BỘ CÔNG AN-BỘ TƯ
PHÁP-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP
|
Hà Nội , ngày 25
tháng 12 năm 2001
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO,
BỘ CÔNG AN, BỘ TƯ PHÁP SỐ 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP NGÀY 25 THÁNG 12
NĂM 2001VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN ÁP ĐỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH TẠI CHƯƠNG XIV "CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU" CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
Để áp dụng đúng và thống nhất
các quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật
hình sự năm 1999 (sau đây viết tắt là BLHS), Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp thống nhất hướng dẫn một số điểm
như sau:
I. VỀ MỘT SỐ
TÌNH TIẾT LÀ YẾU TỐ ĐỊNH TỘI HOẶC ĐỊNH KHUNG HÌNH PHẠT
1. Khi áp dụng tình tiết
"đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt" quy định tại khoản 1 của các điều 137, 138, 139 và 140 BLHS cần chú ý:
1.1. Bị coi là "đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt", nếu trước đó đã bị xử lý bằng một trong
các hình thức sau đây về hành vi chiếm đoạt, nhưng chưa hết thời hạn để được
coi là chưa bị xử lý mà lại thực hiện một trong các hành vi công nhiên chiếm đoạt
tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành
chính theo đúng quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính;
b) Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng
quy định của Điều lệnh, Điều lệ của lực lượng vũ trang nhân dân;
c) Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng
quy định của cơ quan có thẩm quyền (Ví dụ 1: Một sinh viên trộm cắp của bạn
150.000 đồng và bị phát hiện. Hội đồng kỷ luật của Nhà trường đã xét và người
có thẩm quyền đã ra quyết định cảnh cáo toàn trường hoặc đuổi học. Ví dụ 2: Một
cán bộ (công chức) trộm cắp tài sản của cơ quan và bị phát hiện. Hội đồng kỷ luật
của cơ quan đã xét và người có thẩm quyền đã ra quyết định kỷ luật hạ một bậc
lương theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức...).
1.2. Hết thời hạn để được coi là
chưa bị xử lý là hết thời hạn do pháp luật, Điều lệnh hoặc Điều lệ quy định
(Theo quy định tại Điều 10 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính,
trong trường hợp "cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu quá
một năm, kể từ ngày thi hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết hiệu lực
thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm, thì được coi như chưa bị xử phạt
vi phạm hành chính"). Đối với các trường hợp bị xử lý mà chưa có quy định
về thời hạn để hết thời hạn đó, người bị xử lý được coi là chưa bị xử lý, thì
thời hạn đó là một năm, kể từ ngày bị xử lý.
1.3. Bị coi là "đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt" nếu trước đó đã bị xử phạt hành chính về
một trong các hành vi sau đây:
a) Hành vi cướp tài sản;
b) Hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản;
c) Hành vi cưỡng đoạt tài sản;
d) Hành vi cướp giật tài sản;
đ) Hành vi công nhiên chiếm đoạt
tài sản:
e) Hành vi trộm cắp tài sản:
g) Hành vi lừa đảo chiếm đoạt
tài sản; .
h) Hành vi lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản;
i) Hành vi tham ô tài sản;
k) Hành vi lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản.
2. Bị coi là "đã bị kết án
về tội chiếm đoạt tài sản" nếu trước đó đã bị kết án về một trong các tội
sau dây:
a) Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS);
b) Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản (Điều 134 BLHS);
c) Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135 BLHS);
d) Tội cướp giật tài sản (Điều 136 BLHS);
đ) Tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản (Điều 137 BLHS);
e) Tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS);
g) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 139 BLHS);
h) Tội lạm đụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản (Điều 140 BLHS);
i) Tội tham ô tài sản (Điều 278 BLHS);
k) Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản (Điều 280 BLHS);
Đối với các trường hợp bị kết án
nhưng chưa được xoá án về một trong các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt
tài sản (như tội chiếm đoạt vật liệu nổ (Điều 232 BLHS); tội
chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ (Điều 233 BLHS)...)
có bị coi là tình tiết định tội hay không sẽ được hướng dẫn sau.
