PHỦ
THỦ TƯỚNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
17-TTg
|
Hà
Nội, ngày 09 tháng 01 năm 1958
|
NGHỊ ĐỊNH
VỀ VIỆC BAN HÀNH BẢN ĐIỀU LỆ QUY ĐỊNH VỀ CHI TIẾT THI HÀNH
VIỆC TẶNG THƯỞNG CÁC BẢNG “BẢNG VÀNG DANH DỰ” “GIA ĐÌNH VẺ VANG” VÀ HUÂN CHƯƠNG
KHÁNG CHIẾN CHO NHỮNG GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI TÒNG QUÂN
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ sắc lệnh số 83-SL,
ngày 17 tháng 9 năm1947 thành lập Viện Huân chương;
Căn cứ sắc lệnh số 216-SL ngày 20 tháng 8 năm 1948 đặt Huân chương kháng chiến
và sắc lệnh số 43-SL ngày 22 tháng 3 năm 1950 sửa đổi thể lệ tặng thưởng các
Huân chương kháng chiến;
Căn cứ sắc lệnh số 129-SL ngày 16 tháng 12 năm 1952 đặt các “Bảng vàng danh dự”
và “Gia đình vẻ vang” để thưởng các gia đình có người tòng quân, và thông tư số
222-TTg ngày 16 tháng 12 năm 1952 và các văn bản tiếp theo bổ sung và quy định
chi tiết thi hành sắc lệnh số 129-SL ngày 16 tháng 12 năm 1952;
Căn cứ thông tư số 379-TTg ngày 29 tháng 5 năm 1954 về việc tặng thưởng Huân
chương kháng chiến cho những gia đình có năm con tòng quân trở lên;
Theo đề nghị của Viện Huân chương và Bộ Quốc phòng;
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1: -
Để thi hành sắc lệnh số 129-SL ngày 16 tháng 12 năm 1952 về việc tặng thưởng
các bảng “Bảng vàng danh dự” và “Gia đình vẻ vang” cho các gia đình có
người tòng quân, và nghị quyết của Hội đồng Chính phủ về việc thưởng Huân
chương kháng chiến cho các gia đình có đông người tòng quân.
Nay ban hành bản Điều lệ quy định
về chi tiết thi hành việc tặng thưởng các bảng “Bảng vàng danh dự”, “Gia đình vẻ
vang” và Huân chương kháng chiến cho những gia đình có người tòng quân kèm theo
nghị định này.
Điều 2: -
Nay bãi bỏ thông tư số 222-TTg ngày 16 tháng 12 năm 1952, thông tư số 379-TTg
ngày 19 tháng 5 năm 1954 và các văn bản của Thủ tướng phủ ban hành trước đây
trái với bản điều lệ kèm theo nghị định này.
Điều 3: -
Viện Huân chương và ông Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm thi hành nghị
định này.
|
K.T
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phan Kế Toại
|
ĐIỀU LỆ
TẶNG THƯỞNG CÁC BẢNG GIA ĐÌNH VẺ VANG, BẢNG VÀNG DANH DỰ VÀ
HUÂN CHƯƠNG KHÁNG CHIẾN CHO NHỮNG GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI TÒNG QUÂN.
Bản điều lệ này đúc kết sửa
đổi, bổ sung và thay thế các văn bản của Thủ tướng phủ và Bộ Quốc phòng đã ban
hành từ trước đến nay quy định về việc tặng thưởng các bảng Gia đình vẻ vang, Bảng
vàng danh dự và Huân chương kháng chiến cho các gia đình quân nhân.
Bản điều lệ này chỉ áp dụng đối
với những quân nhân nhập ngũ từ ngày thành lập quân đội nhân dân đến ngày 27
tháng 7 năm 1956, tức là ngày ban hành nghị định số 980 về điều lệ ưu đãi gia
đình quân nhân, liệt sĩ.
I. TIÊU CHUẨN
TẶNG THƯỞNG CÁC BẢNG GIA ĐÌNH VẺ VANG, BẢNG VÀNG DANH DỰ VÀ HUÂN CHƯƠNG
KHÁNG CHIẾN
Thủ tướng phủ quy định lại tiêu chuẩn
tặng thưởng các bảng Gia đình vẻ vang, Bảng vàng danh dự và Huân chương kháng
chiến như sau:
1) Bảng Gia đình vẻ vang tặng
cho những gia đình có một hay hai người tòng quân.
2) Bảng vàng danh dự tặng cho những
gia đình có ba người tòng quân, hoặc có hai người tòng quân mà cả hai đều là tử
sĩ, liệt sĩ, mất tích hay biệt tin.
