CÔNG ƯỚC SỐ 157
CÔNG ƯỚC
VỀ THIẾT LẬP MỘT HỆ THỐNG QUỐC TẾ ĐỂ DUY TRÌ CÁC QUYỀN VỀ AN
TOÀN XÃ HỘI, 1982
Hội nghị toàn thể của Tổ chức
Lao động quốc tế,
Được Hội đồng quản trị của Văn phòng
Lao động quốc tế triệu tập tại Giơ-ne-vơ ngày 2 tháng 6 năm 1982, trong kỳ họp
thứ sáu mươi tám, và
Nhắc lại những nguyên tắc được
thiết lập bởi Công ước về Bình đẳng đối xử (an toàn xã hội), 1962, những nguyên
tắc này không chỉ liên quan tới sự bình đẳng đối xử mà còn liên quan tới việc
duy trì các quyền đã giành được và các quyền đang giành được, và
Xét thấy cần phải quy định việc
áp dụng các nguyên tắc để duy trì các quyền đang giành được và các quyền đã
giành được trong tất cả các nhánh an toàn xã hội đã đề cập trong Công ước về An
toàn xã hội (quy phạm tối thiểu), 1952, và
Sau khi đã quyết định chấp thuận
một số đề nghị về duy trì quyền về an toàn xã hội của những Người lao động di
trú (xét lại Công ước số 48), là vấn đề thuộc điểm thứ tư trong Chương trình
nghị sự kỳ họp, và
Sau khi đã quyết định rằng những
đề nghị đó sẽ mang hình thức một Công ước quốc tế,
Thông qua ngày 21 tháng 6 năm
1982, Công ước dưới đây gọi là 'ông ước về Duy trì các quyền về an toàn xã hội,
1982.
Phần I.
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
Trong Công
ước này, các thuật ngữ dưới đây được hiểu như sau:
a) "Nước thành viên”
là chỉ bất kỳ một Nước thành viên nào của Tổ chức Lao động quốc tế bị ràng buộc
bởi Công ước này;
b) "Pháp luật"
bao gồm các luật và pháp quy cũng như có quy tắc về an toàn xã hội;
e) "Nước thành viên có
Thẩm quyền" là chỉ một Nước thành viên mà theo pháp luật của nước đó,
đương sự có thể đòi quyền được trợ cấp;
d) "Cơ quan" là
chỉ một cơ quan hoặc cơ quan chịu Trách nhiệm trực tiếp về việc áp dụng tất cả
hoặc một phần pháp luật của Nước thành viên;
e) "'Người tị nạn"
có nghĩa như đã chỉ định trong Điều 1, Công ước ngày 28 tháng 7 năm 1951 về quy
chế người tị nạn và Đoạn 2, Điều 1, Nghị định thư ngày 31 tháng 1 năm 1967 về
quy chế người tị nạn;
f) "Người không có Tổ quốc"
có nghĩa như đã chỉ định trong Điều 1 Công ước ngày 28 tháng 9 năm 1954 về quy
chế những người không có tổ quốc;
g) "Thành viên của gia
đình" là chỉ những người được xác định hoặc được thừa nhận là thành
viên hoặc như là thành viên của một Hộ gia đình bởi pháp luật mà theo đó các trợ
cấp được cấp hoặc phục vụ tuỳ trường hợp, hoặc những người được xác định theo sự
thỏa thuận của các Nước thành viên liên quan; tuy vậy, nơi mà những người chỉ
được xác định hoặc thừa nhận như thành viên của gia đình hoặc là như thành viên
của hộ gia đình theo pháp luật thích hợp, với điều kiện là họ đang sống với
đương sự, thì điều kiện này sẽ coi là được thoả mãn đối với những người đang hưởng
sự trợ giúp chủ yếu do đương sự cung cấp;
h) "Người thụ hưởng tiền
tuất" là chỉ những người được xác định hoặc thừa nhận là như thế bởi
pháp luật, theo đó họ được trợ cấp; tuy vậy, ở nơi nào những người chỉ được xác
định hoặc được thừa nhận là người thụ hưởng tiền tuất theo pháp luật thích hợp,
với điều kiện là họ đã từng sống với người đã chết, thì điều kiện này sẽ coi là
được thỏa mãn đối với những người đã từng hưởng sự trợ giúp chủ yếu từ phía người
đã chết;
i) "Nơi thường trú"
là chỉ một nơi ở quen thuộc;
j) "Nơi tạm trú"
là chỉ nơi ở tạm thời;
k) "Các thời kỳ bảo hiểm"
là chỉ các thời kỳ đóng góp, làm việc, hoạt động nghề nghiệp hoặc thường trú được
xác định hoặc thừa nhận là thời kỳ bảo hiểm do pháp luật, mà theo đó những thời
