ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------
|
Số:
35/BC-UBND
|
Hà
Nội, ngày 15 tháng 03 năm 2010
|
BÁO CÁO
TỔNG
KẾT 9 NĂM THỰC HIỆN PHÁP LỆNH THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội được Ủy ban
thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X thông qua ngày
28/12/2000. Ngày 11/01/2001, Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký lệnh số 01/2000/L/CTN
về việc công bố Pháp lệnh; Pháp lệnh có hiệu lực thi hành kể từ ngày
03/02/2001.
Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội là văn bản
pháp lý quan trọng nhằm xây dựng, phát triển Hà Nội - Thủ đô nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thành “đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung
tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả
nước”.
Phần thứ nhất.
KẾT QUẢ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
PHÁP LỆNH THỦ ĐÔ HÀ NỘI
I . VIỆC
TRIỂN KHAI THỰC HIỆN PHÁP LỆNH THỦ ĐÔ HÀ NỘI
1. Ban hành
các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh
Ngay sau khi Pháp lệnh có hiệu lực
(ngày 03/2/2001) dưới sự chỉ đạo của Thường trực Thành ủy và Thường trực Hội
đồng nhân dân Thành phố, Ủy ban nhân dân Thành phố đã khẩn trương xây dựng kế
hoạch thực hiện Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội và ban hành Kế hoạch triển khai xây dựng
các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội.
Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội
đã tích cực phối hợp, tham gia với các cơ quan hữu quan trình Chính phủ ban hành
các văn bản như: Nghị định số 123/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy
định một số cơ chế tài chính đặc thù đối với Thủ đô Hà Nội và Nghị định số 92/2005/NĐ-CP
ngày 12/7/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp
lệnh Thủ đô Hà Nội.
Những quy định mang tính nguyên tắc
về sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Thủ đô Hà Nội của Pháp lệnh và các
văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh đã được Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội
lần thứ XIV đưa vào trong Nghị quyết và trong các Chương trình công tác cụ thể
của BCH Đảng bộ Thành phố, đồng thời, cũng đã được UBND Thành phố triển khai
thực hiện bằng việc ban hành các văn bản để chỉ đạo, điều hành, do đó, đã góp
phần không nhỏ thúc đẩy cho sự phát triển Thủ đô Hà Nội.
2. Tổ chức
tập huấn, tuyên truyền phổ biến thực hiện Pháp lệnh
Sau khi Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội được
ban hành, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã xây dựng kế hoạch, phân công và
làm rõ trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc tuyên truyền, phổ biến
rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương và của Thủ đô
về một số nội dung chủ yếu trong Pháp lệnh. Ủy ban nhân dân Thành phố đã chủ
động phối hợp với Bộ Tư pháp biên soạn Đề cương tuyên truyền Pháp lệnh Thủ đô
Hà Nội, tổ chức tập huấn cho các báo cáo viên; đồng thời, tổ chức hàng loạt các
hội nghị từ cấp thành phố đến cơ sở để giới thiệu về những nội dung chủ yếu của
Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội đến mọi tầng lớp nhân dân Thủ đô; chỉ đạo các cơ quan
thông tin đại chúng của Thủ đô mở các đợt tuyên truyền, mở chuyên mục để giới
thiệu về nội dung cơ bản của Pháp lệnh.
II. MỘT SỐ KẾT
QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 9 NĂM THỰC HIỆN PHÁP LỆNH THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội được ban
hành đã xác định rõ vị thế, chức năng của Thủ đô, mục tiêu phát triển, các chủ trương,
cơ chế, chính sách lớn, phân cấp quản lý nhà nước trong sự nghiệp xây dựng,
phát triển và bảo vệ Thủ đô. Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện Pháp
lệnh Thủ đô Hà Nội từ năm 2001 đến nay, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành
phố Hà Nội luôn luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, sự giúp đỡ của
Trung ương, sự phối hợp có hiệu quả của các tỉnh, thành trong cả nước; Thành
phố đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, cụ thể là:
1. Về phát
triển kinh tế
Thực hiện quy định tại khoản 5 Điều
3 Pháp lệnh “phát triển kinh tế Thủ đô với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, cơ
cấu hợp lý; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế”, kinh tế Thủ đô liên tục phát triển với tốc độ tăng trưởng cao
theo hướng ổn định và bền vững (Phụ lục số 1, 2 & 3); cơ cấu kinh tế Thủ đô
từng bước chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH, ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh
vực trình độ cao, chất lượng cao theo tinh thần của khoản 2 Điều 7 Pháp lệnh
Thủ đô (Phụ lục số 4); sản xuất công nghiệp tăng trưởng ở tất cả các thành phần
kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài. Cùng với Thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương, Hà Nội đã trở thành một
trong 3 địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài (Phụ lục số 5);
Thành phố đã thực hiện đúng theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7 của Pháp lệnh:
“phát triển đa dạng và nâng cao trình độ, chất lượng các ngành dịch vụ, tập
trung đầu tư phát triển dịch vụ thông tin, du lịch, thương mại, tài chính, ngân
hàng, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, bảo hiểm, hàng không, bưu chính,
viễn thông”.
Nông nghiệp và kinh tế ngoại thành
của Thủ đô bước đầu được quy hoạch, phát triển theo quy định tại điểm c khoản 2
Điều 7 Pháp lệnh: “theo hướng nông nghiệp đô thị, sinh thái”, “ưu tiên phát
triển nông nghiệp sạch, các làng nghề truyền thống, làng nông nghiệp du lịch
sinh thái; đầu tư phát triển công nghệ mới”, “chú trọng công nghệ bảo quản, chế
biến sau thu hoạch”.
2. Về phát
triển văn hóa - xã hội
Thực hiện khoản 1, Điều 8 Pháp lệnh:
“Phát triển đồng bộ hệ thống giáo dục và đào tạo ở Thủ đô với cơ sở vật chất hiện
đại để Thủ đô trở thành trung tâm đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước; phấn đấu trở thành trung tâm đào tạo có uy tín ở khu vực và có dân trí
cao”, Thành phố đã tiến hành thực hiện nhiều giải pháp nhằm phát triển đồng bộ
hệ thống giáo dục đào tạo với cơ sở vật chất từng bước hiện đại để Thủ đô trở
thành trung tâm đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước;
Triển khai thực hiện quy định tại
Điều 9 của Pháp lệnh về phát triển khoa học và công nghệ, Thành phố đã quan tâm
đầu tư và đã có những bước phát triển mới về sự nghiệp khoa học công nghệ. Chủ
trương phát triển công nghệ cao trong các lĩnh vực như “công nghệ thông tin -
điện tử, sinh học, cơ khí - tự động hóa, công nghệ sản xuất và sử dụng vật liệu
mới” đã được Thành phố triển khai.
Thực hiện mục tiêu của Pháp lệnh
về xây dựng Hà Nội thành “trung tâm văn hóa lớn của cả nước”, “bảo tồn và phát huy
tinh hoa văn hóa truyền thống của Thủ đô ngàn năm văn hiến”, “tạo lập môi trường
văn hóa - xã hội văn minh, lành mạnh”, sự nghiệp văn hóa - xã hội Thủ đô tiếp
tục được củng cố, phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng. Hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực giao lưu văn hóa tiếp tục được mở rộng.
Thực hiện khoản 2 Điều 10 của Pháp
lệnh về phát triển hệ thống y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, Hà Nội bước
đầu đã đạt được một số kết quả cụ thể là: mạng lưới y tế của thành phố đó được
củng cố, cơ sở vật chất được tăng cường, các hình thức dịch vụ y tế trong khám
chữa bệnh, phòng bệnh và cung ứng thuốc được đa dạng hóa… từng bước nâng cao
chất lượng khám chữa bệnh, phòng bệnh và các dịch vụ y tế khác trên phạm vi toàn
thành phố. Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm từng bước được thực hiện
tốt, không để xảy ra các vụ ngộ độc lớn trên địa bàn.
Thực hiện điểm c khoản 2 Điều 10
Pháp lệnh về phát triển thể dục thể thao. Hoạt động thể dục thể thao trên địa bàn
được Thành phố quan tâm đầu tư, vì vậy liên tục phát triển cả về quy mô và chất
lượng.
3. Về quản
lý, xây dựng và phát triển đô thị
Thực hiện quy định tại Chương III
của Pháp lệnh về quản lý và xây dựng, phát triển đô thị, Chính quyền thành phố
đã tăng cường chỉ đạo triển khai đồng bộ trên các lĩnh vực; công tác quy hoạch,
quản lý kiến trúc cảnh quan đô thị, quản lý xây dựng đô thị (Điều 11) và đạt
được những kết quả quan trọng. Nhiều khu đô thị mới với quy mô lớn, nhiều công
trình lớn, quan trọng của quốc gia trên địa bàn thành phố, nhiều tuyến đường
lớn, quan trọng đã được xây dựng và hoàn thành. Tổ chức rà soát quy hoạch và
các dự án để xác định những dự án phù hợp với quy hoạch phát triển của Thủ đô
mở rộng.
