BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 27-KL/TW
|
Hà Nội, ngày
02 tháng 08 năm 2012
|
KẾT LUẬN
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 53-NQ/TW,
NGÀY 29/8/2005 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ KHÓA IX ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ
BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG, AN NINH VÙNG ĐÔNG NAM BỘ VÀ VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA
NAM ĐẾN NĂM 2020
Tại phiên họp ngày
05/7/2012, sau khi xem xét báo cáo kết quả tổng kết Nghị quyết số 53-NQ/TW,
ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị khóa IX “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo
đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến
năm 2010 và định hướng đến năm 2020” của Ban cán sự đảng Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Chính trị đã thảo luận và kết luận:
1-
Về tình hình thực hiện Nghị quyết
1.1- Nghị quyết số
53-NQ/TW của Bộ Chính trị đã được các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng, đảng đoàn,
ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức quán triệt, triển khai
thực hiện nghiêm túc. Trong 5 năm (2006-2010) triển khai thực hiện Nghị quyết số
53-NQ/TW của Bộ Chính trị và các chủ trương, chính sách khác của Đảng và Nhà nước,
vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã đạt được những bước
phát triển quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc
phòng, an ninh. Nổi bật là:
Nhiều mục tiêu chủ yếu
về phát triển kinh tế - xã hội vùng trong Nghị quyết đề ra đã hoàn thành đạt và
vượt: tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn vùng đạt trung bình khoảng 11%/năm, tỉ
trọng khu vực dịch vụ trong cơ cấu kinh tế đạt trên 40%, giải quyết việc làm hằng
năm khoảng 50 vạn lao động... Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam tiếp tục đóng góp lớn vào thu ngân sách nhà nước và kim ngạch xuất khẩu cả
nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng vốn đạt trình độ khá nhất trong cả nước, tiếp tục
được đầu tư mở rộng và nâng cấp, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Tỉ lệ đô thị hóa của vùng đạt cao nhất cả nước với nhiều
chương trình đầu tư phát triển đô thị mới theo hướng đồng bộ, hiện đại. Công
tác cải cách hành chính được triển khai có hiệu quả, hoạt động của bộ máy chính
quyền các cấp đã hướng đến phục vụ người dân và doanh nghiệp nhiều hơn, góp phần
quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội,
giáo dục – đào tạo, y tế.. đều có bước phát triển đáng kể; tỉ lệ hộ nghèo và tỉ
lệ thất nghiệp giảm mạnh; an ninh trật tự xã hội và quản lý đô thị có nhiều tiến
bộ, thực hiện tốt các chương trình an sinh xã hội. Đời sống nhân dân từng bước
không ngừng được cải thiện. Tiềm lực quốc phòng và an ninh trên địa bàn được
tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và
khu vực phòng thủ được xây dựng và củng cố vững chắc. Hệ thống chính trị các cấp
được củng cố, xây dựng và kiện toàn, phương thức hoạt động có những đổi mới và
hiệu quả.
1.2- Những kết quả đạt
được là to lớn và rất quan trọng, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế
của vùng. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng vẫn còn bộc lộ một số
hạn chế, yếu kém chủ yếu sau đây:
- Chất lượng tăng trưởng
kinh tế chưa cao, thiếu bền vững, phát triển kinh tế ở một số nơi, một số lĩnh
vực còn mang tính tự phát, tỉ trọng các ngành nông - lâm - ngư nghiệp trong cơ
cấu kinh tế còn cao so với mục tiêu Nghị quyết đề ra. Chưa có giải pháp cụ thể
nhằm giảm dần chênh lệch về trình độ phát triển giữa các địa bàn trong vùng.
- Chất lượng nguồn
nhân lực nhìn chung còn thấp, tỉ lệ lao động qua đào tạo chưa đạt mục tiêu đề
ra, lao động kỹ thuật có tay nghề chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Tỉ lệ lao động
thất nghiệp vẫn giữ ở mức tương đối cao so với các vùng khác trong cả nước.
- Công nghiệp phát triển
nhanh nhưng thiếu tính bền vững và đồng bộ; tiến trình công nghiệp hóa chưa đi
đôi với hiện đại hóa. Chi phí sản xuất công nghiệp cao, tỉ lệ nội địa hóa thấp.
Chưa đạt được mục tiêu phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, có giá
trị gia tăng lớn; phân bố các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa hợp lý; chất
lượng và sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm còn thấp.
