúc khẳng khái tỏ rõ uy lực của một vương triều, đại diện cho một
quốc gia độc lập có chủ quyền. Vua Lê Đại Hành khi tiếp sứ thần có học thức,
giỏi văn thơ, dùng thơ đối thơ, dùng nghĩa tình đãi nghĩa tình, nhưng sẽ dùng
đối sách mạnh, biểu dương sức mạnh khi tiếp sứ thần hống hách[72]. Thái độ của các ông là niềm nở, chan hòa và
phong cách gần gũi, mộc mạc, quan điểm hòa mục không có nghĩa là khuất phục,
hòa hiếu không có nghĩa là nhu nhược. Về phía các tăng lữ, quý tộc hay tướng
lĩnh cao cấp, sử sách ghi lại, nơi ở của họ thường không ở trong thành hay cận
thành, mà lập các phủ đệ ở cách xa thành, bên cạnh dân hay lẫn trong dân[73]. Các thiền sư có học
vấn cao như Pháp Thuận, Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh… sống rất gần
gũi với dân chúng, thấu hiểu dân chúng. Thiền sư Pháp Thuận từng có lời khuyên
Vua Lê Đại Hành rằng, nên để cho dân được sống yên lành, thì đất nước sẽ không
còn binh đao nữa[74].
Thời gian đầu, Ninh Bình chỉ có
dân bản địa sinh sống. Khi Hoa Lư trở thành kinh đô tạo nên sức hút cho cư dân
nơi khác tập trung về, từ đó củng cố, mở rộng hơn tổ chức quần cư. Những người
này hầu hết làm dịch vụ, còn nếu như làm nông nghiệp thì chủ yếu là nông
nghiệp sản xuất lương thực hàng hóa, thực phẩm hàng hóa cung cấp cho kinh
thành. Họ sống tại các làng hoặc tá túc ở các làng quê hòa thuận với dân bản
địa. Họ góp phần vào sự tồn tại và phát triển của kinh đô Hoa Lư. Sự xuất hiện
thêm dân cư nơi khác đến, cùng với người dân bản địa tạo thành tổ chức quần cư
khăng khít cùng tham gia vào các hoạt động của đời sống kinh tế xã hội cho
thấy bản tính của người dân nơi đây. Họ chấp nhận, dung hòa, thiết lập các mối
quan hệ với những người từ nơi khác đến tạo nên sự gia tăng số cư dân một cách
tự nhiên, đủ cho việc xác lập một đô thị theo tiêu chí nhận diện cư dân đô thị
hiện nay.
Thân thiện, mến khách thể
hiện qua việc chú trọng phát triển hoạt động du lịch. Ninh Bình được đánh
giá là nơi có núi cao chót vót, sông lớn chảy vòng vèo, nửa núi nằm trên sóng,
“núi lạ, sông đẹp, cảnh trí rất xinh”, lòng dân mộ Phật. Vậy nên, dù thời xa
xưa những chuyến đi của các thi nhân mặc khách, các bậc đế vương với mục đích
du ngoạn, thăm thú cảnh quan đã xuất hiện. Lịch sử ghi lại, ngay từ thời nhà
Trần, Ninh Bình đã có nhiều khách đến thăm. Vẻ đẹp “sơn thuỷ hữu tình” trở
thành nguồn cảm hứng thi ca của nhiều nhân tài, thi sĩ cùng các cuộc viếng
thăm của các bậc đế vương, công hầu khanh tướng, những người đỗ đạt trong các
kỳ thi, nơi lãng du của những kẻ sỹ[75]. Nơi vua Trần Nhân Tông chọn để khởi đầu cho sự nghiệp tu
hành của mình.
Ninh Bình có cảnh quan thiên
nhiên hiền hòa, có điều kiện tự nhiên đa dạng phong phú với núi, sông, rừng,
biển. Trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh của mình, Ninh Bình định hình và xác
định du lịch là trục chính trong chiến lược phát triển, hạt nhân để định hướng
phát triển các ngành, các lĩnh vực một cách phù hợp. Thiên nhiên tươi đẹp với
nhiều loại hình du lịch thân thiện, hài hòa với thiên nhiên, đem lại sự an yên
cho con người như du lịch sinh thái, du lịch văn hóa tâm linh, du lịch nghỉ
dưỡng, du lịch cuối tuần, du lịch du khảo đồng quê… lôi cuốn sự thăm viếng của
du khách. Lượng khách vì thế đến thăm Ninh Bình ngày càng đông hơn[76].
Sức hút của Ninh Bình không
chỉ bởi cảnh quan thiên nhiên mà còn đến từ con người Ninh Bình. Chính những
chủ nhân của mảnh đất này - những con người hồn nhiên, chân thật với sự nhiệt
tình, chu đáo, luôn đối xử ân cần, niềm nở, sự tử tế và lịch sự là điểm cộng
trong mắt của du khách khi đến thăm. Ghi nhận điều này, trong khuôn khổ giải
thưởng thường niên mang tên Traveller Review Awards lần thứ 12, năm 2024, Ninh
Bình vinh dự nằm trong top 3 điểm đến thân thiện nhất Việt Nam, 1 trong 3 điểm
đến đứng đầu về độ hiếu khách tại Việt Nam. Đặc biệt, khách sạn là loại hình cơ
sở lưu trú dẫn đầu về tính thân thiện với du khách, mô hình căn hộ và homestay đứng
vị trí thứ 2 và thứ 3. Trên nền tảng hướng dẫn du lịch TripAdvisor (Hoa Kỳ),
Ninh Bình được du khách bình chọn là “Top 10 trải nghiệm cuốn hút nhất thế giới
năm 2024”. Booking.com tổ chức giải thưởng thường niên Traveller Review Awards
về du lịch, Ninh Bình được xếp thứ 7 trong danh sách 10 vùng đất thân thiện
nhất thế giới năm 2023.
Cảnh quan kiến trúc, xây
dựng mang đặc trưng Ninh Bình cũng thể hiện sự thân thiện, hài hoà giữa con
người với con người: Tính cách hiền hòa, thân thiện của người Ninh Bình
thể hiện cả trong lối kiến trúc các công trình gắn với đời sống tinh thần và
vật chất của họ. Hiếm nơi nào có lối kiến trúc độc đáo như ở đây. Đó là lối
kiến trúc kết hợp hài hòa giữa yếu tố nhân tạo với yếu tố của thiên nhiên. Chất
liệu sử dụng trong kiến trúc có sẵn trong tự nhiên với môi trường như đá, gỗ,
nước, cỏ cây, hoa lá. Đó là kiểu kiến trúc có xu hướng nương tựa vào thiên
nhiên: lấy núi làm tường, sông làm hào, hang động làm nhà. Theo kết quả khảo
cổ, bên cạnh những tường thành xây kín bằng đất ken gạch, có đoạn phía trong
xây gạch, phía ngoài đắp đất, có đoạn đắp đá lẫn đất và có đoạn đắp hoàn toàn
bằng đất. Móng thành được lát bằng những đoạn gỗ. Các công trình kiến trúc hầu
hết rất hài hòa, cân đối từ nhịp điệu, tiết tấu đến bố cục. Người Ninh Bình
biết kết hợp nhẹ nhàng, bay bổng giữa cái vững trãi của đá, cứng rắn của gỗ,
mềm mại, trong lành của nước để tạo ra những công trình kiến trúc, đem đến cho
con người cảm giác gần gũi, hòa mình với thiên nhiên; kết hợp giữa yếu tố văn
hóa bản địa, văn hóa tâm linh với kiến trúc làm nổi bật ý nghĩa văn hóa dân tộc
- văn hóa bản địa. Các công trình kiến trúc thường có tỉ lệ thuận mắt, kích
thước hợp lý, phần giao cắt giữa các mảng, chi tiết nhẹ nhàng, không quá sắc
nhọn. Nếu đền Vua Đinh, Vua Lê thể hiện sự hòa hợp với hình thế phong thủy núi
sông, mang dáng dấp của sự uy nghiêm nhưng gần gũi; khiêm nhường, kín đáo mà
trang nhã, hiền lãnh; trầm mặc mà thân thiện thì nhà thờ Phát Diệm lại mang
dáng dấp kiến trúc bay lượn, lãng mạn theo kiểu kiến trúc gỗ cổ truyền, một
điển hình về sự hòa hợp giữa lương và giáo của Việt Nam, giữa kiến trúc truyền
thống bản địa với giá trị văn hóa thế giới. Hoặc như ở vùng đất Kim Sơn, tổ
chức quần cư được hình thành theo dạng xương cá, các bộ phận dân bám và phát
triển dọc biển theo con đường hướng về phía biển để tạo điều kiện dễ dàng cho
việc đi biển.
Thân thiện, mến khách thể
hiện qua sự dung nạp, tiếp nhận những giá trị văn hoá mới: Người Ninh Bình
tiếp biến, dung nạp các nền văn hóa khác như văn hóa Hòa Bình, Cái Bèo, Đa Bút,
Quỳnh Văn, Hạ Long, Hoa Lộc tạo nên sắc thái, nét đẹp bốn phương. Người Ninh
Bình tiếp nhận cả hai tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo từ rất sớm,
ngoài ra còn chấp nhận, dung hòa với đạo Tin lành, các hiện tượng tôn giáo mới
và rất nhiều loại hình tín ngưỡng dân gian khác. Cư dân theo các tôn giáo khác
nhau nhưng sống trên cùng một vùng đất, họ gắn bó với nhau, giữa những người
theo các tôn giáo tín ngưỡng khác nhau này không xảy ra những mâu thuẫn có tính
chất đối kháng. Họ tích cực nhập thế, hành đạo giúp đời, có nhiều đóng góp quan
trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên đất Ninh Bình đã diễn ra
nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao mang tầm khu vực, quốc gia
và quốc tế. Các hoạt động này góp phần thiết thực vào sự hiểu biết và tình hữu
nghị giữa nhân dân Ninh Bình với các nước khác, tỉnh thành khác trong cả nước.
