BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 25-KL/TW
|
Hà Nội, ngày
02 tháng 08 năm 2012
|
KẾT LUẬN
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 39-NQ/TW,
NGÀY 16/8/2004 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ KHÓA IX NHẰM ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG, AN NINH VÙNG BẮC TRUNG BỘ VÀ DUYÊN HẢI TRUNG BỘ ĐẾN NĂM
2020
Tại phiên họp ngày 05/7/2012, sau khi xem xét
Báo cáo kết quả tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 16/8/2004 của Bộ
Chính trị khóa IX “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an
ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010” của Ban Chỉ đạo tổng
kết, Bộ Chính trị đã thảo luận và kết luận:
1- Về tình hình thực hiện
Nghị quyết
Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX
đã đánh giá đúng đặc điểm, vị trí quan trọng, tiềm năng, lợi thế, những khó
khăn và xác định hướng phát triển của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ.
Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương kịp thời cụ thể hóa thành Chương
trình hành động và Kế hoạch cụ thể; ban hành một số cơ chế, chính sách, tập
trung chỉ đạo thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an
ninh của vùng. Các tỉnh ủy, thành ủy đã tổ chức nghiên cứu, quán triệt và triển
khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 39-NQ/TW, lồng ghép với việc triển khai
thực hiện Nghị quyết Đại hội X và các nghị quyết khác của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh, thành phố. Đã huy động được
sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sự nỗ lực của toàn dân, sự năng động
của cộng đồng doanh nghiệp, có sự phối hợp giữa các bộ, ngành, các địa phương để
tập trung thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của Nghị quyết; đã đạt được
kết quả quan trọng:
- Kinh tế toàn vùng đạt mức tăng trưởng khá cao
(vượt mục tiêu Nghị quyết đề ra), cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực
(giảm dần tỉ trọng nông nghiệp, tăng dần tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ). Các
ngành, lĩnh vực đều có bước phát triển; đã có một số sản phẩm, dịch vụ mới có
chất lượng với hàm lượng công nghệ cao. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân
18%/năm; thu ngân sách tăng cao (tăng 20,5%/năm). Thu hút đầu tư trong nước và
nước ngoài đạt kết quả khá, tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ngày
càng tăng. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông trong vùng được đầu
tư mở rộng theo hướng hiện đại. Nhiều công trình, dự án trọng điểm ghi trong
Nghị quyết đã và đang được triển khai thực hiện. Kinh tế biển, đảo đã được chú
trọng, góp phần tích cực bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển của Tổ
quốc.
- Văn hóa – xã hội có bước phát triển và đạt được
những kết quả tích cực; giáo dục – đào tạo, y tế phát triển nhanh; công tác xóa
đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội có nhiều tiến bộ;
đời sống nhân dân trong vùng từng bước được cải thiện.
- Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị không ngừng được củng cố và kiện toàn; chính trị, xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được đảm bảo, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, so với mục tiêu, yêu cầu của Nghị quyết
vẫn còn những hạn chế, yếu kém:
- Kinh tế tăng trưởng cao, nhưng chưa bền vững,
chất lượng và năng lực cạnh tranh còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, công nghiệp gia công, lắp ráp còn chiếm tỉ
trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của vùng; công nghiệp phụ trợ, chế
biến sâu nông – lâm – thủy sản chậm phát triển. Chất lượng, hiệu quả sản xuất
nông nghiệp chưa cao; quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả thấp;
kinh tế biển, đảo phát triển chậm; chất lượng dịch vụ còn thấp. Công tác quy hoạch
và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. Không gian kinh tế vùng chưa
được hình thành rõ nét, chưa phát huy được liên kết để phát triển.
- Văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ,
bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, có mặt không theo kịp yêu cầu, có
mặt không theo kịp yêu cầu của cuộc sống gây bức xúc xã hội. Kết quả giảm nghèo
chưa thực sự bền vững, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền còn
lớn.
- Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số tổ
chức đảng chưa được chú trọng đúng mức. Chỉ đạo điều hành, tổ chức thực hiện của
một số cơ quan chính quyền còn chưa hiệu quả; cải cách thủ tục hành chính, quy
trình giải quyết công việc trên một số lĩnh vực còn chậm. An ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội ở một số địa bàn trọng điểm và khu vực nông thôn còn tiềm ẩn
nhiều nhân tố phức tạp, khó lường, nhất là vấn đề tôn giáo, dân tộc; tranh chấp,
khiếu kiện còn diễn ra ở nhiều nơi.
Những hạn chế, yếu kém nói trên có nguyên nhân
khách quan. Song, chủ yếu vẫn là nguyên nhân chủ quan:
- Việc nghiên cứu, quán triệt và tổ chức triển
khai thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW ở một số địa phương chưa được quan tâm đầy đủ,
sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền chưa sâu sát, chặt chẽ; mục tiêu đề
ra khá cao trong khi nguồn lực còn hạn chế và chưa có dự báo chính xác những hệ
lụy của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu để từ đó có
các giải pháp khắc phục kịp thời, hiệu quả.
