CÔNG ƯỚC VIÊN
VỀ LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
Ngày
23 tháng 5 năm 1969
(Có hiệu lực ngày 27 tháng 1 năm 1980)
Các quốc gia tham gia Công ước
này,
Tính đến vai trò cơ bản của các điều
ước trong lịch sử quan hệ quốc tế,
Công nhận tầm quan trọng ngày càng
tăng của các điều ước là nguồn của pháp luật quốc tế và là phương tiện để phát
triển sự hợp tác hòa bình giữa các nước, không tính đến các chế độ Hiến pháp và
xã hội khác nhau của các quốc gia.
Ghi nhận rằng các nguyên tắc tự nguyện
và thiện chí và quy phạm pacta sunt servanda đã được toàn thế giới công nhận.
Khẳng định rằng những tranh chấp
về các điều ước, cũng như những tranh chấp quốc tế khác, phải được giải quyết bằng
các biện pháp hòa bình và phù hợp với những nguyên tắc công lý và những nguyên
tắc của pháp luật quốc tế.
Nhắc lại quyết tâm của các dân tộc
trong Liên hiệp quốc là tạo những điều kiện cần thiết cho việc duy trì việc tôn
trọng những nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước.
Ý thức về những nguyên tắc của pháp
luật quốc tế ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc, như nguyên tắc về quyền bình
đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc, nguyên tắc bình đẳng chủ quyền và độc
lập của tất cả các quốc gia, nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ
của các quốc gia, nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng vũ lực và sử dụng vũ lực, nguyên
tắc tôn trọng một cách phổ biến và tuân thủ quyền con người và những quyền tự
do cơ bản của con người.
Tin rằng việc pháp điển hóa và phát
triển Luật điều ước đạt được trong Công ước này sẽ thúc đẩy những mục tiêu của
Liên hiệp quốc, phát triển quan hệ hữu nghị và thực hiện sự hợp tác giữa các
dân tộc.
Khẳng định rằng những quy phạm của
luật tập quán quốc tế sẽ tiếp tục điều chỉnh những vấn đề không đạt được điều
chỉnh trong Công ước này.
Đã thỏa thuận như sau:
Phần I.
PHẦN MỞ ĐẦU
Điều 1. Phạm
vi của Công ước này
Công ước này áp dụng cho các điều
ước giữa các quốc gia.
Điều 2.
Những thuật ngữ được sử dụng
1. Theo mục đích của Công ước
này
a) Thuật ngữ “điều ước” dùng
để chỉ một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và
được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất
hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và với bất kể tên gọi
riêng của nó là gì.
b) Những thuật ngữ “phê chuẩn”,
“chấp thuận”, “phê duyệt”, “gia nhập” dùng để chỉ, tùy từng
trường hợp, một hành vi quốc tế của quốc gia, như tên vừa kể, theo đó quốc gia
xác nhận sự đồng ý của mình, trên phương diện quốc tế, chịu sự ràng buộc của
một điều ước.
c) Thuật ngữ “thư ủy quyền”
dùng để chỉ một văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm của một quốc gia chỉ định một
hoặc nhiều người để thay mặt mình trong việc đàm phán, thông qua hoặc xác thực
văn bản của một điều ước để ghi nhận sự đồng ý của quốc gia mình chịu sự ràng
buộc của một điều ước hoặc để thi hành mọi công việc khác có liên quan tới một
điều ước.
d) Thuật ngữ “bảo lưu” dùng
để chỉ một tuyên bố đơn phương, bất kể cách viết hoặc tên gọi như thế nào, của
một quốc gia đưa ra khi ký kết, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập
một điều ước, nhằm qua đó loại bỏ hoặc sửa đổi hiệu lực pháp lý của một số quy
định của điều ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó.
e) Thuật ngữ “quốc gia tham
gia đàm phán” dùng để chỉ một quốc gia đã tham gia vào việc soạn thảo và thông
qua văn bản của điều ước.
f) Thuật ngữ “quốc gia ký kết”
dùng để chỉ một quốc gia đã đồng ý chịu sự ràng buộc của điều ước, dù điều ước đã
có hiệu lực hay chưa có hiệu lực.
g) Thuật ngữ “một bên” dùng
để chỉ một quốc gia đã đồng ý chịu sự ràng buộc của điều ước và đối với quốc
gia này điều ước có hiệu lực.
h) Thuật ngữ “quốc gia thứ ba”
dùng để chỉ một quốc gia không phải là một bên của điều ước.
i) Thuật ngữ “tổ chức quốc tế”
dùng để chỉ một tổ chức liên chính phủ.
2. Những quy định của khoản 1 về
những thuật ngữ được sử dụng trong Công ước này được hiểu không phương hại đến việc
sử dụng những thuật ngữ đó, đến nghĩa mà những thuật ngữ này có thể có trong
pháp luật trong nước của mỗi quốc gia.
Điều 3.
Những hiệp định quốc tế không thuộc phạm vi của Công ước này.
Việc Công ước này không áp dụng đối
với các hiệp định quốc tế được ký kết giữa các quốc gia và các chủ thể khác của
pháp luật quốc tế, hoặc giữa các chủ thể khác của pháp luật quốc tế với nhau,
cũng như không áp dụng đối với những hiệp định quốc tế không thành văn, sẽ
không phương hại gì đến.
a) Giá trị pháp lý của các hiệp định
đó;
b) Việc áp dụng tất cả các quy tắc
nêu trong Công ước này đối với các Hiệp định nói trên; các Hiệp định này sẽ phải
tuân thủ các quy tắc đó, theo tinh thần của pháp luật quốc tế mà không phụ thuộc
vào Công ước này;
c) Việc áp dụng Công ước này đối
với các quan hệ giữa các quốc gia được những hiệp định quốc tế điều chỉnh, trong
đó có cả sự tham gia của các chủ thể của pháp luật quốc tế vào các hiệp định đó.
Điều 4. Tính
chất không hồi tố của Công ước này
Không làm phương hại đến việc áp
dụng các quy tắc ghi trong Công ước này mà theo đó các điều ước được pháp luật quốc
tế điều chỉnh không phụ thuộc vào Công ước này. Công ước này chỉ áp dụng đối
với các điều ước đã được ký kết giữa các quốc gia sau khi Công ước này có hiệu
lực đối với các quốc gia đó.
Điều 5.
Những điều ước về việc thành lập tổ chức quốc tế và những điều ước được thông
qua trong một tổ chức quốc tế
Công ước này áp dụng đối với tất
cả các điều ước là văn kiện thành lập một tổ chức quốc tế và đối với tất cả các
điều ước được thông qua trong một tổ chức quốc tế, không làm phương hại đến các
quy tắc riêng của tổ chức quốc tế đó.
Phần II.
KÝ KẾT VÀ HIỆU LỰC CỦA
CÁC ĐIỀU ƯỚC
Tiết 1. KÝ
KẾT CÁC ĐIỀU ƯỚC
Điều 6. Tư
cách của các quốc gia ký kết các điều ước
Mọi quốc gia đều có tư cách để ký
kết các điều ước.
Điều 7. Thư
ủy quyền
1. Một người được coi là đại diện
cho một quốc gia để thông qua hoặc để xác thực văn bản của một điều ước hay để
tỏ sự đồng ý của quốc gia chịu sự ràng buộc của điều ước:
a) Nếu người đó xuất trình thư ủy
quyền thích hợp; hoặc
b) Nếu chiểu theo thực tiễn của các
quốc gia hữu quan hoặc theo những hoàn cảnh khác, những quốc gia này có ý định
coi người đó là đại diện của quốc gia mình nhằm đạt được những mục đích nêu
trên và không đòi hỏi phải xuất trình thư ủy quyền.
2. Chiểu theo chức vụ của họ và không
cần xuất trình thư ủy quyền, những người sau đây được coi là đại diện cho quốc
gia của họ:
a) Các Nguyên thủ quốc gia, người
đứng đầu Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong mọi hành vi liên quan đến
việc ký kết điều ước;
b) Các Trưởng đoàn ngoại giao trong
việc thông qua văn bản của một điều ước giữa quốc gia cử và quốc gia nhận đại
diện;
c) Những đại diện được cử của một
quốc gia tại một hội nghị quốc tế hoặc tại một tổ chức quốc tế hoặc tại một cơ
quan của tổ chức này, trong việc thông qua văn bản của một điều ước trong hội
nghị quốc tế đó, trong tổ chức quốc tế đó hay trong cơ quan của tổ chức quốc tế
đó.
Điều 8. Việc
xác nhận sau đó đối với một hành vi không được ủy quyền
Một hành vi liên quan đến việc ký
kết một điều ước của một người mà theo Điều 7 không được coi là có thẩm quyền
đại diện cho một quốc gia thì không có giá trị pháp lý, trừ khi được quốc gia
họ xác nhận sau đó hành vi ký kết này.
Điều 9. Việc
thông qua văn bản
1. Việc thông qua văn bản của một
điều ước sẽ phải được thực hiện với sự đồng ý của tất cả các quốc gia tham gia
soạn thảo điều ước đó, trừ những trường hợp quy định trong khoản 2.
2. Việc thông qua văn bản của một
điều ước trong một hội nghị quốc tế sẽ phải được thực hiện bằng hai phần ba số
phiếu của những quốc gia có mặt và bỏ phiếu, trừ trường hợp những quốc gia này
quyết định áp dụng quy tắc khác theo đa số như trên.
Điều 10. Việc
xác thực một văn bản
Văn bản của một điều ước được coi
là xác thực và không thay đổi:
a) Theo thủ tục được quy định trong
văn bản đó hoặc được các quốc gia tham gia soạn thảo điều ước đồng ý hoặc;
b) Nếu không có thủ tục như thế,
thì bằng việc đại diện của các quốc gia đó ký, ký ad referendum hoặc ký tắt vào
văn bản điều ước, vào văn bản cuối cùng của hội nghị mà trong đó văn bản điều ước
được bao gồm.
Điều 11.
