ỦY BAN THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 795/NQ-UBTVQH14
|
Hà Nội, ngày 22
tháng 10 năm 2019
|
NGHỊ QUYẾT
TIẾP
TỤC HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ
THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG
DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
Căn cứ Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân số 87/2015/QH13;
Căn cứ Nghị quyết số 538/2018/UBTVQH14 ngày 19/7/2018 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về Chương trình giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2019; Nghị
quyết số 574/NQ-UBTVQH14 ngày 13/9/2018 cua Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về thành lập Đoàn giám sát “Việc thực hiện chính sách,
pháp luật về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên
địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012-2018”;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 443/BC-ĐGS ngày 30/9/2019
của Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát “Việc thực
hiện chính sách, pháp luật về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo bền vững trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012 -
2018”,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Đánh giá kết quả thực
hiện
Tán thành nội dung Báo cáo kết quả giám sát của
Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp
luật về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa
bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012 - 2018”, với những kết quả đạt
được, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, kiến nghị, giải pháp và khẳng định:
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững
được triển khai thực hiện trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi là chủ
trương lớn, luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước trong định
hướng, chỉ đạo, bố trí nguồn lực. Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, các
Bộ, ngành Trung ương, các địa phương, cùng sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của đồng
bào các dân tộc, sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng
doanh nghiệp, các tầng lớp Nhân dân và bạn bè quốc tế, việc giảm nghèo cả nước
nói chung và giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số, miền núi nói riêng đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, được quốc tế ghi nhận, là điểm sáng trong hệ thống các
chính sách an sinh xã hội, góp phần tạo nên sự thay đổi tích cực diện mạo của
vùng dân tộc thiểu số, miền núi và đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào.
Kết quả này là tiền đề quan trọng để đồng bào dân tộc
thiểu số, miền núi tiếp tục ổn định cuộc sống và sản xuất, an tâm, tin tưởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; tăng cường đoàn kết dân tộc, củng
cố quốc phòng và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng dân tộc
thiểu số, miền núi.
Có thể khẳng định rằng, thành tựu to lớn đạt được của
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng dân tộc
thiểu số, miền núi hiện nay là thành quả của công cuộc đổi mới đất nước, thành
quả của hơn 20 năm thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển kinh
tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số, miền núi; là quá trình
thực hiện kiên trì, bền bỉ trong thời gian dài, có tính kế thừa và phát triển về
mặt chất lượng, từng bước tích hợp các chính sách giảm nghèo, chuyển từ thực hiện
chuẩn nghèo đơn chiều sang chuẩn nghèo đa chiều, tiếp cận chuẩn nghèo quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực
hiện chính sách, pháp luật về Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững
trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi còn những hạn chế, bất cập cần được
khắc phục. Cụ thể:
Kết quả giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số, miền núi
chưa bền vững, chất lượng giảm nghèo chưa cao: Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo,
cận nghèo, tái nghèo, phát sinh nghèo cao hơn tỷ lệ chung cả nước; thu nhập
bình quân đầu người thấp và không đồng đều; các chỉ số thiếu hụt các dịch vụ xã
hội cơ bản còn ở mức cao, nhất là chỉ số thiếu hụt về giáo dục, nâng cao trình
độ khoa học kỹ thuật; đào tạo nghề, giải quyết việc làm, chất lượng nhà ở, nước
sinh hoạt, nhà tiêu hợp vệ sinh và khả năng tiếp cận thông tin.
Một số vấn đề bức xúc của đồng bào dân tộc thiểu số,
như: Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân
tộc thiểu số nghèo chưa được giải quyết cơ bản, đã có chính sách nhưng thực hiện
chưa đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Những hạn chế, bất cập nêu trên do nhiều nguyên
nhân mà chủ yếu là nguyên nhân chủ quan: Các chính sách hỗ trợ giảm nghèo thường
có mục tiêu lớn, nhưng thời gian thực hiện ngắn, định mức hỗ trợ thấp; nguồn lực
không đủ, vốn cấp chậm và không đồng bộ, nên việc triển khai thực hiện đạt hiệu
quả chưa cao. Sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng và thực hiện
chính sách còn hạn chế; sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong xây dựng,
ban hành, triển khai thực hiện chính sách chưa chặt chẽ, đồng bộ, kịp thời;
công tác tổ chức, quản lý các chương trình, dự án giảm nghèo còn chồng chéo,
nhiều Bộ, ngành phụ trách có cơ chế quản lý, vận hành khác nhau, làm hạn chế việc
lồng ghép chính sách và cân đối nguồn lực chung.
Điều 2. Nhiệm vụ và giải pháp
chủ yếu
1. Đối với Quốc hội
Đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết về Đề
án “Tổng thể đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi, vùng có
điều kiện đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021 - 2030” tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội
khóa XIV.