3. Khi áp dụng các tình tiết
"gây hậu quả nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng",
"gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" (từ Điều 133 đến
Điều 140, Điều 142 và Điều 143 BLHS) cần chú ý:
3.1. Hậu quả phải do hành vi phạm
tội gây ra (có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả). Hậu quả
đó có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản hoặc hậu quả phi vật chất
(gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước;
gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội).
3.2. Đối với các tội quy định tại
các điều 133, 134 và 136 thì thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng
đã được quy định thành tình tiết định khung riêng biệt, cho nên không xem xét
các thiệt hại này một lần nữa để đánh giá hậu quả do hành vi phạm tội gây ra được
hướng dẫn tại tiểu mục 3.4 Mục 3 này.
3.3. Đối với các tội có quy định
giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị tài sản bị sử dụng trái phép, giá trị
tài sản bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng, thì việc xác định hậu quả thiệt hại về
tài sản không phải căn cứ vào giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị tài sản bị
sử dụng trái phép, giá trị tài sản bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng, vì giá trị
tài sản này đã được quy định thành tình tiết định khung riêng biệt. Hậu quả phải
là thiệt hại về tài sản xẩy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị tài
sản bị sử dụng trái phép, giá trị tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng.
Ví dụ: A trộm cắp một lô thuốc
chữa bệnh cho gia súc trị giá 40 triệu đồng. Do thuốc chữa bệnh cho gia súc bị
trộm cắp nên không có thuốc để kịp thời chữa bệnh, dẫn đến đàn gia súc trị giá
100 triệu đồng bị chết. Trong trường hợp này giá trị tài sản bị chiếm đoạt là
40 triệu đồng và hậu quả thiệt hại về tài sản là 100 triệu đồng.
3.4. Để xem xét trong trường hợp
nào hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, trong trường hợp nào hành vi phạm
tội gây hậu quả rất nghiêm trọng và trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng về nguyên tắc chung phải đánh giá một cách toàn diện,
đầy đủ các hậu quả (thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và
các thiệt hại phi vật chất).
Nếu gây thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, tài sản thì được xác định như sau:
a) Nếu thuộc một trong các trường
hợp sau đây là gây hậu quả nghiêm trọng:
a.1) Làm chết một người;
a.2) Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ
61% trở lên;
a.3) Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31%
đến 60%;
a.4) Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người
này từ 61% đến 100%, nếu không thuộc các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm
a.2 và a.3 trên đây;
a.5) Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31 % đến 60% và
còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
a.6) Gây thiệt hại về tài sản có
giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
b) Nếu thuộc một trong các trường
hợp sau đây là gây hậu quả rất nghiêm trọng:
b.1) Làm chết hai người;
b.2) Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61
% trở lên;
b.3) Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ
31% đến 60%;
b.4) Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người
này từ 101% đến 200%, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại
các điểm b.2 và b.3 trên đây;
b.5) Gây thiệt hại về tài sản có
giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;
b.6) Gây thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai đến ba điểm từ điểm a.1 đến điểm a.6
tiểu mục 3.4 này.
c) Nếu thuộc một trong các trường
hợp sau đây là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng:
c.1) Làm chết ba người trở lên;
c.2) Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ
61% trở lên;
c.3) Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31
% đến 60% ;
c.4) Gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người
này từ 201% trở lên, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng đẫn tại
các điểm c.2 và c.3 trên đây;
c.5) Gây thiệt hại về tài sản có
giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên;
c.6) Gây thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn điểm trở lên từ điểm a.1 đến điểm a.6
tiểu mục 3.4 này;
c.7) Gây thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai điểm trở lên từ điểm b.1 đến điểm b.6
tiểu mục 3.4 này.
Ngoài các thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất,
như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước,
gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này
phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm
gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
4. Trong trường hợp tài sản bị
chiếm đoạt dưới 500 nghìn đồng (Điều 137, Điều 138, Điều 139
BLHS) hoặc dưới một triệu đồng (Điều 140 BLHS), cũng
như trong trường hợp tài sản bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng có giá trị dưới
500 nghìn đồng (Điều 143 BLHS) nếu gây hậu quả rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 1 của điều luật tương ứng, nếu không có tình tiết định khung hình phạt
khác.