Những hình thức biểu thị sự đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước
Việc một quốc gia đồng ý chịu sự
ràng buộc của một điều ước có thể biểu thị bằng việc ký, trao đổi các văn kiện của
điều ước phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập hoặc bằng mọi cách khác
được thỏa thuận.
Điều 12.
Việc đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước được biểu thị bằng việc ký
1. Sự đồng ý chịu sự ràng buộc của
một điều ước biểu thị bằng việc đại diện của quốc gia đó ký:
a) Khi điều ước quy định là việc
ký sẽ có giá trị ràng buộc đó;
b) Khi có sự thể hiện bằng hình thức
khác rõ ràng bằng những quốc gia đã tham gia đàm phán thỏa thuận với nhau là
việc ký sẽ có giá trị ràng buộc đó; hoặc
c) Khi có ý định của quốc gia đó
muốn việc ký kết sẽ có giá trị ràng buộc được thể hiện trong thư ủy quyền của đại
diện quốc gia hoặc được bày tỏ trong quá trình đàm phán.
2. Theo mục đích của khoản 1:
a) Việc ký tắt một văn bản là việc
ký điều ước khi các quốc gia tham gia đàm phán đã thỏa thuận như vậy;
b) Việc đại diện của một quốc gia
ký ad referendum vào một điều ước là việc ký cuối cùng vào điều ước đó nếu việc
ký như thế được các quốc gia xác nhận.
Điều 13.
Việc đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước được biểu thị bằng việc trao đổi
các văn kiện của điều ước.
Sự đồng ý của quốc gia chịu sự ràng
buộc của một điều ước bằng việc trao đổi với nhau các văn kiện được thể hiện:
a) Khi các văn kiện quy định rằng
việc trao đổi sẽ có giá trị ràng buộc đó; hoặc
b) Khi có sự thể hiện bằng hình thức
khác rõ ràng rằng những quốc gia này đã thỏa thuận việc trao văn kiện sẽ có giá
trị ràng buộc đó.
Điều 14.
Việc đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước được biểu thị bằng việc phê
chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt.
1. Một quốc gia đồng ý chịu sự ràng
buộc của một điều ước biểu thị bằng việc phê chuẩn:
a) Khi điều ước quy định là sự đồng
ý này biểu thị bằng việc phê chuẩn;
b) Khi có sự biểu thị rõ ràng bằng
hình thức khác rằng các quốc gia tham gia đàm phán đã thỏa thuận dùng hình thức
phê chuẩn;
c) Khi đại diện của quốc gia đó đã
ký điều ước với bảo lưu việc phê chuẩn; hoặc
d) Khi ý định của quốc gia đó ký
điều ước với bảo lưu việc phê chuẩn được thể hiện trong thư ủy quyền của đại diện
của quốc gia đó hoặc được bày tỏ trong quá trình đàm phán.
2. Việc một quốc gia đồng ý chịu
sự ràng buộc của một điều ước biểu thị bằng việc chấp thuận hoặc phê duyệt trong
những điều kiện tương tự như đối với việc phê chuẩn.
Điều 15.
Việc đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước biểu thị bằng việc gia nhập.
Một quốc gia đồng ý chịu sự ràng
buộc của một điều ước biểu thị bằng việc gia nhập:
a) Khi điều ước quy định rằng quốc
gia này có thể biểu thị sự đồng ý của mình bằng việc gia nhập;
b) Khi có sự thể hiện bằng hình thức
khác rõ ràng rằng những quốc gia tham gia đàm phán đã thỏa thuận là sự đồng ý
có thể được biểu thị bằng việc gia nhập; hoặc
c) Khi sau này tất cả các bên thỏa
thuận là sự đồng ý của quốc gia có thể được biểu thị bằng việc gia nhập.
Điều 16.
Việc trao đổi hoặc lưu chiểu những văn kiện phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt
hoặc gia nhập
Trừ khi điều ước có quy định khác,
các văn kiện phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập một điều ước xác
định sự đồng ý của một quốc gia chịu sự ràng buộc của một điều ước vào thời điểm:
a) Trao đổi các văn kiện giữa các
quốc gia ký kết;
b) Lưu chiểu các văn kiện ấy tại
cơ quan lưu chiểu; hoặc
c) Thông báo những văn kiện ấy cho
các quốc gia ký kết hoặc cho cơ quan lưu chiểu, nếu có thỏa thuận như vậy.
Điều 17.
Việc đồng ý chịu sự ràng buộc một phần của một điều ước và việc lựa chọn những
điều khoản khác nhau
1. Không phương hại đến những quy
định của các điều từ 19 đến 23, việc một quốc gia đồng ý chịu sự ràng buộc của
một phần của một điều ước sẽ chỉ có giá trị khi điều ước cho phép làm như vậy
hoặc khi có sự đồng ý các quốc gia ký kết khác.
2. Việc một quốc gia đồng ý chịu
sự ràng buộc của một điều ước khi điều ước đó cho phép lựa chọn giữa những quy định
khác nhau sẽ chỉ có giá trị khi những quy định mà quốc gia đó lựa chọn đã được
ghi rõ ràng trong điều ước.
Điều 18.
Nghĩa vụ về việc không được làm cho một điều ước mất đối tượng và mất mục đích
trước khi điều ước này có hiệu lực
Một quốc gia có nghĩa vụ tránh tiến
hành thực hiện những hành vi làm cho một điều ước mất đối tượng và mục đích:
a) Khi quốc gia đó đã ký hoặc trao
đổi những văn kiện điều ước với bảo lưu việc phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê
duyệt điều ước đó, cho đến khi quốc gia đó tỏ rõ ý định không muốn trở thành
một bên của điều ước đó nữa; hoặc
b) Khi quốc gia đó đã biểu thị sự
đồng ý chịu sự ràng buộc của điều ước, trong thời gian trước khi điều ước có hiệu
lực và với điều kiện là việc có hiệu lực này không được trì hoãn một cách quá
đáng.
Tiết 2. NHỮNG
ĐIỀU BẢO LƯU
Điều 19.
Việc đề ra những bảo lưu
Khi ký, phê chuẩn, chấp thuận, phê
duyệt hoặc gia nhập một điều ước, một quốc gia có thể đề ra một bảo lưu, trừ
khi:
a) Điều ước đó ngăn cấm việc bảo
lưu;
b) Điều ước đó quy định rằng chỉ
có thể có những bảo lưu cụ thể, trong số đó không có bảo lưu đã đề cập nói trên;
c) Bảo lưu không phù hợp với đối
tượng và mục đích của điều ước, ngoài những trường hợp ghi ở điểm (a) và (b)
trên.
Điều 20.
Chấp thuận và bác bỏ bảo lưu
1. Một bảo lưu được một điều ước
rõ ràng cho phép thì không cần được các quốc gia ký kết chấp thuận, trừ khi điều
ước quy định việc chấp thuận này.
2. Khi từ số quốc gia tham gia đàm
phán có hạn, từ đối tượng và mục đích của điều ước mà việc thi hành toàn bộ điều
ước giữa các bên là một điều kiện chủ yếu của việc đồng ý chịu sự ràng buộc của
điều ước của mỗi bên thì một bảo lưu cần phải được tất cả các bên chấp thuận.
3. Khi một điều ước là một văn kiện
về việc thành lập một tổ chức quốc tế, thì một bảo lưu đòi hỏi phải có sự chấp
thuận của cơ quan có thẩm quyền của tổ chức này, trừ khi điều ước có quy định
khác.
4. Trong trường hợp đã ghi nhận ở
những điều khoản trên và trừ khi điều ước có quy định khác:
a) Việc một quốc gia ký kết chấp
thuận một bảo lưu sẽ làm cho quốc gia đề ra bảo lưu trở thành một bên tham gia điều
ước trong quan hệ với quốc gia đó; nếu điều ước đã có hiệu lực hoặc khi điều
ước có hiệu lực đối với các quốc gia đó.
b) Việc một quốc gia ký kết khác
phản đối bảo lưu sẽ không cản trở điều ước có hiệu lực giữa quốc gia phản đối bảo
lưu và quốc gia đề ra bảo lưu, trừ khi quốc gia phản đối bảo lưu đã bày tỏ rõ ý
định ngược lại.
c) Một văn kiện theo đó một quốc
gia biểu thị sự đồng ý chịu sự ràng buộc của mình đối với một điều ước kèm theo
một bảo lưu sẽ có giá trị khi ít nhất có một quốc gia ký kết khác chấp thuận bảo
lưu đó.
5. Nhằm những mục đích của các khoản
2 và 4, và trừ khi điều ước có quy định khác, một bảo lưu coi như được một quốc
gia chấp thuận nếu quốc gia này không phản đối bảo lưu trong thời hạn 12 tháng
kể từ ngày nhận được thông báo về bảo lưu đó hoặc ngày quốc gia này biểu thị sự
đồng ý chịu sự ràng buộc của điều ước, nếu hành vi này xảy ra sau ngày bảo lưu
được đề ra.
Điều 21.
Những hậu quả pháp lý của những bảo lưu và việc phản đối bảo lưu
1. Một bảo lưu đề ra đối với một
bên khác chiểu theo các điều 19, 20 và 23 sẽ:
a) Thay đổi những quy định trong
quan hệ giữa quốc gia đề ra bảo lưu với bên khác trong chừng mực xác định mà bảo
lưu đã nêu ra; và
b) Thay đổi, cũng trong chừng mực
đó, những quy định bên trong quan hệ giữa các bên tham gia điều ước với quốc
gia đề ra bảo lưu.
2. Bảo lưu sẽ không thay đổi các
quy định của điều ước đối với các bên khác tham gia điều ước trong những quan hệ
giữa họ (interse).
3. Khi một quốc gia bác bỏ một bảo
lưu mà không chống lại hiệu lực của điều ước giữa quốc gia đó và quốc gia đề ra
bảo lưu, thì những quy định có bảo lưu sẽ không áp dụng giữa hai quốc gia trong
chừng mực mà bảo lưu đó đề ra.