kỳ này được thực hiện, và những thời kỳ khác mà pháp luật đó cũng coi là tương
đương với thời kỳ bảo hiểm;
l) "Các thời kỳ làm việc"
và "các thời kỳ hoạt động nghề nghiệp" là chỉ các thời kỳ do
pháp luật xác định hoặc Công nhận, mà theo đó những thời kỳ này được thực hiện,
và những thời kỳ khác mà pháp luật đó coi là tương đương với thời kỳ làm việc
hoặc thời kỳ hoạt động nghề nghiệp;
m) "Các thời kỳ thường
trú" là chỉ thời kỳ thường trú do pháp luật xác định hoặc thừa nhận,
mà theo đó những thời kỳ này được thực hiện;
n) "Không phải đóng góp"
áp dụng cho những trợ cấp mà việc cấp phát không phụ thuộc sự tham gia tài
chính trực tiếp của người được bảo vệ hoặc của Người sử dụng lao động của họ,
hoặc không phụ thuộc thâm niên hoạt động nghề nghiệp; và áp dụng cho bất kỳ chế
độ bảo hiểm nào chỉ cấp phát trợ cấp theo cách riêng này;
o) "Các trợ cấp được cấp
phát theo những thoả thuận quá độ” là chỉ những trợ cấp được cấp phát cho
những người đã quá độ tuổi quy định khi pháp luật hiện hành bắt đầu có hiệu lực,
cũng như những trợ cấp được cấp phát như là một biện pháp quá độ, xét theo những
sự kiện đã xảy ra, hoặc những thời kỳ đã thực hiện bên ngoài biên giới hiện thời
của lãnh thố Nước thành viên.
Điều 2
1. Ngoại
trừ những quy định của Đoạn 1 và Đoạn 3, khoản a) của Điều 4, Công ước này, áp
dụng cho những nhánh an toàn xã hội sau đây mà Nước thành viên có pháp luật hiện
hành:
a) Chăm sóc y tế,
b) Trợ cấp ốm đau;
c) Trợ cấp thai sản;
d) Trợ cấp tàn tật:
e) Trợ cấp tuổi già;
o) Trợ cấp tiền tuất;
g) Trợ cấp Tai nạn lao động và Bệnh
nghề nghiệp
h) Trợ cấp thất nghiệp;
i) Trợ cấp gia đình.
2. Công ước này áp dụng cho việc
trợ cấp tái thích ứng được cấp phát theo pháp luật về một hoặc nhiều nhánh an
toàn xã hội Đoạn 1, Điều này.
3. Công ước này áp dụng cho tất
cả các nhánh an toàn xã hội toàn thể và đặc biệt có đóng góp và không phải đóng
góp, cũng như cho các chế độ đặt trên nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định đối với
người sử dụng lao động về bất kỳ một nhánh an toàn xã hội Đoạn 1, Điều này.
4. Công ước này không áp dụng
cho các chế độ riêng của Công chức, của Nạn nhân chiến tranh hoặc cho các chế độ
trợ giúp xã hội hoặc y tế.
Điều 3
1. Ngoại
trừ những quy định của Đoạn 1, Đoạn 3 và khoản b của Điều 4 và Đoạn 1 của Điều
9, Công ước này áp dụng cho những người đang thuộc hoặc đã thuộc pháp luật của
một hoặc nhiều Nước thành viên, cũng như cho các thành viên của gia đình họ và
cho những người thụ hưởng tiền tuất của họ, trong tất cả mọi trường hợp mà hệ
thống quốc tế về duy trì các quyền do Công ước này thiết lập, đòi hỏi phải xét
đến pháp luật của một Nước thành viên ngoài Nước thành viên có những đương sự
đang thường trú hoặc tạm trú trên lãnh thổ.
2. Công ước này không đòi hỏi bất
kỳ Nước thành viên nào phải áp dụng các quy định của Công ước cho những người,
theo các văn bản quốc tế, được miễn áp dụng pháp luật của Nước thành viên đó.
Điều 4
1. Các Nước
thành viên có thể thi hành những nghĩa vụ theo các qui định từ Phần II tới Phần
VI của Công ước này bằng các văn bản song phương hoặc đa phương bảo đảm việc thực
hiện các nghĩa vụ đó trong những điều kiện được xác định theo thoả thuận chung
giữa các Nước thành viên hữu quan.
2. Mặc dù có các quy định của Đoạn
1 Điều này, đoạn 4 Điều 7, Đoạn 2 và 3 Điều 8, Đoạn 1 và 4 Điều 9, các Điều 11,
12, 14 và Đoạn 3 Điều 18, Công ước này, sẽ được áp dụng ngay, kể từ khi Công ước
này có hiệu lực đối với Nước thành viên đó.