Công ty quản lý nhà nước về tài nguyên,
đất đai, môi trường được tăng cường (Điều 12); công tác quản lý hạ tầng kỹ
thuật đô thị được chú trọng (Điều 14):
4. Về An ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc phòng
Thực hiện quy định tại khoản 3 Điều
24 Pháp lệnh, Thành phố đã thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ an ninh chính
trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội “bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự,
an toàn xã hội trên địa bàn gắn với việc thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội Thủ đô; đảm bảo tuyệt đối an toàn cho hoạt động của các cơ
quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan đại
diện ngoại giao và tổ chức quốc tế trên địa bàn Hà Nội.
5. Về quan
hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế
Thực hiện quy định tại điểm c khoản
1 Điều 22 Pháp lệnh, Thành phố đã tiếp tục tăng cường “mở rộng hoạt động đối
ngoại, xây dựng các chương trình, kế hoạch chủ động hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới”. Các hoạt động đối ngoại được triển khai theo hướng hiệu quả hơn.
Tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế
trọng điểm và cả nước. Đến nay, Hà Nội đã có quan hệ hữu nghị với trên 70 Thủ
đô và thành phố của 60 nước và vùng lãnh thổ.
Phần thứ
hai.
NHỮNG HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN,
VƯỚNG MẮC VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN PHÁP LỆNH THỦ ĐÔ
I. NHỮNG HẠN
CHẾ TRONG VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LỆNH ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THỦ ĐÔ
Trong quá trình xây dựng, phát triển
Thủ đô Hà Nội đã được nhiều thành tựu quan trọng đáng ghi nhận, tuy nhiên, so
với yêu cầu của Pháp lệnh và sự mong đợi của Trung ương, nhân dân cả nước thì
Hà Nội phát triển chưa tương xứng với vị thế, tiềm năng, thế mạnh vốn có của
Thủ đô; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của kinh tế hạn chế; tốc độ tăng
trưởng kinh tế tăng dần qua các năm nhưng chưa bảo đảm chất lượng, chưa phát
triển theo hướng bền vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu nội
ngành còn chậm; các ngành, lĩnh vực trình độ cao, chất lượng cao chưa thực sự
phát huy hiệu quả. Khả năng và mức độ CNH-HĐH trong nông nghiệp và nông thôn còn
thấp. Tốc độ hội nhập kinh tế quốc tế của Thủ đô chưa thật sự là động lực thúc
đẩy sự nghiệp xây dựng phát triển, thiếu tích cực và chủ động theo yêu cầu. So
với các thủ đô và thành phố lớn trong khu vực Đông Nam Á, quy mô, trình độ phát
triển và khả năng cạnh tranh của các ngành kinh tế của Hà Nội còn thấp. Mặc dù,
kinh tế phát triển nhanh, đời sống vật chất của người dân Hà Nội ngày càng được
nâng lên, tình hình an ninh chính trị luôn được đảm bảo, song Hà Nội đang có sự
tụt hậu lớn về chất lượng cuộc sống so với Thủ đô và các Thành phố lớn trong
khu vực.
Phát triển văn hóa - xã hội chưa
tương xứng với quá trình phát triển kinh tế, vị thế của Thủ đô nghìn năm văn hiến.
Còn nhiều vấn đề bất cập về quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
chưa được giải quyết hiệu quả, nhiều vấn đề an sinh xã hội chưa được giải quyết
tốt.
Công tác quy hoạch đô thị, xây dựng
cơ chế chính sách còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của Thành phố. Hệ
thống hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa đáp ứng yêu cầu. Quản lý đô thị còn nhiều
yếu kém, đặc biệt trong các lĩnh vực đất đai, trật tự xây dựng, giao thông đô
thị, dân cư, môi trường.
Tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội. Hệ
thống chính trị cơ sở ở một số xã, phường, đơn vị chưa thực sự phát huy được hiệu
lực, hiệu quả. Cải cách hành chính còn chậm, công tác phòng ngừa đấu tranh chống
tội phạm và tệ nạn xã hội ở một số lĩnh vực chưa thực sự quyết liệt.
Nhiều khó khăn thách thức đặt ra
khi mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội đòi hỏi phải được giải quyết: đảm
bảo sự thống nhất, đồng bộ hệ thống cơ chế, chính sách phát triển trên toàn Thành
phố; đầu tư phát triển khu vực nông thôn ngoại thành; nâng cao trình độ năng
lực quản lý nhà nước của chính quyền các cấp; công tác quy hoạch phát triển một
cách hiệu quả bền vững các lĩnh vực, các khu vực trên địa bàn Thành phố.
II. NHỮNG KHÓ
KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN PHÁP LỆNH
1. Về phát
triển kinh tế
Điều 7 Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội quy
định: “Chiến lược phát triển kinh tế Thủ đô được hoạch định dài hạn và cho
từng giai đoạn, bảo đảm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng
dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, đạt mức tăng trưởng kinh tế cao, bền vững;
phát huy thế mạnh của Thủ đô làm động lực cho vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
và cả nước”, tuy nhiên, Pháp lệnh chưa có quy định cụ thể về việc lập, thẩm
định và phê duyệt và quản lý chiến lược phát triển kinh tế của địa phương. Do
vậy, công tác quy hoạch, kế hoạch hóa để triển khai Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của Thủ đô gặp nhiều khó khăn.
Các ngành kinh tế của Thủ đô được
xác định phải phát triển phù hợp với các quy hoạch ngành của cả nước. Tuy nhiên,
nhiều quy hoạch ngành được xây dựng và phê duyệt chậm hoặc thậm chí không có
quy hoạch được phê duyệt, thẩm quyền phê duyệt các loại quy hoạch theo quy định
của các luật chuyên ngành lại không đồng nhất. Thực trạng này làm cho việc
triển khai lập, thẩm định các quy hoạch phát triển ngành của Thủ đô bị chậm
trễ, nhiều quy hoạch ngành quan trọng vẫn chưa được phê duyệt, làm ảnh hưởng
đến việc đầu tư và phát triển chung trên địa bàn Thủ đô.
Quy hoạch phát triển nông nghiệp,
thủy lợi, đê điều vẫn chưa được phê duyệt, vì vậy, việc đầu tư dài hạn cho sản
xuất nông nghiệp mang tính chiến lược là khó khăn, chắp vá, không hiệu quả.
Ngành dịch vụ, công nghiệp, nông
nghiệp và kinh tế ngoại thành của Thủ đô cần phải có cơ chế ưu đãi đặc biệt, tuy
nhiên, Hà Nội chưa được chấp thuận chính sách ưu đãi và cơ chế khuyến khích đầu
tư nào vượt khung chung của Nhà nước.
Điểm b, khoản 2, Điều 6, Nghị định
92/2005/NĐ-CP quy định HĐND, UBND thành phố có quyền: “Bố trí lại mạng lưới
công nghiệp của Thủ đô một cách hợp lý, khai thác quỹ đất có hiệu quả, phù hợp
với quy hoạch ngành”. Tuy nhiên, việc thực hiện trên thực tế có rất nhiều
vướng mắc. Cụ thể, theo quy định tại Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg ngày 19/01/2007
của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà
nước và Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg ngày 19/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ,
phương án giải quyết phần kinh phí thu được từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất của các doanh nghiệp, khu công nghiệp phải
di dời theo quy hoạch vẫn đang có sự khác biệt giữa các thành phần kinh tế làm
cho việc di dời này khó thực hiện trong thực tiễn.
Chính sách khuyến khích phát triển
nông nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn khi thực hiện do đất đai không ổn định,
hàng năm nhiều diện tích đất nông nghiệp giảm đi để phát triển công nghiệp,
dịch vụ. Việc tích tụ ruộng đất để tập trung sản xuất nông sản hàng hóa theo
hướng nông sản, thực phẩm sạch chưa thực hiện được nhiều, chưa tạo được vùng
sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Sản xuất nông nghiệp chưa được chuyên nghiệp
hóa, manh mún, giá trị sản phẩm trong nông nghiệp cũng thấp, lệ thuộc chủ yếu
vào mùa, vụ, thiên nhiên, hiệu quả thấp. Hệ thống quản lý chuyên ngành về nông
nghiệp ở các cấp chưa thống nhất, đặc biệt là ở cấp huyện và cấp xã, gây khó
khăn cho công tác chỉ đạo và quản lý ngành từ thành phố tới cơ sở.
2. Về quản
lý đầu tư, quản lý tài chính
a) Về tỷ lệ phân bổ ngân sách
Điều 17 Pháp lệnh Thủ đô quy định:
bố trí nâng dần tỷ lệ phân bổ ngân sách trong từng giai đoạn ổn định. Tuy
nhiên, điểm g, khoản 2, Điều 4 Luật Ngân sách quy định: “Trong thời kỳ ổn định
ngân sách, các địa phương được sử dụng nguồn tăng thu hàng năm mà ngân sách địa
phương được hưởng để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; sau mỗi thời kỳ
ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối, phát triển ngân sách địa
phương, thực hiện giảm dần số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc tỷ lệ phần trăm
(%) điều tiết số thu nộp về ngân sách cấp trên”.