3) Huân chương kháng chiến tặng
cho những gia đình có từ năm người trở lên tòng quân, hoặc có ba hay bốn
người tòng quân mà trong đó có ba người là tử sĩ, liệt sĩ, mất tích hay biệt
tin.
Nay giải thích thêm về các điều
quy định trên như sau:
1) Các tiêu chuẩn về số người
tòng quân đã quy định trên đây là đối với những gia đình có người tòng quân
trong thời gian kháng chiến.
Nhưng đối với những gia đình có
con tòng quân từ sau ngày đình chiến (21-7-1954) đến ngày 27-7-1956, thì tiêu
chuẩn tặng thưởng Bảng vàng danh dự và Huân chương kháng chiến theo như sau:
a- Về Bảng vàng danh dự, gia
đình đó phải có ít nhất là hai quân nhân tòng ngũ từ trong kháng chiến.
b- Về Huân chương kháng chiến,
gia đình đó phải có ít nhất là ba quân nhân tòng ngũ từ trong kháng chiến.
2) Những người tòng quân được
tính trong tiêu chuẩn của một gia đình có thể là:
a- Bản thân của chủ gia đình (vợ
hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng) và các con có tòng quân.
b- Con đẻ (con giai, con gái)
con dâu, con nuôi (không nhất thiết phải còn ở chung hay đã ở riêng).
c- Em hoặc cháu (được gia đình
nuôi dưỡng từ nhỏ như con đẻ và nhất thiết phải còn ở chung một hộ với chủ gia
đình).
3) Quân nhân mất tích là người
mà sau một trận chiến đấu hoặc sau thời gian thi hành công vụ, đơn vị không tìm
thấy tung tích và sau đó đã có giấy báo mất tích cho gia đình.
4) Quân nhân biệt tin là người
tòng ngũ đã lâu ngày mà gia đình không nhận được tin tức và được Uỷ ban Hành
chính xã, thị xã, khu phố, thị trấn chứng nhận là có đi bộ đội.
Chỉ được coi là quân nhân biệt
tin- những người mà gia đình mất tin tức, trong thời gian từ năm 1945 đến tháng
8 năm 1954, đối với quân nhân tòng ngũ ở các đơn vị bộ đội miền Bắc, - và từ
năm 1945 đến tháng 9 năm 1959, đối với các quân nhân tòng ngũ trong các đơn vị
bộ đội miền Nam. Những quân nhân mất liên lạc với gia đình từ tháng 8 năm 1954
trở về sau thì không coi là quân nhân biệt tin.
II. – CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC XÉT THƯỞNG
A - Điều kiện được tính là
quân nhân:
Được tính là quân nhân hoặc được
coi như có tòng quân là những người sau đây:
1) Quân nhân ở bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương, hoặc phục vụ ở các đơn vị chiến đấu, hoặc công tác ở các ngành
chuyên môn của quân đội như quân y, quân dược, văn phòng, vận tải, v.v… hiện
còn tại ngũ, hoặc đã hy sinh, mất tích, biệt tin, chuyển ngành, phục viên, v.v…
2) Cán bộ và đội viên bộ đội cảnh
vệ thuộc các Ty Công an trước đây và nay vẫn còn ở trong các đơn vị bộ đội bảo
vệ, hoặc đã hy sinh, mất tích, biệt tin, giải ngũ, chuyển ngành, bị thương,
v.v…
3) Cán bộ và đội viên các đơn vị
cảnh vệ đội của Nam bộ và Liên khu 5 (tức là Quốc vệ đội, Bảo vệ đội) từ tỉnh
trở lên.
4) Cán bộ, chiến sĩ của các đội
Việt nam Tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân hay các đội du kích thoát
ly khác được thành lập được ngày tổng khởi nghĩa (19-8-1945).
5) Các thiếu sinh quân có thực sự
công tác trong quân đội trước kia.
6) Các cán bộ đoàn thể được điều
động sang công tác ở các đơn vị bộ đội từ huyện trở lên dù có hưởng hay không
hưởng theo chế độ quân nhân mà công tác ở quân đội từ sáu tháng trở lên.