5. Về tình tiết "sử dụng thủ
đoạn nguy hiểm khác" hoặc "dùng thủ đoạn nguy hiểm".
5.1. "Thủ đoạn nguy hiểm
khác" quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS là
ngoài các trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm để thực hiện việc cướp
tài sản, người phạm tội có thể dùng thủ đoạn khác nguy hiểm đối với người bị tấn
công hoặc những người khác như sử dụng thuốc ngủ, thuốc mê với liều lượng có thể
nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của nạn nhân; đầu độc nạn nhân; nhốt nạn nhân
vào nơi nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ; dùng dây chăng qua đường để làm cho
nạn nhân đi mô tô, xe máy vấp ngã để cướp tài sản...
5.2. "Thủ đoạn nguy hiểm
khác" quy định tại điểm d khoản 2 Điều 134 BLHS là
ngoài các trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm để thực hiện việc bắt
cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội có thể dùng
thủ đoạn khác nguy hiểm đối với người bị bắt làm con tin hoặc những người khác
như sử dụng thuốc ngủ, thuốc mê với liều lượng có thể nguy hiểm đến tính mạng,
sức khoẻ của nạn nhân hoặc đầu độc người bị bắt làm con tin để việc thực hiện bắt
cóc được dễ dàng; nhốt người bị bắt làm con tin vào nơi nguy hiểm đến tính mạng,
sức khoẻ..., cũng có thể đầu độc những người khác để họ không thể cản trở được
việc bắt làm con tin...
5.3. "Dùng thủ đoạn nguy hiểm"
quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 BLHS là dùng thủ đoạn
để cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của người bị hại hoặc
của người khác như dùng xe mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản;
cướp giật của người đang đi mô tô, xe máy... Cần chú ý là trong trường hợp dùng
thủ đoạn nguy hiểm để cướp giật tài sản mà gây ra hậu quả nghiêm trọng, thì phải
áp dụng cả hai tình tiết định khung hình phạt quy định tại các điểm
d và h khoản 2 Điều 136 BLHS.
6. Khi áp đụng tình tiết
"hành hung để tẩu thoát" (điểm đ khoản 2 Điều 136;
điểm a khoản 2 Điều 137; điểm đ khoản 2 Điều
138 BLHS) cần chú ý:
6.1. Phạm tội thuộc trường hợp
"hành hung để tẩu thoát" là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt
được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ
hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc
người bao vây bắt giữ như đánh, chém, bắn, xô ngã... nhằm tẩu thoát.
6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm
đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc
người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực
ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được
tài sản, thì trường hợp này không phải là "hành hung để tẩu thoát" mà
đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản.
II. VỀ VIỆC
XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ TÀI SẢN BỊ CHIẾM ĐOẠT, BỊ CHIẾM GIỮ TRÁI PHÉP, BỊ SỬ DỤNG TRÁI
PHÉP, BỊ HUỶ HOẠI HOẶC BỊ LÀM HƯ HỎNG
Đối với các hành vi xâm phạm sở
hữu nói chung việc xác định đúng giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ
trái phép, bị sử dụng trái phép, bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc xác định trường hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
trường hợp nào chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng như việc áp dụng
đúng khung hình phạt; do đó, cần chú ý một số điểm sau đây trong việc xác định
giá trị tài sản đối với các tội xâm phạm sở hữu:
1. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt,
bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái phép, bị huỷ hoại hoặc bị làm hư hỏng
được xác định theo giá thị trường của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm
tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái phép, bị huỷ hoại
hoặc bị làm hư hỏng.
2. Trong trường hợp có đầy đủ cằn
cứ chứng minh rằng người có hành vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài
sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để
xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm.
Ví dụ 1: A thấy một người vừa nhận
ở kho bạc 100 triệu đồng bỏ vào một chiếc túi xách để trước giỏ xe máy nên có ý
định cướp giật 100 triệu đồng này. A lấy xe máy đi theo người vừa nhận tiễn và
đã cướp giật được chiếc túi xách này, nhưng trong chiếc túi xách này chỉ còn có
200 nghìn đổng, bởi vì 100 triệu đồng người nhận tiền đã bỏ vào cốp xe máy.