Như vậy là có sự không thống nhất
giữa Luật Ngân sách Nhà nước với Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội, và về nguyên tắc là
phải áp dụng quy định của văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn; điều này đã gây
khó khăn cho đầu tư, xây dựng phát triển, đặc biệt là khi Thủ đô đã được mở rộng
địa giới hành chính.
b) Về mức huy động vốn của ngân
sách cấp tỉnh
Luật Ngân sách Nhà nước quy định
mức dư nợ từ huy động vốn không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước
hàng năm của ngân sách cấp tỉnh (riêng thành phố Hà Nội được quy định mức 100%).
Việc quy định như vậy đã hạn chế tốc độ và quy mô đầu tư các công trình dự án
của các thành phố lớn đặc biệt thành phố Hà Nội mở rộng địa giới hành chính,
nhu cầu đầu tư lớn, tập trung vốn cho nhiều công trình trọng điểm.
c) Về định mức ngân sách
Định mức phân bổ ngân sách Trung
ương ban hành chưa tính tới yếu tố đặc thù đô thị; hiện nay chi ngân sách cho Thành
phố hàng năm trong lĩnh vực duy trì vận hành giao thông (xe bus, xe điện ngầm
và trên cao), điện chiếu sáng, xây dựng khu hành chính mới, công tác vệ sinh
môi trường của Thành phố, nguồn ngân sách để đảm bảo những nhiệm vụ chi đặc thù
là rất lớn. Vì vậy, Hà Nội đề nghị xác lập tỷ lệ điều tiết tối thiểu là 50% cho
ngân sách Thành phố (bao gồm cả khoản thuế Thu nhập doanh nghiệp đơn vị hạch
toán toàn ngành).
d) Về lĩnh vực đầu tư
Điều 18 của Pháp lệnh Thủ đô quy
định: “Chính phủ ưu tiên bố trí nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
cùng với vốn đối ứng trong nước, vốn thực hiện các chương trình, dự án, nguồn vốn
tín dụng ưu đãi cho Thủ đô trên cơ sở các chương trình, dự án xây dựng hệ thống
kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, môi trường và phúc lợi công cộng.” Tuy
nhiên, quá trình triển khai thực hiện các dự án ODA và NGO đều phải tuân
thủ theo các quy định của Chính phủ. Tại khoản 2, Điều 4 của Nghị định 123/2004/NĐ-CP
quy định đối với dự án, công trình do Bộ, cơ quan Trung ương là chủ dự án, công
trình, việc bố trí vốn do ngân sách Trung ương bảo đảm, nhưng trong thực tế có
một số dự án như xây dựng Cầu Nhật Tân do Bộ Giao thông vận tải làm chủ đầu tư
thì ngân sách thành phố vẫn phải bố trí vốn cho công tác GPMB và tái định cư.
Công tác quản lý đầu tư (cả đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài) trên địa bàn Hà Nội đều dựa vào các quy định
của pháp luật về quản lý đầu tư áp dụng chung trên toàn quốc (Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở… và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn
thi hành). Một số cơ chế đặc thù (về trình tự, thủ tục thực hiện dự án, công
tác lựa chọn nhà thầu, huy động nguồn vốn…) đối với một số công trình trọng
điểm đã được triển khai đều phải có sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ (như
văn bản chấp thuận để Hà Nội triển khai một số dự án theo hình thức BT, chấp
thuận để Hà Nội được phép chỉ định thầu đối với một số gói thầu của một số công
trình thuộc danh mục công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long).
3. Về quản
lý và xây dựng, phát triển đô thị của Thủ đô
- Điều 11 Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội
quy định về trách nhiệm của UBND Thành phố trong việc lập quy hoạch chi tiết
các quận, huyện, các khu dân cư và các khu vực phát triển mới; chủ động phối
hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan trong
việc xây dựng quy hoạch chuyên ngành trên địa bàn, quản lý chặt chẽ việc thực
hiện quy hoạch đã được phê duyệt. Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, công
tác quy hoạch trên địa bàn Thành phố triển khai thiếu đồng bộ. Nguyên nhân của
hạn chế trên là do nhiều luật quy định giao cho các ngành, lĩnh vực lập quy hoạch
mang tính chất chuyên ngành (như quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô
thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, quy hoạch đất quốc phòng, an
ninh, quy hoạch 3 loại rừng, quy hoạch giao thông thủy lợi, điện, cấp thoát
nước, sử dụng chất thải rắn, mạng lưới thương mại, dịch vụ, KCN trường học, cây
xanh, vật liệu xây dựng, mạng lưới xăng dầu…). Việc lập nhiều loại quy hoạch
chuyên ngành ở các cấp độ khác nhau gây trùng lặp, chồng chéo, lãng phí và
không đồng nhất về nội dung và tính pháp lý. Quy hoạch chung về phát triển Thủ
đô đã được Chính phủ phê duyệt năm 1998, hiện nay, nhiều nội dung đã lạc hậu và
đang được điều chỉnh; nhiều quy hoạch ngành và lĩnh vực của cả nước chưa được
xây dựng, hoặc xây dựng thiếu đồng bộ. Do vậy, các quy hoạch của Hà Nội còn
thiếu những cơ sở pháp lý cần thiết.
- Điều 14 Pháp lệnh quy định: “Hệ
thống kết cấu hạ tầng đô thị của Thủ đô được nhà nước xếp vào loại đặc biệt quan
trọng và tập trung đầu tư xây dựng đi trước một bước so với yêu cầu xây dựng
phát triển Thủ đô”. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện xây dựng, phát
triển hạ tầng đô thị của Hà Nội còn gặp rất nhiều khó khăn, do nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân là do công tác quy hoạch chậm, khó khăn về quản lý đất
đai, quản lý xây dựng; công tác giải phóng mặt bằng…
+ Lĩnh vực giao thông vận tải,
thực tế, hiện nay Hà Nội đang đứng trước thực trạng mạng lưới giao thông đô
thị chưa đồng bộ, đất sử dụng vào mục đích giao thông chiếm tỷ lệ thấp gây tình
trạng ùn tắc giao thông. Bên cạnh đó, độ cao nền thoát nước mặt và hệ thống
thoát nước chưa đồng bộ gây tình trạng úng lụt cục bộ, mạng lưới cung cấp năng
lượng, thông tin liên lạc chằng chịt làm mất an toàn, mỹ quan đô thị; diện tích
trồng cây xanh chiếm tỷ lệ thấp; tại các tuyến hè phố chủ yếu sử dụng vào mục
đích đi lại, chưa có quy định về hành lang trồng cây xanh, loại cây xanh làm
mất cảnh quan đô thị; kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải của Thủ đô còn thiếu
về số lượng và phân bổ chưa hợp lý, mật độ đường giao thông có sự chênh lệch
khá lớn giữa nội thành và ngoại thành, giữa khu vực Hà Nội cũ và vùng Hà Nội mở
rộng. Hiện tại chưa hoàn chỉnh được tuyến đường vành đai theo quy hoạch, các
nút giao thông lập thể quá ít, hiện có 37 nút giao thông thường xuyên bị ùn tắc.
Về cơ bản, chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại, nhu cầu vận tải và phát triển kinh
tế - xã hội. Loại hình vận tải công cộng bằng xe buýt (hiện đáp ứng khoảng 14%
nhu cầu đi lại) có dấu hiệu bão hòa và kém hiệu quả do tình trạng ùn tắc giao
thông. Tình trạng vi phạm luật giao thông trở nên đáng báo động. Quy hoạch phát
triển giao thông vận tải chưa điều chỉnh phù hợp với điều kiện mở rộng địa giới
hành chính. Song Pháp lệnh Thủ đô và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy
định để giải quyết tình trạng này cũng như chưa có chế tài đủ mạnh để đảm bảo
răn đe, giáo dục nhằm giảm bớt tình trạng vi phạm Luật giao thông.
+ Lĩnh vực môi trường, Pháp
lệnh Thủ đô và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định: Các Bộ, ngành có trách nhiệm
xây dựng kế hoạch và thực hiện việc di chuyển các cơ sở sản xuất, khu công
nghiệp và bệnh viện gây ô nhiễm môi trường do Bộ, ngành quản lý ra khỏi khu vực
nội đô vào trước năm 2010. Hiện nay, trên địa bàn thành phố còn trên 400 cơ sở
sản xuất công nghiệp thuộc 17 nhóm ngành nghề gây ô nhiễm môi trường cần phải
di chuyển ra khỏi khu vực nội thành. Từ năm 2003 đến nay mới di dời được 20 cơ
sở do Luật Đất đai quy định có sự bất cập trong việc hỗ trợ tiền sử dụng đất
khi chuyển mục đích sử dụng đất khi di dời. Vì thế, quy định này không thực
hiện trên thực tế.