- Kết cấu hạ tầng chưa
theo kịp với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội của vùng và đang ngày càng quá
tải; ùn tắc giao thông trên các tuyến đường quốc lộ và các tuyến đường nội đô
ngày càng nghiêm trọng; tình trạng quá tải ở hầu hết các trường học, cơ sở đào
tạo, dạy nghề công lập, các cơ sở khám chữa bệnh ngày càng lớn. Quy hoạch và quản
lý quy hoạch đô thị và khu công nghiệp còn bất cập. Tình trạng ô nhiễm môi trường,
nhất là ô nhiễm nguồn nước và vấn đề xử lý chất thải rắn đang là vấn đề bức xúc
trong vùng. Tình trạng ngập úng tại Thành phố Hồ Chí Minh chậm được khắc phục.
- Sự phối hợp giữa các
địa phương, giữa các bộ, ngành và địa phương chưa tốt, chưa tạo được hiệu quả cần
thiết trong việc kết nối hạ tầng giao thông giữa Thành phố Hồ Chí Minh với các
tỉnh lân cận, trong phát triển đô thị, hình thành các khu xử lý chất thải rắn
liên tỉnh...; vấn đề liên kết vùng và phối hợp phát triển còn yếu.
Những tồn tại trên
có nguyên nhân khách quan nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:
- Nhận thức của một số
bộ, ngành và địa phương về nội dung, tầm quan trọng của Nghị quyết số 53-NQ/TW
chưa triệt để, chưa thấy hết được vị trí, tiềm năng, yêu cầu phát triển của
vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội của cả nước, chưa quan tâm xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ,
đặc thù nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng.
- Mục tiêu của Nghị
quyết đề ra khá cao trong khi nguồn lực còn hạn chế và trong quá trình thực hiện
chưa có dự báo chính xác những hệ lụy của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu để từ đó có các giải pháp khắc phục kịp thời, hiệu quả.
- Năng lực lãnh đạo,
quản lý của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương một số nơi chưa đáp ứng yêu
cầu. Công tác dự báo, đánh giá tình hình còn yếu, chưa nhận định và lường hết
những thuận lợi, khó khăn, thách thức để đề ra nhiệm vụ và giải pháp kịp thời,
có tính khả thi cao.
- Cơ chế phối hợp vùng
còn mang tính hình thức, thiếu chặt chẽ trong tổ chức thực hiện; cơ chế phối hợp
trong bố trí nguồn lực chưa hiệu quả...
2-
Phương hướng đến năm 2020
Để tiếp tục thực hiện
các nhiệm vụ của Nghị quyết số 53-NQ/TW, ngày 29/8/2005, nhằm đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam từ nay đến năm 2020, Bộ Chính trị yêu cầu các tỉnh ủy,
thành ủy trong vùng, các đảng đoàn, ban cán sự đảng và đảng ủy trực thuộc Trung
ương cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu sau
đây:
2.1- Nhận thức rõ vị
trí, vai trò của vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Vùng Đông Nam Bộ và
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh: Đồng
Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang
là vùng kinh tế trọng yếu, đóng góp đặc biệt quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát huy các lợi thế về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng
và các mối quan hệ đối ngoại, vùng đảm nhiệm chức năng đầu mối giao lưu với khu
vực và thế giới, đi đầu trong hội nhập quốc tế của cả nước. Bên cạnh đó, vùng
Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một trung tâm giáo dục và
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trung tâm nghiên cứu, chuyển
giao và ứng dụng khoa học và công nghệ hàng đầu cả nước.
2.2- Về mục tiêu đến
năm 2020
Duy trì tốc độ tăng
trưởng cao, tạo chuyển biến rõ rệt về chất, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả
các ngành kinh tế, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đóng
góp hiệu quả vào quá trình tái cấu trúc nền kinh tế của cả nước. Chủ động khai
thác cơ hội, phát huy tốt đa lợi thế và hạn chế các mặt bất lợi trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững kinh tế, xã hội, môi trường và bảo
đảm quốc phòng, an ninh.
Phấn đấu trong thời kỳ
2011-2020 tốc độ tăng trưởng GDP vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam đạt bình quân khoảng 9-10%/năm. Đến năm 2020, tỉ trọng khu vực phi
nông nghiệp chiếm khoảng 96% trong cơ cấu kinh tế, GDP bình quân đầu người của
vùng gấp khoàng 2 lần mức bình quân chung cả nước. Kim ngạch xuất khẩu của vùng
tăng trưởng bình quân 10-11%/năm, thu ngân sách đóng góp 55-60% thu ngân sách của
cả nước thời kỳ 2011-2020.