Trong trường hợp này phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với A theo các điểm d và g khoản 2 Điều 136 BLHS.
Ví dụ 2: B thấy C đeo một chiếc
nhẫn mầu vàng. Qua các nguồn tin B tưởng đây là nhẫn bằng vàng 9,999, có trọng
lượng 2 chỉ, nên đã dùng thủ đoạn gian dối và đã chiếm đoạt được chiếc nhẫn
này. Trong trường hợp này phải lấy trị giá của một chiếc nhẫn bằng vàng 9,999 với
trọng lượng 2 chỉ theo thời giá tại địa phương vào thời điểm chiếm đoạt để xem
xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với B về tội "Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản".
3. Trong trường hợp có đầy đủ
căn cứ chứng minh rằng người có hành vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến
tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản bị xâm phạm (trị giá bao
nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị xâm phạm tại địa phương
vào thời điểm tài sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người có hành vi xâm phạm.
Ví dụ: M thấy một chiếc xe máy dựng
trước cửa của một gia đình nên đã vào lấy trộm không quan tâm đó là xe Trung Quốc
hay xe Nhật Bản. Trong trường hợp này nếu là xe Trung Quốc thì xác định giá trị
tài sản bị chiếm đoạt theo giá trị xe Trung Quốc; nếu là xe Nhật Bản thì xác định
giá trị tài sản bị chiếm đoạt theo giá trị xe Nhật Bản.
4. Để xác định đúng giá trị tài
sản bị xâm phạm trong trường hợp tài sản bị xâm phạm không còn nữa, cơ quan điều
tra cần lấy lời khai của những người biết về tài sản này để xác định đó là tài
sản gì; nhãn, mác của tài sản đó như thế nào; giá trị tài sản đó theo thời giá
thực tế tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm là bao nhiêu; tài sản
đó còn khoảng bao nhiêu phần trăm... để trên cơ sở đó có kết luận cuối cùng về
giá trị tài sản bị xâm phạm.
5. Trong trường hợp một người thực
hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu, nhưng mỗi lần giá trị tài sản
bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
BLHS và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình
sự (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa
được xoá án tích...), đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị
xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị
tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại
hành vi xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương
úng theo tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu:
a) Các hành vi xâm phạm sở hữu
được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
Ví dụ: Tối ngày 12/11/2001 Nguyễn
Văn A mang theo một bao tải với mục đích đi trộm cắp tài sản. Lần thứ nhất A
vào một gia đình và lấy được 1 chiếc đài cát sét trị giá 200 ngàn đồng bỏ vào
bao tải đem dấu ở một bụi cây. Lần thứ hai A vào một gia đình khác lấy được một
bộ quần áo trị giá 250 ngàn đồng và bỏ tiếp vào bao tải. Khi đi ngang qua thấy
một chiếc xe đạp trị giá 300 ngàn đồng dựng ở sân của một gia đình khác, A phá
khoá và dắt xe đạp ra bỏ bao tải tài sản vừa trộm cắp được lên xe đạp. Khi A đạp
xe đi được một đoạn thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong trường hợp này tổng
giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 750 ngàn đồng; do đó, A phải bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 138 BLHS.
b) Việc thực hiện các hành vi
xâm phạm sở hữu có tính chất chuyên nghiệp, lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu
mà có làm nguồn sống chính.
Ví dụ: Nguyễn Văn B không có nghề
nghiệp bỏ nhà đi lang thang với mục đích trộm cắp tài sản. Ngày 15-3-2001 B trộm
cắp được một chiếc xe đạp trị giá 300 ngàn đồng đem bán lấy tiền tiêu xài. Ngày
16-4-2001 B ra bến xe và móc túi được 150 ngàn đồng. Ngày 17-5-2001, B phá khoá
cửa của một gia đình vào trộm cắp được một số tài sản trị giá 200 ngàn đồng và
bị bắt giữ. Trong trường hợp này tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 650 ngàn
đồng; do đó, B phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản
1 Điều 138 BLHS.
c) Với mục đích xâm phạm sở hữu,
nhưng do điều kiện hoàn cảnh khách quan nên việc xâm phạm sở hữu phải được thực
hiện nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị xâm phạm mỗi lần dưới 500 ngàn đồng.