3. Các văn bản nêu trong Đoạn 1
Điều này sẽ đặc biệt chỉ rõ:
a) Những nhánh an toàn xã hội
thuộc diện áp dụng những văn bản này xét theo điều kiện tương hỗ nêu trong Điều
6 và Điều 10 Công ước này; những nhánh này phải bao gồm ít nhất nhánh chế độ trợ
cấp tàn tật, trợ cấp tuổi già, tiền tuất và trợ cấp tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp, kể cả trợ cấp khi chết, và theo các quy định của Đoạn 1 Điều 10
Công ước này, chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản và trợ cấp tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, ngoài các khoản trợ cấp hàng năm và trợ cấp khi chết,
đối với những Nước thành viên có pháp luật, có hiệu lực về những nhánh đó;
b) Loại người thuộc diện áp dụng
những văn bản này, những loại người này sẽ bao gồm ít nhất là những người lao động
làm công ăn lương (kể cả, nếu thích hợp, người lao động vùng biên giới và người
lao động thời vụ) cũng như những thành viên của gia đình họ và những người thụ
hưởng tiền tuất của họ là những kiều dân của một trong các Nước thành viên hữu
quan, hoặc là người tị nạn, hoặc là người không có tổ quốc, thường trú trên
lãnh thổ của một trong những Nước thành viên đó;
c) Việc tổ chức hoàn trả những
trợ cấp đã quy định và các chi phí khác do cơ quan của một Nước thành viên chịu
thay cho cơ quan của nột Nước thành vlên khác trừ phi có sự thỏa thuận sẽ không
hoàn trả;
d) Các quy tắc để tránh có quá
nhiều chế độ đóng góp, hoặc trách nhiệm khác, hoặc quá nhiều trợ cấp.
Phần II.
PHÁP LUẬT CÓ THỂ ÁP DỤNG
Điều 5
1. Luật được
áp đụng cho những người được bảo vệ bởi Công ước này phải được xác định bằng một
thoả thuận chung giữa các Nước thành viên hữu quan theo những quy tắc dưới đây
để tránh những mâu thuẫn pháp luật và các hậu quả không mong muốn khỏi có thể xảy
ra đối với những bên hữu quan đó hoặc là thiếu sự bảo vệ, hoặc là kết quả của
việc có quá nhiều chế độ đóng góp, quá nhiều trách nhiệm khác hoặc quá nhiều trợ
cấp:
a) Những người lao động được
thuê mướn bình thường tại lãnh thổ của một Nước thành viên sẽ phải theo pháp luật
của Nước thành viên đó, thậm chí nếu họ thường trú tại lãnh thổ của một Nước
thành viên khác, hoặc nếu cơ sở thuê mướn họ có trụ sở đã đăng ký, hoặc người sử
dụng lao động có nơi thường trú tại lãnh thổ của một Nước thành viên khác;
b) Những người lao động độc lập
hành nghề bình thường tại lãnh thổ của một Nước thành viên sẽ phải theo pháp luật
của Nước thành viên đó, ngay cả khí họ thường trú ở một lãnh thổ của một Nước
thành viên khác;
c) Những người làm công ăn lương
và những người lao động độc lập trên các tầu mang cờ của một Nước thành viên sẽ
phải theo pháp luật của Nước thành viên đó, ngay cả khi họ thường trú tại lãnh
thổ của một Nước thành viên khác, hoặc nếu cơ sở thuê họ có trụ sở được đăng
ký, hoặc người thuê họ có nơi thường trú tại lãnh thổ của một Nước thành viên
khác.
d) Những người không thuộc dân số
hoạt động kinh tế sẽ phải theo pháp luật của Nước thành viên mà tại lãnh thổ nước
đó họ đang thường trú, trong trường hợp họ không được bảo vệ theo các khoản từ
a tới c của Đoạn này.
2. Mặc dù có các quy định của
các khoản từ a tới c của Đoạn 1 Điều này, các Nước thành viên hữu quan có thể
thoả thuận rằng một số loại người nhất định, đặc biệt là những người lao động độc
lập sẽ phải tuân theo pháp luật của Nước thành viên mà tại lãnh thổ nước đó họ
đang thường trú.
3. Các Nước thành viên hữu quan
có thể xác định, bằng một thoả thuận chung, những ngoại lệ khác với những quy tắc
nêu ở Đoạn 1 Điều này, vì lợi ích của các đương sự.
Phần III.