Công tác quản lý và bảo vệ môi trường
của Thủ đô chưa đáp ứng được theo đúng yêu cầu của Pháp lệnh và các văn bản
pháp luật có liên quan. Nguyên nhân chủ yếu là tốc độ đô thị hóa diễn ra quá
nhanh trong khi đó công tác quản lý về xây dựng và môi trường chưa theo kịp;
Pháp lệnh Thủ đô cũng chưa có các quy định chặt chẽ riêng biệt về tiêu chuẩn
môi trường, mức xử phạt về môi trường cho phù hợp với điều kiện thực tế của Thủ
đô để đảm bảo mục tiêu thành phố xanh, sạch, đẹp, bộ mặt đô thị của cả nước.
4. Về văn
hóa - xã hội
a) Xây dựng môi trường văn hóa
Tại khoản 1 Điều 10 Pháp lệnh Thủ
đô quy định: “Phát triển văn hóa - xã hội của Thủ đô nhằm tạo lập môi trường
văn hóa - xã hội văn minh, lành mạnh”. Thực tiễn trong những năm qua cho
thấy còn có nhiều tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết những vấn đề tệ nạn xã
hội như ma túy (trên địa bàn Hà Nội hiện nay có trên 24.000 người nghiện), mại
dâm, cờ bạc... Có nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân quan trọng là Hà Nội
chưa đủ thẩm quyền để ban hành cơ chế chính sách đặc thù và chế tài đủ mạnh để
quản lý.
b) Việc sử dụng, khai thác các
công trình văn hóa quốc gia
Pháp lệnh Thủ đô và các văn bản hướng
dẫn thi hành chưa quy định việc sử dụng, khai thác các công trình văn hóa quốc
gia có trên địa bàn phục vụ cho các hoạt động chính trị, xã hội của Thủ đô. Hà
Nội là trung tâm văn hóa đón tiếp nhiều các đoàn khách quốc tế đến Việt Nam làm
việc, du lịch… nhưng do chưa có văn bản nào quy định về việc phối hợp sử dụng,
khai thác công trình văn hóa quốc gia trên địa bàn thành phố, nên gây nhiều khó
khăn cho thành phố trong việc tổ chức kỷ niệm các sự kiện chính trị lớn, trọng
đại, các hoạt động giao lưu văn hóa giữa Thủ đô với các đoàn khách quốc tế.
c) Y tế, chăm sóc sức khỏe cộng
đồng
Điểm b khoản 2 Điều 10 Pháp lệnh
quy định: “Phát triển hệ thống y tế, khám chữa bệnh đủ khả năng đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao và đa dạng của nhân dân; đẩy mạnh công tác y học dự phòng chăm
sóc sức khỏe cộng đồng; cải tạo, nâng cấp các trung tâm y tế; xây dựng một số
bệnh viện đa khoa và chuyên khoa hiện đại, chất lượng cao”. Tuy nhiên, những
nội dung trên mới chỉ mang tính định hướng về chính sách phát triển y tế, còn
thiếu những chế định cụ thể nên hiệu quả thực hiện chưa cao. Một số nội dung
quan trọng chưa được quy định trong Pháp lệnh như: chủ trương tăng cường xã hội
hóa trong lĩnh vực y tế; kế hoạch giãn dần các cơ sở y tế của Trung ương đóng ở
nội đô hoặc xây dựng các cơ sở 2 xa trung tâm; cơ chế phối hợp giữa Bộ Y tế và
các bộ, ngành, địa phương có liên quan trong công tác quy hoạch và xây dựng các
bệnh viện lớn có chất lượng cao ở ngoại thành Hà Nội và các tỉnh lân cận, ở một
số vùng kinh tế trọng điểm nhằm giảm tình trạng quá tải cho các bệnh viện ở nội
thành; các biện pháp thắt chặt quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Chính vì vậy, Hà Nội vẫn tồn tại thực trạng quá tải trầm trọng bệnh nhân khám
chữa bệnh ở các bệnh viện của Trung ương. Cơ sở hạ tầng của một số đơn vị y tế
Thành phố xuống cấp nghiêm trọng; nhiều trang thiết bị y tế đang sử dụng đã lạc
hậu hoặc chỉ đáp ứng được ở mức tối thiểu nhu cầu điều trị thông thường của
nhân dân. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
d) Du lịch
Điểm a, khoản 2, Điều 7 Pháp lệnh
Thủ đô quy định: “Phát triển đa dạng và nâng cao trình độ, chất lượng các
ngành ... du lịch”. Tuy nhiên, trong lĩnh vực du lịch của Hà Nội còn tồn
tại nhiều vấn đề, các điểm du lịch, khu vui chơi giải trí còn nghèo nàn, thiếu
những khu vui chơi hiện đại mang tầm cỡ quốc tế; cơ sở hạ tầng du lịch Thủ đô
chưa đáp ứng nhu cầu của xã hội; các loại hình du lịch trình độ cao, chất lượng
cao chưa được phát triển đúng mức. Ngành du lịch chưa thực sự trở thành ngành
kinh tế quan trọng đóng góp cho nền kinh tế Thủ đô.
đ) Giáo dục - đào tạo
Khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Thủ đô quy
định: “phát triển đồng bộ hệ thống Giáo dục và Đào tạo ở Thủ đô với cơ sở
vật chất hiện đại để Thủ đô trở thành trung tâm đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài cho đất nước; phấn đấu trở thành trung tâm đào tạo có uy tín ở khu vực và
có dân trí cao”.
Qua 9 năm thực hiện, Pháp lệnh Thủ
đô đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Đến nay, Hà Nội chưa có cơ chế chính sách
đảm bảo cho các cơ sở giáo dục đào tạo theo mô hình cung ứng dịch vụ chất lượng
cao. Việc đa dạng hóa các loại hình đào tạo đã thực hiện nhưng chất lượng còn
thấp.
Việc chuyển các trường đại học, cao
đẳng ra ngoài khu vực nội đô chưa thực hiện được.
Việc liên kết, hợp tác với các tổ
chức, cá nhân ngoài nước để mở rộng các cơ sở và loại hình giáo dục, đào tạo theo
quy định của Nghị định 92/2005/NĐ-CP do Hội đồng nhân dân thành phố, Ủy ban
nhân dân thành phố quyết định. Song, theo Luật giáo dục năm 2005 thì lại do Chính
phủ quy định. Vì vậy, Hà Nội vẫn chưa thiết lập được một kênh riêng về hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Khoa học - công nghệ: Điều 9 Pháp
lệnh Thủ đô quy định “phát triển khoa học công nghệ thủ đô theo hướng ưu
tiên phát triển công nghệ cao”, “phát triển và mở rộng thị trường công nghệ”;
Tuy nhiên quá trình thực hiện quy định này gặp một số khó khăn như: chưa có cơ
chế chính sách đặc thù cho Thủ đô để xây dựng, khai thác hiệu quả các Khu công
nghệ cao; chưa có chính sách thiết thực, đủ mạnh để khai thác tiềm lực khoa học
công nghệ trên địa bàn; đầu tư cho khoa học công nghệ từ nguồn chi ngân sách
chưa đáp ứng; công tác xã hội hóa trong lĩnh vực khoa học công nghệ còn hạn chế.
Quản lý dân cư, lao động, việc
làm: Điều 16 của Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội quy định: “… dân cư trên địa bàn
Hà Nội được quản lý với quy mô, mật độ, cơ cấu hợp lý theo quy hoạch chung phù
hợp với đặc điểm của Thủ đô; HĐND - UBND thành phố được ban hành các quy định
về quản lý nhập cư; quy định các biện pháp hạn chế nhập cư tự phát”. Tuy
nhiên, theo Điều 20 Luật cư trú đã mở rộng quyền tự do cư trú của công dân,
mở rộng điều kiện đăng ký thường trú, do đó hiện nay người tỉnh ngoài về Hà Nội
làm ăn, sinh sống, lao động được đăng ký thường trú vào các loại nhà thuê, nhà
mượn, ở nhờ nếu được chủ hộ đồng ý bằng văn bản đang gây sức ép rất lớn về gia
tăng dân số cơ học vào Thủ đô Hà Nội.
Điểm c, Điều 16, Pháp lệnh Thủ
đô Hà Nội quy định: “Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành
các quy định về quản lý lao động”. Tuy nhiên theo quy định của Luật Lao
động thì việc quản lý lao động thực hiện theo Luật Lao động. Vì vậy mà rất nhiều
vấn đề phức tạp về lao động nhập cư, lao động giúp việc gia đình trên địa bàn
thành phố đã không được quản lý chặt chẽ, gây bức xúc trong xã hội. Hiện nay,
trên địa bàn Hà Nội nhiều vi phạm pháp luật lao động (hợp đồng lao động, không
đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, không thành lập tổ chức công đoàn,
không xây dựng và đăng ký nội quy lao động, thỏa ước lao động tập thể, không
xây dựng và đăng ký thang bảng lương, không áp dụng các biện pháp bảo đảm an
toàn lao động …) diễn ra ở nhiều doanh nghiệp, hiện tượng lừa đảo người lao động
trong giới thiệu việc làm còn diễn ra nhiều nơi nhưng không ngăn chặn được kịp
thời.