Điều 22.
Rút ra các bảo lưu và các phản đối bảo lưu
1. Trừ khi điều ước có quy định khác,
bất cứ lúc nào cũng có thể rút một bảo lưu mà không cần có sự đồng ý của quốc
gia đã chấp thuận bảo lưu.
2. Trừ khi điều ước có quy định khác,
bất cứ lúc nào cũng có thể rút một phản đối bảo lưu.
3. Trừ khi điều ước có quy định khác
hoặc có thỏa thuận nào khác:
a) Việc rút một bảo lưu sẽ chỉ có
giá trị hiệu lực đối với một quốc gia ký kết khác khi quốc gia này nhận được
thông báo;
b) Việc rút một phản đối bảo lưu
sẽ chỉ có giá trị hiệu lực khi nào quốc gia đề ra bảo lưu nhận được thông báo về
việc rút này.
Điều 23.
Thủ tục liên quan đến những bảo lưu
1. Bảo lưu, chấp thuận rõ ràng một
bảo lưu và phản đối bảo lưu phải được viết thành văn bản và thông báo cho các
quốc gia ký kết và các quốc gia có tư cách để trở thành các bên tham gia điều
ước.
2. Một bảo lưu được nêu ra vào thời
điểm ký kết một điều ước là đối tượng cần được phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê
duyệt, sẽ phải được quốc gia đề ra bảo lưu chính thức khẳng định khi quốc gia
đó biểu thị sự đồng ý chịu sự ràng buộc của điều ước. Trong trường hợp này, bảo
lưu coi như được đề ra vào ngày mà bảo lưu đó được khẳng định.
3. Việc chấp thuận rõ ràng hoặc phản
đối một bảo lưu trước khi có sự khẳng định bảo lưu đó sẽ không cần thiết phải
khẳng định lại nữa.
4. Việc rút một bảo lưu hoặc một
phản đối bảo lưu phải được làm thành văn bản.
Tiết 3. BẮT
ĐẦU CÓ HIỆU LỰC VÀ VIỆC TẠM THỜI THI HÀNH ĐIỀU ƯỚC
Điều 24.
Bắt đầu có hiệu lực
1. Một điều ước sẽ có hiệu lực theo
những thể thức và vào thời điểm mà điều ước ấn định hoặc theo sự thỏa thuận của
các quốc gia tham gia đàm phán.
2. Nếu không có những quy định hoặc
thỏa thuận như thế, điều ước sẽ có giá trị hiệu lực ngay sau thời điểm tất cả
các quốc gia tham gia đàm phán nhất trí chịu sự ràng buộc của điều ước.
3. Khi một quốc gia đồng ý chịu sự
ràng buộc của một điều ước vào một thời điểm điều ước đã có hiệu lực, thì điều
ước này, trừ khi có quy định khác, sẽ có hiệu lực đối với quốc gia này từ thời
điểm đó.
4. Những quy định của một điều ước
điều chỉnh việc xác thực văn bản, biểu thị sự đồng ý chịu sự ràng buộc của điều
ước, những thể thức hoặc thời điểm bắt đầu có hiệu lực, những bảo lưu, những
chức năng của cơ quan lưu chiểu cũng như tất cả những vấn đề khác mà nhất thiết
phải được đặt ra trước khi điều ước có hiệu lực, sẽ đều được thi hành ngay từ
thời điểm thông qua văn bản của điều ước đó.
Điều 25.
Việc thi hành tạm thời
1. Một điều ước hoặc một phần của
một điều ước sẽ được tạm thời thi hành trước ngày có hiệu lực:
a) Nếu điều ước có quy định như thế;
hoặc
b) Nếu những quốc gia tham gia đàm
phán đã có thỏa thuận như thế bằng một cách khác.
2. Việc tạm thời thi hành một điều
ước hoặc một phần của một điều ước đối với một quốc gia sẽ chấm dứt nếu quốc
gia này thông báo cho các quốc gia khác cùng tạm thời thi hành điều ước ý định
của mình không muốn trở thành một bên của điều ước đó, trừ khi có quy định khác
hoặc các quốc gia tham gia đàm phán đã thỏa thuận một cách khác.
Phần III.
VIỆC TÔN TRỌNG, THI HÀNH
VÀ GIẢI THÍCH CÁC ĐIỀU ƯỚC
Tiết 1.
VIỆC TÔN TRỌNG CÁC ĐIỀU ƯỚC
Điều 26.
Pacta sunt servanda
Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng
buộc các bên tham gia và phải được các bên thi hành với thiện chí.
Điều 27.
Pháp luật trong nước và việc tôn trọng các điều ước
Một bên không thể viện dẫn những
quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý do cho việc không thi hành một
điều ước. Quy tắc này không phương hại gì đến các quy định của Điều 46.
Tiết 2.
VIỆC THI HÀNH CÁC ĐIỀU ƯỚC
Điều 28.
Tính không hồi tố của các điều ước
Những quy định của một điều ước sẽ
không ràng buộc đối với các bên về mọi hành vi hay sự kiện xảy ra trước ngày điều
ước đó có hiệu lực, trừ khi có một ý định khác xuất phát từ điều ước hoặc được
thể hiện bằng một cách khác.
Điều 29.
Phạm vi lãnh thổ thi hành các điều ước
Một điều ước sẽ ràng buộc mỗi bên
trong phạm vi toàn lãnh thổ của bên đó, trừ khi có một ý định khác xuất phát từ
điều ước hoặc thể hiện bằng một cách khác.
Điều 30.
Việc thi hành một điều ước kế tiếp về cùng một vấn đề
1. Không phương hại đến các quy định
của Điều 103 Hiến chương Liên hiệp quốc, những quyền và nghĩa vụ của các quốc
gia tham gia các điều ước về cùng một vấn đề sẽ được xác định phù hợp với các
khoản dưới đây:
2. Khi một điều ước quy định rõ rằng
nó phụ thuộc vào hoặc không được xem là mâu thuẫn với một điều ước đã có trước
đó hoặc sẽ có sau đó thì những quy định của điều ước có trước hoặc sau đó sẽ có
giá trị.
3. Khi tất cả các bên tham gia điều
ước trước cũng là các bên của điều ước sau, mà điều ước trước không thể bị coi
là chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc thi hành chiểu theo Điều 59, thì điều ước
trước sẽ chỉ được thi hành trong chừng mực mà các quy định của nó phù hợp với
các quy định của điều ước sau.
4. Khi không phải tất cả các bên
tham gia điều ước trước đều tham gia điều ước sau:
a) Trong quan hệ giữa các quốc gia
tham gia cả hai điều ước, quy tắc áp dụng là quy tắc được nêu ra ở khoản 3;
b) Trong quan hệ giữa một quốc gia
tham gia cả hai điều ước và một quốc gia chỉ tham gia một trong hai điều ước
đó, thì các quyền và nghĩa vụ tương hỗ giữa họ sẽ được điều chỉnh bởi điều ước
mà trong đó cả hai đều là thành viên.
5. Khoản 4 được áp dụng không phương
hại đến các quy định của Điều 41, hoặc đến vấn đề chấm dứt hoặc tạm đình chỉ
việc thi hành một điều ước chiểu theo Điều 60, hoặc đến vấn đề trách nhiệm của
một quốc gia có thể phát sinh từ việc ký kết hay thi hành một điều ước mà những
quy định của nó là mâu thuẫn với những nghĩa vụ đã cam kết đối với quốc gia
khác theo một điều ước khác.
Tiết 3.
VIỆC GIẢI THÍCH ĐIỀU ƯỚC
Điều 31.
Quy tắc chung về việc giải thích
1. Một điều ước cần được giải thích
với thiện chí phù hợp với nghĩa thông thường được nêu đối với những thuật ngữ
của điều ước trong nguyên bản của chúng và chú trọng đến đối tượng và mục đích
của điều ước.
2. Phần nội dung để giải thích một
điều ước, ngoài chính nội dung văn bản, gồm lời nói đầu và các phụ lục, sẽ bao
gồm:
a) Mọi thỏa thuận liên quan đến điều
ước đã được tất cả các bên tham gia tán thành trong dịp ký kết điều ước;
b) Mọi văn kiện do một hoặc nhiều
bên đưa ra trong dịp ký kết điều ước và được các bên khác chấp thuận là một văn
kiện có liên quan đến điều ước.
3. Cùng với nội dung văn bản, sẽ
phải tính đến:
a) Mọi thỏa thuận sau này giữa các
bên về việc giải thích điều ước hoặc về việc thi hành các quy định của điều ước;
b) Mọi thực tiễn sau này trong khi
thực hiện điều ước được các bên thỏa thuận liên quan đến việc giải thích điều
ước;
c) Mọi quy tắc thích hợp của pháp
luật quốc tế áp dụng trong các quan hệ giữa các bên.
4. Một thuật ngữ sẽ được hiểu với
nghĩa riêng biệt nếu có sự xác định rằng đó là ý định của các bên.
Điều 32.
Những cách giải thích bổ sung
Có thể dựa thêm vào những cách giải
thích bổ sung, kể cả những công việc trù bị điều ước và hoàn cảnh ký kết điều
ước, nhằm khẳng định nghĩa theo như việc thi hành Điều 31, hoặc để xác định
nghĩa khi giải thích phù hợp với Điều 31:
a) Khi nghĩa là mập mờ hay khó hiểu;
hoặc
b) Khi dẫn đến một kết quả rõ ràng
là phi lý hay không hợp lý.
Điều 33.
Việc giải thích các điều ước được xác thực bằng hai hay nhiều ngôn ngữ.
1. Khi một điều ước được xác thực
bằng hai hay nhiều ngôn ngữ, văn bản trong mỗi ngôn ngữ đều có giá trị như nhau,
trừ khi điều ước có quy định khác hoặc các bên đồng ý trong trường hợp có sự
khác biệt thì chỉ một văn bản nhất định có giá trị.