Ví dụ: Thấy trong kho X của Nhà
máy Z có rất nhiều tài sản, nhưng sợ bảo vệ phát hiện, nên lợi dụng những lúc
sơ hở, M vào kho trộm cắp tài sản và dấu vào người. Mỗi lần trộm cắp giá trị
tài sản bị chiếm đoạt từ 100 ngàn đến 150 ngàn đồng. M thực hiện đến lần thứ 6
thì bị phát hiện và bị bắt giữ.
Trong trường hợp này tổng giá trị
tài sản bị chiếm đoạt là 700 ngàn đồng; do đó, M phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 1 Điều 138 BLHS.
Cần chú ý là trong các trường hợp
trên đây nếu chỉ căn cứ vào các hành vi xâm phạm cùng loại này thì không áp dụng
tình tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" (điểm g khoản
1 Điều 48 BLHS) và cũng không áp dụng tình tiết định khung hình phạt
"có tính chất chuyên nghiệp" quy định tại khoản 2 của điều luật tương
ứng quy định về tội phạm tương ứng đó. Trong trường hợp có tình tiết khác định
khung hình phạt thì áp dụng khoản tương ứng của điều luật tương ứng có quy định
tình tiết định khung hình phạt đó.
III. VỀ VIỆC
TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
Trong trường hợp một người thực
hiện nhiều hành vi phạm tội cùng loại (đều là trộm cắp tài sản; đều là lừa đảo
chiếm đoạt tài sản...) nhưng tài sản bị xâm phạm là tài sản xã hội chủ nghĩa và
tài sản của công dân, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự được thực hiện như
sau:
1. Nếu tất cả các hành vi phạm tội
này đều được thực hiện từ ngày 1-7-2000 trở đi, thì người phạm tội phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo quy định của BLHS.
Ví dụ: Ngày 5-7-2000, A trộm cắp
tài sản của B trị giá 10 triệu đồng.
Ngày 15-8-2000, A trộm cắp tài sản
của Sở X trị giá 20 triệu đồng. Trong trường hợp này nếu căn cứ vào giá trị tài
sản bị chiếm đoạt là 30 triệu đồng, thì A phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 1 Điều 138 BLHS. Nếu tổng giá trị tài sản bị chiếm
đoạt là từ 50 triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng hoặc tổng giá trị tài sản
bị chiếm đoạt vẫn là 30 triệu đồng, nhưng có một trong những tình tiết khác định
khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 138 BLHS, thì A
phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 138 BLHS.
2. Nếu trong các hành vi phạm tội
này, có hành vi phạm tội được thực hiện trước ngày 1-7-2000, có hành vi phạm tội
được thực hiện từ ngày 1-7-2000 trở đi, thì người phạm tội phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo quy định của BLHS. Tuy nhiên,
khi xét xử các Toà án cần xem xét đến quy định của Bộ luật hình sự năm 1985
(sau đây viết tắt là BLHS 1985) về tội phạm tương ứng để nếu theo quy định của Điều 7 BLHS mà BLHS 1985 có quy định khác có lợi hơn cho người
phạm tội thì áp dụng tinh thần quy định đó khi quyết định hình phạt đối với người
phạm tội.
3. Nếu tất cả các hành vi phạm tội
này đều được thực hiện trước ngày 1-7-2000, thì việc truy cứu trách nhiệm hình
sự được thực hiện như sau:
3.1. Theo khoản 1 của điều luật
tương ứng của BLHS, nếu tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt thuộc khoản 1 của điều
luật tương ứng của BLHS quy định về tội xâm phạm sở hữu và theo BLHS 1985 thì
người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật tương
ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và theo khoản 1 của điều
luật tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu của công dân.