Giá trị văn hóa, lịch sử Ninh Bình gắn liền, hoà quyện với giá trị con người
nơi đây góp phần tạo nên diện mạo vùng đất Cố đô và tạo nên sức hấp dẫn với
nhiều người.
Ninh Bình đã xác định phát
triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, vì thế, thân thiện, mến khách bắt
buộc phải trở thành thuộc tính quan trọng của du lịch. Thân thiện, mến khách
không chỉ dừng lại là sự thể hiện tình cảm, thái độ ứng xử, kỹ năng phục vụ một
cách chuyên nghiệp, mà còn là một cử chỉ văn hóa, yếu tố tạo nên sức hút, sức
hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước, trở thành lợi thế cạnh tranh của du
lịch Ninh Bình trong thời gian tới. Cùng với cảnh quan, những giá trị trên sẽ
gia nhập vào nguồn tài nguyên du lịch Ninh Bình, góp phần kiến tạo môi trường
du lịch có tầm quốc tế, xây dựng hình ảnh toàn cầu của Ninh Bình hướng đến sự phát
triển Ninh Bình trên mọi phương diện.
III. VAI TRÒ CỦA HỆ GIÁ TRỊ
VĂN HÓA, CON NGƯỜI NINH BÌNH TRONG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC
TRUNG ƯƠNG VỚI ĐẶC TRƯNG ĐÔ THỊ DI SẢN THIÊN NIÊN KỶ, THÀNH PHỐ SÁNG TẠO
1. Đặc trưng của Đô thị di
sản Thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo
Quyết định số 218/QĐ-TTg ngày 04/3/2024
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tỉnh Ninh Bình thời kỳ
2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đặt mục tiêu tỉnh Ninh Bình cơ bản đạt tiêu
chí “Thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ,
thành phố sáng tạo” vào năm 2030.
Nhằm hiện thực hoá tầm nhìn,
mục tiêu phát triển, dựa trên cơ sở chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Hiến pháp và
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Ninh Bình đã
có nhiều văn bản chỉ đạo nhằm tạo ra cơ sở chính trị, pháp lý, đặt nền móng cho
chính sách và hành động để đến năm 2035: Thành phố Ninh Bình “trở thành thành phố
trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng
tạo”. Để trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, tỉnh Ninh Bình đã có kế
hoạch sắp xếp, sát nhập thành phố Ninh Bình và huyện Hoa Lư, đánh giá thực trạng
đáp ứng các tiêu chuẩn của thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của
Nhà nước.
“Đô thị di sản thiên niên kỷ,
thành phố sáng tạo” là nét đặc trưng của thành phố Hoa Lư - thành phố trực
thuộc Trung ương. Hiện trên thế giới có nhiều mô hình phát triển đô thị có sở
hữu di sản (văn hoá, cảnh quan, kiến trúc) như: Đô thị - di sản lịch sử (Ví dụ:
Thành phố cổ Jerusalem - Israel); Đô thị - di sản đô thị (Ví dụ: Thành phố
Kyoto - Nhật Bản, Thành phố Huế - Việt Nam); Đô thị - Kiến trúc (Ví dụ: Thành
phố Prague - Cộng hoà Séc, Thành phố Barcelona - Tây Ban Nha); Đô thị - di sản
cảnh quan (Ví dụ: Thành phố Queenstown - New Zealand, Thành phố Venice - Ý); Đô
thị - di sản hỗn hợp (Ví dụ: Thành phố Rome - Ý, Thành phố Istanbul - Thổ Nhĩ
Kỳ)… Tuy nhiên, hiện nay, trên thế giới chưa có khái niệm thống nhất về đô thị
di sản, cho nên trên thế giới thuật ngữ được UNESCO thường xuyên sử dụng là “đô
thị lịch sử” (historic urban). Theo khuyến nghị năm 2011 của UNESCO về Cảnh quan
đô thị lịch sử (UHL), đô thị lịch sử bao gồm địa hình, địa mạo, thuỷ văn và các
đặc điểm tự nhiên của khu vực cũng như hệ thống kết cấu hạ tầng trên và dưới
mặt đất, không gian mở và vườn, mô hình sử dụng đất và tổ chức không gian. Đô
thị lịch sử không chỉ bao gồm các di tích mà còn là kết cấu đô thị nói chung cùng
các khía cạnh phi vật thể liên quan đến tính đa dạng và bản sắc, các giá trị và
thực tiễn văn hoá - xã hội của đô thị[77].
Đô thị Hoa Lư là một đô thị cổ
trong lịch sử Việt Nam, trở thành đô thị trung đại sớm nhất và tiêu biểu nhất
của quốc gia Đại Cồ Việt khi đó, ra đời gắn liền với thặng dư trong sản xuất
nông nghiệp. Năm 970, đồng tiền Việt Nam đầu tiên đã được Vua Đinh Tiên Hoàng
cho phát hành, đánh dấu sự ra đời của nền kinh tế, tài chính của chế độ phong
kiến trung ương tập quyền. Đại Việt Sử ký toàn thư cho biết năm Thái Bình thứ 7
(976) tại đây thuyền buôn nước ngoài tới dâng sản vật, kết mối giao thương với Đại
Cồ Việt. Theo GS.TS.NGND Nguyễn Quang Ngọc: “Cơ sở hạ tầng đô thị, cảng thị,
chợ búa, cảng sông, cảng biển… ngày một dầy thêm, thuyền buôn Trung Quốc, Chămpa
và một số nước trong khu vực Đông Nam Á vào ra tấp nập. Hoa Lư thực sự trở
thành đô thị buôn bán trao đổi trong tiểu vùng, trong toàn vùng châu Giao, châu
Ái, trong nước và phần nào với các nước trong khu vực khá sôi động, đánh dấu
một bước phát triển chưa từng có của đô thị Việt Nam trung đại ở những thập kỷ
cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ XI”[78].
Ở Việt Nam, theo quy định của
Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, đô thị là khu tập trung dân cư sinh sống có mật
độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung
tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, địa
phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố, nội thị, ngoại thị của
thị xã, thị trấn[79].
Trong đô thị, di sản được xem là một phần không thể thiếu của các đô thị, là
một bộ phận cấu trúc đã hình thành ở một hoặc nhiều thời kỳ của lịch sử, có
giá trị về lịch sử, văn hoá - nhân văn, kiến trúc, thẩm mỹ, cảnh quan, giá trị
vật chất và các giá trị khác để tạo nên vẻ đẹp riêng biệt, nét đặc trưng của
mỗi đô thị. Ở Việt Nam hiện nay, khái niệm “Đô thị di sản” chưa có trong hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. GS Hoàng Đạo Kính là người
đầu tiên đưa ra khái niệm hoàn chỉnh “Đô thị di sản là một chỉnh thể lịch sử
đặc trưng, một sản phẩm của nền văn minh đô thị, kết hợp hữu cơ các thành tố
vật chất và tinh thần, kiến trúc và văn hoá, trong sự hoà quyện với thiên
nhiên, là xuất phát điểm chi phối tất thảy[80]. Theo đó, đô thị di sản khác hoàn toàn đô thị
có di sản, đô thị sở hữu di sản bởi nó nhấn mạnh tính chỉnh thể của đô thị
trong yếu tố vật thể và phi vật thể trong mối quan hệ chặt chẽ và không thể
tách rời. Theo PGS.TS Lưu Đức Hải: “Đô thị di sản là đô thị có vị trí và cấu
trúc toàn đô thị hay một phần của đô thị được bảo tồn một cách toàn vẹn, trong
đó có hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được công nhận, được phát
triển trên nguyên tắc bảo tồn, phát huy giá trị di sản và hòa hợp với thiên
nhiên”[81]. PGS.TS.
Khuất Tân Hưng cho rằng, trong nhóm các tiêu chí đánh giá, nhận diện các đô thị
di sản, thì các tiêu chí giá trị về di sản phải là cốt lõi và phải được xem xét
toàn diện từ nhiều khía cạnh như: Vai trò, vị trí của đô thị trong lịch sử và truyền
thống văn hóa, mức độ bảo tồn các cấu trúc đô thị, các công trình, tòa nhà lịch
sử; các giá trị văn hóa phi vật thể có liên quan đến lịch sử văn hóa đô thị.
Trong đô thị có di sản nhưng chỉ di sản không thôi thì chưa đủ để làm nên đô
thị di sản mà phải là giá trị tổng hợp của đô thị trên mọi phương diện, đảm
bảo tính toàn vẹn, liên lục, phong phú và độc đáo của di sản kiến trúc và đô
thị trong mối quan hệ hữu cơ với văn hóa, con người và cảnh quan thiên nhiên,
mới xứng đáng được coi là Đô thị di sản. Ông đã đưa ra các tiêu chí chính về Đô
thị di sản, cụ thể: (i) Có cấu trúc đô thị được bảo tồn toàn vẹn và tiếp nối
hữu cơ qua các giai đoạn phát triển; (ii) Có hệ thống di sản kiến trúc và đô
thị phong phú, độc đáo tạo nên diện mạo đặc trưng của đô thị; (iii) Có cảnh
quan nhân tạo được tổ chức trong mối quan hệ hài hòa với cảnh quan thiên nhiên;
(iv) Có giá trị lịch sử và văn hóa đô thị đặc sắc được bảo lưu và phát triển
tiếp nối[82].