2. Bản dịch một điều ước sang một
ngôn ngữ khác với một trong những ngôn ngữ mà văn bản đã được xác thực sẽ chỉ
được xem là văn bản xác thực nếu điều ước có quy định như vậy hoặc các bên đã
thỏa thuận như vậy.
3. Các thuật ngữ của một điều ước
xác định là có cùng một nghĩa trong những văn bản xác thực.
4. Trừ trường hợp theo đó một văn
bản nhất định có giá trị trội hơn, phù hợp các quy định của khoản 1, khi việc
so sánh các văn bản đã được xác thực cho thấy có một sự khác biệt về nghĩa mà
việc áp dụng các Điều 31 và 32 không thể giải quyết được thì người ta sẽ áp dụng
nghĩa nào phù hợp một cách tốt nhất với các văn bản đó, có tính đến đối tượng
và mục đích của điều ước.
Tiết 4. CÁC
ĐIỀU ƯỚC VÀ CÁC QUỐC GIA THỨ BA
Điều 34.
Quy tắc chung đối với các quốc gia thứ ba
Một điều ước không tạo ra nghĩa vụ
hay quyền hạn nào cho một quốc gia thứ ba, nếu không có sự đồng ý của quốc gia
đó.
Điều 35.
Các điều ước quy định nghĩa vụ cho các quốc gia thứ ba
Một nghĩa vụ sẽ phát sinh cho một
quốc gia thứ ba theo một quy định của một điều ước nếu các bên tham gia điều
ước đồng ý đặt ra nghĩa vụ thông qua quy định này và nếu quốc gia thứ ba chấp
thuận rõ ràng nghĩa vụ đó bằng văn bản.
Điều 36.
Các điều ước quy định quyền cho các quốc gia thứ ba
1. Một quyền sẽ phát sinh cho một
quốc gia thứ ba theo một quy định của một điều ước nếu các bên tham gia điều
ước đồng ý trao quyền đó cho quốc gia thứ ba hoặc cho một nhóm quốc gia trong
đó có quốc gia thứ ba hoặc cho tất cả các quốc gia và nếu quốc gia thứ ba đó
đồng ý. Sự đồng ý được cho là kéo dài chừng nào không có dấu hiệu gì trái lại
trừ khi điều ước có quy định khác.
2. Một quốc gia, khi thực hiện một
quyền phù hợp với Khoản 1, phải tuân thủ các điều kiện cho việc thi hành quyền
đó được quy định trong điều ước hoặc được xác định là phù hợp với điều ước.
Điều 37.
Hủy bỏ hoặc sửa đổi các quyền hoặc nghĩa vụ của các quốc gia thứ ba.
1. Trong trường hợp một nghĩa vụ
phát sinh cho một quốc gia thứ ba chiểu theo Điều 35, thì nghĩa vụ đó sẽ không thể
bị hủy bỏ hoặc sửa đổi nếu không có sự đồng ý của các bên tham gia điều ước và
của quốc gia thứ ba, trừ khi có sự thể hiện rõ ràng rằng có thỏa thuận khác có
liên quan.
2. Trong trường hợp một quyền phát
sinh cho một quốc gia thứ ba chiểu theo Điều 36, thì quyền đó không thể bị hủy bỏ
hoặc sửa đổi bởi các bên nếu không có sự thể hiện rõ là có ý định theo đó quyền
này không thể bị hủy bỏ hoặc sửa đổi mà không có sự đồng ý của quốc gia thứ ba.
Điều 38.
Các quy tắc của một điều ước trở thành ràng buộc đối với quốc gia thứ ba thông
qua một tập quán quốc tế.
Không có một quy định nào trong các
Điều 34 và 37 chống lại việc một quy tắc được nêu ra trong một điều ước trở thành
ràng buộc đối với một quốc gia thứ ba với tính chất là một quy tắc tập quán của
pháp luật quốc tế khi nó được thừa nhận như vậy.
Phần IV.
VIỆC BỔ SUNG VÀ SỬA ĐỔI
ĐIỀU ƯỚC
Điều 39.
Quy tắc chung cho việc bổ sung các điều ước
Một điều ước có thể được bổ sung
với sự thỏa thuận của các bên. Những quy tắc nêu ở phần II sẽ được áp dụng cho sự
thỏa thuận đó, trừ trường hợp điều ước có quy định khác.
Điều 40. Bổ
sung các điều ước nhiều bên
1. Trừ khi điều ước có quy định khác,
việc bổ sung điều ước nhiều bên sẽ được những điều khoản sau điều chỉnh:
2. Mọi đề nghị nhằm bổ sung một điều
ước nhiều bên trong quan hệ giữa tất cả các bên cần phải được thông báo cho tất
cả các quốc gia ký kết, mỗi quốc gia ký kết đều có quyền tham dự vào:
a) Quyết định về những thể thức cần
phải được thông qua trong quan hệ với đề nghị đó;
b) Đàm phán và ký kết bất cứ hiệp
định nào với mục đích bổ sung điều ước.
3. Bất cứ quốc gia nào có tư cách
để trở thành một bên của điều ước cũng đều có tư cách để trở thành một bên của
điều ước đã được bổ sung.
4. Hiệp định bổ sung không ràng buộc
các quốc gia đã là một bên của điều ước nhưng không là một bên trong những bên
của hiệp định bổ sung này; điểm b khoản 4 Điều 30 sẽ áp dụng cho những quốc gia
đó.
5. Bất cứ quốc gia nào trở thành
một bên của điều ước sau khi hiệp định bổ sung đã có hiệu lực, nếu không bày tỏ
một ý định nào khác, đều được xem là:
a) Một bên của điều ước đã được bổ
sung; và
b) Một bên của điều ước không được
bổ sung đối với tất cả các bên của điều ước không bị hiệp định bổ sung ràng
buộc.
Điều 41.
Những hiệp định có mục đích sửa đổi những điều ước nhiều bên chỉ trong quan hệ
giữa một số bên với nhau.
1. Hai hay nhiều bên tham gia một
điều ước nhiều bên có thể ký kết một hiệp định có mục đích sửa đổi điều ước chỉ
trong quan hệ giữa họ với nhau:
a) Nếu điều ước quy định có khả năng
sửa đổi như thế; hoặc
b) Nếu việc sửa đổi không được điều
ước quy định, thì phải với điều kiện là:
(i). Không ảnh hưởng đến việc các
bên khác được hưởng các quyền mà điều ước dành cho họ cũng như việc thực hiện
nghĩa vụ của họ; và
(ii). Không đụng chạm đến một quy
định nào mà việc sửa đổi nó mâu thuẫn với việc thực hiện có hiệu quả đối tượng
và mục đích của toàn bộ điều ước.
2. Trừ khi điều ước có quy định khác,
trong trường hợp ghi ở điểm a khoản 1, các bên nói trên phải thông báo cho
những bên khác ý định ký kết hiệp định của mình và những sửa đổi mà hiệp định
này sẽ đưa vào trong điều ước.
Phần V.
SỰ VÔ HIỆU, CHẤM DỨT VÀ
TẠM ĐÌNH CHỈ VIỆC THI HÀNH ĐIỀU ƯỚC
Tiết 1.
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 42.
Hiệu lực và việc duy trì hiệu lực của các điều ước
1. Giá trị hiệu lực của một điều
ước hoặc của sự đồng ý của một quốc gia chịu sự ràng buộc của một điều ước sẽ không
thể bị bác bỏ nếu không phải là thông qua việc áp dụng Công ước này.
2. Việc chấm dứt, từ bỏ hoặc rút
khỏi một điều ước của một bên sẽ không thể có cơ sở nếu không phải là kết quả của
việc áp dụng các quy định của điều ước đó hoặc của Công ước này. Quy định này
cũng được áp dụng đối với tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước.
Điều 43.
Những nghĩa vụ do luật quốc tế áp đặt không phụ thuộc vào một điều ước
Sự vô hiệu, chấm dứt hoặc từ bỏ một
điều ước, việc một bên rút khỏi tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước một khi
là kết quả của việc áp dụng các quy định của điều ước đó hoặc của các quy định
của Công ước này, sẽ hoàn toàn không làm tổn hại đến nhiệm vụ phải thi hành mọi
nghĩa vụ nêu trong điều ước được luật quốc tế quy định không phụ thuộc vào điều
ước đó.
Điều 44.
Tính không thể phân chia của các quy định của một điều ước
1. Quyền của một bên, theo quy định
của một điều ước hoặc được suy ra từ Điều 56, cho việc rút khỏi hoặc tạm đình
chỉ việc thi hành điều ước đó sẽ không thể được thực thi nếu không phải là đối
với toàn bộ điều ước, trừ khi điều ước đó có quy định khác hoặc các bên có thỏa
thuận khác.
2. Một lý do làm vô hiệu hoặc chấm
dứt một điều ước, cho việc rút khỏi của một trong các bên hoặc làm tạm đình chỉ
việc thi hành điều ước sẽ không thể được nêu lên nếu không phải là đối với toàn
bộ điều ước, trừ những trường hợp được quy định trong các khoản dưới đây hoặc
tại Điều 60.
3. Nếu lý do trên đây chỉ nhằm vào
một số điều khoản nhất định, thì không thể được nêu lên nếu không phải là đối
với những điều khoản đó khi:
a) Những điều khoản này tách khỏi
phần còn lại của điều ước trong việc thi hành chúng;
b) Xuất phát từ điều ước hoặc thể
hiện bằng một hình thức rõ ràng bằng việc chấp thuận những điều khoản đó không
phải là cơ sở chủ yếu cho sự đồng ý của một hoặc các bên tham gia điều ước chịu
sự ràng buộc của toàn bộ điều ước; và
c) Việc duy trì thi hành phần còn
lại của điều ước không phải là sự bất công.
4. Trong những trường hợp quy định
tại các Điều 49 và 50, quốc gia có quyền nêu lên sự man trá hoặc việc mua chuộc,
nhận hối lộ đối với toàn bộ điều ước hoặc trong trường hợp quy định tại khoản
3, chỉ đối với một số điều khoản nhất định.