DUY TRÌ CÁC QUYỀN GIÀNH
ĐƯỢC
Điều 6
Theo những
quy định của khoản a, Đoạn 3, của Điều 4, Công ước này, mọi Nước thành viên sẽ
cố gắng cùng với mọi Nước thành viên hữu quan khác tham gia hệ thống duy trì
các quyền đang giành được, trong mọi nhánh an toàn xã hội nêu ở Đoạn 1 Điều 2,
Công ước này, mà về các nhánh này mỗi Nước thành viên đều có pháp luật có hiệu
lực, có lợi cho những người đã theo pháp luật của các nước hữu quan một cách
liên tục hoặc xen kẽ.
Điều 7
1. Hệ thống
duy trì các quyền đang giành được nêu ở Điều 6, Công ước này, sẽ quy định tới mức
cần thiết, tổng cộng các thời kỳ bảo hiểm, làm việc, hoạt động nghề nghiệp hoặc
thường trú đã thực hiện, tuỳ trường hợp, theo pháp luật của các Nước thành viên
hữu quan, nhằm mục đích:
a) Tham gia liên tục bảo hiểm tự
nguyện hay bảo hiểm theo lựa chọn, trong trường hợp thích hợp;
b) Giành, duy trì hoặc khôi phục
các quyền và, nếu cần, để tính toán các chế độ trợ cấp.
2. Các thời kỳ đã thực hiện đồng
thời một lúc theo pháp luật của hai hoặc nhiều Nước thành viên thì chỉ được
tính một lần.
3. Các Nước thành viên hữu quan,
mỗi khi cần thiết, xác định bằng một thoả thuận chung, các cách thức đặc biệt để
tính tổng cộng các thời kỳ có tính chất khác nhau và những thời kỳ thâm niên để
có quyền hưởng trợ cấp theo các chế độ đặc biệt.
4. Ở nơi nào mà một người đã thực
hiện các thời kỳ theo pháp luật của một hoặc nhiều Nước thành viên mà các nước
này lại là các bên của các văn bản song phương hoặc đa phương khác nhau, thì mỗi
Nước thành viên đang bị ràng buộc cùng một lúc bởi 2 hoặc nhiều văn bản trên, sẽ
cộng những thời kỳ đó, tới mức cần thiết, phù hợp với các quy định của những
văn bản này, để giành, duy trì hoặc khôi phục lại các quyền được trợ cấp.
Điều 8
1. Các chế
độ để duy trì các quyền đang giành được nói ở Điều 6, Công ước này, sẽ xác định
phương thức cấp phát:
a) Trợ cấp tàn tật, tuổi già, tiền
tuất;
b) Trợ cấp bệnh nghề nghiệp;
cũng như sự phân phối, ở nơi thích hợp, các chi phí liên quan.
2. Trong trường hợp nêu ở Đoạn 4
Điều 7, Công ước này, mỗi Nước thành viên đang bị ràng buộc cùng một lúc bởi 2
hoặc nhiều văn bản thuộc vấn đề này, sẽ áp dụng những quy định của các văn bản
đó về tính toán các trợ cấp dược quyền hưởng theo pháp luật nước đó, có tính cả
tổng cộng các thời kỳ đã thực hiện theo pháp luật của các Nước thành viên hữu
quan.
3. Khi áp dụng các quy định của
Đoạn 2 Điều này, nếu một Nước thành viên phải cấp nhiều trợ cấp cùng một tính
chất cho cùng một người theo 2 hoặc nhiều văn bản song phương hoặc đa phương
thì Nước thành viên đó chỉ phải cấp một trợ cấp có lợi nhất cho đương sự như đã
được xác định khi cấp lần đầu tiên các trợ cấp này.
4. Mặc dù có các quy định của Đoạn
2 Điều này, các Nước thành viên hữu quan có thể, ở nơi cần thiết, thoả thuận về
các quy định bổ sung để tính toán các trợ cấp đã nêu ở khoản đó.
Phần IV.
DUY TRÌ CÁC QUYỀN ĐÃ
GIÀNH ĐƯỢC VÀ QUY ĐỊNH VỀ CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP Ở NƯỚC NGOÀI
Điều 9
1. Mọi Nước
thành viên sẽ bảo đảm trả bằng Tiền mặt cho các loại trợ cấp tàn tật, tuổi già,
tiền tuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cũng như trợ cấp khi chết,
mà quyền hưởng chúng đã giành được theo pháp luật của các nước đó, cho những
người thụ hưởng là công dân của một Nước thành viên, là người tị nạn, là người
không có Tổ quốc, không phân biệt nơi thường trú của họ, miễn là những biện
pháp để làm việc đó, khi cần thiết, phải bằng một thoả thuận chung giữa các Nước
thành viên hoặc với các nước hữu quan.