2.3- Về nhiệm vụ
a) Về phát triển
kinh tế
- Đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hiệu quả. Phát triển các ngành công nghiệp
có giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ cao, thu hút lao động có trình độ khoa
học kỹ thuật, tay nghề chuyên môn cao; tiếp tục phát triển và nâng cao năng lực
cạnh tranh các ngành công nghiệp chủ lực, có thế mạnh, chọn khâu đột phá phát
triển các ngành mũi nhọn trong các lĩnh vực cơ khí, điện tử, hóa chất, dược phẩm,
công nghiệp phần mềm, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học... Đối với khu
vực dịch vụ tập trung phát triển dịch vụ cao cấp, chất lượng cao như tài chính,
ngân hàng, thương mại, viễn thông, vận tải, khoa học công nghệ, đào tạo, y tế,
du lịch... Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành một trung tâm dịch vụ chất lượng
cao ngang tầm khu vực và quốc tế. Phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững
theo hướng sản xuất hàng hóa lớn với hình thức tổ chức và kỹ thuật hiện đại, tạo
ra sản phẩm đa dạng, an toàn, chất lượng cao phục vụ các đô thị, công nghiệp chế
biến và xuất khẩu.
- Tăng cường liên kết
vùng, xây dựng không gian kinh tế thống nhất nhằm phát huy lợi thế so sánh của
mỗi tỉnh, thành phố và toàn vùng, tạo sự phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau có hiệu quả
giữa các địa phương. Giảm bớt sự tập trung phát triển công nghiệp vào Thành phố
Hồ Chí Minh, chuyển dần các cơ sở công nghiệp sang các khu vực còn dư địa phát
triển, nhất là các tỉnh Tây Ninh, Long An, Bình Phước, Tiền Giang.
b) Về phát triển kết
cấu hạ tầng và đô thị
- Đẩy mạnh đầu tư xây
dựng, hoàn thiện và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, bảo đảm
phát triển cân đối, đồng bộ, đi trước một bước. Tăng cường cải tạo chất lượng
các khu đô thị hiện có, đặc biệt là trung tâm thành phố Hồ Chí Minh và các đô
thị lớn trong vùng. Ưu tiên đầu tư phát triển các đô thị mới, đô thị vệ tinh
theo hướng đô thị xanh, đô thị sinh thái đồng bộ, nhằm giảm tải sự quá tập
trung vào các đô thị trung tâm. Mở rộng và xây dựng mới các quốc lộ có nhu cầu
vận tải lớn, xây dựng hệ thống đường bộ cao tốc. Hoàn thành di dời cảng trong
khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và đầu tư hoàn chỉnh cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép
– Thị Vải. Hoàn thành cải tạo, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có đạt cấp
tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia và khu vực; nhanh chóng phát triển giao thông vận
tải bánh sắt tại các đô thị, ưu tiên triển khai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hoàn
thành giai đoạn 1 cảng hàng không quốc tế Long Thành vào năm 2020. Tăng cường
huy động mọi nguồn lực cho đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật nhằm sớm khắc
phục tình trạng ngập úng, thiếu điện, thiếu nước sạch trong vùng.
c) Về văn hóa, xã hội
- Nâng cao chất lượng
các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao. Tôn tạo các di tích lịch sử, bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể gắn với phát triển di lịch. Xây dựng
các thiết chế văn hóa ở các cấp, đảm bảo cơ bản hoàn chỉnh các thiết chế văn
hóa ở cấp tỉnh vào năm 2015 và cấp huyện vào năm 2020. Xây dựng các công trình
văn hóa, thể thao tại Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm phát triển văn
hóa, thể thao của vùng.
- Phát triển nhanh
công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế cho vùng và cho cả nước. Đưa tỉ lệ lao động qua đào tạo
của vùng đạt trên 80%, tỉ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4% năm 2020, quan tâm
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Xây dựng Thành phố Hồ
Chí Minh và các địa phương trong vùng trở thành một trong những trung tâm đào tạo
nhân lực chất lượng cao của cả nước.
- Đổi mới nội dung,
chương trình và phương pháp giáo dục ở các cấp học, nâng cao chất lượng giáo dục
làm tiền đề cho nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hoàn thành chương trình
kiên cố hóa trường, lớp học, xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia. Phát triển
hệ thống các trường đại học, cao đẳng, các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn từng
tỉnh, thành phố theo quy hoạch. Tập trung đầu tư để tăng cường cơ sở vật chất,
xây dựng đội ngũ giảng viên, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học
trọng điểm, đại học xuất sắc. Hình thành các trường cao đẳng nghề chất lượng
cao với các nghề đạt chuẩn khu vực, quốc tế.
- Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống cơ sở khám, chữa bệnh và mạng lưới y tế dự phòng với trang thiết bị hiện
đại, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân trong vùng, ngoài vùng và một
số nước trong khu vực khám. Kiện toàn tổ chức y tế địa phương, tăng cường đầu
tư cho y tế cơ sở, y tế dự phòng và công tác an toàn vệ sinh thực phẩm. Đảm bảo
100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực
y tế cho khu vực này. Từng bước đầu tư nâng cấp bệnh viện tuyến huyện và bệnh
viện đa khoa tỉnh, đẩy mạnh xã hội hóa công tác khám chữa bệnh. Xây dựng các
trung tâm y tế vùng, trung tâm y tế chất lượng cao đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc
tế.
- Thực hiện có hiệu quả
các chương trình phát triển nhà ở trên địa bàn, đặc biệt là chương trình phát
triển nhà ở xã hội và chương trình hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo khu vực nông
thôn và gia đình chính sách.
d) Về bảo vệ môi
trường
Tăng cường quản lý,
khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ môi trường, tăng cường các biện pháp thanh tra, kiểm
tra và xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Tiếp tục thực hiện Đề án bảo vệ
môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Đẩy mạnh phối hợp giữa
các bộ, ngành, địa phương trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, gắn với các giải
pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
đ) Về quốc phòng,
an ninh
- Phát triển kinh tế -
xã hội kết hợp với củng cố quốc phòng, an ninh cần được tổ chức thực hiện trên
từng địa bàn lãnh thổ ngay từ công tác quy hoạch, kế hoạch, xây dựng chương
trình, dự án đầu tư. Xây dựng chính sách tôn giáo, dân tộc và chính sách đất
đai phù hợp. Phối hợp các lực lượng có liên quan, các cấp, các ngành xây dựng,
củng cố lòng tin của nhân dân, xây dựng thế trận an ninh nhân dân kết hợp với
thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.
- Hợp tác chặt chẽ với
Cam-pu-chia trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, giải quyết các vấn đề phức tạp
liên quan tới an ninh trật tự khu vực biên giới, công tác phân giới cắm mốc.
Tăng cường nguồn lực đầu tư, thực hiện có hiệu quả chính sách ổn định dân cư,
phát triển sản xuất tại khu vực biên giới, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc
thiểu số.
2.4- Về giải
pháp
- Hoàn thành việc lập
và phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, làm cơ sở cho việc xây dựng,
rà soát, điều chỉnh các quy hoạch ngành, lĩnh vực và quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội của các địa phương trong vùng. Quy hoạch vùng phải bảo đảm
phát huy được tối đa tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương và của toàn vùng, định
hướng cho sự phát triển hài hòa, hợp tác hiệu quả giữa các địa phương.
- Tiếp tục nghiên cứu,
bổ sung, ban hành đồng bộ các cơ chế, chính sách, trọng tâm là chính sách thu
hút đầu tư vào các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, tạo giá trị gia
tăng lớn, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sạch, các ngành dịch vụ chất lượng
cao phù hợp với phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng và đầu tư phát triển
kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông. Nghiên cứu các cơ chế và chính
sách tài chính tạo thêm điều kiện thuận lợi cho các địa phương phát triển kinh
tế - xã hội. Đồng thời có cơ chế, chính sách nhằm tăng cường chất lượng công
tác bảo vệ môi trường, huy động được sự tham gia tích cực của các thành phần
kinh tế vào các lĩnh vực xử lý nước thải, chất thải, dịch vụ môi trường...
- Tăng cường vai trò
chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đối với vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, trên cơ sở kiện toàn, nâng cao năng lực các cơ quan chức năng hiện
nay của các bộ, ngành Trung ương có liên quan trong chỉ đạo, điều phối phát triển
vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
3-
Tổ chức thực hiện
- Các tỉnh ủy, thành ủy
trong vùng, đảng đoàn, ban cán sự đảng và đảng ủy trực thuộc Trung ương có
chương trình, kế hoạch cụ thể để tổ chức thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW và Kết
luận này của Bộ Chính trị.
- Ban cán sự đảng
Chính phủ chỉ đạo, điều hành việc triển khai thực hiện Nghị quyết và Kết luận của
Bộ Chính trị; phối hợp với Văn phòng Trung ương Đảng, các ban đảng Trung ương
đôn đốc, theo dõi và định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết và Kết
luận này, báo cáo Bộ Chính trị.
|
T/M. BỘ
CHÍNH TRỊ
Lê Hồng Anh
|