5. Đối với những trường hợp quy định
tại các điều 51, 52 và 53 sẽ không chấp nhận sự phân chia các quy định của một
điều ước.
Điều 45.
Việc mất quyền nêu lên lý do làm vô hiệu, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ
việc thi hành một điều ước
Một quốc gia sẽ không còn có thể
nêu lên lý do làm mất hiệu lực một điều ước, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ
việc thi hành điều ước đó theo tinh thần của những quy định của các điều từ Điều
46 đến Điều 50 hoặc của các Điều 60 và 62, nếu, sau khi biết rõ các sự kiện,
quốc gia đó vẫn:
a) Chấp thuận một cách rõ ràng rằng
điều ước, tùy từng trường hợp, là có giá trị, còn hiệu lực hoặc tiếp tục việc
thi hành điều ước đó; hoặc
b) Biểu hiện thái độ, tùy từng trường
hợp, phải được xem là họ đã chấp thuận là điều ước vẫn có giá trị, tiếp tục có
hiệu lực hoặc tiếp tục được thi hành.
Tiết 2. SỰ
VÔ HIỆU CỦA CÁC ĐIỀU ƯỚC
Điều 46.
Các quy định của luật trong nước về thẩm quyền ký kết các điều ước
1. Việc một quốc gia đồng ý chịu
sự ràng buộc của một điều ước được thể hiện trái với một quy định của luật trong
nước về thẩm quyền ký kết điều ước sẽ không thể được nêu lên như là một khiếm
khuyết của việc đồng ý của họ, trừ khi sự vi phạm đó là quá rõ ràng và liên
quan đến một quy phạm có tính chất cơ bản của luật trong nước của quốc gia đó.
2. Một vi phạm là quá rõ ràng nếu
vi phạm đó thể hiện một cách khách quan đối với mọi quốc gia khi xử trí về vấn
đề này là phù hợp với thực tế thông thường và với thiện chí.
Điều 47.
Việc hạn chế đặc biệt quyền bày tỏ sự đồng ý của một quốc gia
Nếu những quyền của một đại diện
cho việc thể hiện sự đồng ý của quốc gia đó chịu sự ràng buộc của một điều ước là
đối tượng của một sự hạn chế đặc biệt, thì việc không tôn trọng của đại diện đó
đối với những hạn chế đó sẽ không thể được quốc gia đó nêu lên như là một khiếm
khuyết của sự đồng ý, trừ khi việc hạn chế ấy đã được thông báo cho các quốc
gia khác tham gia đàm phán trước khi bày tỏ sự đồng ý đó.
Điều 48.
Sai lầm
1. Một quốc gia có thể nêu lên một
sai lầm trong một điều ước như là một khiếm khuyết của sự đồng ý của mình chịu
sự ràng buộc của một điều ước, nếu sự sai lầm liên quan đến một sự kiện hay một
hoàn cảnh mà quốc gia đó cho là đã tồn tại và thời điểm điều ước được ký kết và
được xem là một cơ sở chủ yếu của sự đồng ý của mình chịu sự ràng buộc của điều
ước.
2. Khoản 1 sẽ không được áp dụng
nếu quốc gia đề cập đã góp phần vào sai lầm đó bằng thái độ xử sự của mình khi những
hoàn cảnh đặc biệt đó đã ở mức độ làm cho quốc gia đó phải lưu ý về khả năng
xảy ra sai lầm.
3. Một sai lầm chỉ liên quan đến
soạn thảo văn bản của một điều ước sẽ không ảnh hưởng đến giá trị hiệu lực của nó;
trong trường hợp sẽ áp dụng Điều 79.
Điều 49.
Man trá
Nếu một quốc gia đi đến quyết định
ký kết một điều ước do việc xử sự dối trá của một quốc gia tham gia đàm phán
khác, thì quốc gia đó có thể nêu lên sự man trá này như là khiếm khuyết của sự
đồng ý của mình chịu sự ràng buộc của điều ước.
Điều 50.
Việc mua chuộc, nhận hối lộ đại diện của quốc gia
Nếu việc bày tỏ sự đồng ý của một
quốc gia chịu sự ràng buộc của một điều ước đạt được bằng việc mua chuộc, nhận
hối lộ của đại diện của mình, gây ra do hành vi trực tiếp hay gián tiếp của
quốc gia tham gia đàm phán khác, thì quốc gia đó có thể nêu lên sự tham nhũng
này như là một khiếm khuyết của sự đồng ý của mình chịu sự ràng buộc của điều
ước.
Điều 51. Sự
cưỡng ép đối với đại diện của một quốc gia
Việc bày tỏ sự đồng ý của một quốc
gia chịu sự ràng buộc của một điều ước đạt được do sự cưỡng ép đối với đại diện
của quốc gia đó bằng những hành động hay sự đe dọa đối với người đó, sẽ hoàn
toàn không có giá trị pháp lý.
Điều 52. Sự
cưỡng ép đối với một quốc gia bằng việc đe dọa hay sử dụng vũ lực
Mọi điều ước, mà việc ký kết đạt
được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực trái với những nguyên tắc của pháp luật quốc
tế đã được ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc, đều là vô hiệu.
Điều 53.
Các điều ước xung đột với một quy phạm bắt buộc của pháp luật quốc tế chung
Mọi điều ước mà khi được ký kết xung
đột với một quy phạm bắt buộc của pháp luật quốc tế chung đều là vô hiệu. Nhằm
mục đích của Công ước này, một quy phạm bắt buộc của pháp luật quốc tế chung là
một quy phạm được toàn thể cộng đồng các quốc gia chấp thuận và công nhận là
một quy phạm không thể vi phạm và chỉ có thể sửa đổi bằng một quy phạm mới khác
của pháp luật quốc tế chung có cùng tính chất.
Tiết 3.
VIỆC CHẤM DỨT VÀ TẠM ĐÌNH CHỈ VIỆC THI HÀNH CÁC ĐIỀU ƯỚC
Điều 54.
Việc chấm dứt hoặc rút khỏi một điều ước theo các quy định của điều ước đó hoặc
do sự đồng ý của các bên.
Việc chấm dứt hoặc rút khỏi một điều
ước của một bên có thể diễn ra:
a) Chiểu theo các quy định của điều
ước; hoặc
b) Vào bất kỳ thời điểm nào, do sự
đồng ý của tất cả các bên sau khi đã tham khảo ý kiến của các quốc gia ký kết
khác.
Điều 55.
Việc giảm số lượng các bên tham gia một điều ước nhiều bên tới nhỏ hơn số lượng
cần thiết để điều ước có hiệu lực
Một điều ước nhiều bên sẽ không chấm
dứt chỉ vì lý do duy nhất là số lượng các bên trở nên thấp hơn số lượng cần
thiết để điều ước có hiệu lực, trừ khi điều ước có quy định khác.
Điều 56.
Việc từ bỏ hoặc rút khỏi một điều ước trong trường hợp điều ước không có quy
định về việc chấm dứt, từ bỏ hoặc rút khỏi điều ước đó.
1. Một điều ước không có những quy
định về việc chấm dứt của nó cũng như việc từ bỏ hoặc rút khỏi điều ước đó sẽ
không thể là đối tượng của việc từ bỏ hoặc rút khỏi trừ khi:
a) Có sự biểu hiện rõ ràng ý định
của các bên chấp thuận khả năng từ bỏ hoặc rút khỏi điều ước; hoặc
b) Quyền từ bỏ hoặc rút khỏi có thể
được suy ra từ bản chất của điều ước đó.
2. Một bên sẽ phải thông báo, ít
nhất là trước 12 tháng, ý định từ bỏ hoặc rút khỏi điều ước chiểu theo khoản 1.
Điều 57.
Tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước theo các quy định của điều ước đó hoặc
do sự đồng ý của các bên.
Việc thi hành một điều ước sẽ có
thể bị tạm đình chỉ đối với tất cả các bên hoặc đối với một bên xác định:
a) Chiểu theo các quy định của điều
ước; hoặc
b) Vào bất cứ thời điểm nào, do sự
đồng ý của tất cả các bên sau khi đã tham khảo ý kiến của các quốc gia ký kết
khác.
Điều 58.
Tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước nhiều bên do thỏa thuận của chỉ một số
bên
1. Hai hay nhiều bên tham gia một
điều ước nhiều bên có thể ký kết một hiệp định có mục đích đình chỉ tạm thời
việc thi hành các quy định của điều ước chỉ trong quan hệ giữa họ với nhau:
a) Nếu khả năng cho việc tạm đình
chỉ như thế được điều ước quy định; hoặc
b) Nếu việc tạm đình chỉ như thế
không bị điều ước ngăn cấm, với điều kiện là:
(i). Không xâm phạm tới việc các
bên hưởng quyền theo điều ước cũng như tới việc thi hành những nghĩa vụ của họ;
và
(ii). Không mâu thuẫn với đối tượng
và mục đích của điều ước.
2. Trong trường hợp ghi ở điểm a
khoản 1, trừ khi điều ước có quy định khác, những bên nói trên phải thông báo cho
các bên khác có ý định ký kết hiệp định của mình và các quy định của điều ước mà
họ có ý định tạm đình chỉ việc thi hành.
Điều 59.
Chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước do hậu quả của việc ký
kết một điều ước sau:
1. Một điều ước được xem là chấm
dứt nếu tất cả các bên tham gia điều ước đó ký kết sau đó một điều ước về cùng một
vấn đề và:
a) Xuất phát từ điều ước sau hoặc
có sự thể hiện bằng cách khác rõ rằng theo ý định của các bên vấn đề thực chất
phải được điều ước sau điều chỉnh; hoặc
b) Những quy định của điều ước sau
mâu thuẫn với các quy định của điều ước trước đến mức mà không thể thi hành cả
hai cùng một lúc.