2. Mặc dù có các quy định của Đoạn
1 Điều này các Nước thành viên hữu quan tham gia hệ thống duy trì các quyền
đang giành được nêu ở Điều 6, Công ước này, có thể thoả thuận bảo đảm các trợ cấp
nêu ở khoản nói trên cho những người thụ hưởng hiện thường trú tại lãnh thổ của
một Nước thành viên không phải là Nước thành viên có thẩm quyền trong khuôn khổ
các thoả thuận song phương hoặc đa phương nêu ở Đoạn 1 Diều 4, Công ước này.
3. Thêm nữa, mặc dù có các qui định
của Đoạn 1 Điều này, trong trường hợp các chế độ không phải đóng góp, các Nước
thành viên hữu quan sẽ quyết định bằng một thoả thuận chung, những điều kiện mà
theo đó việc cấp phát các trợ cấp này sẽ được bảo đảm cho những người được thụ
hưởng hiện thường trú tại lãnh thổ của một Nước thành viên không phải là một Nước
thành viên có thẩm quyền.
4. Các quy định của các Đoạn 1,
2 và 3 Điều này, có thể không áp dụng cho:
a) Các trợ cấp đặc biệt không phải
đóng góp được cấp phát như là một dạng trợ giúp hoặc trong trường hợp có khó
khăn;
b) Các trợ cấp được cấp phát
theo các chế độ quá độ.
Điều 10
1. Các Nước
thành viên hữu quan sẽ cố gắng tham gia hệ thống duy trì các quyền đã giành được
theo pháp luật của họ, xét theo những quy định ở Phần III, Công ước này, về những
nhánh an toàn xã hội để sau dây mà mỗi Nước thành viên có pháp luật hiện hành:
chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản và trợ cấp tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp, trừ những trợ cấp hàng năm và trợ cấp khi chết. Hệ thống này
sẽ bảo đảm việc thụ hưởng trợ cấp cho những người đang thường trú hoặc tạm trú
tại lãnh thổ của một trong các Nước thành viên không phải là Nước thành viên có
thẩm quyền, trong các điều kiện và giới hạn sẽ được xác định bởi một thoả thuận
chung giữa các Nước thành viên hữu quan.
2. Khi không được bảo đảm bởi
pháp luật hiện hành, sự tương hỗ đòi hỏi trong Đoạn 1 Điều này có thể được đảm
bảo bằng các biện pháp của một Nước thành viên để bảo đảm việc thụ hưởng những
trợ cấp tương ứng với những trợ cấp mà pháp luật của Nước thành viên khác đã
quy định, tuỳ thuộc vào sự đồng ý của Nước thành viên đó.
3. Các Nước thành viên hữu quan
sẽ cố gắng tham gia hệ thống duy trì các quyền đã giành được theo pháp luật của
họ, xét theo những quy định của Phần III, Công ước này, trong những nhánh an
toàn xã hội kể sau đây mà mỗi Nước thành viên có pháp luật hiện hành: trợ cấp
thất nghiệp, trợ cấp gia đình, và, mặc dù có những quy định của Đoạn 1 Điều 9
và Đoạn 1 Điều này, cả trợ cấp tái thích ứng. Hệ thống này sẽ bảo đảm những trợ
cấp đó cho những người đang thường trú tại lãnh thổ của một trong những Nước
thành viên mà không phải là Nước thành viên có thẩm quyền, trong những điều kiện
và giới hạn sẽ được xác định bởi một thoả thuận chung giữa các Nước thành viên
hữu quan.
Điều 11
Các quy tắc
theo pháp luật của một Nước thành viên về tính lại giá trị các loại trợ cấp
cũng có thể được áp dụng đối với trợ cấp được cấp phát do pháp luật đó theo quy
định trong Công ước này.
Phần V.
TRỢ GIÚP HÀNH CHÍNH VÀ SỰ
GIÚP ĐỠ ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI THUỘC PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA CÔNG ƯỚC NÀY
Điều 12
1. Các tổ
chức và cơ quan có thẩm quyền của các Nước thành viên sẽ giúp đỡ lẫn nhau để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng Công ước này và các pháp luật tương ứng của
họ.
2. Về nguyên tắc, sự trợ giúp
hành chính của các tổ chức và các cơ quan có thẩm quyền sẽ miễn phí. Tuy vậy,
các Nước thành viên có thể thoả thuận việc hoàn trả một số chi phí nhất định.
3. Các tổ chức, các cơ quan có
thẩm quyền và các toà án của một Nước thành viên không thể từ chối không nhận
các Khiếu nại hoặc các tài liệu khác đệ trình cho họ với lý do là những tài liệu
này được viết bằng ngôn ngữ chính thức của một Nước thành viên khác.
Điều 13
1. Nếu
Người khiếu nại thường trú tại lãnh thổ của một Nước thành viên không phải là
Nước thành viên có thẩm quyền, thì người đó có thể trình đơn khiếu nại một cách
hợp pháp tới cơ quan có thẩm quyền nơi mình thường trú, cơ quan này sẽ chuyển
đơn khiếu nại đến những tổ chức hoặc cơ quan có thẩm quyền nêu trong đơn.