7) Các công nhân quốc phòng ở
Nam bộ và Liên khu 5 được coi là quân nhân là những người sau đây:
a/ Quân nhân quân giới Nam bộ (kể
cả những người công tác ở các dân quân xưởng của các tỉnh đội).
b/ Quân nhân quân giới vùng địch
hậu Liên khu 5 không hưởng chế độ công nhân của sắc lệnh số 77-SL ngày
22-5-1950. (Những công nhân quân giới Liên khu 5 đã tại ngũ theo chế độ quân nhân
trong thời gian từ sáu tháng trở lên rồi chuyển sang chế độ công nhân theo sắc
lệnh số 77-SL thì được coi như quân nhân chuyển ngành để xét tặng thưởng).
c/ Các quân nhân khác làm công
tác thông tin, liên lạc, quân y, quân nhu, vận tải của Nam bộ và vùng địch hậu
Liên khu 5 ở các đơn vị bộ đội từ huyện đội trở lên chưa được hưởng chế độ công
nhân theo sắc lệnh 77-SL ngày 22-5-1950 và còn làm công tác ấy cho đến khi tập
kết ra Bắc.
8) Du kích lập công, nghĩa là những
người có thành tích về chiến đấu, phục vụ cho chiến đấu hay công tác kháng chiến
nói chung như võ trang tuyên truyền, trừ gian diệt tề, chống bắt phu bắt lính,
địch vận, phá hoại kinh tế địch v.v… mà được từ chỉ huy Trung đoàn, Tỉnh đội
dân quân hoặc Uỷ ban Hành chính trở lên khen thưởng bằng giấy khen, bằng khen
hoặc huân chương.
9) Du kích bị thương trong chiến
đấu được xếp thương tật từ hạng ba trở lên (theo quy định về xếp hạng thương tật
hiện hành).
10) Du kích hy sinh trong chiến
đấu hay trong khi thừa hành công vụ mà được xác nhận là liệt sĩ.
B- Điều kiện về thời hạn tòng
quân của một quân nhân được tính trong việc tặng thưởng
1) Nói chung những quân nhân được
tính trong tiêu chuẩn tặng thưởng phải đã tòng ngũ ít nhất là sáu tháng (tính từ
ngày nhập ngũ đến ngày giải ngũ)
2) Riêng đối với cán bộ, chiến
sĩ trong các đội Việt nam Tuyên truyền Giải phóng quân và các đơn vị du kích
thoát ly khác thành lập hồi tiền khởi nghĩa (trước ngày 19-8-1945) thì thời hạn
đã tòng ngũ, phải ít nhất là ba tháng.
3) Những quân nhân ở trong những
trường hợp sau đây, tuy thời hạn tòng ngũ chưa đủ sáu tháng hay ba tháng, cũng
được tính trong việc tặng thưởng:
- Đã hy sinh trong chiến đấu, từ
trần hoặc bị thương thành thương binh.
- Vì yêu cầu công tác được
điều động sang cơ quan chính quyền, đoàn thể khác công tác.
4) Đối với những quân nhân trước
kia là tù binh hoặc hàng binh sau được nhập ngũ quân đội nhân dân Việt Nam thì
thời hạn tòng quân quy định như sau:
a/ Những người trước đây là binh
sĩ trong quân đội địch, đã giác ngộ, bỏ hàng ngũ địch và được nhập ngũ quân đội
nhân dân Việt nam thì thời hạn tòng quân ít nhất phải là 9 tháng.
Nếu những người này có công tích
đặc biệt như làm nội ứng, hoặc tuy chưa có công tích đặc biệt nhưng khi còn
trong hàng ngũ địch đã có liên lạc và trở thành cơ sở, nhận mối của ta, được
huyện đội trở lên chứng nhận thì thời hạn tòng quân được tính ít nhất phải 6
tháng.
b/ Những người trước kia là binh
sĩ trong quân đội địch, bị ta bắt làm tù binh sau được gia nhập quân đội nhân
dân Việt nam thì thời hạn tòng quân ít nhất phải là một năm.
Trường hợp những người này tòng
quân chưa đủ thời hạn tối thiểu ấy, mà trong khi chiến đấu hoặc thừa hành công
vụ đã hy sinh hay bị thương tật thì cũng được tính trong việc tặng thưởng.
C. - Điều kiện về chủ gia
đình được tính trong việc tặng thưởng
1) Điều kiện về chủ gia đình
nói chung:
a/ Việc khen thưởng các gia đình
có người tòng quân có ý nghĩa đền đáp một phần sự đóng góp, hy sinh của những
người cha mẹ đã có công sinh thành và dưỡng dục những người con của mình và vui
lòng để con mình tòng quân bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ kháng chiến. Vì vậy,
người chủ gia đình được tặng thưởng và đứng tên trong chủ gia đình được tặng
thưởng và đứng tên trong bằng, trước hết phải là cha, mẹ đẻ của quân nhân.
b/ Nếu cha mẹ của quân nhân đã mất
thì có thể tặng thưởng cho vợ hoặc chồng của quân nhân đó.
