Công tác kế hoạch
hoá dân số có tầm quan trọng rất lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
của đất nước và nâng cao đời sống của nhân dân.
Để giảm nhanh tốc độ tăng dân số nước ta, trước mắt đạt tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên vào năm 1990 là 1,7% như Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Nghị quyết của Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 2 đã ghi, Hội đồng Bộ
trưởng quyết định một số vấn đề cụ thể sau đây về chính sách dân số và kế hoạch
hoá gia đình:
Điều 1.
Thực hiện Công tác kế hoạch hoá dân số là trách nhiệm của
toàn xã hội, của nam nữ công dân, trước tiên là trách nhiệm về chỉ đạo thường
xuyên của các Bộ, Uỷ ban Nhân dân các cấp.
Điều
2. Số con của mỗi cặp vợ chồng
a) Những đối tượng và những người
ở vùng dân cư sau đây được sinh tối đa là 2 con:
- Cán bộ, công nhân, viên chức
các cơ quan của đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, cán bộ chiến sỹ lực lượng
vũ trang.
- Gia đình ở thành phố, thị xã,
khu kinh tế tập trung.
- Gia đình ở vùng đồng bằng sông
Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng các tỉnh ven biển miền trung, vùng
trung du.
b) Gia đình các dân tộc các tỉnh
miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam mỗi cặp vợ chồng cũng chỉ được sinh tối
đa ba con
c) Những cặp vợ chồng tái hôn nếu
cả vợ chồng đã có con riêng hay một người đã có con riêng nay muốn có con chung
thì cũng chỉ được sinh 1 con.
d) Các trường hợp sinh lần thứ
nhất mà sinh đôi, sinh 3 thì không được sinh nữa, các trường hợp đã có 1 con,
sinh lần thứ 2 sinh đôi, sinh 3 đều không coi là quá quy định.
e) Người đã có 2 con nhưng 2 con
đều bị dị tật thì được đẻ con thứ 3.
g) Gia đình cán bộ, lực lượng vũ
trang, công nhân, viên chức nói ở đây là cả vợ chồng là cán bộ, công nhân, viên
chức hoặc chỉ một người là cán bộ, công nhân, viên chức hay tham gia lực lượng
vũ trang. Gia đình ở thành phố, thị xã, khu kinh tế tập trung là căn cứ theo chỗ
ở của người mẹ.
Điều 3. Tuổi
sinh đẻ và khoảng cách sinh đẻ:
a) Đối với các gia đình ở thành
phố, thị xã khu kinh tế tập trung, các cặp vợ chồng là cán bộ, lực lượng vũ
trang, công nhân, viên chức thì tuổi sinh đẻ của nữ là 22 tuổi trở lên, nam là
24 tuổi trở lên; ở các vùng khác nữ là 19 tuổi trở lên, nam là 21 tuổi trở lên.
b) Nếu sinh con thứ 2 thì phải
sau con thứ nhất từ 3 đến 5 năm. Trường hợp người phụ nữ sinh con muộn sau 30
tuổi trở đi thì khoảng cách có thể từ 2 đến 3 năm.
Điều
4. Thực hiện đăng ký và quản lý sinh đẻ:
a) Các cặp vợ chồng đã có con
(trừ những cặp vợ chồng đã thôi đẻ) và các cặp vợ chồng mới kết hôn đều phải
đăng ký với chính quyền địa phương và cam kết thực hiện đúng kế hoạch hoá gia
đình theo quy định ở điều 2 và 3 trên đây. Cán bộ, công nhân, viên chức, chiến
sỹ lực lượng vụ trang đăng ký tại cơ quan, đơn vị, nhân dân đăng ký tại Uỷ ban
Nhân dân xã, phường, thị trấn.
b) Các cơ quan, đơn vị, các Uỷ
ban Nhân dân xã, phường, thị trấn phải thường xuyên nắm cụ thể tình hình thực
hiện các biện pháp tránh thai, tình hình sinh đẻ của từng cặp vợ chồng trong cơ
quan, đơn vị, địa phương mình.
c) Các cơ quan, đơn vị đóng ở địa
phương phải báo cáo tình hình kế hoạch hoá gia đình của cơ quan, đơn vị mình,
chịu sự theo dõi, kiểm tra của Uỷ ban Nhân dân ở cơ sở và Ban chỉ đạo dân số và
kế hoạch hoá gia đình của quận, huyện, thị xã, địa phương đó.