2. Mọi đơn khiếu nại, tờ khai hoặc
đơn chống án nếu đã được đệ trình, theo pháp luật của một Nước thành viên,
trong thời hạn quy định, cho một tổ chức, một cơ quan có thẩm quyền hoặc một
toà án của Nước thành viên đó thì sẽ được tiếp nhận, nếu được đệ trình trong
cùng thời hạn cho một tổ chức, cơ quan có thẩm quyền hoặc toà án của Nước thành
viên khác mà tại lãnh thổ nước đó người khiếu nại đang thường trú. Trong trường
hợp đó, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền hoặc toà án nhận đơn khiếu nại, tờ khai
hoặc đơn chống án sẽ chuyển ngay cho tổ chức, cơ quan có thẩm quyền hoặc toà án
có thẩm quyền của Nước thành viên thứ nhất. Ngày mà đơn khiếu nại, tờ khai hoặc
đơn chống án được đệ trình cho một cơ quan, tổ chức hoặc toà án của Nước thành
viên thứ hai, sẽ được coi là ngày đệ trình cho tổ chức, cơ quan hoặc toà án có
thẩm quyền về việc Giải quyết khiếu nại.
3. Các trợ cấp được một Nước
thành viên chi trả cho một người hưởng thường trú hoặc tạm trú tại lãnh thổ của
một Nước thành viên khác, có thể được cấp phát trực tiếp bởi cơ quan chịu trách
nhiệm chi trả, hoặc qua trung gian của một cơ quan có thẩm quyền do Nước thành
viên đó chỉ định, tại nơi mà người hưởng thường trú hoặc tạm trú tuỳ theo sự
thoả thuận của các Nước thành viên hữu quan.
Điều 14
Mọi thành
viên sẽ xúc tiến sự phát triển các dịch vụ xã hội để trợ giúp những người thuộc
phạm vi áp dụng của Công ước này, nhất là những người lao động di trú, khi họ
liên hệ với các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền và toà án, đặc biệt là về việc
Chấp nhận quyền được thụ hưởng các trợ cấp và việc thực thi quyền chống án của
họ, cũng như để xúc tiến việc cải thiện điều kiện cá nhân và gia đình của họ.
Phần VI.
NHỮNG QUY ĐỊNH KHÁC
Điều 15
Trừ các
trợ cấp thương tật, tuổi già, tiền tuất và trợ cấp bệnh nghề nghiệp, mà các chi
phí được phân bổ giữa hai hoặc nhiều Nước thành viên, Công ước này không chuyển
giao hoặc duy trì quyền hưởng nhiều trợ cấp thuộc cùng một tính chất trong cùng
một thời kỷ bảo hiểm bắt buộc, làm việc, hoạt động nghề nghiệp hoặc thường trú.
Điều 16
1. Các trợ
cấp được chi trả và các chi phí khác do cơ quan của một Nước thành viên chịu
thay cho cơ quan của một Nước thành viên khác sẽ được hoàn trả theo những cách
thức được xác định bởi một thoả thuận chung giữa các Nước thành viên này, trừ
phi họ đã thoả thuận là sẽ không phải hoàn trả.
2. Việc chuyển giao các khoản tiền
do việc áp dụng Công ước này sẽ được giải quyết, nếu cần, theo những thoả thuận
có hiệu lực giữa các Nước thành viên hữu quan, vào ngày chuyển tiền, nếu không,
phải có những biện pháp cần ~híết để có một thoả thuận chung giữa họ với nhau.
Điều 17
1. Các Nước
thành viên có thể xác định ngoại lệ đối với những quy định của Công ước này bằng
những dàn xếp đặc biệt trong khuôn khổ các văn bản song phương hoặc đa phương
được ký kết giữa hai hoặc nhiều Nước thành viên, với điều kiện là không làm ảnh
hưởng tới các quyền và nghĩa vụ của các Nước thành viên khác, và giải quyết sự
duy trì các quyền theo những quy định, tính chung lại, ít nhất cũng có lợi bằng
những quy định của Công ước này.
2. Một Nước thành viên được coi
là thoả mãn những quy định của Đoạn 1 Điều 9 và của Điều 11, Công ước này:
a) Nếu nước đó bảo đảm, vào ngày
nước đó tuyên bố Phê chuẩn, việc cấp phát các trợ cấp thích hợp với mức đáng kể
đã được quy định theo pháp luật của nước đó, cho tất cả những người thụ hưởng,
không phân biệt Quốc tịch và nơi thường trú của họ.
b) Nếu nước đó thi hành những
quy định của Đoạn 1 Điều 9 và của Điều 11, Công ước này, trong khuôn khổ các
văn bản song phương và đa phương đã nêu trong Đoạn 1 Điều 4, Công ước này.