c/ Nếu quân nhân chưa có vợ thì
có thể đề nghị tặng thưởng cho người nuôi dưỡng quân nhân từ 3 năm trở lên, như
là con trong thời gian quân nhân ấy chưa đủ 16 tuổi. Người chủ gia đình đó có
thể là ông bà, chú bác, anh chị nếu quân nhân đó được ông bà, chú bác, anh chị
nuôi dưỡng như con và còn ở chung trong một hộ. Nếu nhiều người nuôi quân nhân
đó đến 16 tuổi thì xét tặng cho người nào được quân nhân đồng ý đề nghị. Nếu
quân nhân đã hy sinh thì do Uỷ ban Hành chính xã đề nghị tặng cho người đã được
công nhận là thân nhân liệt sĩ đó.
d/ Nếu không có ai là thân nhân
thuộc tiêu chuẩn trên đây (người nuôi dưỡng) thì truy tặng cho cha mẹ quân
nhân.
đ/ Người chủ gia đình phải là
người không can án và được chính quyền địa phương đồng ý đề nghị.
e/ Nếu chủ gia đình là địa chủ
thường, đã chịu lao động cải tạo, tuân theo pháp luật được chính quyền và nông
hội xã đề nghị, chính quyền tỉnh phê chuẩn thì cũng được tặng thưởng.
g/ Đối với chủ gia đình là địa
chủ cường hào gian ác hay người can án, nếu quân nhân có vợ thì tặng thưởng cho
vợ, nếu chưa có vợ thì khi nào có vợ sẽ xét thưởng.
h/ Nếu gia đình có đông người
tòng quân mà chủ gia đình thuộc loại không được tặng thưởng thì chỉ tặng riêng
cho từng quân nhân. Ví dụ: gia đình có 3 hay 5 con tòng quân mà chủ gia
đình là địa chủ cường hào gian ác thì không tặng Huân chương hoặc Bảng vàng
danh dự cho chủ gia đình, mà tặng cho vợ của mỗi quân nhân một Gia đình vẻ
vang.
2) Điều kiện xét thưởng đối với
gia đình quân nhân người ngoại quốc.
Những quân nhân người ngoại quốc
dù có hay không có quốc tịch Việt nam mà đã tòng ngũ trong quân đội nhân dân Việt
nam thuộc các loại đã quy định trên đây cũng được tặng thưởng. Chi tiết thi
hành sẽ quy định sau:
3) Điều kiện tặng thưởng đối
với gia đình quân nhân miền Nam tập kết ra Bắc.
Những quân nhân miền Nam tập kết
ra Bắc, đã giãi ngũ, chuyển ngành phục viên, dù có hay không có gia đình ở
ngoài Bắc, thì cũng được tặng thưởng.
Quân nhân đó xin tặng thưởng cho
chủ gia đình theo quy định về chủ gia đình và do quân nhân đó giữ bằng hoặc
giao cho thân nhân ở ngoài Bắc tạm giữ.
Đối với quân nhân còn tại ngũ,
mà không có gia đình ở miền Bắc, thì chi tiết thi hành sẽ quy định sau.
D. Điều kiện về con em, cháu
để tính trong việc tặng thưởng
a/ Con, là con đẻ (con giai và
con gái), con dâu.
Đối với nữ quân nhân đã có chồng
thì chỉ tặng thưởng một lần hoặc cho bên cha mẹ đẻ, hoặc cho bên cha mẹ chồng,
theo đề nghị của nữ quân nhân đó, hoặc do sự thỏa thuận của hai gia đình.
b/ Con rể không được tính về bên
cha mẹ vợ, trừ trường hợp quy định về con nuôi dưới đây và trường hợp cha mẹ đẻ
và người thân thích không còn ai, đã lấy gia đình vợ làm cơ sở có quan hệ về
tình cảm và kinh tế từ lâu: mọi quyền lợi ưu đãi đều chuyển sang gia đình bố mẹ
vợ và được Uỷ ban Hành chính xã nơi trú quán của cha mẹ vợ xác nhận.
c/ Con nuôi là người được cha mẹ
nuôi, nuôi nấng, dạy dỗ từ nhỏ, coi như con đẻ trong một thời gian trên 3 năm,
từ 1 đến 16 tuổi. Con nuôi đựơc bố mẹ nuôi với tính cách đỡ đầu, an ủi về tinh
thần thì không được tính. Nếu lúc nhỏ là con nuôi, rồi sau đó thành con rể
của gia đình thì người con rể đó được tính trong việc đề nghị tặng thưởng của
gia đình bố mẹ vợ.
d/ Em là em giai, em gái, được
anh chị nuôi nấng từ nhỏ như con. Trong trường hợp này, nếu chủ gia đình có em
giai nuôi tòng quân và sau đó lấy vợ là bộ đội thì chủ gia đình được tính cả
người em dâu đó trong việc tặng thưởng của gia đình mình (nếu người nữ quân
nhân đó đồng ý).