Trên cơ sở khái niệm “Đô thị di
sản”, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm “Đô thị di sản thiên niên kỷ”. PGS.TS
Lưu Đức Hải - Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, quan niệm
“Đô thị di sản thiên niên kỷ” là đô thị có vị trí và cấu trúc toàn đô thị hay
một phần của đô thị được bảo tồn một cách toàn vẹn, trong đó có hệ thống di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể được công nhận, được phát triển trên nguyên
tắc bảo tồn, phát huy giá trị di sản và hòa hợp với thiên nhiên với thời gian
phát triển trên 1000 năm”[83].
Đặc biệt, PGS.TS Đoàn Minh Huấn đã làm rõ về đặc trưng của Đô thị di sản
thiên niên kỷ như sau:
“- Đô thị di sản thiên niên kỷ
hàm nghĩa trên cả bình diện lịch sử đô thị hàng nghìn năm và tầm nhìn về một
hình mẫu đô thị thích ứng với biến đổi môi trường, hài hòa giữa không gian nhân
tạo với không gian thiên tạo, phát triển dựa trên khả năng tối đa hóa tính độc
đáo, giá trị văn hóa, bản sắc địa phương, kết hợp chặt chẽ giữa phục dựng, bảo
tồn di sản và phát triển kinh tế - xã hội...
- Triết lý phát triển Đô thị di
sản thiên niên kỷ lấy con người làm trung tâm, vì xã hội phồn vinh, Nhân dân
hạnh phúc; lấy văn minh sinh thái làm giá đỡ, khiến môi trường tự nhiên được
bảo vệ, chăm sóc và phụng dưỡng chu toàn, thẩm thấu trong mọi lĩnh vực, mọi
chính sách, mọi nơi, mọi lúc; lấy bản sắc văn hóa địa phương làm sức mạnh nội
sinh, lợi thế cạnh tranh, không chỉ khẳng định bản ngã mà còn trở thành nguồn
lực cho phát triển du lịch, công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản; lấy hội nhập
vào mạng lưới đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo, các trung tâm du
lịch, công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản trên thế giới làm hướng ưu tiên…
- Quy hoạch không gian đô thị
di sản phải bao hàm ý tưởng bảo đảm tính thống nhất giữa kiến trúc nhân tạo với
cảnh quan thiên nhiên, định hình nên hình thái đô thị lưỡng phân “phố trong
rừng”, “rừng trong phố”. Kiến trúc đô thị di sản phù hợp với từng phân khu chức
năng, nhất là các không gian bảo tồn, phục hồi di sản, cổ trang hóa. Phát triển
kinh tế di sản quy định yêu cầu kế thừa, phát huy các giá trị di sản, được
chuyển hóa vào từng sản phẩm du lịch, sản phẩm công nghiệp văn hóa”[84].
Ninh Bình nằm ở cửa ngõ miền
Bắc, là vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, có bề dày lịch sử và văn hoá, sở hữu
tài nguyên di sản văn hoá vật thể và phi vật thể rất phong phú, đa dạng, có giá
trị nổi bật, mang đậm bản sắc văn hoá độc đáo riêng có của Ninh Bình. Có thể
thấy nền văn hoá Ninh Bình tương đối năng động, phát triển trên nền tảng văn
minh châu thổ sông Hồng. Là vùng đất từng là kinh đô đầu tiên của nhà nước
phong kiến trung ương tập quyền tại Việt Nam, là vùng đất nền tảng cho các thế
hệ người Việt Nam đấu tranh, giữ gìn, bảo vệ độc lập tự chủ, tự cường của dân
tộc, là vùng đất có con người sinh sống từ cách ngày nay hơn 3 vạn năm… Ninh
Bình hội tụ đầy đủ tiềm năng, thế mạnh để xây dựng trở thành “Đô thị di sản
thiên niên kỷ” - đô thị mang đặc trưng một vùng di sản, đô thị duy nhất ở Việt
Nam vừa sở hữu Cố đô, vừa sở hữu di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới. Quần
thể danh thắng Tràng An với hai yếu tố nổi bật về văn hoá và thiên nhiên, trong
đó có dấu tích của Cố đô Hoa Lư và hệ thống hang động vùng núi đá vôi huyện
Hoa Lư và phụ cận có giá trị nổi bật về lịch sử, văn hoá, cảnh quan thiên
nhiên, đa dạng sinh học đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá và thiên
nhiên thế giới. Những giá trị nổi bật toàn cầu của di sản luôn được tôn trọng,
gìn giữ, các khu, điểm du lịch trong khu di sản đã thực sự trở thành hạt nhân,
là trung tâm thúc đẩy giao lưu văn hoá, thu hút đầu tư, phát triển du lịch bền
vững. Bên cạnh đó, những giá trị nổi bật của kinh đô Hoa Lư đã tạo lập các giá
trị bản sắc đặc trưng nhất của không gian lịch sử - văn hoá làm nguồn lực chủ
yếu, động lực mạnh và lợi thế căn bản cho Ninh Bình hướng tới Đô thị di sản văn
minh, hiện đại, đại diện cho cực tăng trưởng phía Nam của châu thổ sông Hồng. Đây
là đặc trưng cốt lõi, là cơ sở quan trọng, giá trị hàng đầu để định dạng thương
hiệu Đô thị di sản Ninh Bình trong định hướng phát triển đến năm 2030 và tầm
nhìn đến năm 2050 của Tỉnh uỷ Ninh Bình[85].
Ninh Bình đã và đang xây dựng
các tiêu chí của một đô thị di sản thiên niên kỷ với đầy đủ các yêu cầu của
một đô thị văn minh, hiện đại; sở hữu những giá trị nổi bật toàn cầu về văn hoá
và thiên nhiên, giá trị lịch sử - văn hoá đặc sắc được bảo tồn và phát huy, giá
trị văn hoá, thiên nhiên được bảo tồn theo cam kết quốc tế và pháp luật di sản văn
hoá của Việt Nam; cảnh quan nhân tạo, cấu trúc đô thị được tổ chức hài hoà với
không gian di sản văn hoá và cảnh quan thiên nhiên; phát triển công nghiệp văn
hoá trở thành ngành kinh tế mũi nhọn để Ninh Bình trở thành một trong những trung
tâm công nghiệp văn hoá của cả nước. Sự kết hợp giữa yếu tố lịch sử, văn hoá,
thiên nhiên… giúp đô thị di sản ở Ninh Bình trở nên độc đáo và trở thành nguồn
sống cho cư dân, tạo động lực quan trọng cho sự phát triển của Ninh Bình.
Những năm qua, Ninh Bình đặc biệt chú trọng khai thác các tiềm năng, thế mạnh,
phát huy giá trị bản sắc riêng của những di sản để tạo ra các sản phẩm du lịch
đa dạng, mang tính đặc thù, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, như: sản phẩm
du lịch lễ hội truyền thống, sản phẩm du lịch làng nghề, sản phẩm du lịch sinh
thái, sản phẩm du lịch văn hoá… Những di sản được phát huy đã đem lại sự thay
đổi trong phát triển du lịch, đồng thời góp phần tăng trưởng kinh tế địa
phương, nâng cao sinh kế cho người dân Ninh Bình. Ninh Bình trở thành điểm đến
hấp dẫn du khách trong và ngoài nước, liên tiếp được các chuyên trang du lịch
đánh giá cao: “vùng đất thân thiện thế giới năm 2023”, “Vườn quốc gia Cúc Phương
- công viên quốc gia hàng đầu châu Á từ 2019 đến 2024”… Hoạt động du lịch không
chỉ góp phần bảo tồn và phát triển cộng đồng, bảo vệ các nguồn tài nguyên tự
nhiên, văn hoá, lịch sử thông qua sự kết nối, tham gia của người dân trong
cộng đồng mà thông qua việc tham gia vào hoạt động du lịch người dân hiểu hơn
về lịch sử và truyền thống quê hương, góp phần tạo dựng niềm tự hào, giá trị
văn hoá địa phương, tạo tiền đề cho sự phát triển đô thị di sản thiên niên kỷ,
thành phố sáng tạo.
Hiện nay Ninh Bình gần như có
đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp văn hóa. Hiện nay, tỉnh đang
định hình đồng bộ 10 lĩnh vực công nghiệp văn hóa có lợi thế cạnh tranh của địa
phương dựa trên thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành tựu khoa
học, công nghệ, bao gồm: (1) du lịch văn hoá; (2) công nghiệp tổ chức sự kiện;
(3) công nghiệp thể thao; (4) công nghiệp điện ảnh; (5) kinh tế di sản; (6)
kinh tế làng nghề thế hệ mới; (7) nghệ thuật hình ảnh; (8) nghệ thuật truyền
thông và quảng cáo; (9) nghệ thuật thiết kế sáng tạo và mỹ thuật công nghiệp;
(10) công nghiệp văn hoá số, nhằm phát huy thế mạnh của Ninh Bình, tạo ra
nhiều việc làm, nâng cao thu nhập làm tiền đề dẫn dắt các lĩnh vực khác, đảm bảo
thực hiện thắng lợi “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến
năm 2020, tầm nhìn 2030” đã được Chính phủ phê duyệt và quyết định số 218/QĐ-TTg
ngày 04/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tỉnh Ninh Bình
thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó nêu rõ chỉ tiêu phát triển
đến năm 2030 là: “phấn đấu công nghiệp văn hóa chiếm trên 10% GRDP”, đến năm 2035:
“Trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng Đô thị di sản thiên
niên kỷ, thành phố sáng tạo; một trung tâm lớn, có giá trị thương hiệu cao về
du lịch, công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản của cả nước và khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương...”.