2. Việc thi hành điều ước trước sẽ
chỉ được xem là tạm thời bị đình chỉ nếu đó là việc xuất phát từ điều ước sau
hoặc có sự thể hiện rõ bằng cách khác rằng đó là ý định của các bên.
Điều 60. Chấm
dứt hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước do hậu quả của việc vi phạm
1. Một sự vi phạm nghiêm trọng một
điều ước hai bên bởi một trong các bên sẽ tạo cho bên kia quyền nêu lên sự vi
phạm đó như là lý do cho việc chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một phần
hoặc toàn bộ điều ước.
2. Một sự vi phạm nghiêm trọng điều
ước nhiều bên bởi một trong các bên sẽ tạo quyền:
a) Cho các bên khác, tiến hành theo
một thỏa thuận chung, tạm đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ hoặc
chấm dứt điều ước:
(i). Trong quan hệ giữa các bên đó
với quốc gia vi phạm; hoặc
(ii). Giữa tất cả các bên;
b) Cho một bên bị thiệt hại đặc biệt
do vi phạm, nêu lên sự vi phạm đó như là lý do cho việc tạm đình chỉ thi hành
một phần hoặc toàn bộ điều ước trong quan hệ giữa bên này và quốc gia vi phạm;
c) Cho bất kỳ bên nào, mà không phải
là quốc gia vi phạm, nêu lên sự vi phạm như là lý do cho việc tạm đình chỉ thi
hành một phần hoặc toàn bộ điều ước quan hệ với bên đó, trong trường hợp này
một vi phạm nghiêm trọng các quy định của điều ước bởi một bên sẽ gây ra thay
đổi triệt để tình hình của mỗi bên liên quan đến việc thi hành sau đó những
nghĩa vụ theo điều ước.
3. Theo quy định của điều luật này,
vi phạm điều ước bị coi là nghiêm trọng:
a) Một sự khước từ điều ước không
theo các quy định của Công ước này; hoặc
b) Sự vi phạm một quy định căn bản
cho việc thực hiện đối tượng hoặc mục đích của điều ước.
4. Các điều khoản trên sẽ được hiểu
không phương hại đến các quy định của điều ước được áp dụng trong trường hợp vi
phạm.
5. Các quy định từ khoản 1 đến khoản
3 sẽ không áp dụng đối với các quy định nhằm bảo hộ quyền con người trong các
điều ước có tính chất nhân đạo, mà đặc biệt là đối với các quy định cấm tất cả
các hình thức báo thù liên quan đến những người được bảo hộ bởi các điều ước như
thế.
Điều 61.
Việc không có khả năng tiếp tục thi hành điều ước
1. Một bên có thể nêu lên việc không
thể thi hành một điều ước là lý do cho việc chấm dứt hoặc rút khỏi điều ước đó
nếu việc không thể thi hành đó là do một đối tượng cần thiết cho việc thi hành
điều ước đó bị mất đi hoặc bị tiêu hủy hoàn toàn. Nếu việc không thể thi hành
đó là tạm thời, thì nó chỉ có thể được nêu lên làm lý do cho việc tạm đình chỉ
việc thi hành điều ước đó.
2. Một bên không thể nêu lên việc
không thể thi hành một điều ước làm lý do để chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình
chỉ việc thi hành điều ước đó, nếu việc không thể thi hành đó là kết quả của
chính bên nêu lên nó, đối với một nghĩa vụ phát sinh từ điều ước hoặc bất cứ
nghĩa vụ quốc tế nào khác đối với bất cứ bên nào khác tham gia điều ước.
Điều 62. Sự
thay đổi cơ bản hoàn cảnh
1. Một sự thay đổi cơ bản các hoàn
cảnh so với hoàn cảnh đã tồn tại vào thời điểm ký kết một điều ước và không
được các bên dự kiến không thể được nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi
điều ước trừ khi:
a) Sự tồn tại của các hoàn cảnh đó
là cơ sở chủ yếu của sự đồng ý của các bên chịu sự ràng buộc của điều ước; và
b) Sự thay đổi đó làm biến đổi một
cách cơ bản phạm vi của những nghĩa vụ mà các bên vẫn còn phải thi hành theo
điều ước.
2. Một sự thay đổi cơ bản các hoàn
cảnh sẽ không thể được nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi một điều
ước:
a) Nếu đó là một điều ước quy định
về đường biên giới; hoặc
b) Nếu sự thay đổi cơ bản là kết
quả của một sự vi phạm của chính bên nêu lên nó, đối với một nghĩa vụ phát sinh
từ điều ước hoặc tất cả những nghĩa vụ quốc tế khác đối với bất kỳ bên tham gia
điều ước.
3. Theo quy định của những khoản
trên đây, khi một trong các bên có thể nêu lên một sự thay đổi cơ bản các hoàn cảnh
như là lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi điều ước, sẽ cũng có thể nêu lên sự thay
đổi đó như là lý do để tạm đình chỉ việc thi hành điều ước.
Điều 63.
Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự
Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hoặc
lãnh sự giữa các bên tham gia một điều ước sẽ không ảnh hưởng đến các quan hệ
pháp lý do điều ước đặt ra giữa các bên đó, trừ khi trong một mức độ nhất định,
sự tồn tại của quan hệ ngoại giao và lãnh sự là không thể thiếu cho việc thi
hành điều ước.
Điều 64.
Nảy sinh một quy phạm mới bắt buộc trong pháp luật quốc tế chung (Jus cogens)
Nếu một quy phạm mới bắt buộc của
pháp luật quốc tế chung nảy sinh, thì mọi điều ước hiện hữu mâu thuẫn với quy
phạm đó sẽ trở thành vô hiệu và sẽ chấm dứt.
Tiết 4. THỦ
TỤC
Điều 65.
Thủ tục cho việc tuyên vô hiệu, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi
hành một điều ước
1. Trên cơ sở các quy định của Công
ước này, bên nêu lên một khiếm khuyết của sự đồng ý của mình chịu sự ràng buộc
của một điều ước hoặc một lý do nhằm phủ nhận giá trị hiệu lực của một điều
ước, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi hành điều ước đó, sẽ phải
thông báo ý định của mình cho các bên khác. Trong thông báo phải ghi rõ các
biện pháp dự định thực hiện đối với điều ước và lý do áp dụng các biện pháp đó.
2. Trừ các trường hợp đặc biệt khẩn
cấp, nếu sau một thời hạn không dưới ba tháng kể từ ngày nhận được thông báo,
mà không có bên nào phản đối, thì bên thông báo có thể thực hiện các biện pháp
mà mình dự kiến, theo các thể thức quy định ở Điều 67.
3. Tuy nhiên, nếu có một sự phản
đối của một bên nào khác thì các bên sẽ phải tìm kiếm một giải pháp ghi tại Điều
33 của Hiến chương Liên hiệp quốc.
4. Không có điểm nào trong các khoản
trên ảnh hưởng đến các quyền hoặc nghĩa vụ của các bên đối với bất kỳ quy định
nào đang có hiệu lực giữa họ với nhau về việc giải quyết tranh chấp.
5. Không phương hại đến quy định
của Điều 45, việc một quốc gia không thông báo theo quy định của khoản 1 sẽ không
cản trở quốc gia đó gửi thông báo đó để trả lời một bên khác khi bên này yêu
cầu thi hành điều ước hoặc nêu lên việc vi phạm điều ước.
Điều 66.
Thủ tục giải quyết về tư pháp, trọng tài và hòa giải
Nếu trong vòng 12 tháng sau ngày
có sự phản đối mà không đi đến một giải pháp nào chiểu theo khoản 3 Điều 65, thì
sẽ áp dụng thủ tục sau đây:
a) Bất cứ một bên nào trong một vụ
tranh chấp có liên quan đến việc thi hành hay giải thích Điều 53 hoặc Điều 64 đều
có thể, thông qua một đơn kiện bằng văn bản, trao cho Tòa án quốc tế quyết
định, trừ khi các bên cùng thỏa thuận đưa vụ tranh chấp cho trọng tài giải
quyết.
b) Bất kỳ một bên nào trong một vụ
tranh chấp có liên quan đến việc thi hành hay giải thích một điều khoản bất kỳ
nào khác của phần V của Công ước này đều có thể bắt đầu thủ tục quy định ở Phụ
lục của Công ước bằng cách gửi một đơn yêu cầu về vấn đề này cho Tổng thư ký
Liên hiệp quốc.
Điều 67.
Những văn kiện nhằm tuyên bố sự vô hiệu, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ
việc thi hành một điều ước
1. Thông báo quy định tại khoản 1
Điều 65 sẽ phải được làm thành văn bản.
2. Mọi văn bản nhằm tuyên bố sự vô
hiệu, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước, chiểu theo
các quy định của Điều ước hoặc khoản 2 hoặc 3 của Điều 65, sẽ phải được ghi vào
một văn kiện để thông báo cho các bên khác. Nếu văn kiện thông báo do nguyên
thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ ngoại giao ký, thì có
thể yêu cầu đại diện của quốc gia có thông báo xuất trình thư ủy quyền.
Điều 68.
Hủy bỏ các thông báo và những văn kiện quy định ở các Điều 65 và 67
Các thông báo hoặc những văn kiện
quy định tại các Điều 65 và 67 có thể bị hủy bỏ bất kỳ thời điểm nào trước khi
nó có hiệu lực.
Tiết 5. HẬU
QUẢ CỦA SỰ VÔ HIỆU, CHẤM DỨT HOẶC TẠM ĐÌNH CHỈ VIỆC THI HÀNH MỘT ĐIỀU ƯỚC
Điều 69.
Hậu quả của sự vô hiệu của một điều ước
1. Một điều ước là vô hiệu nếu như
sự vô hiệu đó được xác định theo Công ước này. Các quy định của một điều ước vô
hiệu là không có hiệu lực pháp lý.