đ/ Cháu là cháu gọi bằng ông bà
nội, ngoại hoặc chú bác, cô dì ….
Em và cháu chỉ được kể trong
trường hợp được gia đình nuôi nấng, dạy dỗ coi như con nuôi quy định ở điểm c/
trên và còn ở chung trong một hộ. Riêng cháu gọi bằng ông bà nội nếu có cha
mẹ cũng đi bộ đội ở chung một hộ với ông bà thì được tính gộp với cha mẹ để tặng
thưởng cho ông bà (không cần phải được ông bà nuôi nấng).
Như vậy, trong một gia đình có
nhiều người tòng quân vừa là chồng hoặc vợ, con, em, cháu (đúng như quy định về
em và cháu trên đây) thì được tính gộp lại để xét khen thưởng cho người chủ gia
đình.
e/ Người vợ liệt sĩ đã tái giá
thì không được tặng thưởng mà tặng thưởng cho cha mẹ liệt sĩ. Nếu cha mẹ liệt
sĩ cũng đã mất, liệt sĩ đã có con, thì truy tặng cha mẹ liệt sĩ, và giao cho
con giữ. Liệt sĩ chưa có con thì người nào được công nhận là thân nhân liệt sĩ
sẽ nhận bằng khen đó.
III. - NHỮNG
TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐƯỢC TẶNG THƯỞNG HAY TẠM HOÃN TẶNG THƯỞNG
A. - Những trường
hợp dưới đây không được tặng thưởng:
1) Chủ gia đình là địa chủ cường
hào gian ác (quy định sau sửa sai).
2) Chủ gia đình đã bị toà án xử
phạt tù ở hoặc tù án treo.
3) Những quân nhân đã giải ngũ,
sau khi về địa phương lại đi nguỵ quân, làm nguỵ quyền cho địch (trừ trường hợp
đặc biệt được tổ chức bố trí vào làm cho địch để gây cơ sở cho ta, được chính
quyền đoàn thể của địa phương xác nhận và đồng ý đề nghị, và trường hợp những
quân nhân giải ngũ về vùng địch nhưng làm ăn lương thiện (làm ruộng, làm thợ,
v.v…) thì cũng có thể tặng thưởng.
4) Những quân nhân phạm tội bị kết
án tù ở hoặc bị khai trừ ra khỏi quân đội (trừ trường hợp quân nhân bị kết án
treo mà vẫn còn được tiếp tục ở trong quân đội).
5) Những quân nhân tòng ngũ chưa
đủ 6 tháng (trừ những trường hợp đã quy định như vì từ trần hoặc bị thương,
chuyển ngành….)
6) Những quân nhân vì trốn tránh
nhiệm vụ hoặc vì vô kỷ luật mà tự mình gây ra tai nạn, bị chết hoặc bị thương
phải giải ngũ, (trừ trường hợp làm nhiệm vụ không may bị tai nạn mà bị chết hoặc
bị thương, dù tại ngũ chưa đủ 6 tháng).
7) Những quân nhân đã phục viên,
thương binh giải ngũ về địa phương mà phạm tội, bị tòa án nhân dân kết án tù ở
hoặc án treo.
8) Những quân nhân chuyển ngành
mà phạm tội, bị cơ quan sa thải.
9) Những quân nhân bị địch bắt
và thả ra trước đình chiến về ở nhà không chịu tìm kiếm đơn vị cũ để tiếp tục
chiến đấu (trừ trường hợp ốm đau vì vị tra tấn, bệnh tật, hoặc có tìm kiếm đơn
vị cũ nhưng không thấy, buộc lòng phải ở lại và tham gia công tác ở địa phương,
được Uỷ ban Hành chính xã công nhận và đề nghị).
10) Những quân nhân lạc ngũ mà cố
tình bỏ về nhà (trừ trường hợp có tìm kiếm mà không thấy như trên.)
11) Những quân nhân đào ngũ
không trở về đơn vị.
12) Những quân nhân bị địch bắt
đã khai báo cho địch phá vỡ cơ sở, có tài liệu, chứng cớ rõ ràng.
B. - Những trường hợp tạm
hoãn việc xét thưởng:
1) Những quân nhân giải ngũ, phục
viên, thương binh về xã, và những du kích lập công hoặc bị thương, có nhiều
hành động xấu, ảnh hưởng không tốt trong nhân dân thì tạm hoãn khi nào tốt sẽ
xét tặng.