2. Vai trò của hệ giá trị
văn hóa, con người Ninh Bình trong tiến trình xây dựng thành phố trực thuộc
trung ương với đặc trưng là đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo
* Hệ giá trị văn hóa, con
người góp phần quan trọng trong việc định hình bản sắc văn hóa, lối sống của
con người Ninh Bình trong phát triển đô thị mới.
Văn hóa, hệ giá trị văn hóa,
con người có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước nói chung,
sự phát triển của đô thị nói riêng. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc ngày 24/11/1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân
đi”[86], nhấn mạnh
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là kim chỉ nam định hướng cho sự
phát triển bền vững. Văn hóa nghệ thuật, theo Người, cũng là một mặt trận quan
trọng trong việc xây dựng bản sắc dân tộc, nhất là trong bối cảnh phát triển đô
thị. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) cũng nhấn mạnh: “Văn hóa là
một bộ phận hữu cơ của sự phát triển kinh tế - xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển”. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ XI (2011) tiếp tục khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, là mục tiêu và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”. Trong
Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn
mạnh yêu cầu: “xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã
hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền
vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát
triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh”. Do
đó, việc phát huy giá trị văn hóa và con người là điều kiện cần thiết để đảm
bảo sự phát triển bền vững của xã hội, giúp định hình bản sắc dân tộc, bản sắc
văn hóa, lối sống của con người trong phát triển đô thị.
Ninh Bình, vùng đất với bề dày
lịch sử và văn hóa, đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ để trở thành thành
phố trực thuộc trung ương, mang đặc trưng của một đô thị di sản thiên niên kỷ
và thành phố sáng tạo. Trong quá trình này, hệ giá trị văn hóa và con người
Ninh Bình đóng vai trò trung tâm trong việc định hình bản sắc văn hóa và lối
sống của cư dân, đồng thời thúc đẩy sự phát triển đô thị bền vững.
Hệ giá trị văn hóa của Ninh
Bình, bao gồm các yếu tố như dân tộc, dân chủ, nhân văn, hòa hợp và tiến bộ,
không chỉ phản ánh bản sắc văn hóa địa phương mà còn là nền tảng quan trọng cho
sự phát triển. Dân tộc và nhân văn là những yếu tố cốt lõi trong việc giữ gìn
và phát huy tinh thần đoàn kết, gắn bó cộng đồng. Sự gắn kết xã hội này chính
là động lực để người dân cùng nhau xây dựng, bảo vệ và phát triển đô thị. Tinh thần
dân chủ và hòa hợp cũng là nhân tố quan trọng trong phát triển đô thị mới, bởi
sự tham gia của người dân trong các quyết định phát triển địa phương giúp bảo
đảm quyền lợi, thúc đẩy tinh thần trách nhiệm và cống hiến cho cộng đồng. Đặc
biệt, yếu tố tiến bộ trong hệ giá trị văn hóa giúp thúc đẩy sự sáng tạo và cầu
thị, đặc biệt là trong việc áp dụng các phương pháp quản lý đô thị tiên tiến,
phát triển công nghiệp văn hóa và du lịch, từ đó tạo nên những sản phẩm đặc
sắc, thu hút du khách và nâng cao giá trị thương hiệu của Ninh Bình.
Cùng với đó, hệ giá trị con
người Ninh Bình, bao gồm lòng yêu quê hương, tinh thần đoàn kết, bản lĩnh sáng
tạo và sự thân thiện, mến khách, đóng vai trò quyết định trong quá trình xây
dựng và phát triển đô thị mới thông minh, mang đặc trưng di sản. Tình yêu quê
hương và đoàn kết giúp người dân gìn giữ các di sản văn hóa, thúc đẩy sự tham
gia tích cực trong các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị của di sản. Điều
này là một yếu tố quan trọng để phát triển bền vững, khi người dân Ninh Bình
vừa là người bảo vệ, vừa là những người khai thác giá trị của di sản để phát
triển kinh tế địa phương. Tinh thần bản lĩnh và sáng tạo giúp người Ninh Bình
luôn sẵn sàng đối mặt với những thách thức, đồng thời tạo ra các sản phẩm du
lịch độc đáo, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường. Đặc biệt, sự
thân thiện, mến khách là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh du lịch
Ninh Bình thân thiện, tạo ấn tượng tốt với du khách, từ đó góp phần phát triển
bền vững ngành du lịch địa phương.
Trong bối cảnh Ninh Bình hướng
đến phát triển thành một đô thị di sản thiên niên kỷ và thành phố sáng tạo,
những giá trị văn hóa và con người này càng trở nên quan trọng. Đô thị di sản
không chỉ là nơi có di tích lịch sử mà còn là môi trường sống, nơi mà văn hóa,
lịch sử và thiên nhiên hòa quyện với nhau, tạo nên một bản sắc độc đáo và chất
lượng sống cao cho cư dân. Ninh Bình với lợi thế về di sản văn hóa và thiên
nhiên phong phú, từ Cố đô Hoa Lư đến khu danh thắng Tràng An, có tiềm năng lớn
để phát triển theo hướng đô thị di sản. Việc phát triển công nghiệp văn hóa tạo
ra việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần duy trì và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống, tạo điều kiện cho người dân được sống trong
môi trường đô thị hiện đại mà vẫn gắn bó với những giá trị di sản của quê
hương.
Sự kết hợp giữa di sản văn hóa
và thiên nhiên với các yếu tố hiện đại giúp Ninh Bình tạo nên một bản sắc văn
hóa riêng biệt và giúp định hình lối sống tích cực, bền vững cho cư dân. Người
dân tự hào về quê hương và có cơ hội tham gia trực tiếp vào quá trình phát
triển đô thị, từ đó tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ cho cộng đồng. Sự kết
nối giữa con người và không gian sống mang tính vật lý, là sự giao thoa văn
hóa, nơi con người trở thành chủ thể sáng tạo và đồng thời là người bảo tồn,
phát triển các giá trị văn hóa. Chính điều này làm cho quá trình phát triển đô
thị ở Ninh Bình không chỉ là quá trình hiện đại hóa mà còn là quá trình duy trì
và phát triển bản sắc văn hóa địa phương.
Như vậy, hệ giá trị văn hóa và
con người Ninh Bình đóng vai trò then chốt trong việc định hình bản sắc văn hóa
và lối sống của cư dân, đồng thời là động lực quan trọng cho sự phát triển bền
vững của đô thị. Nhờ vào sự kết hợp giữa những giá trị văn hóa truyền thống và
sự sáng tạo trong phát triển, Ninh Bình đang từng bước vươn lên trở thành một đô
thị di sản thiên niên kỷ, một thành phố sáng tạo và hiện đại, đồng thời vẫn giữ
được những giá trị quý báu của quá khứ.
* Hệ giá trị văn hóa và con
người là cơ sở khơi dậy tiềm năng Ninh Bình trong xây dựng, phát triển đô thị
di sản thiên niên kỷ
Hệ giá trị văn hóa và con người
Ninh Bình giữ vai trò then chốt trong việc phát huy tiềm năng văn hóa, tạo cơ
sở vững chắc cho việc xây dựng và phát triển đô thị di sản thiên niên kỷ. Những
giá trị văn hóa đặc trưng, bao gồm tinh thần đoàn kết, nhân văn và hòa hợp, thúc
đẩy sự gắn kết trong cộng đồng, nâng cao ý thức trách nhiệm xã hội của từng cá
nhân. Sự kết hợp giữa bảo tồn văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội là điều
cần thiết trong bối cảnh Ninh Bình đang hướng tới hình mẫu đô thị di sản.
Tính cách hiền hòa và lòng mến
khách của người dân Ninh Bình tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc hình
thành các mối quan hệ xã hội bền vững. Sự gắn kết này khuyến khích người dân
tham gia tích cực vào các hoạt động phát triển đô thị, đồng thời thúc đẩy họ
trong việc bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Các di sản như quần
thể danh thắng Tràng An và Cố đô Hoa Lư được gìn giữ, trở thành nguồn lực quan
trọng cho phát triển du lịch, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cư
dân.
Ngoài ra, hệ giá trị văn hóa và
con người Ninh Bình còn là cơ sở quan trọng cho việc phát huy tính cộng đồng,
khơi dậy lòng tự hào và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với quê hương. Một
cộng đồng đoàn kết và gắn bó sẽ có khả năng thích ứng cao hơn với những thách
thức trong quá trình phát triển, góp phần hình thành Ninh Bình với đặc trưng là
đô thị di sản, sáng tạo và phát triển bền vững.
Đô thị di sản thiên niên kỷ là
không gian vật chất, là môi trường sống nơi các giá trị văn hóa và di sản được
bảo tồn và phát huy. Văn hóa Ninh Bình là cơ sở cho công tác quy hoạch không
gian đô thị đảm bảo tính thống nhất giữa kiến trúc nhân tạo và cảnh quan thiên nhiên,
nhằm tạo ra một hình thái đô thị độc đáo và hấp dẫn. Việc này giúp Ninh Bình
duy trì bản sắc văn hóa, đồng thời khuyến khích sự tham gia tích cực của cộng
đồng trong quá trình phát triển đô thị.
Như vậy, hệ giá trị văn hóa và
con người Ninh Bình là nền tảng cho việc xây dựng cộng đồng gắn kết, là yếu tố
quan trọng trong phát triển đô thị di sản thiên niên kỷ.