2. Tuy nhiên, nếu có những hành vi
đã thực hiện trên cơ sở của một điều ước như vậy thì:
a) Mỗi bên đều có thể yêu cầu bất
kỳ một bên nào khác, ở mức độ có thể, xác định tình hình có thể đã xảy ra trong
quan hệ giữa họ với nhau nếu như những hành vi trên không được thực hiện.
b) Những hành vi đã được thực hiện
một cách có thiện chí trước khi sự vô hiệu của điều ước được nêu lên sẽ không
bị coi là phi pháp chỉ vì sự vô hiệu của điều ước.
3. Trong các trường hợp thuộc các
điều 40, 50, 51 hoặc 52, thì sẽ không áp dụng khoản 2 đối với bên chịu trách
nhiệm về hành vi man trá, hành vi gây tham nhũng, cưỡng ép.
4. Trong trường hợp mà sự đồng ý
của một quốc gia xác định chịu sự ràng buộc của một điều ước nhiều bên là khiếm
khuyết, thì quy tắc trên đây sẽ được áp dụng trong quan hệ giữa quốc gia đó và các
bên khác tham gia điều ước.
Điều 70.
Hậu quả của việc chấm dứt một điều ước
1. Trừ khi điều ước có quy định khác
hoặc các bên có thỏa thuận khác, việc chấm dứt một điều ước trên cơ sở các quy
định của điều ước đó hoặc chiểu theo Công ước này sẽ:
a) Miễn trừ cho các bên nghĩa vụ
phải tiếp tục thi hành điều ước;
b) Không xâm phạm đến bất cứ quyền,
nghĩa vụ hoặc tình huống pháp lý nào của các bên được tạo ra do việc thi hành
điều ước, trước khi điều ước chấm dứt.
2. Khi một quốc gia từ bỏ hoặc rút
khỏi một điều ước nhiều bên, khoản 1 sẽ được áp dụng trong quan hệ giữa quốc
gia ấy và mỗi bên tham gia điều ước kể từ ngày việc từ bỏ hoặc rút khỏi điều
ước có hiệu lực.
Điều 71.
Hậu quả của sự vô hiệu của một điều ước do xung đột với một quy tắc bắt buộc
của pháp luật quốc tế chung
1. Khi một điều ước bị coi là vô
hiệu theo Điều 53, các bên sẽ phải:
a) Loại trừ trong một chừng mực có
thể hậu quả của mọi hành vi đã được thực hiện trên cơ sở một quy định xung đột
với một quy phạm bắt buộc của pháp luật quốc tế chung.
b) Điều chỉnh các quan hệ tương hỗ
giữa họ cho phù hợp với quy phạm bắt buộc của luật quốc tế chung này.
2. Trong trường hợp một điều ước
trở thành vô hiệu và chấm dứt chiểu theo Điều 64, thì việc chấm dứt điều ước sẽ:
a) Miễn trừ cho các bên nghĩa vụ
phải tiếp tục thi hành điều ước;
b) Không xâm phạm đến bất kỳ quyền,
nghĩa vụ hoặc tình huống pháp lý nào của các bên được tạo do việc thi hành điều
ước trước khi điều ước chấm dứt; tuy nhiên những quyền, nghĩa vụ và tình huống
pháp lý này chỉ có thể duy trì trong những chừng mực mà bản thân của việc duy
trì đó không xung đột với quy phạm mới bắt buộc của pháp luật quốc tế chung.
Điều 72.
Hậu quả của việc tạm đình chỉ thi hành một điều ước
1. Trừ khi điều ước có quy định khác
hoặc các bên có thỏa thuận khác, việc tạm đình chỉ thi hành một điều ước trên
cơ sở quy định của điều ước đó hoặc chiểu theo Công ước này sẽ:
a) Miễn trừ cho các bên là đối tượng
của việc tạm đình chỉ thi hành điều ước nghĩa vụ thi hành điều ước đó trong
quan hệ tương hỗ của họ trong thời hạn tạm đình chỉ;
b) Mặt khác, không phương hại đến
các quan hệ pháp lý do điều ước quy định giữa các bên.
2. Trong thời hạn tạm đình chỉ việc
thi hành điều ước, các bên sẽ phải tránh không có bất kỳ một hành vi nào nhằm
cản trở việc thi hành trở lại điều ước.
Phần VI.
CÁC QUY ĐỊNH KHÁC
Điều 73.
Các trường hợp kế thừa hoặc quốc gia, về trách nhiệm của một quốc gia hoặc việc
cắt đứt các quan hệ do xung đột
Những quy định của Công ước này không
phán quyết bất kỳ một vấn đề gì liên quan đến việc một điều ước có thể nảy sinh
do hậu quả của sự kiện kế thừa của các quốc gia, do hậu quả của trách nhiệm quốc
tế của một quốc gia hoặc do việc cắt đứt các quan hệ vì xung đột giữa họ.
Điều 74.
Các quan hệ ngoại giao hay lãnh sự và việc ký kết các điều ước
Việc cắt đứt hoặc chưa có quan hệ
ngoại giao hay lãnh sự giữa hai hay nhiều quốc gia không cản trở việc ký kết các
điều ước giữa các quốc gia đó. Bản thân việc ký kết như thế sẽ không có ý nghĩa
gì đối với tình hình liên quan đến các quan hệ ngoại giao và lãnh sự.
Điều 75.
Trường hợp một quốc gia đi xâm lược
Những điều khoản của Công ước này
sẽ được hiểu không phương hại tới bất kỳ một nghĩa vụ nào liên quan đến một điều
ước có thể phát sinh cho một quốc gia đi xâm lược như là hậu quả của việc thi
hành các biện pháp phù hợp với Hiến chương Liên hiệp quốc đối với hành vi xâm
lược của quốc gia này.
Phần VII.
CÁC CƠ QUAN LƯU CHIỂU,
THÔNG BÁO, VIỆC SỬA CHỮA VÀ VIỆC ĐĂNG KÝ
Điều 76.
Các cơ quan lưu chiểu các điều ước
1. Việc chỉ định các cơ quan lưu
chiểu một điều ước có thể do các quốc gia tham gia đàm phán tiến hành hoặc được
ghi trong điều ước hoặc theo một cách khác. Cơ quan lưu chiểu có thể là một hay
nhiều quốc gia, một tổ chức quốc tế hay một viên chức hành chính trưởng của tổ chức
đó.
2. Các chức năng của cơ quan lưu
chiểu một điều ước mang tính chất quốc tế và cơ quan này có nghĩa vụ phải hành động
một cách vô tư khi thực hiện các chức năng của mình. Đặc biệt, khi một điều ước
không có hiệu lực giữa một số bên, hoặc khi xuất hiện một sự bất đồng giữa một
quốc gia với một cơ quan lưu chiểu liên quan đến việc thi hành các chức năng
của cơ quan này, sẽ không ảnh hưởng đến các nghĩa vụ đó của cơ quan lưu chiểu.
Điều 77.
Chức năng của cơ quan lưu chiểu
1. Trừ khi điều ước có quy định khác
hoặc các bên có thỏa thuận khác, các chức năng chủ yếu của cơ quan lưu chiểu
gồm:
a) Bảo quản văn bản gốc của điều
ước và những thư ủy quyền gửi cho cơ quan lưu chiểu;
b) Lập các bản sao có chứng thực
đúng như văn bản gốc và lập mọi văn bản khác của điều ước bằng các ngôn ngữ khác
nhau do yêu cầu có thể của điều ước và gửi các bản đó cho các bên tham gia và
cho các quốc gia có tư cách để trở thành các bên của điều ước;
c) Tiếp nhận mọi chữ ký vào điều
ước, tiếp nhận và bảo quản mọi văn kiện, mọi thông báo hay thông tin có liên quan
đến điều ước;
d) Kiểm tra xem một chữ ký, hoặc
văn kiện, thông báo hay thông tin liên quan đến điều ước có hợp thể thức và đúng
hay không và nếu cần thì chỉ ra ví dụ cần lưu ý các quốc gia hữu quan về vấn đề
đó;
e) Thông báo cho bên tham gia điều
ước và các quốc gia có tư cách để tham gia điều ước về những văn kiện thông báo
và thông tin liên quan đến điều ước;
f) Thông báo cho các quốc gia có
tư cách để tham gia điều ước này và số lượng chữ ký hoặc các văn kiện phê chuẩn,
chấp thuận, phê duyệt hay gia nhập cần thiết để điều ước có hiệu lực đã được
tiếp nhận hoặc lưu chiểu;
g) Đăng ký điều ước tại Ban thư ký
của Liên hiệp quốc;
h) Thực hiện các chức năng được quy
định trong các điều khoản khác của Công ước này.
2. Khi xảy ra một bất đồng giữa một
quốc gia và cơ quan lưu chiểu về việc thực hiện các chức năng của cơ quan này,
thì cơ quan lưu chiểu sẽ phải lưu ý vấn đề đó với các quốc gia ký kết và các
quốc gia tham gia điều ước, hoặc khi cần thiết thì lưu ý cơ quan có thẩm quyền
của tổ chức quốc tế hữu quan.
Điều 78.
Thông báo và thông tin
Trừ những trường hợp điều ước hoặc
Công ước này có quy định khác, một thông báo hay thông tin mà một quốc gia phải
làm theo Công ước này sẽ:
a) Được chuyển trực tiếp; nếu không
có cơ quan lưu chiểu, đến các quốc gia mà thông báo hay thông tin phải chuyển
đến hoặc nếu có cơ quan lưu chiểu thì chuyển cho cơ quan lưu chiểu này;
b) Chỉ được coi là quốc gia hữu quan
đã hoàn thành việc thông tin, thông báo khi quốc gia mà thông tin hay thông báo
phải chuyển đến đã nhận được thông tin hoặc thông báo đó hoặc cơ quan đã nhận
được thông tin hoặc thông báo đó;
c) Nếu chuyển cho cơ quan lưu chiểu
thì quốc gia nhận được thông tin hay thông báo chỉ coi là đã nhận được kể từ
khi quốc gia đó nhận được thông báo của cơ quan lưu chiểu như đã quy định ở điểm
e khoản 1 Điều 77.