2) Những người chủ gia đình ngăn
trở con em tòng quân, luôn gọi con em về thì tuỳ trường hợp cụ thể cần đi sát
giáo dục hoặc giúp đỡ những khó khăn cho gia đình, khi nào sữa chữa tiến bộ sẽ
đề nghị tặng thưởng.
3) Bản thân người chủ gia đình;
trước có nhiều tội ác, bị nhân dân oán ghét thì phải căn cứ vào thái độ, hành động
trước đây, chủ yếu là hiện nay, để xét tặng hay tạm hoãn.
4) Chủ gia đình có hành động chống
phá chính sách tuy chưa phạm pháp thì cũng tạm hoãn.
Tất cả những trường hợp tạm hoãn
trên đây Uỷ ban Hành chính xã, huyện, không được tự ý gạt bỏ một gia đình nào
mà đều phải báo cáo cụ thể tất cả lên cấp trên quyết định.
IV. QUYỀN LỢI NGƯỜI ĐƯỢC KHEN THƯỞNG
GIA ĐÌNH VẺ VANG, BẢNG VÀNG DANH DỰ
Các gia đình quân nhân được tặng
thưởng Gia đình vẻ vang, Bảng vàng danh dự, Huân chương kháng chiến đều được hưởng
mọi quyền lợi ưu đãi đã quy định trong bản điều lệ ưu đãi gia đình quân nhân liệt
sĩ do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 27 tháng 7 năm 1956. Trong các buổi lễ
do chính quyền, đoàn thể địa phương tổ chức, người chủ gia đình được tặng thưởng
Gia đình vẻ vang, Bảng vàng danh dự, Huân chương kháng chiến được mời ngồi hàng
đầu. Ngoài ra, người chủ gia đình được tặng thưởng Bảng vàng danh dự và Huân
chương kháng chiến nếu còn tuổi đi dân công thì được miễn đi dân công.
V. – THU HỒI BẢNG GIA ĐÌNH VẺ VANG, BẢNG
VÀNG DANH DỰ, HUÂN CHƯƠNG KHÁNG CHIẾN
Những gia đình sau khi đã được tặng
thưởng mà chủ gia đình hoặc quân nhân phạm vào những điều sau đây thì sẽ bị thu
hồi bảng Gia đình vẻ vang, Bảng vàng danh dự, hoặc Huân chương kháng chiến.
1) Chủ gia đình có hành động phạm
pháp và bị tòa án kết án tù ở, án treo, bị tước quyền công dân.
2) Quân nhân tự ý bỏ hàng ngũ về
nhà, qua giáo dục và đơn vị nhiều lần gọi về không chịu trở lại hàng ngũ.
3) Quân nhân tại ngũ có hành động
phạm pháp bị tòa án kết án tù ở hoặc bị khai trừ ra khỏi quân đội. Du kích lập
công, du kích bị thương tật bị xã thi hành kỷ luật, khai trừ ra khỏi hàng ngũ
du kích.
4) Trừ trường hợp quân nhân tại
ngũ phạm tội bị kết án treo và còn được tiếp tục công tác trong bộ đội mà gia
đình đã được tặng thưởng thì cũng không thu hồi lại.
Để chiếu cố đến gia đình có nhiều
người tòng quân mà chỉ một người phạm tội, và để cho gia đình có thì giờ
giáo dục người phạm tội, thì có thể tuỳ theo từng trường hợp mà xét định: Nếu
xét thấy gia đình đó xứng đáng thì chỉ trừ quân nhân phạm lỗi và căn cứ vào số
quân nhân còn lại mà tặng thưởng theo tiêu chuẩn đã quy định. Ví dụ: Gia đình
có hai người tòng quân, một bị án tù ở thì thu lại bằng cũ và tặng bảng
Gia đình vẻ vang mới và chỉ ghi tên người quân nhân không phạm pháp. Gia đình
có 5 người tòng quân, một phạm tội bị kết án tù ở thì thu hồi lại Huân chương
kháng chiến và tặng Bảng vàng danh dự theo tiêu chuẩn 4 người tòng quân.
Việc thu hồi phải hết sức thận
trọng, Uỷ ban Hành chính xã, huyện, phải báo cáo rõ ràng lý do và có chứng cớ cụ
thể lên Uỷ ban Hành chính tỉnh. Sau khi nhận được báo cáo, cơ quan có thẩm quyền
sẽ nghiên cứu và quyết định thu hồi. Uỷ ban hành chính xã, huyện tuyệt đối
không được tự ý thu hồi, sửa chữa bảng Gia đình vẻ vang, Bảng vàng danh dự,
Huân chương kháng chiến nếu chưa có quyết định của cấp trên.