* Hệ giá trị văn hóa và con
người Ninh Bình đóng vai trò then chốt trong công tác bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa, đồng thời góp phần xây dựng đô thị thiên niên kỷ và thành phố
sáng tạo. Đây là nền tảng quan trọng giúp bảo vệ các giá trị truyền thống,
đảm bảo sự phát triển bền vững thông qua sự kết hợp giữa bảo tồn và đổi mới.
Đô thị di sản thiên niên kỷ là
một chỉnh thể, kết hợp giữa các yếu tố vật chất và tinh thần, kiến trúc và văn
hóa, thiên nhiên và con người. Mô hình này mang tầm nhìn dài hạn về khả năng
thích ứng với biến đổi môi trường và duy trì sự cân bằng giữa không gian nhân
tạo và thiên nhiên. Triết lý phát triển của đô thị di sản thiên niên kỷ lấy
con người làm trung tâm, nhằm xây dựng một xã hội phồn vinh, hạnh phúc, đồng
thời bảo vệ môi trường và duy trì văn minh sinh thái. Bản sắc văn hóa địa
phương, được coi là lợi thế cạnh tranh, không chỉ khẳng định bản thể đặc thù,
mà còn trở thành nguồn lực phát triển du lịch, công nghiệp văn hóa và kinh tế
di sản.
Trong tiến trình đó, hệ giá trị
văn hóa và con người Ninh Bình thể hiện vai trò then chốt trong việc kết nối
giữa bảo tồn di sản văn hóa và phát triển kinh tế. Hệ giá trị văn hóa Ninh Bình
bao gồm các yếu tố cốt lõi như dân tộc, dân chủ, nhân văn, hòa hợp và tiến
bộ, giúp định hướng cho sự phát triển đô thị và kinh tế địa phương. Ninh Bình,
với bề dày lịch sử và văn hóa đặc sắc của vùng đồng bằng sông Hồng, sở hữu
những di sản quý giá như Quần thể danh thắng Tràng An và Cố đô Hoa Lư… Những di
sản này là tài sản vô giá, là nguồn lực quan trọng thúc đẩy du lịch và kinh tế.
Hệ giá trị con người Ninh Bình
với các phẩm chất như tình yêu quê hương, đoàn kết, nhân nghĩa, bản lĩnh và
sáng tạo đã góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Tình yêu quê hương
giúp người dân nhận thức sâu sắc về giá trị văn hóa mà họ sở hữu, từ đó có ý
thức bảo tồn và khai thác di sản phục vụ cho phát triển kinh tế. Tinh thần đoàn
kết và nhân nghĩa tạo điều kiện cho cộng đồng xây dựng môi trường phát triển
bền vững, trong khi sự sáng tạo và bản lĩnh là động lực thúc đẩy sự đa dạng hóa
các sản phẩm du lịch như du lịch sinh thái, văn hóa và làng nghề.
Chính hệ giá trị văn hóa và con
người địa phương đã giúp Ninh Bình duy trì bản sắc riêng, đồng thời là nguồn gốc
sâu xa thúc đẩy đổi mới và sáng tạo trong quá trình xây dựng, phát triển đô thị.
Điều này không chỉ giúp Ninh Bình trở thành đô thị di sản thiên niên kỷ, nơi
lịch sử, văn hóa và thiên nhiên được bảo tồn một cách hài hòa, mà còn khẳng định
vị thế của địa phương trong mạng lưới đô thị sáng tạo và các trung tâm du lịch
quốc tế.
* Hệ giá trị văn hóa và con
người Ninh Bình là tài sản vô giá, là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển
bền vững.
Trên thế giới, phát triển bền
vững là phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến tương lai.
Ba trụ cột của phát triển bền vững bao gồm kinh tế, xã hội và sinh thái môi
trường.
Tại Việt Nam, khái niệm phát
triển bền vững được tiếp cận dưới hai góc độ: thứ nhất, là duy trì và bảo vệ
giá trị môi trường sống; thứ hai, là sự phát triển dài hạn, đảm bảo không làm
ảnh hưởng đến tương lai. Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát
triển bền vững được định nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được
nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu
đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”.
Từ nội hàm khái niệm phát triển
bền vững, rõ ràng là, hệ giá trị văn hóa và con người nơi đây là tài sản vô
giá, là nguồn vốn vô tận cho sự phát triển bền vững của Ninh Bình trong xây
dựng đô thị di sản thiên niên kỷ.
Ninh Bình, vùng đất giàu lịch
sử và văn hóa, đang nắm trong tay cơ hội lớn để phát triển kinh tế bền vững
thông qua việc xây dựng đô thị di sản thiên niên kỷ. Kinh tế luôn luôn là trụ
cột đầu tiên trong các mô hình phát triển bền vững. Đối với Ninh Bình, việc
phát triển kinh tế hiệu quả và công bằng là điều cần thiết để cải thiện chất
lượng cuộc sống của cư dân. Hệ giá trị văn hóa của Ninh Bình, bao gồm các yếu
tố như lòng yêu quê hương và tinh thần đoàn kết, có thể góp phần tạo ra một môi
trường kinh doanh năng động. Văn hóa Ninh Bình chính là tài nguyên vô tận cho
phát triển công nghiệp văn hóa, nhất là du lịch. Điều này tạo nên sự phát triển
cho nền kinh tế Ninh Bình và tạo cơ sở vật chất cho sự bảo tồn giá trị di sản
văn hóa Ninh Bình, đảm bảo sự phát triển bền vững cho địa phương.
Giá trị văn hóa và con người
Ninh Bình đóng vai trò nền tảng cho phát triển bền vững xã hội. Tôn trọng và
bảo vệ quyền con người là yêu cầu thiết yếu, tạo nên trụ cột vững chắc. Hệ giá
trị con người, với tinh thần đoàn kết và sự thân thiện, thúc đẩy sự hài hòa xã
hội. Tính cộng đồng và trách nhiệm cá nhân của người Ninh Bình ảnh hưởng tích
cực đến các vấn đề xã hội, góp phần vào sự phát triển chung. Đồng thời, sự phát
triển bền vững xã hội lại củng cố và gia tăng giá trị văn hóa của địa phương.
Môi trường đóng vai trò trụ cột
trong phát triển bền vững. Với hệ thống di sản văn hóa và thiên nhiên phong phú,
Ninh Bình, đặc biệt là Quần thể danh thắng Tràng An - di sản kép được UNESCO
ghi danh, không chỉ cung cấp nền tảng phát triển công nghiệp văn hóa và du lịch
mà còn góp phần quan trọng trong bảo vệ môi trường. Định hướng phát triển Ninh
Bình thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên
niên kỷ và thành phố sáng tạo vừa thúc đẩy kinh tế vừa đảm bảo một môi trường
sống chất lượng cao cho cư dân. Những yếu tố này tạo cơ sở vững chắc để Ninh
Bình đạt được mục tiêu phát triển bền vững về môi trường.
Như vậy, hệ giá trị văn hóa và
con người Ninh Bình đóng vai trò nền tảng cốt lõi trong tiến trình xây dựng đô
thị di sản thiên niên kỷ và thành phố sáng tạo. Những giá trị văn hóa đặc
trưng, như tinh thần đoàn kết, lòng yêu quê hương, và bản lĩnh sáng tạo đã góp
phần duy trì bản sắc văn hóa, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững. Từ
việc bảo tồn và phát huy di sản, Ninh Bình có thể tạo dựng một mô hình phát
triển đô thị hiện đại, hòa quyện giữa truyền thống và đổi mới. Hệ giá trị con
người với sự thân thiện, mến khách cùng ý thức trách nhiệm xã hội cao, tạo ra
động lực mạnh mẽ cho quá trình phát triển kinh tế và văn hóa. Nhờ vào sự kết
hợp này, Ninh Bình vươn lên trở thành thành phố trực thuộc Trung ương và khẳng
định được vị thế độc đáo của mình trên bản đồ du lịch và kinh tế quốc gia, tạo
nền tảng vững chắc cho một tương lai phát triển bền vững.
Phần
thứ ba
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
I. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI
VIỆC TRIỂN KHAI ĐỀ ÁN
1. Thuận lợi
- Ninh Bình có vị trí địa lý,
điều kiện tự nhiên, truyền thống lịch sử - văn hóa lâu đời, nguồn tài nguyên
văn hóa dồi dào, đa dạng, rất thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội; giao lưu văn hóa giữa các vùng miền trong nước và hội nhập quốc tế.
- Công tác xây dựng và phát
triển văn hóa, con người luôn được cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp tỉnh Ninh
Bình quan tâm, chăm lo. Trong các chương trình, đề án, kế hoạch phát triển,
tỉnh Ninh Bình đều coi trọng việc phát triển văn hóa, con người, đặt nhiệm vụ
phát triển văn hóa, con người ngang tầm với nhiệm vụ phát triển kinh tế.
- Việc xây dựng và phát triển
tỉnh Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị
di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số 218/QĐ-TTg ngày 04/3/2024 về Quy hoạch tỉnh Ninh Bình thời kỳ
2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Một trong 07 nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện
mục tiêu này có nhiệm vụ về phát triển văn hóa: “Phát triển toàn diện văn
hóa - xã hội; coi trọng văn hóa cơ sở, xây dựng nếp sống văn minh; bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của con người vùng đất Cố đô.