3. Mỗi Nước thành viên đã sử dụng
những quy định của Đoạn 2 Điều này sẽ nói rõ trong các báo cáo về việc thực hiện
Công ước này theo Điều 22 của Điều lệ Tổ chức Lao động quốc tế.
a) Những lý do đã làm như vậy;
b) Nước đó tuyên bố từ bỏ việc sử
dụng những quy định ở khoản nói trên của Điều này kể từ ngày tuyên bố.
Phần VII.
CÁC ĐIỀU KHOẢN QUÁ ĐỘ CUỐI
CÙNG
Điều 18
1. Công ước
này không tạo ra bất cứ quyền được trợ cấp nào cho thời kỳ trước khi Công ước
này có hiệu lực đối với những Nước thành viên hữu quan.
2. Để áp dụng những quy định của
Công ước này, tất cả những thời kỳ bảo hiểm, làm việc, hoạt động nghề nghiệp hoặc
thường trú đã thực hiện theo pháp luật của một Nước thành viên trước ngày mà hệ
thống duy trì các quyền đang giành được nêu ở Điều 6 Công ước này, có hiệu lực
đối với những Nước thành viên hữu quan, sẽ được xét đến để xác định xem có hay
không các quyền phát sinh từ hệ thống đó, từ ngày hệ thống đó có hiệu lực, miễn
là những quy định đặc biệt sẽ được thoả thuận, nếu cần, giữa các Nước thành
viên hữu quan.
3. Mọi trợ cấp nêu trên ở Đoạn 1
Điều 9 Công ước này, chưa được cấp phát hoặc bị đình lại do việc thường trú của
người khiếu nại trên lãnh thổ của một nước không phải là Nước thành viên có thẩm
quyền, sẽ được cấp phát hoặc được tiếp tục chi trả, theo yêu cầu của đương sự,
kể từ ngày mà Công ước này có hiệu lực đối với Nước thành viên thứ hai, hoặc kể
từ ngày Công ước có hiệu lực đối với Nước thành viên mà đương sự là công dân của
nước đó - ngày gần nhất trong số hai ngày được xét - trừ phi đương sự đã được
giải quyết trước đó một khoản tiền thay cho trợ cấp này. Các quy định của pháp
luật của Nước thành viên có thẩm quyền về việc thủ tiêu các quyền sẽ không được
viện dẫn để chống lại đương sự, nếu họ đệ trình yêu cầu của mình trong vòng 2
năm kể từ ngày đó, hoặc nếu cần kể từ ngày mà những biện pháp nêu trong Đoạn 1,
Điều 9 bắt đầu có hiệu lực.
4. Các Nước thành viên hữu quan
sẽ xác định bằng một thoả thuận chung, mức độ mà hệ thống duy trì các quyền
đang giành được nêu ở Điều 6, Công ước này, áp dụng cho những sự kiện phát sinh
trước khi hệ thống đó có hiệu lực đối với những Nước thành viên này.
Điều 19
1. Việc
tuyên bố bãi ước Công ước này của một Nước thành viên sẽ không ảnh hưởng tới những
nghĩa vụ của Nước thành viên đó về những sự kiện phát sinh trước ngày mà tuyên
bố bãi ước có hiệu lực.
2. Các quyền đang giành được
đang được duy trì bởi Công ước này sẽ không mất đi vì lý do tuyên bố bãi ước của
Nước thành viên. Sự duy trì tiếp tục các quyền này trong thời kỳ tiếp sau ngày
mà Công ước này bị đình hoãn hiệu lực, sẽ được xác định bằng các văn bản an
toàn xã hội song phương hoặc đa phương mà Nước thành viên này ký kết, hoặc nếu
không, thì bằng pháp luật của Nước thành viên này.
Điều 20
1. Công ước
này xét lại, trong những điều kiện nêu trong các khoản dưới đây của Điều này,
Công ước về Duy trì các quyền được trợ cấp của người di trú, 1935.
2. Việc Công ước này có hiệu lực
đối với mọi Nước thành viên đang bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ của Công ước về
Duy trì các quyền được trợ cấp của người di trú, 1935, sẽ không dương nhiên bãi
ước ngay Công ước đó.
3. Công ước về Duy trì các quyền
được trợ cấp của người di trú, lđ35, sẽ thôi áp dụng trong mối quan hệ giữa mọi
Nước thành viên đã phê chuẩn Công ước đó, một khi hệ thống duy trì các quyền
đang giành được theo Điều 6, Công ước này, được áp dụng trong mối quan hệ đó.