Điều 79.
Việc sửa chữa những sai lầm trong các văn bản điều ước hoặc trong các bản sao
đã chứng thực
1. Nếu, sau khi xác thực văn bản
một điều ước, các quốc gia ký kết và các quốc gia tham gia nhất trí thấy văn bản
có sai lầm, thì sẽ tiến hành sửa chữa sai lầm bằng một trong các biện pháp sau
đây, trừ khi các quốc gia đó quyết định một cách sửa chữa khác:
a) Chữa văn bản theo nghĩa thích
hợp và những vị đại diện được ủy quyền cho thể thức đó ký tắt vào chỗ sửa chữa;
b) Lập một văn kiện hay trao đổi
các văn kiện trong đó ghi nhận là việc sửa chữa đã được thỏa thuận đưa vào trong
văn bản;
c) Lập một văn bản toàn bộ điều ước
đã được sửa chữa theo đúng thủ tục đã áp dụng đối với văn bản gốc.
2. Trừ một điều ước có cơ quan lưu
chiểu thì cơ quan lưu chiểu này thông báo cho các quốc gia ký kết và các quốc
gia tham gia biết sai lầm và đề nghị sửa chữa sai lầm đó và sẽ định ra một thời
hạn thích hợp cho việc lập ra các phản đối đối với việc sửa chữa đã được đề
nghị. Kết thúc thời hạn đã định:
a) Nếu không có một phản đối nào
được đưa ra thì cơ quan lưu chiểu sẽ tiến hành việc sửa chữa và ký tắt vào chỗ sửa
chữa của văn bản, và sẽ lập một biên bản về việc sửa chữa văn bản và gửi bản
sao cho các bên tham gia điều ước và cho các quốc gia có tư cách để tham gia
điều ước;
b) Nếu có việc phản đối được đưa
ra thì cơ quan lưu chiểu sẽ thông báo việc phản đối đó cho các quốc gia ký kết và
các quốc gia tham gia.
3. Những quy tắc ghi trong các khoản
1 và 2 cũng sẽ được áp dụng khi văn bản đã được xác thực bằng hai hay nhiều
ngôn ngữ và khi phát hiện có điểm không hoàn toàn như nhau mà theo thảo thuận
của các quốc gia ký kết và các quốc gia tham gia, nó cần được sửa chữa.
4. Văn bản đã sửa chữa sẽ thay thế
ab intio (trên nguyên tắc) đối với văn bản có sai lầm, trừ khi các quốc gia ký
kết và các quốc gia tham gia có các quyết định khác.
5. Việc sửa chữa văn bản một điều
ước đã được đăng ký sẽ phải được thông báo cho Ban thư ký Liên hiệp quốc.
6. Khi phát hiện một sai lầm trong
một bản sao đã chứng thực thì cơ quan lưu chiểu sẽ phải lập một biên bản sửa
chữa và gửi bản sao cho các quốc gia ký kết và các quốc gia tham gia.
Điều 80.
Việc đăng ký và công bố điều ước
1. Các điều ước, sau khi có hiệu
lực, sẽ được chuyển đến Ban thư ký Liên hiệp quốc để đăng ký hoặc lưu trữ và ghi
vào danh bạ, tùy từng trường hợp, cũng như để công bố.
2. Việc chỉ định một cơ quan lưu
chiểu sẽ cho phép cơ quan đó thực hiện những hành động quy định ở khoản trên.
Phần VIII.
NHỮNG QUY ĐỊNH CUỐI CÙNG
Điều 81.
Việc ký
Công ước này sẽ để ngỏ cho tất cả
các quốc gia là thành viên của Liên hiệp quốc hoặc thành viên của các tổ chức
chuyên môn hoặc Tổ chức năng lượng nguyên tử quốc tế, hoặc bất kỳ quốc gia nào
tham gia Quy chế Tòa án quốc tế và bất kỳ quốc gia nào khác do Đại hội đồng Liên
hiệp quốc mời để trở thành một bên tham gia Công ước, ký theo cách thức như
sau: cho tới ngày 30-11-1969 tại Bộ Ngoại giao của Liên bang Áo và tiếp theo,
cho tới ngày 30-11-1970 tại trụ sở Liên hiệp quốc ở New York.
Điều 82.
Việc phê chuẩn
Công ước này sẽ phải được phê chuẩn.
Các văn kiện phê chuẩn sẽ được ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc lưu chiểu.
Điều 83.
Việc gia nhập
Công ước này sẽ để ngỏ cho bất kỳ
một quốc gia nào thuộc một trong những trường hợp ghi ở Điều 81 gia nhập. Các
văn kiện gia nhập sẽ được ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc lưu chiểu.
Điều 84.
Thời điểm có hiệu lực
1. Công ước này sẽ có hiệu lực vào
ngày thứ 30 kể từ ngày văn kiện thứ 35 về phê chuẩn hoặc gia nhập được lưu chiểu.
2. Đối với những quốc gia phê chuẩn
hoặc gia nhập Công ước này sau khi đã lưu chiểu văn kiện thứ 35 về phê chuẩn
hoặc gia nhập, thì Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 kể từ ngày quốc gia
đó lưu chiểu văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập.
Điều 85.
Các văn bản xác thực
Bản gốc của Công ước này, mà những
văn bản của nó là bằng tiếng Anh, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Pháp và Nha đều xác
thực như nhau, sẽ được ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc lưu chiểu.
Để làm bằng chứng, các vị đại diện
toàn quyền ký tên sau đây được Chính phủ hữu quan ủy quyền hợp lệ đã ký Công
ước này.
Làm tại Viên, ngày hai mươi ba tháng
năm năm một nghìn chín trăm sáu chín (23-5-1969).
PHỤ LỤC CÔNG ƯỚC
1. Tổng thư ký Liên hợp quốc lập
và giữ một danh sách những người hòa giải bao gồm những luật gia lành nghề. Nhằm
mục đích đó, mọi quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc hoặc là một bên của
công ước này sẽ được mời cử hai người hòa giải và tên của những người được chỉ
định này sẽ nằm trong danh sách. Nhiệm kỳ của một người hoà giải, kể cả bất kỳ
người nào được chỉ định để bổ sung cho một trường hợp khuyết vị có thể có, là
năm năm và có thể được gia hạn. Khi nhiệm kỳ của họ hết hạn, những người hòa giải
này sẽ tiếp tục thi hành các chức năng mà họ được lựa chọn theo khoản sau đây.
2. Khi một đề nghị được trao cho
Tổng thư ký theo điều 66, Tổng thư ký đưa cuộc tranh chấp ra trước một ủy ban hòa
giải được thành lập như sau:
Một quốc gia hoặc các quốc gia là
một trong các bên của cuộc tranh chấp sẽ cử:
a. Một người hòa giải có quốc tịch
của quốc gia đó hoặc một trong những quốc gia đó, có thể được chọn trong hay
ngoài danh sách ghi ở khoản 1;
b. Một người hoà giải không có quốc
tịch của quốc gia đó hoặc của một trong những quốc gia đó, sẽ được chọn trong
danh sách.
Một quốc gia hoặc các quốc gia của
phía bên kia trong cuộc tranh chấp sẽ cử hai ngừơi hoà giải cũng theo cách thức
như vậy. Bốn người hoà giải do các bên lựa chọn sẽ phải được cử trong thời gian
60 ngày kể từ ngày Tổng thư ký nhận được đề nghị.
Trong 60 ngày sau việc cử ngưởi hòa
giải cuối cùng, bốn người hòa giải sẽ cử người thứ 5, lựa chọn trong danh sách,
người này sẽ là chủ tịch.
Nếu việc cử chủ tịch hay bất kỳ một
người nào đó trong số những người hòa giải khác không tiến hành trong thời gian
ghi trên, thì Tổng thư ký sẽ làm việc này trong thời gian 60 ngày sau khi hết
thời hạn trên, Tổng thư ký có thể chỉ định chủ tịch là một trong những người có
tên trong danh sách, hoặc là một trong những thành viên của Ủy ban pháp luật quốc
tế. Một trong những thời gain trong đó việc cử người hòa giải có thể được kéo
dài với sự thỏa thuận của các bên trong cuộc tranh chấp.
Việc đề cử cho mọi khuyết vị sẽ phải
được tiến hành đúng như cách thức của việc đề cử lúc đầu.
3. Ủy ban hoà giải tự quy định lấy
thủ tục, với sự đồng ý của các bên trong cuộc tranh chấp, Ủy ban có thể mời bất
kỳ bên nào tham gia điều ước cho Ủy ban biết ý kiến bằng miệng hay bằng văn bản.
Các quyết định và khuyến nghị của Ủy ban được thông qua với đa số phiếu của
thành viên của Ủy ban.
4. Ủy ban có thể báo cho các bên
trong cuộc tranh chấp biết bất kỳ biện pháp nào có thể tạo điều kiện thuận lợi cho
việc giải quyết bằng hòa giải.
5. Ủy ban sẽ lấy ý kiến các bên,
xem xét những yêu cầu và các phản đối, và đưa ra những đề nghị với các bên nhằm
giúp đỡ các bên giải quyết cuộc tranh chấp bằng hòa giải.
6. Ủy ban sẽ lập báo cáo trong vòng
mười hai tháng sau khi thành lập. Báo cáo này được ông Tổng thư ký lưu chiểu và
chuyển cho các bên trong cuộc tranh chấp. Báo cáo của Ủy ban, kể cả các kết
luận được ghi nhận trong báo cáo về các sự kiện hoặc các vấn đề về luật pháp,
sẽ không ràng buộc các bên và sẽ không có gì hơn những khuyến nghị để các bên
xem xét nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các cuộc tranh chấp
bằng hòa giải.
7. Tổng thư ký sẽ giúp đỡ Ủy ban
và tạo mọi điều kiện thuận lợi khi Ủy ban có thể yêu cầu. Liên hợp quốc sẽ chịu
các chi phí của Ủy ban này.