Ví dụ: Tháng 6-1999 Q phạm tội
trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa trị giá 5 triệu đồng thuộc khoản
1 Điều 132 BLHS 1985. Tháng 10-1999 Q phạm tội trộm cắp tài sản của công
dân trị giá 10 triệu đồng thuộc khoản 1 Điều 155 BLHS 1985.
Trong trường hợp này tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 15 triệu đồng thuộc khoản 1 Điều 138 BLHS; do đó, theo quy định tại khoản
3 Điều 7 BLHS, thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Q về tội trộm cắp
tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS.
3.2. Theo khoản 1 của điều luật
tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và theo khoản 1 của
điều luật tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu của công dân của BLHS 1985,
nếu tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt thuộc khoản 2 của điều luật tương ứng của
BLHS quy định về tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với
từng tội cần chú ý để khi tổng hợp hình phạt thì hình phạt chung không được vượt
quá mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 của Điều luật tương ứng
của BLHS quy định về tội xâm phạm sở hữu. .
Ví dụ: Tháng 10-1999 C phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa trị giá 40 triệu đồng thuộc khoản 1 Điều 134 BLHS 1985. Tháng 2-2000, C phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản của công dân trị giá 40 triệu đồng thuộc khoản
1 Điều 157 BLHS 1985. Trong trường hợp này tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt
là 80 triệu đồng thuộc điểm e khoản 2 Điều 139 BLHS; do đó,
theo quy định tại khoản 2 Điều 7 BLHS, thì vẫn truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với C theo khoản 1 Điều 134 và theo
khoản 1 Điều 157 BLHS 1985 .
3.3. Theo khoản 2 của điều luật
tương ứng của BLHS, nếu tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt thuộc khoản 2 của điều
luật tương ứng của BLHS quy định về tội xâm phạm sở hữu và theo BLHS 1985 thì
người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật tương
ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và theo khoản 2 của điều
luật tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu của công dân.
Ví dụ: Tháng 5-1999 H phạm tội
trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa trị giá 80 triệu đồng thuộc khoản
2 Điều 132 BLHS 1985. Tháng 8-1999 H lại phạm tội trộm cắp tài sản của công
dân trị giá 100 triệu đồng thuộc khoản 2 Điều 155 BLHS 1985.
Trong trường hợp này tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 180 triệu đồng thuộc
khoản 2 Điều 138 BLHS; do đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 7 BLHS, thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với H về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 138 BLHS.
3.4. Theo khoản 2 của điều luật
tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và theo khoản 2 của
điều luật tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu của công dân của BLHS 1985,
nếu tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt thuộc khoản 3 của điều luật tương ứng của
BLHS quy định về tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với
từng tội, cần chú ý để khi tổng hợp hình phạt thì hình phạt chung không vượt
quá mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 của điều luật tương ứng
của BLHS quy định về tội xâm phạm sở hữu.
Ví dụ: Tháng 3-1999, T phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa trị giá 120 triệu đồng thuộc khoản 2 Điều 134 BLHS 1985. Tháng 7-1999, T lại phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản của công dân trị giá 100 triệu đồng thuộc khoản
2 Điều 157 BLHS 1985. Trong trường hợp này, tổng giá trị tài sản bị chiếm
đoạt là 220 triệu đồng thuộc điểm a khoản 3 Điều 139 BLHS;
do đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 7 BLHS, thì vẫn truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với T theo khoản 2 Điều 134 và
theo khoản 2 Điều 157 BLHS 1985.
3.5. Theo khoản 2 của điều luật
tương ứng của BLHS, nếu tính tổng giá trị tài sản chiếm đoạt thuộc khoản 2 của
điều luật tương ứng của BLHS quy định về tội xâm phạm sở hữu và theo BLHS 1985
thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật
tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và theo khoản 2 của
điều luật tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu của công dân hoặc ngược lại.