2. Đối với Chính phủ
a) Tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các
chính sách đối với vùng dân tộc thiểu số, miền núi đang còn hiệu lực thi hành,
bao gồm: Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 -
2020 (Quyết định số 1722/QĐ-TTg, ngày 02/9/2016
của Thủ tướng Chính phủ); chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với
vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2017 - 2020 (Quyết định số 2085/QĐ-TTg, ngày 31/10/2016 của Thủ tướng Chính
phủ); Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người
giai đoạn 2016 - 2025 (Quyết định số 2086/QĐ-TTg,
ngày 31/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ) và các chính sách khác đang còn hiệu lực,
trong đó đặc biệt quan tâm tới việc giải quyết các khó khăn trong đời sống của
đồng bào các dân tộc thiểu số rất ít người; bảo đảm mức sống của các dân tộc
này tương đương với các dân tộc khác trong vùng theo mục tiêu Đề án đề ra đến
năm 2025.
b) Tập trung chỉ đạo, giải quyết những khó khăn
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi hiện nay, như: Tình trạng thiếu
đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt để đồng bào ổn định cuộc sống.
c) Tập trung chỉ đạo các địa phương thực hiện các
giải pháp hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo sinh kế ổn định cho đồng bào vùng dân
tộc thiểu số, miền núi: Hỗ trợ trồng rừng, bảo vệ rừng; hỗ trợ phát triển sản
xuất, xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi chủ lực để sản xuất hàng hóa tập
trung, tạo ra các sản phẩm có giá trị cao; kết nối tiêu thụ hàng hóa giữa vùng
dân tộc thiểu số, miền núi với thị trường trong nước và quốc tế. Đồng thời chú
trọng xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần cho đồng bào: Sưu tầm, giữ gìn bản sắc
văn hóa các dân tộc; chăm lo giáo dục, y tế, đào tạo nghề, xuất khẩu lao động,
giải quyết việc làm, nâng cao năng suất lao động.
d) Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, lãnh đạo các cấp, các ngành và đồng bào dân
tộc thiểu số về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với công tác giảm
nghèo vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Đổi mới hơn nữa nội dung thông tin,
tuyên truyền, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, để đồng bào hiểu rõ mục đích, ý
nghĩa và tin tưởng thực hiện các chính sách giảm nghèo; nhân rộng điển hình
tiên tiến, đồng thời khơi dậy truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, ý chí tự
lực, tự cường, nỗ lực vươn lên thoát nghèo.
đ) Chỉ đạo các địa phương thực hiện nghiêm túc các
kết luận, kiến nghị của Thanh tra các Bộ, ngành và Kiểm toán Nhà nước theo Báo
cáo số 933/BC- KTNN ngày 29/7/2019 về “Kết quả kiểm toán Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012 - 2018”; xử lý trách nhiệm đối với
tập thể, cá nhân có liên quan đến những sai phạm, lợi dụng chính sách, kể cả việc
thiếu trách nhiệm trong chỉ đạo thực hiện chính sách.
e) Khẩn trương hoàn thiện Đề án “Tổng thể đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt
khó khăn giai đoạn 2021 - 2030” gửi Hội đồng Dân tộc chủ trì, phối hợp với các Ủy
ban của Quốc hội để thẩm tra Đề án báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội
khóa XIV”.
Đi kèm với việc xây dựng Đề án cần tập trung chỉ đạo
thực hiện:
- Xây dựng Đề án “Bộ tiêu chí phân định vùng dân tộc
thiểu số, miền núi” để thực hiện từ năm 2021, làm cơ sở áp dụng pháp luật và
xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách dân tộc.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu thống kê, hệ thống biểu mẫu
tổng hợp riêng vùng dân tộc thiểu số, miền núi theo các chỉ tiêu cần thiết về
giảm nghèo để thực hiện từ năm 2021, làm cơ sở xây dựng bộ công cụ đánh giá
phát triển và giảm nghèo bền vững phù hợp với cam kết quốc tế.
g) Khi ban hành các chính sách mới về giảm nghèo phải
bảo đảm cân đối được nguồn lực thực hiện cho từng chương trình, dự án, chính
sách cụ thể. Khắc phục triệt để tình trạng chính sách đã ban hành nhưng không bố
trí đủ, kịp thời nguồn lực thực hiện như trong thời gian qua.
Điều 3. Tổ chức thực hiện
1. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp của
các tỉnh vùng dân tộc thiểu số, miền núi trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết này.
2. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thực
hiện Nghị quyết này.
Điều 4. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký./.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Chính phủ;
- Thủ tướng Chính phủ;
- HĐDT, các UB của Quốc hội;
- Các đại biểu Quốc hội;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ;
- VPTƯ Đảng, VPCP, VPCTN, VPQH;
- UB TƯMTTQ Việt Nam và các tổ chức TV;
- HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc Trung ương;
- Thành viên Đoàn giám sát;
- Lưu Vụ: HC, PVHĐGS, DT;
- Epas: 88463
|
TM. ỦY BAN THƯỜNG
VỤ QUỐC HỘI
CHỦ TỊCH
Nguyễn Thị Kim Ngân
|