5. Về tổ
chức bộ máy và xây dựng chính quyền:
Trong pháp lệnh chưa có cơ chế, chính
sách đặc thù về tổ chức bộ máy. Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy của Hà Nội vẫn áp
dụng theo quy định chung của pháp luật hiện hành cho nên việc tổ chức vận hành
của bộ máy chính quyền đô thị trong phạm vi của một Thành phố có diện tích, quy
mô dân số, tốc độ đô thị hóa nhanh như Hà Nội còn gặp nhiều khó khăn.
Thực hiện khoản 2 Điều 16 Pháp
lệnh Thủ đô, Thành phố Hà Nội đã ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút
những nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi, người có trình độ cao, thủ khoa
xuất sắc tốt nghiệp các Trường Đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội v.v… đã
mâu thuẫn với quy định của Pháp lệnh cán bộ công chức năm 2003 và Luật cán bộ
công chức năm 2008 (việc tuyển dụng công chức phải thông qua hình thức thi tuyển).
Do vậy, chính sách khuyến khích nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi, người
có trình độ cao, thủ khoa xuất sắc tốt nghiệp các trường Đại học chưa có quy
định cụ thể.
III. NGUYÊN NHÂN
CỦA NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN PHÁP LỆNH
1.
Nguyên nhân khách quan
a. Chính sách chung của Nhà nước
xây dựng còn chậm, chưa đồng bộ, gây vướng mắc, hạn chế trong chỉ đạo, điều hành
và triển khai thực hiện.
b. Xét về thứ bậc, Pháp lệnh Thủ
đô Hà Nội là văn bản do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành nên phải tuân thủ và
bảo đảm tính thống nhất với các quy định của Hiến pháp và các luật hiện hành. Pháp
lệnh bị ràng buộc về thứ bậc hiệu lực pháp lý của các luật liên quan. Pháp lệnh
Thủ đô và các văn bản hướng dẫn thi hành có những cơ chế, chính sách đặc thù,
phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý nhà nước cho Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội, các Bộ, Ngành Trung ương, tuy nhiên trong quá
trình triển khai thực hiện lại mâu thuẫn với một số luật khác như Luật Đất đai,
Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Bảo vệ môi trường… nên các cơ chế,
chính sách đặc thù chưa được thống nhất triển khai thực hiện.
c. Pháp lệnh chỉ mới dừng lại ở việc
đặt ra các mục tiêu, phương hướng, chính sách xây dựng và phát triển Thủ đô mà
chưa tạo được căn cứ pháp lý cụ thể, chưa có tính khả thi trong quá trình thực
hiện. Đặc biệt khi Quốc hội thông qua Nghị quyết mở rộng địa giới hành chính
thành phố Hà Nội thì thực tiễn đó đòi hỏi một số mục tiêu, phương hướng cần
phải được xác định lại cho phù hợp với vị trí và vai trò mới của Thủ đô.
d. Pháp lệnh chưa tạo được sự chủ
động, phối hợp của các cơ quan quản lý của Trung ương với chính quyền các cấp
của Thành phố giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh trong sự nghiệp
xây dựng, phát triển Thủ đô.
đ. Tốc độ đô thị hóa của Hà Nội diễn
ra quá nhanh, mạnh, cơ sở hạ tầng của Thủ đô không theo kịp sự phát triển, dẫn
tới nhiều chính sách và định hướng lớn trong Pháp lệnh Thủ đô không thực hiện
được.
e. Hà Nội sau khi mở rộng địa giới
hành chính có sự khác biệt về điều kiện, tốc độ phát triển giữa các địa bàn.
2. Nguyên
nhân chủ quan
a. Sự chủ động, phối hợp giữa các
cơ quan Trung ương đối với chính quyền thành phố thực hiện nhiệm vụ quy định
trong Pháp lệnh Thủ đô còn kém hiệu quả.
b. Đối với Chính quyền thành phố:
Sự phối hợp công tác giữa các cấp,
các ngành trong một số lĩnh vực còn hạn chế; phân công, phân cấp nhiệm vụ, quyền
hạn chưa rõ ràng, cụ thể; công tác chỉ đạo, điều hành ở một số cấp, ngành, đơn
vị còn chưa sâu sát, quyết liệt.
Một số bộ phận cán bộ, công chức
chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện Pháp lệnh Thủ đô;
phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm của một số cán bộ,
công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Tính chuyên nghiệp của bộ máy chính
quyền thành phố còn thấp, hiệu lực của bộ máy chính quyền trong việc giải quyết
các yêu cầu của tổ chức, công dân còn hạn chế.
Phần thứ
ba.
ĐỀ XUẤT HƯỚNG XÂY DỰNG LUẬT
THỦ ĐÔ
I. QUAN ĐIỂM,
NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG LUẬT THỦ ĐÔ
A. Quan
điểm chỉ đạo xây dựng Luật Thủ đô
1. Tiếp tục thể chế hóa quan điểm,
chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển Thủ đô trong tình
hình mới và trên cơ sở Nghị quyết 15/NQ/TW ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị;
Nghị quyết 15/NQ-QH12 ngày 29/5/2008 của Quốc hội về mở rộng địa giới hành chính
thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan.
2. Luật Thủ đô được xây dựng bảo
đảm phù hợp với Hiến pháp và phải cùng với hệ thống các văn bản pháp luật khác phát
huy mọi thế mạnh, tiềm năng sẵn có của cả nước nói chung, của Thủ đô nói riêng
vào sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô.
3. Luật Thủ đô khi được ban hành
phải đảm bảo tính khả thi, có nghĩa là những điều quy định trong Luật Thủ đô không
chỉ đơn thuần là chính sách mà cần kèm theo cơ chế pháp lý đảm bảo thi hành,
đặc biệt là cơ chế ưu tiên về nguồn lực và phân cấp hợp lý; Luật Thủ đô phải
tạo được động lực mang tính đột phá, giải quyết được những vấn đề bức xúc trong
quản lý, điều hành góp phần xây dựng, phát triển Thủ đô như mong muốn.
B. Nguyên
tắc xây dựng Luật Thủ đô
1. Luật Thủ đô quy định rõ các nội
dung sau đây: vị trí, chức năng; mục tiêu xây dựng phát triển Thủ đô; nhiệm vụ
xây dựng, phát triển, bảo vệ Thủ đô; trách nhiệm của các cơ quan Trung
ương, Hà Nội và các địa phương, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân và nhân
dân cả nước trong sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô. Đặc biệt tập trung
vào những cơ chế, chính sách đặc thù nhằm xây dựng và phát triển Thủ đô, để Hà
Nội có thể sử dụng và phát huy tối đa lợi thế của mình với tư cách là Thủ đô
của cả nước.
2. Cùng với cơ chế, chính sách ưu
tiên cho Thủ đô cần đưa ra những yêu cầu cao hơn, khắt khe hơn đối với Thủ đô
so với mặt bằng chung của cả nước, nhất là trong các lĩnh vực văn hóa - xã hội,
khoa học kỹ thuật, bảo vệ môi trường. Đồng thời với việc phân cấp quản lý, tạo
hành lang “thoáng” hơn cho Thủ đô, cần quy định “chặt” hơn trong một số lĩnh
vực nhằm đảm bảo có sự quyết định và tham gia của chính quyền Trung ương vào
việc xây dựng Thủ đô với tư cách là bộ mặt của đất nước, là nơi đóng trụ sở của
các cơ quan đầu não của Đảng và Nhà nước, đại diện của các nước, tổ chức quốc
tế.
3. Kế thừa các quy định còn phù hợp
của Pháp lệnh Thủ đô;
4. Nghiên cứu, học tập và tiếp thu
có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong khu vực và quốc tế về bảo tồn, đầu
tư, xây dựng và phát triển, bảo vệ Thủ đô, đáp ứng yêu cầu hội nhập của Việt
Nam nói chung, của Thủ đô Hà Nội nói riêng; đặc biệt là học tập kinh nghiệm của
một số nước có điều kiện tương tự như Việt Nam.
II. NHỮNG CƠ
CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐẶC THÙ CẦN LUẬT HÓA TRONG DỰ ÁN LUẬT THỦ ĐÔ
A. Về lĩnh
vực kinh tế
1. Cần luật
hóa mục tiêu, quan điểm, chiến lược tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Luật hóa các chính sách ưu tiên phát
triển các ngành và lĩnh vực: Ưu tiên phát triển các lĩnh vực dịch vụ phục vụ
phát triển kinh tế tri thức, dịch vụ tạo cơ sở hạ tầng phát triển các ngành kinh
tế khác. Xây dựng Thủ đô Hà Nội thành trung tâm tài chính - ngân hàng hàng đầu,
trung tâm thương mại - du lịch quan trọng của cả nước, có uy tín trong khu vực.