Tập trung bảo quản, tu bổ, phục hồi, phát huy di sản Cố đô Hoa Lư và Di sản
văn hoá và thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An”. Đây là cơ sở
quan trọng để Ninh Bình huy động nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội…
2. Khó khăn
- Việt Nam nói chung, tỉnh Ninh
Bình nói riêng đang trong quá trình phát triển, điều kiện kinh tế, nguồn nhân
lực, khoa học, kỹ thuật,... còn nhiều hạn chế. Kinh tế phát triển chưa bền
vững, có những ảnh hưởng đến sự phát triển các mặt của đời sống xã hội, trong
đó có lĩnh vực văn hóa. Nguồn lực đầu tư phát triển văn hóa, con người còn hạn
chế, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có.
- Việc xây dựng Hệ giá trị văn
hóa, con người hiện nay mới đang được triển khai, nên chưa có hệ quy chiếu
chính thức của quốc gia để làm cơ sở xây dựng, khó khăn cho việc xác định hệ
giá trị riêng cho từng địa phương.
- Nhận thức của một bộ phận
người dân về văn hóa, giá trị văn hóa, con người Ninh Bình còn hạn chế. Tư
tưởng an phận thủ thường, thoả mãn, chủ quan, ỷ lại vẫn còn rải rác đây đó
trong một bộ phận cán bộ, công chức. Hệ thống thiết chế văn hóa trong tỉnh tuy
phát triển nhanh về số lượng, nhất là ở cơ sở nhưng trang thiết bị kỹ thuật,
nguồn nhân sự, kinh phí hoạt động còn thiếu, không đồng bộ, do đó một số thiết
chế chưa phát huy hiệu quả hoạt động.
- Công nghiệp văn hóa được định
hướng là nhóm ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trong thời gian tới khi xây dựng
và phát triển tỉnh Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng
đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo, tuy nhiên, vẫn thiếu những sản
phẩm văn hóa góp phần lan toả, giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về
hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình.
II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ
GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Mục tiêu
- Nhằm hoàn thành mục tiêu,
nhiệm vụ chính trị đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng là “Tập trung nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc
gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát
triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Tăng cường giáo dục lòng
yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách
nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”.
- Xác lập hệ giá trị văn hóa,
con người Ninh Bình gắn với xây dựng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố
sáng tạo Ninh Bình, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đưa Ninh Bình
trở thành trung tâm kinh tế - văn hóa của khu vực đồng bằng sông Hồng và đất
nước. Lan toả và phát huy mạnh mẽ các giá trị văn hoá, giá trị con người Ninh
Bình trên tất cả các hoạt động, các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, văn
hoá - giáo dục và đến với mọi tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh.
2. Nhiệm vụ và giải pháp
2.1. Tăng cường sự lãnh đạo
của cấp ủy đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa; tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của văn hóa nói chung, hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình nói riêng
trong xây dựng Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc
trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo
- Tăng cường công tác lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh về xây dựng và phát triển văn hóa nói
chung; về xây dựng và lan tỏa hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình trong xây
dựng thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ,
thành phố sáng tạo nói riêng.
- Tiếp tục quán triệt, thực
hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về văn hóa Việt Nam nói chung, hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình
nói riêng, nhất là các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần của Nghị quyết số
33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Kết luận số 76-KL/TW của
Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW.
- Tập trung đổi mới, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa - xã hội. Trên cơ sở
các đặc trưng của đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo, nghiên cứu
xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách quản lý văn hóa, nghệ thuật đặc thù để
những giá trị văn hóa “dân tộc - dân chủ - nhân văn - hòa hợp - tiến bộ”,
giá trị con người “yêu đất nước, yêu quê hương - đoàn kết, nhân nghĩa - bản lĩnh,
sáng tạo - thân thiện, mến khách” được bảo vệ, củng cố và phát huy.
- Xây dựng chiến lược phát
triển các giá trị văn hoá, giá trị con người Ninh Bình phù hợp với các tiêu
chuẩn của thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên
niên kỷ, thành phố sáng tạo. Xác định lĩnh vực mũi nhọn, nền tảng căn bản; mục
tiêu, lộ trình thực hiện cụ thể…
- Phát huy vai trò giám sát,
phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, cộng đồng
dân cư trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội - con người. Đẩy mạnh các giải pháp
nhằm đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, tự
diễn biến, tự chuyển hóa trên lĩnh vực con người.
- Nâng cao nhận thức của cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người dân về vị trí, vai trò, đóng góp
của văn hóa trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế;
văn hóa thực sự “đứng ngang hàng với kinh tế, chính trị”; phát huy tinh thần,
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là người đứng
đầu trong xây dựng và phát triển văn hóa, lan tỏa hệ giá trị văn hóa, con người
Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay; xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên, liên tục của các cấp, các ngành, địa phương, góp phần tạo nên sức mạnh
tinh thần, sức mạnh nội sinh trong tiến trình xây dựng Ninh Bình trở thành
thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ,
thành phố sáng tạo.
- Tiếp tục tuyên truyền, giáo
dục về lịch sử, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, của quê hương,
trong đó có nội dung các giá trị văn hóa, con người Ninh Bình đến các tầng lớp
nhân dân. Khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, truyền
thống hiếu học, giá trị lịch sử, văn hóa của vùng đất Cố đô Hoa Lư, cũng như ý
chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển quê hương đất nước phồn vinh, hạnh
phúc.
- Phát triển giáo dục và đào
tạo gắn liền với phát triển văn hóa, đưa các nội dung về phát triển văn hóa, hệ
giá trị văn hóa, con người Ninh Bình vào chương trình giáo dục, đào tạo để phổ
biến, giáo dục học sinh, sinh viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn
hóa nói chung, hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình nói riêng trong xây dựng
Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản
thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo. Đưa các chương trình giáo dục nghệ thuật truyền
thống vào giảng dạy trong trường học, tạo điều kiện cho học sinh phát huy năng
khiếu, sở trường, nâng cao hiểu biết, góp phần giữ gìn và bảo tồn các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa gia
đình, nhà trường và xã hội; giữa các ban, ngành, đoàn thể trong công tác giáo
dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, văn hóa nông thôn mới, văn minh đô
thị, định hướng thẩm mỹ cho các tầng lớp nhân dân, nhất là học sinh, sinh viên.
2.2. Xây dựng và phát triển
công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa
- Phát triển công nghiệp văn
hóa nhằm giúp chuyển hóa nguồn tài nguyên văn hóa dồi dào của tỉnh thành những
sản phẩm trên thị trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lan tỏa hệ giá
trị văn hóa, con người Ninh Bình, làm cho văn hóa thấm sâu vào mỗi con người,
là nền tảng, sức mạnh nội sinh trong đời sống xã hội. Phấn đấu đến năm 2030:
công nghiệp văn hóa chiếm trên 10% GRDP; đến năm 2035: trở thành thành phố trực
thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo;
một trung tâm lớn, có giá trị thương hiệu cao về du lịch, công nghiệp văn hóa, kinh
tế di sản của cả nước và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương theo mục tiêu đề ra
tại Quyết định số 218/QĐ-TTg ngày 04/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Quy hoạch tỉnh Ninh Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phát
triển có trọng tâm, trọng điểm công nghiệp văn hóa theo hướng chuyên nghiệp,
hiện đại, năng động, sáng tạo, có tính cạnh tranh cao, đồng thời đa dạng hóa,
liên kết đa ngành, đa lĩnh vực; phù hợp với các quy luật cơ bản của kinh tế
thị trường và xu thế của thời đại.
- Đa dạng hóa các sản phẩm công
nghiệp văn hóa nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của công chúng, trong đó
đặc biệt chú trọng đầu tư phát triển các sản phẩm có giá trị cao gắn với đặc trưng
đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo Ninh Bình như: du lịch văn hóa,
nghệ thuật biểu diễn, nhiếp ảnh và triển lãm, điện ảnh, thủ công mỹ nghệ,...
- Đẩy mạnh công tác thông tin,
tuyên truyền về công nghiệp văn hóa trên các phương tiện thông tin đại chúng và
nền tảng kỹ thuật số. Tăng cường tổ chức các sự kiện cấp quốc gia, cấp tỉnh để
kết nối, giao lưu, quảng bá, giới thiệu sản phẩm và dịch vụ công nghiệp văn
hóa, lồng ghép trong hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch.
2.3. Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống thể chế và thiết chế văn hóa
- Tiếp tục rà soát, kiến nghị
hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách văn hoá để nâng cao hiệu quả, hiệu
lực quản lý nhà nước trong công tác phát triển văn hoá, con người Ninh Bình.
- Có cơ chế, chính sách đủ
mạnh để huy động tối đa các nguồn lực cùng tham gia xây dựng, phát triển cơ sở
vật chất, hạ tầng văn hóa, hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hoá, gắn với thể
thao, du lịch; đầy đủ về số lượng, mật độ hợp lý, đồng bộ, hiện đại, chuyên
nghiệp tạo ra những giá trị và ý nghĩa to lớn trong đời sống xã hội, nhằm gia
tăng kết nối cộng đồng, bảo đảm quyền sáng tạo, tiếp cận, thực hành và thụ
hưởng văn hóa của người dân, đồng thời tạo thêm nguồn lực cho phát triển kinh
tế - xã hội.
- Chú trọng đầu tư cho các
thiết chế văn hoá xã, phường, thị trấn, thôn, xóm nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt và hưởng thụ văn hóa của nhân dân, từng bước khắc phục tình trạng chênh
lệch về mức thụ hưởng văn hóa giữa khu vực thành phố và nông thôn.
- Ban hành và triển khai thực
hiện Đề án đầu tư xây dựng mạng lưới thiết chế văn hóa tỉnh Ninh Bình đến năm
2035, tầm nhìn đến 2045.