- Một số bộ, ngành chưa nghiêm túc thực hiện các
nhiệm vụ nêu trên trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Chính
phủ. Cơ chế liên kết vùng chưa được quan tâm xây dựng, hoàn thiện và còn nhiều
bất cập; quy hoạch vùng, quy hoạch ngành chưa thực sự trở thành cơ sở định hướng
cho việc xây dựng các quy hoạch của địa phương gây nên tình trạng cát cứ và đầu
tư theo phong trào, làm lãng phí các nguồn lực. Chất lượng các quy hoạch còn thấp,
quản lý quy hoạch còn nhiều hạn chế, chưa có sự đồng bộ giữa quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội với quy hoạch ngành, thiếu sự thống nhất, gắn kết
giữa các mục tiêu phát triển vùng trong cùng một thời kỳ.
- Quản lý, giám sát của Trung ương về quy hoạch,
đầu tư công, khai thác tài nguyên chưa chặt chẽ, có chỗ, có nơi còn buông lỏng
để nảy ra tình trạng “xé rào” về cơ chế, chính sách, phá vỡ quy hoạch, đầu tư
dàn trải giữa các địa phương... đã tác động không nhỏ đến chất lượng phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
2- Tư tưởng chỉ đạo, mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
Để tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ của Nghị quyết
39-NQ/TW nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc
phòng vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung Bộ từ nay đến năm 2020, Bộ Chính trị
yêu cầu các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng, các đảng đoàn, ban cán sự đảng và đảng
ủy trực thuộc Trung ương cần tập trung chỉ đạo, thực hiện tốt một số vấn đề chủ
yếu sau đây:
2.1- Về tư tưởng chỉ đạo
Tiếp tục quán triệt để nhận thức rõ vị trí, vai
trò của vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ là địa bàn chiến lược đặc biệt
quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, nhất là bảo vệ vững
chắc chủ quyền quốc gia trên biển, đảo của đất nước. Phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ tác động trực
tiếp và to lớn đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và
bền vững đất nước. Trên cơ sở đó, bảo đảm được tính hợp lý, hiệu quả trong sự bố
trí lực lượng sản xuất, phát huy tối đa lợi thế của toàn vùng cho phát triển.
2.2- Về mục tiêu đến năm 2020
Trên cơ sở những thành tựu đạt được trong thực
hiện Nghị quyết 39-NQ/TW và vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội XI, Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 của đất nước, tiếp tục đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ với tốc độ nhanh và bền
vững, trở thành vùng phát triển năng động, một đầu cầu quan trọng của cả nước
trong giao lưu hợp tác quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc
phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Cải thiện căn bản đời
sống vật chất, văn hoa, tinh thần của nhân dân, đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm
nghèo, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở các xã đặc biệt
khó khăn, vùng căn cứ kháng chiến; tăng cường công tác bảo vệ và nâng cao sức khỏe
của người dân. Hạn chế tối đa ảnh hưởng của thiên tai lũ bão, hạn hán, bảo vệ
môi trường sinh thái; ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước
biển dâng.
Phấn đấu giai đoạn 2011-2020 tạo việc làm cho
khoảng 400.000 lao động/năm; giảm tỉ lệ hộ nghèo từ 2-3%/năm (theo chuẩn mới);
nâng cao sức khỏe người dân, tăng tuổi thọ bình quân lên 75 tuổi, giảm tỉ lệ trẻ
em suy dinh dưỡng xuống còn 10% vào năm 2020; nâng độ che phủ của rừng từ 47,8%
năm 2010 lên khoảng 58% vào năm 2020.
2.3- Về nhiệm vụ
Gắn thực hiện các định hướng đã nêu trong Nghị
quyết 39-NQ/TW về phát triển kinh tế với tổ chức thực hiện các quan điểm, chủ
trương về đổi mới mô hình tăng trưởng cơ cấu lại nền kinh tế phát triển nhanh
và bền vững, nâng cao chất lượng hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng. Chú trọng việc đẩy mạnh sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, tăng
nhanh hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của các sản phẩm,
của doanh nghiệp trong vùng. Giảm nhanh tỉ trọng xuất khẩu các sản phẩm thô,
không qua chế biến; tăng sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm có hàm lượng khoa học,
công nghệ cao. Kinh tế biển phải trở thành ngành kinh tế quan trọng, được đầu
tư trang bị, công nghệ hiện đại đảm bảo phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả
kinh tế, giữ vững chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Hình thành được
một số sản phẩm chủ lực của vùng trên các lĩnh vực: ô tô, điện tử, vật liệu xây
dựng, chế biến dược và nông – thủy sản mang thương hiệu Việt Nam, có khả năng cạnh
tranh quốc tế; ưu tiên phát triển và hiện đại hóa các dịch vụ du lịch, khách sạn,
cơ sở nghỉ dưỡng, vận tải, đào tạo, y tế.
Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển
kinh tế. Trọng tâm là đẩy mạnh giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục đầu tư xây dựng các trung tâm
nghiên cứu và ứng dụng khoa học, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển y tế chuyên
sâu đạt trình độ khu vực và quốc tế; hướng hoạt động khoa học, công nghệ vào phục
vụ phát triển kinh tế biển, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh
tế, phát triển kinh tế tri thức. Tăng cường công tác ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm,
khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái; chủ động phòng, tránh, giảm nhẹ tác hại
thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Thực hiện có hiệu quả
chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo bền vững; chú
trọng giải quyết tốt đời sống, việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững
ổn định chính trị, trật tự xã hội, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường thuận
lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế -
xã hội, nhất là phát triển kinh tế biển, đảo với bảo vệ chủ quyền, quyền chủ
quyền biển, hải đảo của Tổ quốc, bảo đảm quốc phòng, an ninh ngay từ khi xác định
chủ trương, hình thành tự dự án, công trình cụ thể.
2.4- Về giải pháp
- Sớm hoàn thành việc xây dựng và phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung
Bộ đến năm 2020. Trên cơ sở đó rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện quy hoạch
ngành, lĩnh vực của toàn vùng theo hướng: khai thác tối đa mọi tiềm năng, thế mạnh
của từng tỉnh, thành phố và của cả vùng; bảo đảm sự phát triển gắn kết, hài hòa
giữa các tỉnh, thành phố tạo thành không gian kinh tế vùng liên hoàn, hợp lý.
- Tiếp tục cụ thể hóa và thực hiện cho được các
mục tiêu nêu trong Nghị quyết 39-NQ/TW nhằm đáp ứng yêu cầu của phát triển của
vùng. Trong đó, cần sớm nghiên cứu đổi mới cơ chế, chính sách huy động và sử dụng
có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư (vốn ngân sách nhà nước, vốn tư nhân trong nước,
vốn FDI, vốn ODA, vốn vay các tổ chức tín dụng quốc tế...) với nhiều hình thức
đầu tư (BOT, BT, PPP đa dạng, phù hợp). Đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành bằng được
các công trình, dự án đã ghi trong Nghị quyết 39-NQ/TW và Chương trình hành động
của Chính phủ, nhất là hệ thống hạ tầng khung kết nối vùng với các tỉnh Tây
Nguyên, với Lào, Cam-pu-chia và Đông Bắc Thái Lan; hệ thống đường ven biển, đường
cao tốc, cảng biển, cảng hàng không; cải tạo, nâng cấp các tuyến đường sắt hiên
có theo hướng đảm bảo giao thông bình thường trong mùa mưa lũ; xây dựng, cải tạo
các công trình thủy lợi, thủy sản quan trọng phục vụ sản xuất, chỉ động phòng,
chống và thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, ban hành đồng bộ
các cơ chế, chính sách, trọng tâm là các cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng
đất đai, tài chính, huy động và sử dụng nguồn lực cho phát triển vùng; ưu tiên
đầu tư thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trọng điểm và cho các địa phương còn
nhiều khó khăn, vùng căn cứ kháng chiến cũ, các địa phương phát triển kinh tế
biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia. Đẩy mạnh phát triển nghiên cứu
khoa học và công nghệ, đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm, trung
tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo nhân lực phục vụ phát triển cả vùng; đẩy mạnh
phát triển văn hóa – xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; phòng, tránh thiên
tai và bảo vệ môi trường sinh thái...
Tăng cường vai trò chỉ đạo, điều hành của Chính
phủ đối với vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ. Sớm giao cho các tổ chức
đã có thuộc Văn phòng Chính phủ làm nhiệm vụ theo dõi, tham mưu giúp Chính phủ
chỉ đạo, điều phối các hoạt động cung của vùng, trước hết là chỉ đạo công tác
xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch, phân bổ các nguồn lực trong toàn
vùng.
3- Tổ chức thực hiện
Các tỉnh ủy, thành ủy trong vùng, đảng đoàn, ban
cán sự đảng và đảng ủy trực thuộc Trung ương có chương trình cụ thể để lãnh đạo,
tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, chặt chẽ, nghiêm túc Kết luận này của Bộ
Chính trị.
Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo, điều hành việc
cụ thể hóa và triển khai thực hiện Nghị quyết; phối hợp với Văn phòng Trung
ương Đảng, các ban đảng Trung ương theo dõi sơ kết, tổng kết việc thực hiện Kết
luận này, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị.
|
T/M BỘ CHÍNH
TRỊ
Lê Hồng Anh
|