Tập trung phát triển nhanh các ngành, sản phẩm công nghiệp có tính chất dẫn
đường như: công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ chế tạo khuôn
mẫu; các ngành và sản phẩm đòi hỏi công nghệ cao; công nghiệp điện tử, cơ khí
chính xác, dụng cụ y tế, công nghiệp dược, hóa mỹ phẩm. Phát triển các Khu công
nghiệp, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề truyền thống, phù hợp với quy
hoạch phát triển thành phố và toàn vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Khuyến khích
phát triển các công nghiệp phụ trợ cho các ngành công nghiệp chủ lực. Ưu tiên
phát triển nông nghiệp sạch, các nghề, làng nghề tiểu thủ công nghiệp, du lịch
sinh thái. Quy hoạch ổn định vùng sản xuất nông nghiệp, xác định vành đai xanh
và các tuyến kinh tế nông nghiệp sinh thái, các vùng sản xuất hàng hóa tập
trung và các khu nông nghiệp công nghệ cao. Gắn phát triển nông nghiệp đô thị
sinh thái với việc xây dựng nông thôn mới trên cơ sở phát triển nông nghiệp
công nghệ cao, phát triển kinh tế trang trại hộ gia đình, ngành nghề nông.
2. Phân cấp
quản lý kinh tế và mở rộng thẩm quyền cho chính quyền thành phố Hà Nội
Giao cho Thành phố trực tiếp quản
lý các công trình hạ tầng giao thông nằm trên địa bàn Thành phố, kèm theo các
khoản kinh phí duy tu, bảo dưỡng, xây dựng phát triển trên địa bàn Thủ đô; các
công trình văn hóa, thể thao, du lịch… hiện có trên địa bàn. Đồng thời, tập trung
các nguồn kinh phí liên quan đến duy trì hoạt động và hỗ trợ nâng cấp bảo dưỡng
các công trình này cho thành phố sử dụng (thông qua Bộ Tài chính). Không phân
tán các cơ sở và các nguồn kinh phí này cho cán bộ, ban, ngành khác nhau quản
lý như hiện nay, gây phức tạp, lãng phí, kém hiệu quả.
Cho phép Thủ đô thực hiện thí điểm
áp dụng các chế tài về tài chính đủ mạnh (hình phạt nặng bằng tiền), tránh tình
trạng bán phá giá, bán hàng kém chất lượng ra thị trường, chống gian lận thương
mại và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu hàng hóa, … Đồng thời, áp dụng cả
biện pháp kinh tế lẫn biện pháp hành chính để ngăn chặn hành vi buôn lậu, hàng
giả, kinh doanh trá hình…
3. Về một
số cơ chế tài chính đặc thù đối với Thủ đô
Ưu tiên bố trí nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) cùng với vốn đối ứng trong nước, vốn thực hiện các Chương
trình, dự án, nguồn tín dụng ưu đãi cho Thủ đô trên cơ sở các chương trình, dự
án xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, môi trường và phúc lợi
công cộng.
Chính quyền Thành phố quyết định
việc áp dụng một số biện pháp tài chính cụ thể như: mức thu phí trong khu vực nội
đô cao hơn so với mức thu theo quy định hiện hành trong các lĩnh vực xây dựng,
môi trường, giao thông; Phụ thu đối với hoạt động cung cấp dịch vụ đô thị cao
cấp và chất lượng cao…
Áp dụng tỷ lệ phân chia các khoản
thu theo mức điều tiết tối thiểu 50% cho ngân sách Thủ đô, 50% cho ngân sách
Trung ương (hiện tại tỷ lệ tương ứng là 45% và 55%). Thủ đô được sử dụng toàn
bộ khoản thu ngân sách vượt kế hoạch hàng năm theo quy định của pháp luật để
đầu tư xây dựng, phát triển (Phụ lục số 6).
B. Về văn
hóa - xã hội
Luật hóa một số quy định đặc thù
của thủ đô theo hướng chặt chẽ hơn, yêu cầu cao hơn so với các văn bản pháp lý quy
định hiện hành áp dụng cho các tỉnh thành trong cả nước.
1. Về
Văn hóa
Quy định trách nhiệm cụ thể của Bộ
VH-TT&DL, các bộ ngành và Chính quyền Thủ đô trong việc phát triển văn hóa
của Thủ đô nhằm tạo lập môi trường văn hóa văn minh, lành mạnh, đậm đà bản sắc
văn hóa dân tộc và truyền thống ngàn năm văn hiến; Xây dựng tiêu chí người Hà
Nội văn minh, thanh lịch, hiện đại; Hoàn thiện thiết chế văn hóa; bảo tồn, tôn
tạo các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, khu phố cổ; xây dựng quy
chế sử dụng các công trình văn hóa quốc gia trên địa bàn.
2. Về Giáo
dục và Đào tạo
Quy định trách nhiệm cụ thể của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, các bộ ngành và Chính quyền Thủ đô trong việc xây dựng Thủ
đô trở thành trung tâm giáo dục và đào tạo dẫn đầu của cả nước về đào tạo nhân
tài và nguồn nhân lực chất lượng cao; trung tâm giáo dục và đào tạo có uy tín ở
khu vực và thế giới.
3. Về Khoa
học công nghệ.
Ban hành các cơ chế, chính sách hợp
lý, phù hợp với đặc thù Thủ đô, sử dụng hiệu quả tiềm năng khoa học công nghệ
trên địa bàn, thiết lập các cơ sở hàng đầu của đất nước về nghiên cứu, ứng dụng
khoa học công nghệ để phát triển Thủ đô thành trung tâm khoa học công nghệ hàng
đầu của cả nước.
4. Về lao
động việc làm và quản lý dân cư
Quản lý dân cư trên địa bàn Thủ đô
với quy mô, mật độ cơ cấu hợp lý theo quy hoạch chung, phù hợp với đặc thù của
Thủ đô; Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; ưu tiên các nghề có trình độ và chất lượng cao phù hợp với định hướng
phát triển các ngành chủ lực, các sản phẩm mũi nhọn của Thủ đô.
Đây là vấn đề nhạy cảm nên dự thảo
Luật Thủ đô giao cho Chính phủ quy định điều kiện nhập cư vào khu vực nội đô;
các biện pháp hạn chế việc xây dựng khu nhà ở cao tầng trong một số quận thuộc
khu vực nội đô; hỗ trợ vốn, đất đai, công nghệ, trợ giá và thực hiện các biện
pháp khác để khuyến khích dân cư sinh sống, làm việc ở khu vực ngoại đô.
C. Về quy
hoạch, xây dựng và quản lý đô thị
Quy định về cơ chế và trách nhiệm
phối hợp trong việc lập và thực hiện quy hoạch ngành giữa các Bộ, ngành Trung
ương với Thành phố nhằm đảm bảo thống nhất, đồng bộ trong việc lập và thực hiện
quy hoạch đô thị trên địa bàn Thành phố; Đồng thời tăng thẩm quyền cho chính
quyền Thủ đô (sau khi có ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ) như: Điều
chỉnh cục bộ một số nội dung trong quy hoạch chung đã được phê duyệt; Ban hành,
áp dụng một số tiêu chuẩn, quy chuẩn về xây dựng và quy hoạch đô thị phù hợp
điều kiện thực tế của Thủ đô; Chỉ định thầu đối với việc lập các đồ án quy
hoạch đòi hỏi tiến độ nhanh phục vụ các sự kiện chính trị - xã hội đặc biệt.
Phân cấp cho chính quyền Thành phố
quản lý nguồn vốn của Trung ương cấp cho việc đầu tư nâng cấp các tuyến đường
quốc gia đi qua địa bàn Thành phố. Chính quyền Thành phố có thẩm quyền quy định
các giải pháp đảm bảo an toàn giao thông, chống ùn tắc trên địa bàn Thành phố
như: nâng mức xử phạt vi phạm hành chính, quy định về điều kiện lưu hành phương
tiện giao thông; hạn chế việc sử dụng các phương tiện giao thông cá nhân, ưu
tiên phát triển hệ thống giao thông vận tải hành khách công cộng.
Cho phép Chính quyền Thành phố ban
hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật xây dựng, kiến trúc phù hợp với vị trí của
Thủ đô; quy định quản lý thực hiện quy hoạch, kiến trúc cảnh quan đô thị và
trật tự xây dựng trên địa bàn; quyết định cơ chế chính sách ưu đãi tạo điều
kiện thuận lợi khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu công nghiệp,
bệnh viện gây ô nhiễm trong nội đô di dời ra khu vực ngoại thành.
D. Về tổ
chức bộ máy, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội
Mặc dù trong Pháp lệnh Thủ đô chưa
có nội dung quy định riêng về tổ chức bộ máy của chính quyền Hà Nội; xuất phát
từ thực tiễn của hệ thống pháp luật hiện hành và yêu cầu quản lý kinh tế - xã
hội của Thủ đô, Dự thảo Luật Thủ đô cần xây dựng những quy định về tổ chức bộ
máy chính quyền thành phố nhằm đáp ứng yêu cầu; tinh gọn, năng động, hiệu quả
và phù hợp đặc thù, tính chất quản lý nhà nước ở đô thị; chủ động, phát huy hết
tiềm năng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Về lĩnh vực an ninh, quốc
phòng: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các bộ, ngành liên quan phối hợp chính
quyền Thành phố xây dựng cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo
tuyệt đối an toàn cho các Cơ quan Trung ương và hoạt động của các cơ quan, tổ
chức đóng trên địa bàn thành phố; xây dựng cơ chế chính sách đảm bảo gắn thực
hiện nhiệm vụ an ninh - quốc phòng với phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
Về tổ chức, bộ máy
Cho phép Chính quyền Thành phố quyết
định thành lập thêm; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
một số cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố phù hợp với yêu cầu
quản lý nhà nước ở Thủ đô; quyết định chính sách thu hút nhân tài, chế độ đãi
ngộ tương xứng đối với người có công đóng góp vào sự nghiệp xây dựng, phát triển
Thủ đô; quy định tiêu chuẩn công chức, viên chức Thủ đô; tuyển dụng, sử dụng
công chức, viên chức vào làm việc tại các cơ quan của Thành phố đáp ứng yêu cầu
xây dựng và phát triển Thủ đô.