Ví dụ : Tháng 1-1999, D trộm cắp
tài sản xã hội chủ nghĩa trị giá 10 triệu đồng thuộc khoản 1 Điều
132 BLHS 1985. Tháng 9-1999, D lại trộm cắp tài sản của công dân trị giá 90
triệu đồng thuộc khoản 2 Điều 155 BLHS 1985. Trong trường hợp
này tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 100 triệu đồng thuộc điểm
e khoản 2 Điều 138 BLHS; do đó, theo quy định tại khoản 3
Điều 7 BLHS, thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với D về tội trộm cắp
tài sản theo khoản 2 Điều 138 BLHS.
3.6. Theo khoản 1 của điều luật
tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và theo khoản 2 của
điều luật tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu của công dân của BLHS 1985
(hoặc ngược lại) nếu tổng giá trị tài sản chiếm đoạt thuộc khoản 3 của điều luật
tương ứng của BLHS quy định về tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, khi quyết định
hình phạt đối với từng tội, cần chú ý để khi tổng hợp hình phạt thì hình phạt
chung không vượt quá mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 của
điều luật tương ứng của BLHS quy định về tội xâm phạm sở hữu.
Ví dụ : Tháng 12- 1998 V phạm tội
trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa trị giá 30 triệu đồng thuộc khoản
1 Điều 132 BLHS 1985. Tháng 3-1999 V lại phạm tội trộm cắp tài sản của công
dân trị giá 220 triệu đồng. Trong trường hợp này tổng giá trị tài sản bị chiếm
đoạt là 250 triệu đồng thuộc điểm a khoản 3 Điều 138 BLHS;
do đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 7 BLHS thì vẫn truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với V theo khoản 1 Điều 132 và khoản 2 Điều 155 BLHS 1985.
3.7. Theo khoản 4 của điều luật
tương ứng của BLHS quy định về tội xâm phạm sở hữu trong trường hợp các hành vi
phạm tội theo quy định của BLHS 1985 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 2 và khoản 3 hoặc khoản 1 và khoản 3 của hai điều luật tương
ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và tội xâm phạm sở hữu của
công dân, nếu không thuộc trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 3.8 Mục 3 này.
Trong trường hợp này khi quyết định
hình phạt cần chú ý:
a) Chỉ xử phạt người phạm tội mức
án tù có thời hạn nếu truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội của hai điều luật
tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và tội xâm phạm sở hữu
của công dân, thì theo giá trị tài sản bị chiếm đoạt chỉ có thể xử phạt người
phạm tội mức án cao nhất là tù có thời hạn, nhưng nếu truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội xâm phạm sở hữu theo khoản 4 của điều luật tương ứng của BLHS, thì
theo tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải xử phạt người phạm tội mức án tù
chung thân.
b) Chỉ xử phạt người phạm tội mức
án tù chung thân nếu truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội của hai điều luật
tương ứng quy định về tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và tội xâm phạm sở hữu
của công dân, thì theo giá trị tài sản bị chiếm đoạt chỉ có thể xử phạt người
phạm tội mức án cao nhất là tù chung thân, nhưng nếu truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội xâm phạm sở hữu theo khoản 4 của điều luật tương ứng của BLHS, thì
theo tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải xử phạt người phạm tội mức án tử
hình.
3.8. Trường hợp các hành vi phạm
tội mà theo quy định của BLHS 1985 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 2 và khoản 3 hoặc khoản 1 và khoản 3 của hai điều luật tương
ứng quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và tội lợi dụng
chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, thì việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được thực hiện tương tự như hướng dẫn
tại các tiểu mục 3.5 và 3.6 Mục 3 này.
IV. HIỆU LỰC
THI HÀNH CỦA THÔNG TƯ
1. Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 10 tháng 01 năm 2002 và thay thế các văn bản trước đây của Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an hướng dẫn thi
hành các quy định của BLHS 1985 về các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và
xâm phạm sở hữu của công dân.
2. Trong quá trình thực hiện nếu
có gì vướng mắc hoặc chưa được hướng dẫn, cần phải giải thích hoặc hướng dẫn bổ
sung, thì đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an để có sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp
thời.
Đặng
Quang Phương
(Đã
ký)
|
Lê
Thế Tiệm
(Đã
ký)
|
Phạm
Sĩ Chiến
(Đã
ký)
|
Uông
Chu Lưu
(Đã
ký)
|