VI. - THỂ THỨC TIẾN HÀNH
A. – Cách tính tiêu chuẩn, để
đề nghị tặng thưởng:
Trong việc vận dụng tiêu chuẩn tặng
thưởng bảng Gia đình vẻ vang, Bảng vàng danh dự hay là Huân chương kháng chiến,
mỗi quân nhân chỉ được tính một lần để thưởng cho một gia đình; không thể vừa đứng
tên xin tặng thưởng cho cha mẹ, vừa đứng tên xin tặng thưởng cho vợ, hay chồng.
Nếu quân nhân muốn xin tặng thưởng cho gia đình riêng, thì quân nhân đó không
được tính để tặng thưởng một lần nữa cho gia đình bố mẹ.
Ví dụ:
- Gia đình có 5 quân nhân, nếu
có một lập gia đình riêng và muốn xin tặng thưởng một bảng Gia đình vẻ vang cho
vợ, thì gia đình bố mẹ chỉ còn lại 4 quân nhân, và được tặng thưởng Bảng vàng
danh dự;
- Gia đình có 3 quân nhân,
nếu có một lập gia đình riêng và muốn xin tặng thưởng cho gia đình riêng một bảng
Gia đình vẻ vang, thì gia đình bố mẹ chỉ còn lại hai quân nhân và được tặng thưởng
một bảng Gia đình vẻ vang, v.v…
Nhưng nếu gia đình bố mẹ đã được
tặng thưởng rồi, thì quân nhân dù có lập gia đình riêng cũng không thể xin thưởng
riêng nữa được.
Trừ trường hợp thương binh có
gia đình bố mẹ nuôi đã nhận nuôi mình suốt đời, được UBHC xã… chứng nhận thì
thương binh đó có thể xin tặng thưởng cho cả cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi.
B. - Thủ tục đề nghị và các
giấy tờ:
Về thủ tục đề nghị và các giấy tờ,
có thể quy định thống nhất như sau: đối với từng vùng để bảo đảm tính chất kịp
thời, chính xác và tránh phiền phức cho gia đình quân nhân:
1) Về gia đình vẻ vang:
- Ở nông thôn (miền núi cũng như
đồng bằng) thì Uỷ ban Hành chính xã lập danh sách những gia đình quân nhân chưa
được tặng thưởng. Kèm theo danh sách này, phải có đủ những giấy tờ như: giấy
báo tử, giấy báo mất tích, chuyển ngành v.v… Nếu gia đình quân nhân không còn
giấy tờ gì thì xóm và Uỷ ban Hành chính xã nhận thực là gia đình có người tòng
quân.
Trường hợp xóm hoặc Uỷ ban Hành
chính xã cũng không biết là người đó có tòng quân hay không, thì chủ gia đình
làm tờ khai danh dự.
- Ở thành phố, thị trấn và các
cơ quan thì mỗi gia đình tự làm một tờ khai riêng. Kèm theo tờ khai này phải có
đủ những giấy chứng nhận của quân nhân. Nếu gia đình quân nhân không còn giấy
chứng nhận thì chủ gia đình làm tờ khai danh dự có hai người biết việc làm chứng
ký tên và được chính quyền địa phương hay cơ quan chứng thực chữ ký của người
làm chứng. Người làm chứng có thể là đồng đội cũ, có thể là người biết rõ sự việc
đó.
Hình thức kê khai danh dự chủ yếu
là dùng cho gia đình quân nhân ở thành thị và cơ quan. Ở nông thôn, miền núi,
chủ yếu là dựa vào sự nhận thức của xóm, xã. Vì vậy, cán bộ xóm, xã cần đề cao
tinh thần trách nhiệm và chỉ nhận thực những trường hợp thật rõ ràng. Những trường
hợp không rõ ràng thì cần có báo cáo cụ thể lên Uỷ ban Hành chính tỉnh.
2) Về Bảng vàng danh dự và
Huân chương kháng chiến:
- Những gia đình có từ 3 người
trở lên tòng quân không phân biệt ở nông thôn hay thành thị đều phải làm tờ
khai riêng của từng gia đình. Kèm theo tờ khai này phải có đủ các giấy tờ của
quân nhân. Nếu không thể lấy được giấy tờ của quân nhân thì mới làm tờ khai
danh dự, có 2 người làm chứng như trên.
3) Về nội dung của tờ khai:
Dù danh sách các gia đình quân
nhân do Uỷ ban Hành chính xã lập hay là tờ khai riêng của chủ gia đình, trong
đó đều phải nói rõ và đầy đủ những điểm sau đây:
- Họ tên, tuổi, nghề nghiệp,
thành phần chủ gia đình.