Sau 9 năm thi hành Pháp lệnh Thủ
đô, Hà Nội đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế
- xã hội, vị thế của Thủ đô trong và ngoài nước tiếp tục được nâng cao. Tuy
nhiên, thực tiễn đó cho thấy những hạn chế, bất cập, vướng mắc, khả năng thực
thi của Pháp lệnh chưa cao, tầm pháp lý của Pháp lệnh chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển Thủ đô. Việc xây dựng và ban hành Luật Thủ đô để tạo điều kiện cho
Hà Nội đủ cơ sở pháp lý để quy hoạch, đầu tư, xây dựng, quản lý và phát triển
Thủ đô Hà Nội; đồng thời sẽ tranh thủ sự quan tâm, chỉ đạo giúp đỡ sát sao hơn
của Trung ương, phối hợp của các địa phương, sự hợp tác của cộng đồng quốc tế,
tạo điều kiện cho Thủ đô tiếp tục phát triển nhanh, bền vững, xứng đáng là “trái
tim của cả nước”, “đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm
lớn về văn hóa khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước”.
Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ;
- Bộ Tư pháp;
- TTTU; TTHĐND TP;
- Đoàn ĐBQH TPHN;
- Đ/c Chủ tịch UBND TP;
- Các đ/c Thành viên BST Luật Thủ đô;
- Các PCT UBND TP;
- Các sở, ban, ngành TP;
- UBND các quận, huyện, thị xã;
- VPUBTP: C-PVP, các phòng CV;
- Lưu.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Vũ Hồng Khanh
|
PHỤ LỤC SỐ 01
TỐC ĐỘ TĂNG GDP BÌNH QUÂN CỦA THỦ ĐÔ HÀNG NĂM QUA CÁC
GIAI ĐOẠN
(Ban hành kèm theo Báo cáo số: 35/BC-UBND ngày 15 tháng 3 năm 2010 của UBND
thành phố Hà Nội)
Đơn
vị: %
Giai
đoạn
Tốc độ
|
2000-2005
|
2006-cuối
năm 2008
|
2009
|
Tốc độ tăng GDP bình quân năm
|
11
|
12,1
|
6,7
|
Tốc độ tăng GTTT dịch vụ
|
10,7
|
10,5
|
7,4
|
Tốc độ tăng GTTT công nghiệp, xây
dựng
|
13,4
|
16,1
|
6,9
|
Tốc độ tăng GTTT nông, lâm nghiệp
|
4,1
|
2,3
|
0,1
|
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội
năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009
Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2009 và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2010 của UBND thành phố ngày 19/11/2009.
PHỤ LỤC SỐ 02
MỘT SỐ CHỈ TIÊU CỦA HÀ NỘI VÀ THỦ ĐÔ CÁC NƯỚC
(Ban hành kèm theo Báo cáo số: 35/BC-UBND ngày 15 tháng 3 năm 2010 của UBND
thành phố Hà Nội)
STT
|
Chỉ
tiêu
|
Diện
tích (km2)
|
Dân
số (triệu người)
|
Mật
độ dân số (người/km2)
|
Tỷ
lệ thất nghiệp
|
1
|
Hà Nội
|
3.348
|
6,35
|
1.897
|
5,4
|
2
|
Băngkok
|
1.568,7
|
5,6
|
3.592
|
2,1
|
3
|
Delhi
|
1.483
|
13,8
|
9.294
|
4,2
|
4
|
Jakarta
|
2.682,3
|
8,7
|
3.253
|
14,7
|
5
|
Kuala Lumpur
|
243
|
1,4
|
5.859
|
5,1
|
6
|
Manila
|
636
|
10,5
|
16,497
|
20,3
|
7
|
Seoul
|
605,5
|
10,3
|
17.009
|
4,8
|
8
|
Singapore
|
699
|
4,2
|
6.066
|
4,3
|
9
|
Taipei
|
271,8
|
2,6
|
9.626
|
3,9
|
10
|
Tokio
|
2.187,1
|
12,5
|
5.699
|
5,4
|
Nguồn
Dự án HAIDEP
PHỤ LỤC SỐ 03
BIỂU THU CHI NGÂN SÁCH THỦ ĐÔ GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
(Ban hành kèm theo Báo cáo số: 35/BC-UBND ngày 15 tháng 3 năm 2010 của UBND
thành phố Hà Nội)
Đơn
vị: Tỷ đồng
TT
|
Chỉ
tiêu
|
|
So
sánh
|
|
|
Năm
2006
|
Năm
2007
|
Năm
2008
|
Năm
2009
|
Năm
2010
|
2007/
2006
|
2008/
2007
|
2009/
2008
|
2010/
2009
|
I
|
Thu NSNN trên địa bàn
|
31.892
|
46.976
|
72.405
|
70.542
|
88.747
|
147%
|
154%
|
97%
|
126%
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1
|
Thuế XNK và TTĐB hàng nhập khẩu
|
4.042
|
5.842
|
8.020
|
7.137
|
7.620
|
145%
|
137%
|
89%
|
107%
|
2
|
Thu nội địa
|
27.850
|
41.134
|
64.385
|
63.405
|
81.127
|
148%
|
157%
|
98%
|
128%
|
II
|
Tỷ lệ điều tiết
|
32%
|
31%
|
40%
|
45%
|
45%
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
III
|
Chi ngân sách địa phương
|
12.399
|
13.727
|
33.004
|
24.493
|
34.825
|
111%
|
240%
|
74%
|
142%
|
|
Trong đó
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1
|
Chi đầu tư phát triển
|
7.855
|
4.869
|
10.150
|
11.410
|
14.076
|
62%
|
208%
|
112%
|
123%
|
2
|
Chi thường xuyên
|
3.070
|
5.092
|
9.956
|
10.439
|
14.759
|
166%
|
196%
|
105%
|
141%
|
Ghi chú:
Năm 2008: Số liệu quyết toán của
Hà Nội mở rộng.
Năm 2008 - 2009: Số liệu dự
toán
Năm 2006 - 2007: Số liệu Hà Nội
cũ.
PHỤ LỤC SỐ 04
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ GDP CỦA THỦ ĐÔ
(Ban hành kèm theo Báo cáo số: 35/BC-UBND ngày 15 tháng 3 năm 2010 của UBND
thành phố Hà Nội)
Đơn
vị: %
Năm
Cơ cấu kinh tế
|
2000
|
2008
|
2009
|
Tổng số
|
100
|
100
|
100
|
Dịch vụ
|
58
|
52,17
|
52,3
|
Công nghiệp, xây dựng
|
38,5
|
41,28
|
41,4
|
Nông, lâm nghiệp
|
3,5
|
6,55
|
6,3
|
Nguồn:
Niên giám thống kê Hà Nội 2000, 2008, 2009
Báo cáo: Tình hình thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2009 và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2010 của UBND thành phố, ngày 19/11/2009
Báo cáo: Định hướng nhiệm vụ và
các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố từ nay đến hết nhiệm kỳ,
ngày 06/11/2008 của Thành ủy Hà Nội
PHỤ LỤC SỐ 05
SO SÁNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU CỦA HÀ NỘI VỚI CẢ NƯỚC VÀ THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2008
(Ban hành kèm theo Báo cáo số: 35/BC-UBND ngày 15 tháng 3 năm 2010 của UBND
thành phố Hà Nội)
Chỉ
tiêu
|
Đơn
vị
|
Hà
Nội
|
cả
nước
|
Hà
Nội so với cả nước (%)
|
TP.