Các Điều từ 21 đến 28
Những quy định cuối cùng mẫu.
PHỤ LỤC I
NHỮNG QUY ĐỊNH CUỐI CÙNG MẪU
1. Việc phê chuẩn
Việc phê chuẩn chính thức Công ước
này sẽ được thông báo tới Tổng giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế để đăng lý.
2. Việc đăng ký
a) Công ước này chỉ ràng buộc những
Nước thành viên nào của Tổ chức Lao động quốc tế dã đăng ký việc phê chuẩn của
mình với Tổng giám đốc.
b) Công ước này sẽ bắt đầu có hiệu
lực sau 12 tháng kể từ ngày hai Nước thành viên đã đăng ký việc phê chuẩn của
mình với Tổng giám đốc.
c) Sau đó, Công ước này sẽ bắt đầu
có hiệu lực đối với bất kỳ Nước thành viên nào sau 12 tháng kể từ ngày việc phê
chuẩn của Nước thành viên đó đã đăng ký với Tổng giám đốc.
3. Việc bãi ước
a) Một Nước thành viên nào đã
thông qua Công ước này có thể bãi ước bản Công ước sau một thời hạn 10 năm kể từ
ngày Công ước bắt đầu có hiệu lực lần đầu tiên, bằng một văn bản truyền đạt việc
bãi ước này cho Tổng giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế để đăng ký. Việe bãi ước
này chỉ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày đã đăng ký với Tổng giám dốc.
b) Mỗi Nước thành viên dã phê
chuẩn Công ước này, trong vòng một năm sau khi kết, thúc thời hạn 10 năm nói
trong khoản tiền mà thông thực hiện quyền bãi ước đã quy định tại Điều này, thì
sẽ bị ràng buộc trong một thời hạn 10 năm nữa rồi sau đó mới được bãi ước bản
Công ước này mỗi khi tất thúc thời hạn 10 năm theo những điều kiện quy định tai
Điều này
4. Thông báo việc phê chuẩn của
các Nước thành viên
a) Tổng giám đốc Văn phòng lao động
quốc tế sẽ thông báo cho mọi Nước thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
biết mọi trường hợp đăng ký, phê chuẩn và bãi ước mà các Nước thành viên ILO đã
truyền đạt cho Tổng giám dốc.
b) Khi thông báo cho các Nước
thành viên ILO về việc đăng ký phê chuẩn của Nước thành viên thứ 2 mà mình đã
được truyền đạt, Tổng giám đốc sẽ lưu ý các Nước thành viên về thời điểm mà
Công ước bắt đầu có hiệu lực.
5. Việc thông báo cho Liên hợp
quốc
Để đăng ký theo Diện 102 của Hiến
chương Liên hợp quốc, Tổng giám đốc Văn phòng Lao động quốc tế sẽ truyền đạt
cho Tổng thư ký Liên hợp quốc đầy đủ mọi chi tiết về việc phê chuẩn và các văn
bản về bãi ước mà mình đã đăng ký theo các quy định tại các Điều trên.
6. Việc xét lại
Mỗi khi xét thấy cần thiết, Hội
đồng quản trị của Văn phòng Lao động quát tế sẽ trình một bản báo cáo về tình
hình hoạt động của Công ước này lên Hội nghị toàn thể ILO và sẽ xem xét có cần
đưa vào chương trình nghị sự của Hội nghị toàn thể việc sửa đổi lại một phần hoặc
toàn bộ Công ước này hay không.
7. Hiệu lực của các Công ước
xét lại.
1. Nếu hội nghị toàn thể chấp nhận
một Công ước mới sửa đổi lại một phần hoặc toàn bộ Công ước này và nếu Công ước
mới thông quy định khác thì:
a) Mặc dù có nhũng quy định tại
phần 3 nói trên việc một Nước thành viên phê chuẩn một Công ước mới sửa đổi lại
Công ước này, thì sẽ đương nhiên dẫn đến sự bãi ước ngay lập tức đối với Công ước
này, vào lúc Công ước mới sửa đổi đó bắt đầu có hiệu lực và nếu như nó sẽ bắt đầu
có hiệu lực.
b) Kể từ ngày Công ước mới sửa đổi
bắt dầu có hiệu lực, Công ước này sẽ thôi không mở ra các Nước thành viên phê
chuẩn nữa.
2. Trong mọi trường hợp, Công ước
này vẫn sẽ giữ nguyên hiệu lực cả về mặt hình thức và nội dung như hiện nay đối
với những Nước thành viên nào đã phê chuẩn Công ước này mà không phê chuẩn Công
ước mới sửa đổi.
8. Văn bản dùng làm căn cứ
Cả hai bản tiếng Anh và tiếng
Pháp của Công ước này đều có giá trị như nhau.