- Thứ bậc gia đình giữa chủ gia
đình với các quân nhân (cha, mẹ, chú, …bác, ông, bà, anh, chị, v.v…)
- Họ, tên, tuổi, chức vụ, đơn vị
hiện tại, ngày nhập ngũ, ngày giải ngũ, hy sinh, chuyển ngành, phục viên, v.v…
(Chú ý đối với tất cả các quân nhân đã ra ngoài bộ đội (giải ngũ, phục viên) đều
phải ghi rõ ngày nhập ngũ, giải ngũ, phục viên để tiện xét về thời hạn tòng
quân).
- Nếu quân nhân là con nuôi, em,
cháu của gia đình thì nói rõ nuôi từ bao giờ, trong nom và đối xử với quân nhân
đó thế nào.
- Nếu gia đình có con gái hay
con dâu tòng quân thì nói rõ nữ quân nhân đó đã xin khen thưởng ở đâu
chưa? Kèm theo giấy chứng thực của Uỷ ban Hành chính xã.
c) Thẩm quyền
xét và tặng thưởng:
1) Uỷ ban Hành chính xã, thị trấn,
thị xã (không có khu phố) và khu phố (ở những thị xã có khu phố), sau khi lập
danh sách hoặc mỗi khi nhận được đơn yêu cầu, phải thu nhập đủ các giấy chứng
nhận, ghi ý kiến nhận xét và chuyển tất cả hồ sơ lên Uỷ ban Hành chính tỉnh, hoặc
Uỷ ban Hành chính thành phố, qua Uỷ ban Hành chính huyện, hoặc thị xã (có khu
phố) hoặc Ban cán sự quận.
2) Uỷ ban Hành chính các tỉnh,
các thành phố - được Bộ Quốc phòng uỷ nhiệm, - xét và quyết định tặng thưởng
bảng Gia đình vẻ vang cho những gia đình quân nhân của địa phương, đồng thời
cũng xét và quyết định tặng thưởng cho những gia đình quân nhân ở nơi khác về
trú ngụ tại địa phương đó, hoặc đang công tác ở các cơ quan, các xí nghiệp,
công trường, nông trường đang đóng tại địa phương đó (kể cả quân nhân miền Nam
chuyển ngành phục viên).
3) Về việc tặng thưởng Bảng vàng
danh dự và Huân chương kháng chiến, Uỷ ban Hành chính tỉnh, hoặc Uỷ ban Hành
chính thành phố, sau khi xét duyệt các hồ sơ, ghi ý kiến nhận xét và chuyển lên
Thủ tướng phủ quyết định.
D- Tổ chức trao tặng:
- Bảng Gia đình vẻ vang do Uỷ
ban Hành chính xã, thị trấn, thị xã (không có khu phố), và khu phố (ở những thị
xã có khu phố) tổ chức trao tặng.
- Bảng Vàng danh dự do Uỷ ban
Hành chính huyện, thị xã, hoặc Ban cán sự hành chính quận tổ chức trao tặng.
- Huân chương kháng chiến do Uỷ
ban Hành chính tỉnh, hoặc thành phố tổ chức trao tặng.
- Lễ trao tặng phải được tổ chức
trọng thể vào những ngày lễ lớn, hoặc trong những dịp hội hè lớn của địa
phương.
Đ- Tổ chức theo dõi việc tặng
thưởng:
Uỷ ban Hành chính cấp thành phố,
tỉnh, xã, thị trấn, thị xã (không có khu phố) và khu phố, phải nắm vững tình
hình khen thưởng gia đình quân nhân của địa phương mình để biết ai đã được
thưởng, ai chưa được thưởng. Muốn được vậy, cần phải có sổ sách ghi chép đầy đủ
vào hồ sơ phải được sắp xếp rành mạch.Phải có cán bộ phụ trách.
- Mỗi một đợt xét thưởng bảng
Gia đình vẻ vang, thành phố, tỉnh sẽ làm quyết định chung, chứ không làm quyết
định riêng cấp cho từng người nữa.
- Sau mỗi đợt tặng thưởng Bảng
vàng danh dự, Huân chương kháng chiến Thủ tướng phủ làm nghị định chung, chia
ra từng tỉnh, thành phố.
Tất cả mọi tờ khai , thư từ khiếu
nại về vấn đề này cũng cần được sắp xếp theo từng xã, thị trấn, khu phố, thị
xã, huyện, tỉnh, thành phố, và dần dần giải quyết tránh thất lạc.
Ban hành kèm theo nghị định số
017-TTG