Hồ Chí Minh
|
Hà
Nội so với TP. Hồ Chí Minh (%)
|
Dân số
|
Nghìn
người
|
6.350
|
86.211
|
7,4
|
6.810
|
93,2
|
Diện tích
|
km2
|
3.348
|
331.150
|
1,0
|
2.095
|
159,8
|
GDP (Giá thực tế)
|
tỷ
đồng
|
178.535
|
1.477.717
|
12,1
|
290.390
|
61,5
|
GDP/người (giá TT)
|
triệu
đồng
|
28,1
|
17,1
|
164,0
|
42,6
|
65,9
|
GTSX công nghiệp (giá 1994)
|
tỷ
đồng
|
81.748
|
647.232
|
12,6
|
169.233
|
48,3
|
Xuất khẩu
|
triệu
USD
|
6.936
|
62.658
|
11,1
|
22.291
|
31,1
|
Thu ngân sách
|
tỷ
đồng
|
67.430
|
399.000
|
16,9
|
120.531
|
55,9
|
Vốn đầu tư
|
tỷ
đồng
|
99.013
|
610.870
|
16,2
|
120.847
|
81,9
|
Nguồn:
niên giám thống kê cả nước, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2008
PHỤ LỤC SỐ 06
TỔNG HỢP SỐ LIỆU THỐNG KÊ GIÁO DỤC HÀ NỘI ĐẦU NĂM HỌC
2009 - 2010
(Ban hành kèm theo báo cáo số: 35/BC-UBND ngày 15 tháng 3 năm 2010 của UBND
thành phố Hà Nội)
Cấp
học
|
Loại
hình
|
Số
trường
|
Số
trường chuẩn QG
|
Số
nhóm lớp
|
số
học sinh
|
Tuyển
mới đầu cấp
|
Số
giáo viên
|
Ghi
chú
|
Mầm
non
|
Công
lập
|
659
|
65
|
8,696
|
273,737
|
83,679
|
14,964
|
|
Hiệp
quản
|
7
|
|
41
|
1,097
|
55
|
81
|
|
Dân
lập
|
17
|
|
187
|
5,924
|
865
|
359
|
|
Tư
thục
|
121
|
2
|
1,710
|
28,729
|
13,751
|
3,370
|
|
Cộng
|
804
|
67
|
10,634
|
309,487
|
98,350
|
18,774
|
|
Tiểu
học
|
Công
lập
|
655
|
265
|
13,112
|
433,187
|
107,890
|
19,144
|
|
Bán
công
|
|
|
|
|
|
|
|
Dân
lập
|
17
|
2
|
342
|
9,103
|
2,675
|
591
|
Có
học sinh 7 trường PTCS
|
Tư
thục
|
5
|
|
44
|
801
|
350
|
63
|
|
Cộng
|
677
|
267
|
13,498
|
443,091
|
110,915
|
19,798
|
|
THCS
|
Công
lập
|
582
|
129
|
8,866
|
325,369
|
75,356
|
19,531
|
|
Bán
công
|
|
|
39
|
1,720
|
431
|
82
|
|
Dân
lập
|
5
|
1
|
260
|
7,441
|
2,275
|
819
|
Có
học sinh 25 trường PTTH
|
Tư
thục
|
1
|
|
17
|
353
|
83
|
34
|
|
Cộng
|
588
|
130
|
9,182
|
334,883
|
78,145
|
20,466
|
|
THPT
|
Công
lập
|
105
|
13
|
3,788
|
169,722
|
60,449
|
8,120
|
Trong
đó có 25 trường PTTH, 04 trường chuyên, 01 trường phổ thông DTNT
|
Bán
công
|
5
|
1
|
99
|
4,159
|
1,368
|
352
|
Dân
lập
|
54
|
2
|
801
|
31,653
|
8,857
|
2,530
|
Tư
thục
|
22
|
|
251
|
10,842
|
2,680
|
913
|
Cộng
|
186
|
16
|
4,939
|
216,376
|
73,354
|
11,915
|
Trung
tâm KTTH
|
|
15
|
|
2,983
|
93,944
|
93,944
|
158
|
Có
hs HN của 6 TTGDTX
|
GDTX
|
Xóa
mù tiểu học
|
|
|
27
|
340
|
148
|
|
Có
31 GDTX và 02 BTVH, 01 Trung tâm NG&TH, 05 Trường BTVH hiệp quản
|
Bổ
túc THCS
|
|
|
72
|
1,477
|
108
|
|
Bổ
túc THPT
|
|
|
374
|
15,947
|
4,040
|
|
Hệ
THPT
|
|
|
109
|
4,436
|
2,666
|
|
Cộng
|
39
|
|
582
|
22,200
|
6,962
|
877
|
Có
306 trung tâm HTCĐ
|
TCCN
|
Công
lập
|
6
|
|
|
10,534
|
5,446
|
858
|
|
Ngoài
công lập
|
30
|
|
|
20,599
|
9,205
|
1,600
|
|
Cộng
|
36
|
|
|
31,133
|
14,651
|
2,458
|
|
Cao
đẳng sư phạm
|
Hệ
cao đẳng
|
|
|
|
2,177
|
830
|
|
|
Liên
thông
|
|
|
|
400
|
400
|
|
|
TCCN
|
|
|
|
3,415
|
1,830
|
|
|
Cộng
|
1
|
|
|
5,992
|
3,060
|
172
|
|
Giáo
dục có yếu tố nước ngoài
|
|
104
|
Có
20 cơ sở có vốn nước ngoài (10 trường Quốc tế, 9 TT NG, 01 TT BD văn hóa); Có
20 trường học có YTNN; Có 64 trung tâm NG có YTNN.
|
Tổng
cộng
|
Công
lập
|
2,056
|
472
|
35,044
|
1,240,741
|
342,842
|
63,666
|
|
Ngoài
công lập
|
380
|
8
|
3,824
|
123,442
|
42,866
|
10,800
|
|
Cộng
|
2,436
|
480
|
38,868
|
1,364,183
|
385,708
|
74,466
|
|
PHỤ LỤC SỐ 07
TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ BIÊN CHẾ CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC CỦA THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
(Tính đến tháng 10/2009)
(Ban hành kèm theo Báo cáo số: 35/BC-UBND ngày 15 tháng 3 năm 2010 của UBND
thành phố Hà Nội)
STT
|
Nội
dung
|
Số
lượng
|
Ghi
chú
|
A
|
TỔ
CHỨC
|
|
|
I
|
Cơ quan
hành chính
|
659
|
Đơn
vị
|
1
|
Sở, ngành
và tương đương
|
53
|
|
2
|
Cấp huyện
|
29
|
|
3
|
Cấp xã
|
577
|
|
II
|
Đơn vị sự
nghiệp
|
2643
|
|
1
|
Giáo dục đào
tạo và dạy nghề
|
2035
|
|
2
|
Y tế
|
146
|
|
3
|
VH-TT, phát
thanh truyền hình
|
81
|
|
4
|
Thể dục thể
thao
|
34
|
|
5
|
Sự nghiệp
khác
|
320
|
|
6
|
Sự nghiệp nghiên
cứu khoa học
|
9
|
|
B
|
BIÊN
CHẾ
|
|
|
I
|
Công chức
hành chính
|
21356
|
Người
|
1
|
Cấp thành phố
|
4962
|
|
2
|
Cấp huyện
|
4980
|
|
3
|
Cấp xã
|
11414
|
|
II
|
Viên chức
|
100309
|
|
1
|
Giáo dục đào
tạo và dạy nghề
|
71672
|
|
2
|
Y tế
|
17445
|
|
3
|
VH-TT, phát
thanh truyền hình
|
2124
|
|
4
|
Thể dục, thể
thao
|
600
|
|
5
|
Sự nghiệp
khác
|
8119
|
|
6
|
Sự nghiệp nghiên
cứu khoa học
|
349
|
|
(Nguồn:
Báo cáo tổ chức biên chế của thành phố sau 01 năm hợp nhất theo Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12
ngày 29/05/2008 của Quốc hội)
PHỤ LỤC SỐ 08
DỰ TOÁN THU - CHI NGÂN SÁCH THEO PHƯƠNG ÁN ĐỀ XUẤT TĂNG
ĐIỀU TIẾT LÊN 50% CHO THỦ ĐÔ BAO GỒM CẢ THUẾ TNDN
(Ban hành kèm theo Báo cáo số: 35/BC-UBND ngày 15 tháng 3 năm 2010 của UBND
thành phố Hà Nội)
|
Dự
toán HĐND quyết định
|
Đề
xuất tăng điều tiết lên 50% cho TP bao gồm cả thuế TNDN
|
Chênh
lệch
|
2009
|
2010
|
2009
|
2010
|
2009
|
2010
|
|
|
|
|
|
|
|
1-Tổng thu NSNN
|
70,542
|
88,747
|
70,542
|
88,747
|
|
|
Trong đó: Thuế TNDN đơn vị hạch
toán toàn ngành
|
15,118
|
17,800
|
15,118
|
17,800
|
|
|
2-Thu NSDP
|
22,921
|
32,314
|
31,618
|
43,244
|
|
|
- Các khoản thu NSĐP được hưởng
10
|
9,665
|
14,031
|
9,665
|
14,031
|
|
|
- Các khoản thu NSĐP được hưởng
theo tỷ lệ % (45%)
|
12,955
|
18,282
|
21,953
|
29,213
|
8,998
|
10,931
|
+ 50% Thuế TNDN
|
|
|
|
|
7559
|
8900
|
+ 5% khoản thu phân chia
|
|
|
|
|
1,439
|
2,031
|
3-Chi NSĐP
|
24,493
|
34,825
|
33,491
|
45,756
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Nguồn:
Tính toán của Tổ biên tập xây dựng Dự thảo Luật Thủ đô