2.4. Phát triển nguồn nhân
lực làm văn hóa
- Chú trọng công tác xây dựng,
phát triển nguồn nhân lực làm văn hóa. Xây dựng và hoàn thiện Kế hoạch tổng thể
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tương thích với Quy hoạch tỉnh Ninh
Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó có các giải pháp đặc
thù cho nhân lực chất lượng cao làm công tác văn hóa. Đánh giá đúng hiện trạng
nguồn nhân lực làm văn hóa, đặc biệt là nguồn nhân lực sáng tạo, dự báo chính
xác sự biến động của nguồn nhân lực này để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù
hợp; đồng thời đổi mới hình thức, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng;
gắn nội dung đào tạo, bồi dưỡng với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ,
thành phố sáng tạo.
- Thường xuyên quan tâm, đổi
mới cơ chế, chính sách về thu hút, tuyển dụng, sử dụng nguồn nhân lực văn hóa
một cách phù hợp, hiệu quả. Xây dựng chế độ, chính sách hỗ trợ, trọng dụng đối
với đội ngũ văn nghệ sĩ, nghệ nhân tài năng, góp phần thu hút nguồn nhân lực
chất lượng cao làm công tác văn hóa.
- Có chính sách xây dựng, đầu
tư, nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ cho các trung tâm, lớp học
nghệ thuật truyền thống; khuyến khích xã hội hóa và đa dạng hóa các loại hình
đào tạo văn hóa, nghệ thuật.
2.5. Phát triển khoa học và
công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với phát triển văn hóa, tăng cường ứng dụng
khoa học công nghệ hiện đại trong phát triển sản phẩm văn hóa
- Tiếp tục quán triệt các nội
dung phát triển khoa học và công nghệ trong phát triển văn hoá. Xây dựng cơ chế
khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến
để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa phù hợp với xu thế phát triển và hội
nhập quốc tế về văn hóa.
- Tiếp tục duy trì và phát
triển các giải thưởng trong lĩnh vực văn hoá. Đầu tư một số kênh truyền hình,
ấn phẩm, truyền thông xã hội về văn hoá, đa dạng hoá các loại hình truyền thông
trên nền tảng số và mạng xã hội. Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về khoa
học và công nghệ trong lĩnh vực văn hoá. Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước đối
với các hoạt động phát triển khoa học và công nghệ trong lĩnh vực văn hoá.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu,
ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong lĩnh vực văn hóa như: áp
dụng công nghệ số, công nghệ 3D, công nghệ thực tế ảo (Virtual Reality - VR)
theo lộ trình bài bản để tạo ra những không gian ảo sống động và chân thực, từ
đó kích thích thị giác và tác động đến sự phát triển du lịch văn hoá.
- Xác định nội dung ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại trong sáng tạo, sản xuất, phổ biến,
lưu giữ các sản phẩm văn hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ văn hóa; nội dung,
phương thức hoạt động của các ngành văn hóa (đặc biệt là các ngành công nghiệp
văn hóa) gắn với ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại, chuỗi sản phẩm, dịch
vụ của lĩnh vực văn hóa.
- Khuyến khích khởi nghiệp sáng
tạo trong lĩnh vực văn hóa và du lịch gắn với đặc trưng đô thị di sản thiên niên
kỷ, thành phố sáng tạo, gồm: khuyến khích các dự án khởi nghiệp phát triển sản phẩm
và dịch vụ du lịch thông minh, sử dụng công nghệ như thực tế ảo (VR), thực tế
tăng cường (AR) để mang lại trải nghiệm mới mẻ cho du khách; đẩy mạnh các dự án
khởi nghiệp trong lĩnh vực văn hóa, bao gồm phát triển các sản phẩm thủ công
mỹ nghệ, nghệ thuật biểu diễn và phim ảnh; thành lập các trung tâm khởi nghiệp
và vườn ươm doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ, văn hóa để hỗ trợ các ý
tưởng sáng tạo và thu hút đầu tư. Điều này sẽ giúp Ninh Bình tạo ra một môi trường
khởi nghiệp sáng tạo mạnh mẽ, thu hút các ý tưởng mới và đầu tư vào các ngành
nghề có tiềm năng, đồng thời phát huy giá trị văn hóa, con người và kinh tế địa
phương.
2.6. Bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa, con người Ninh Bình
- Tăng cường mức đầu tư ngân
sách cho công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá, con người Ninh Bình.
Đẩy mạnh huy động các nguồn lực xã hội để thực hiện bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của con người vùng đất Cố đô.
- Phục dựng, bảo tồn và phát
triển một số lĩnh vực văn hoá truyền thống: ẩm thực truyền thống, nghệ thuật
biểu diễn truyền thống; thủ công mỹ nghệ, sản phẩm sinh dược, sản phẩm văn hoá
- nghệ thuật tâm linh, du lịch văn hoá; kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại
trong chuỗi các sản phẩm (nhu cầu và thị hiếu).
2.7. Nâng cao chất lượng các
hoạt động văn hóa nhằm lan tỏa hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình
- Nâng cao hiệu quả hoạt động
văn hóa cơ sở, nhất là các hoạt động văn nghệ quần chúng, triển lãm, thông tin
cổ động, bảo tàng, thư viện, biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,... phục vụ nhiệm vụ chính trị và
nâng cao đời sống tinh thần cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Khuyến khích, tạo điều kiện
để mọi người dân chủ động tham gia tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng,
phát huy năng lực sáng tạo. Đổi mới các hoạt động văn hóa phù hợp sự phát triển
của công nghệ thông tin, thích ứng với sự biến đổi của xã hội, con người
trong thời đại mới.
- Phát triển sự nghiệp văn học,
nghệ thuật, tạo điều kiện cho đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo ra nhiều tác phẩm có
giá trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân
chủ, tiến bộ, phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân
tộc, địa phương và công cuộc đổi mới quê hương, đất nước.
2.8. Đẩy mạnh chuyển đổi số
trong phát triển ngành du lịch di sản, du lịch văn hóa; phát triển các loại
hình văn hóa, du lịch, dịch vụ thông minh, sáng tạo gắn với hệ giá trị văn hóa,
con người Ninh Bình
- Ứng dụng công nghệ số vào du
lịch di sản, phát triển các ứng dụng di động du lịch thông minh, tạo ra các ứng
dụng di động hỗ trợ du khách khám phá di sản văn hóa và danh lam thắng cảnh
của Ninh Bình. Các ứng dụng này có thể cung cấp thông tin lịch sử, chỉ dẫn
tham quan và gợi ý về các địa điểm thú vị. Đặc biệt, công nghệ định vị GPS và
thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR) có thể được tích hợp để tạo ra các
hành trình tham quan tương tác, tái hiện các không gian di sản, cung cấp trải
nghiệm số hóa cho du khách.
- Phát triển nội dung số về di
sản và văn hóa như tạo các video tài liệu số hóa ngắn gọn nhưng sáng tạo về di
sản văn hóa để quảng bá văn hóa và lịch sử của Ninh Bình qua các nền tảng trực
tuyến, thu hút sự quan tâm của du khách trẻ và khách quốc tế. Xây dựng, cung cấp
các tour du lịch số hóa thông qua các nền tảng trực tuyến giúp du khách có thể
trải nghiệm tham quan ảo các di sản của Ninh Bình, thậm chí có thể "dẫn
dắt" các tour qua công nghệ số từ xa. Điều này đặc biệt hiệu quả trong bối
cảnh dịch bệnh hoặc khi khách du lịch quốc tế không thể đến thăm trực tiếp.
- Phát triển sản phẩm du lịch
sáng tạo gắn liền với văn hóa địa phương, xây dựng sản phẩm thủ công mỹ nghệ
và quà lưu niệm sáng tạo, kết hợp các yếu tố truyền thống với thiết kế hiện đại
trong sản phẩm thủ công mỹ nghệ và quà lưu niệm. Phát triển các hoạt động du
lịch trải nghiệm như tham gia làm đồ thủ công truyền thống, học hát chèo, hát
xẩm hoặc tham gia các lễ hội truyền thống. Đây là cách giúp du khách không chỉ
tham quan mà còn tương tác và trải nghiệm văn hóa địa phương.
- Tổ chức lễ hội du lịch quốc
tế, quy mô lớn gắn với văn hóa và di sản Ninh Bình để quảng bá du lịch thông
qua các phương tiện truyền thông hiện đại và thu hút du khách từ khắp nơi trên
thế giới. Phát triển các sự kiện nghệ thuật đường phố và biểu diễn nghệ thuật
công cộng như biểu diễn ca nhạc, hội họa và nghệ thuật đương đại tại các điểm
du lịch, kết hợp với công nghệ chiếu sáng, âm thanh để tạo ra các trải nghiệm
sống động cho du khách.