Điều
5. Các biện pháp đẩy mạnh công tác dân số và kế
hoạch hoá gia đình:
a) Tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục sâu rộng bằng mọi hình thức mục đích, ý nghĩa về dân số và kế
hoạch hoá gia đình, làm cho mọi người hiểu rõ lợi ích và trách nhiệm của mình để
tự giác thực hiện. Chú trọng vùng nông thôn; thực hiện giáo dục dân số trong
các trường phổ thông, trường đại học và chuyên nghiệp và các trường đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ.
b) Kiện toàn hệ thống tổ chức
làm công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình ở các cấp có đủ cán bộ chuyên
trách và bán chuyên trách; mỗi cơ quan, đơn vị phải phân công cán bộ phụ trách
công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình.
c) Chuẩn bị đủ các phương tiện,
dụng cụ, thuốc men và cán bộ chuyên môn y tế để đáp ứng kịp thời yêu cầu khám,
chữa bệnh phụ khoa, dịch vụ các biện pháp kỹ thuật tránh thai, tránh đẻ. Tổ chức
các cơ sở dịch vụ y tế thuận tiện cho nhân dân, hướng dẫn các biện pháp và các
phương pháp tránh thai thích hợp với tập quán của mỗi vùng và thích hợp với từng
người bảo đảm an toàn và hiệu quả về chuyên môn kỹ thuật.
d) Bộ Tài chính, Uỷ ban kế hoạch
Nhà nước, các tổ chức kinh tế, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu, quận,
huyện, thị xã cần bố trí kinh phí thích đáng cho Uỷ ban dân số cấp tương đương
để có điều kiện làm tốt nhiệm vụ về dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Điều
6. Những chính sách chế độ khuyến khích thực hiện
công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình:
1. Từ nay một
trong những tiêu chuẩn để xét cấp đất làm nhà và phân phối nhà ở là gia đình có
2 con.
Gia đình chỉ có một con cũng được
hưởng tiêu chuẩn như gia đình 2 con.
Gia đình có số con quá quy định
(kể cả số con đã sinh từ trước) phải trả tiền thuê nhà, thuê đất theo giá cao
trên diện tích xin cấp thêm.
2. Từ nay không cho các gia đình
đã có 3 con trở lên nhập vào cư trú ở các nội thành, nội thị và khu công nghiệp
tập trung.
3. Những gia đình sinh con ngoài
số quy định phải đóng góp kinh phí bảo trợ xã hội, bao gồm việc học và chữa bệnh
và tăng mức đóng góp về lao động công ích xã hội.
4. Nhà nước cấp,
không phải trả tiền các phương tiện tránh thai, vòng, bao cao su, thuốc, cũng
như các dịch vụ y tế để đặt vòng, nạo phá thai, hút điều hoà kinh nguyệt cho
các đối tượng là cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang, các đối tượng
thuộc chính sách ưu tiên và dân nghèo có đăng ký thực hiện kế hoạch hoá gia
đình.
5. Cho phép
bán rộng rãi các dụng cụ tránh thai để thuận tiện cho mọi đối tượng cần sử dụng.
6. Người vô sinh nếu có nguyện vọng,
được chữa bệnh để có con.
7. Nhà nước có chế độ khen thưởng
để khuyến khích việc thôi đẻ bằng thắt ống dẫn tinh và thắt ống dẫn trứng.
8. Đối với cơ quan nhà nước cũng
như đơn vị sản xuất kinh doanh, khi xem xét kết quả thực hiện kế hoạch, phải
xét một tiêu chuẩn là hoàn thành các chỉ tiêu về dân số và kế hoạch hoá gia
đình .
9. Đối với những cặp vợ chồng
không thực hiện các điều quy định về số con, các cơ quan quản lý trực tiếp có
hình thức xử phạt thích đáng phù hợp với pháp luật hiện hành.
Điều
7. Những quy định ghi trong Quyết định này có hiệu
lực sau 3 tháng kể từ ngày Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký ban hành.
Uỷ ban Quốc gia dân số và kế hoạch
hoá gia đình, các Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc
Trung ương dựa trên bản Quyết định này hướng dẫn thi hành cụ thể trong phạm vi
trách nhiệm của mình.