- Phát triển hạ tầng và chính
sách phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, trong đó tập trung xây dựng môi trường
pháp lý thuận lợi, các chính sách hỗ trợ và khuyến khích hợp tác quốc tế, đặc
biệt trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ, văn hóa, đô thị thông minh, chuyển đổi số
và sáng tạo. Tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và các nền tảng
quản lý đô thị thông minh như quản lý giao thông, điện lưới thông minh và các
dịch vụ công trực tuyến để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng hệ thống quản
lý du lịch thông minh, sử dụng công nghệ để quản lý và phân tích dữ liệu du
khách, tối ưu hóa dịch vụ và trải nghiệm du lịch. Thúc đẩy thanh toán điện tử
và dịch vụ số hóa, tạo điều kiện cho việc thanh toán không tiền mặt, sử dụng
thẻ du lịch thông minh và các dịch vụ số hóa giúp du khách dễ dàng tiếp cận các
dịch vụ trong suốt hành trình của mình…
2.9. Đẩy mạnh hợp tác quốc
tế, phát triển đô thị di sản thiên niên kỷ thông minh và sáng tạo gắn với hệ
giá trị văn hóa, con người Ninh Bình
- Kết nối, hợp tác với các đô
thị thông minh nổi tiếng như Singapore, Barcelona, Seoul, Tokyo,… để học hỏi và
áp dụng các mô hình phát triển đô thị thông minh về giao thông, môi trường và
hạ tầng kỹ thuật số. Điều này có thể thực hiện thông qua các chương trình đối
tác thành phố, trao đổi công nghệ và chuyên gia. Tham gia các tổ chức quốc tế
về phát triển đô thị thông minh như Smart Cities Council hoặc Cities Today Institute
để cập nhật kiến thức, xu hướng và công nghệ mới nhất trong phát triển đô thị
thông minh.
- Tổ chức và tham gia các hội
nghị, hội thảo quốc tế về di sản thế giới, phát triển công nghệ, đổi mới sáng
tạo, phát triển du lịch, dịch vụ trên thế giới để kết nối với các chuyên gia
công nghệ, nhà đầu tư và doanh nghiệp quốc tế (như Google, Microsoft, IBM, Amazon,
Walmart, AEON MALL, Intrepid Travel, InterContinental Hotels Group, TripAdvisor,
Airbnb, và Booking.com…), qua đó học hỏi và tạo dựng các mối quan hệ hợp tác
tiềm năng, tranh thủ quảng bá hình ảnh quê hương, văn hóa, con người Ninh
Bình, thu hút đầu tư xây dựng, phát triển thành phố di sản thiên niên kỷ, thông
minh, sáng tạo. Xúc tiến thương mại và du lịch quốc tế, tăng cường quảng bá
quốc tế về du lịch thông minh: Phối hợp với các tổ chức quốc tế và đại sứ quán
Việt Nam tại nước ngoài để quảng bá du lịch văn hóa di sản của Ninh Bình, đặc
biệt là trong lĩnh vực du lịch thông minh, thông qua việc sử dụng các nền tảng
công nghệ và truyền thông xã hội.
Phần
thứ tư
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
I. THỜI GIAN THỰC HIỆN
1. Năm 2025: Hoàn thiện
và công bố Hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình gắn với triển khai quy
hoạch, xây dựng Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.
2. Đến năm 2030: Hệ giá
trị văn hóa, con người Ninh Bình được quán triệt và phổ biến sâu rộng đến tất
cả các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân trong toàn tỉnh; đồng thời phát
huy ảnh hưởng, tác dụng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Ninh Bình trở
thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên
kỷ, thành phố sáng tạo.
3. Đến năm 2045: Hệ giá
trị văn hóa, con người Ninh Bình được hiện thực hoá toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá - giáo dục, tạo
dựng bản sắc, thương hiệu, sản phẩm văn hóa, con người Ninh Bình gắn với thành
phố trực thuộc Trung ương mang đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố
sáng tạo.
II. NGUỒN KINH PHÍ
Kinh phí thực hiện Đề án được
đảm bảo từ nguồn ngân sách Nhà nước theo phân cấp ngân sách hiện hành; lồng
ghép trong kinh phí thực hiện các nghị quyết, chương trình, đề án, nhiệm vụ
khác có liên quan; các nguồn vốn hợp pháp khác (nếu có).
III. PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
1. Sở Văn hóa và Thể thao
- Chủ trì phối hợp với các cơ
quan, đơn vị có liên quan, UBND các huyện, thành phố tham mưu, đề xuất Tỉnh
ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình ban hành các chủ trương, chiến lược,
chương trình và kế hoạch phát triển văn hóa; kế hoạch công bố, phổ biến, tuyên
truyền hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình rộng rãi trên địa bàn trong và
ngoài tỉnh.
- Chủ trì, phối hợp với các
sở, ngành, cơ quan đơn vị liên quan, UBND các huyện, thành phố tổ chức triển
khai thực hiện các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển văn hóa trong
từng giai đoạn; tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá, tổng hợp báo cáo, sơ kết,
tổng kết việc thực hiện Đề án và đề xuất cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung
nội dung nếu cần thiết.
- Chủ trì xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
ngành văn hóa.
- Chủ trì, phối hợp với các
sở, ngành, cơ quan đơn vị liên quan tham mưu tổ chức các hoạt động giao lưu,
đối ngoại văn hóa trong và ngoài nước.
2. Sở Kế hoạch và Đầu tư
Chủ trì, phối hợp với Sở Văn
hóa và Thể thao và các cơ quan có liên quan đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh các
chủ trương, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển trong lĩnh vực văn hóa.
3. Sở Giáo dục và Đào tạo
- Chủ trì, phối hợp với các
đơn vị có liên quan xây dựng chương trình và đưa nội dung giáo dục lịch sử, văn
hóa, hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình vào trường học dưới nhiều hình
thức sinh động, hấp dẫn, thích hợp.
- Chỉ đạo phát triển các trường
ở các cấp đạt tiêu chuẩn trường văn hóa, thực hiện tốt các chỉ tiêu quy định về
trang thiết bị, cơ sở vật chất thực hiện nhiệm vụ giảng dạy văn hóa, giá trị thẩm
mỹ, đạo đức, lối sống cho học sinh đạt chất lượng.
4. Sở Nội vụ
- Tổng hợp kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức ngành văn hóa trong dự thảo kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức khối Nhà nước hằng năm, báo cáo Ủy ban
nhân dân tỉnh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy tổng hợp để trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy
xem xét, phê duyệt.
- Phối hợp với Sở Văn hóa và
Thể thao triển khai tổ chức kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ,
công chức ngành văn hóa.
5. Sở Tài chính
Chủ trì, phối hợp với các cơ
quan, đơn vị có liên quan, căn cứ khả năng cân đối ngân sách, tham mưu cho cấp
có thẩm quyền bố trí kinh phí chi thường xuyên ngân sách tỉnh để thực hiện Đề
án theo quy định hiện hành.
6. Trường Đại học Hoa Lư
- Phối hợp với Sở Giáo dục và
Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức biên soạn Bộ tài liệu về hệ giá trị
văn hóa, con người Ninh Bình để đưa vào giảng dạy, giáo dục học sinh, sinh viên
trong trường học.
- Phối hợp với Sở Nội vụ, Sở
Văn hóa và Thể thao, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác văn
hóa; thực hiện các chuyên đề phổ biến “Hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình”
cho đối tượng liên quan trong phạm vi toàn tỉnh.
7. Báo Ninh Bình, Đài Phát
thanh và Truyền hình tỉnh
Tổ chức viết bài, xây dựng
phóng sự tuyên truyền, lan tỏa hệ giá trị văn hóa, con người trong xây dựng
Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản
thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo đến người dân.
8. Các sở, ban, ngành của
tỉnh
- Tổ chức tuyên truyền, phổ
biến hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình trong cán bộ, Đảng viên góp phần
củng cố, lan tỏa hệ giá trị văn hóa, con người trong xây dựng Ninh Bình trở
thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên
kỷ, thành phố sáng tạo.
- Căn cứ chức năng, nhiệm vụ
được giao, chủ động triển khai thực hiện, phối hợp tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ đề ra tại Đề án này.
9. Đề nghị Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy
- Chỉ đạo, định hướng công tác
tuyên truyền, triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận về lĩnh
vực văn hóa trên địa bàn tỉnh.
- Nắm tình hình dư luận xã hội
về các hoạt động văn hóa, văn nghệ, văn học, nghệ thuật diễn ra trên địa bàn
tỉnh.
10. Đề nghị Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tỉnh Ninh Bình và các tổ chức đoàn thể
Phối hợp tổ chức tuyên truyền,
vận động các tổ chức, cá nhân, đoàn viên, hội viên tích cực thực hiện các nhiệm
vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Ninh Bình; bảo tồn, phát huy hệ
giá trị văn hóa, con người Ninh Bình gắn với xây dựng và phát triển Ninh Bình
trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên
niên kỷ, thành phố sáng tạo.
11. Ủy ban nhân dân các
huyện, thành phố
- Tổ chức tuyên truyền, phổ
biến Đề án “Hệ giá trị văn hóa, con người Ninh Bình trong xây dựng thành phố
trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng
tạo”.
- Xây dựng và triển khai kế
hoạch thực hiện phát triển văn hóa theo từng giai đoạn, từng năm. Bố trí ngân
sách, huy động nguồn lực để tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát
triển văn hóa phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
IV. CHẾ ĐỘ BÁO CÁO
Hằng năm, các sở, ban, ngành,
đoàn thể liên quan và UBND các huyện, thành phố báo cáo kết quả thực hiện Đề án
về UBND tỉnh (qua Sở Văn hóa và Thể thao) trước ngày 30 tháng 10.
Trong quá trình thực hiện, có
khó khăn, vướng mắc, kịp thời báo cáo, đề xuất UBND tỉnh (qua Sở Văn hóa và
Thể thao) để xem xét, giải quyết.
Trên đây là Đề án “Hệ giá trị
văn hóa, con người Ninh Bình trong xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương với
đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo”. UBND tỉnh yêu cầu
các sở, ngành, UBND huyện, thành phố và cơ quan, đơn vị có liên quan chủ động
tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, đúng tiến độ quy định./.