BỘ
NỘI VỤ-BỘ TƯ PHÁP-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
04/TTLN
|
Hà
Nội , ngày 26 tháng 12 năm 1986
|
THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO,
BỘ TƯ PHÁP, BỘ NỘI VỤ SỐ 04/TTLN NGÀY 26 THÁNG 12 NĂM 1986 HƯỚNG DẪN VIỆC ÁP DỤNG
THỜI HIỆU THI HÀNH BẢN ÁN HÌNH SỰ
Để thi hành Điều 46 Bộ Luật Hình
sự về thời hiệu thi hành bản án hình sự được đúng đắn và thống nhất, Toà án
nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp hướng
dẫn như sau:
I- Ý NGHĨA CỦA
QUY ĐỊNH VỀ THỜI HIỆU THI HÀNH BẢN ÁN HÌNH SỰ
Về nguyên tắc, các bản án đã có
hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh, cho nên các các Toà án nhân
dân, Viện Kiểm sát nhân dân và cơ quan Công an phải thực hiện đầy đủ chức năng,
nhiệm vụ của mình và phải phối hợp chặt chẽ với nhau để bảo đảm những người bị
kết án phải thi hành đầy đủ các quyết định của bản án. Tuy nhiên, trong thực tế,
cũng có một số trường hợp do thiếu sót của các cơ quan thi hành án, có một số bản
án bị bỏ quên hoặc bị thất lạc, không được thi hành. Nếu trong một thời gian
dài, người bị kết án đã làm ăn lương thiện, không phạm tội mới, không trốn
tránh pháp luật, thì không cần thiết phải bắt họ thi hành bản án nữa. Vì vậy,
pháp luật quy định thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn bản án có hiệu
lực thi hành, hết thời hạn đó, nếu chưa thi hành thì không được thi hành nữa.
Quy định đó thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta đối với người bị kết án.
Việc áp dụng thời hiệu thi hành
bản án hình sự phải chặt chẽ, để đề phòng những sơ hở hoặc hiện tượng tiêu cực
trong khi thực hiện.
II- ĐIỀU KIỆN
ĐỂ NGƯỜI BỊ PHẠT TÙ ĐƯỢC HƯỞNG THỜI HIỆU THI HÀNH BẢN ÁN
Theo khoản 1 Điều 46 Bộ Luật
Hình sự thì người bị phạt tù có thời hạn không bị buộc phải chấp hành bản án
khi có đủ ba điều kiện sau đây:
1. Tính từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật (ngày tuyên bản án sơ thẩm đồng thời chung thẩm; ngày hết hạn kháng
cáo, kháng nghị nếu bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị; ngày tuyên
án phúc thẩm hoặc ngày hết hạn kháng án vắng mặt(*) đối với người được
kháng án vắng mặt bản án phúc thẩm) đã qua những thời hạn sau đây:
(*) Bộ Luật Tố tụng hình sự
không quy định thủ tục kháng án vắng mặt.
a) Năm năm đối với các trường hợp
xử phạt từ 5 năm tù trở xuống;
b) Mười năm đối với các trường hợp
xử phạt tù từ trên 5 năm đến 15 năm;
c) Mười lăm năm đối với các trường
hợp xử phạt tù từ trên 15 năm đến 20 năm.
Đối với các bản án có tổng hợp
hình phạt của nhiều bản án thì căn cứ để tính thời hiệu là hình phạt tổng hợp
và thời hiệu tính từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật. Nếu trong bản án có
nhiều người bị kết án thì mỗi người được áp dụng thời hiệu riêng phù hợp với mức
hình phạt của họ.
Theo Điều 44 Bộ Luật Hình sự thì
người được hưởng án treo mà không phạm tội mới trong thời gian thử thách thì được
đương nhiên xoá án(**). Vì vậy, không áp dụng thời hiệu thi hành án
5 năm đối với người được hưởng án treo mà chỉ cần họ không phạm tội mới trong
thời gian thử thách thì bản án phạt tù không được thi hành đối với họ.
(**) Được sửa đổi, bổ sung theo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự ngày 28-12-1989...
2. Trong các thời hạn nói trên,
người bị kết án không bị xử phạt về một tội phạm mới. Nếu bị xử phạt về một tội
phạm mới, thì thời hiệu tính theo bản án mới trong đó có tổng hợp hình phạt mới
với hình phạt của bản án cũ. Trường hợp phạm tội mới mà chỉ bị phạt cảnh cáo,
thì thời hiệu bản án cũ vẫn tính từ ngày bản án cũ đó có hiệu lực pháp luật.
3. Trong các thời hạn nói trên
người bị án không cố tình trốn tránh việc thi hành án và không có lệnh truy nã.
Nếu cố tình trốn tránh và có lệnh truy nã thì thời gian trốn tránh không được
tính và thời hiệu sẽ tính lại kể từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị bắt. Cố
tình trốn tránh là: cố tình giấu địa chỉ, ẩn náu làm cho các cơ quan thi hành
án không biết họ ở đâu, hoặc trốn ra nước ngoài.
Thời hiệu thi hành bản án chỉ áp
dụng đối với những bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành vì
bị bỏ quên hoặc bị thất lạc. Trường hợp người bị kết án được tạm hoãn thi hành
bản án trong một thời gian thì sau khi hết hạn tạm hoãn họ phải chấp hành án.
Tuy nhiên, đối với những người phạm tội nhẹ, chỉ bị xử phạt từ 5 năm tù trở xuống
mà vì bệnh tật, sinh đẻ hoặc hoàn cảnh quá khó khăn, được tạm hoãn thi hành án
nhiều lần, thời gian tạm hoãn đã bằng thời hiệu thi hành án mà trong thời gian
đó, họ không phạm tội mới, không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì Toà án ra quyết
định miễn chấp hành hình phạt tù. Trong trường hợp bản án chậm được thi hành,
nhưng khi đưa ra thi hành án, lại phải tạm hoãn nhiều lần thì thời gian trước
khi bản án được đưa ra thi hành cũng được tính vào thời gian tạm hoãn. Trường hợp
người bị kết án được tạm ngừng thụ hình thì phần hình phạt còn lại cũng được giải
quyết như trường hợp tạm hoãn.
III- ÁP DỤNG
THỜI HIỆU ĐỐI VỚI CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH KHÁC, CÁC HÌNH PHẠT BỔ SUNG VÀ BỒI THƯỜNG
1. Điểm a Điều 46 không nói đến
phạt tiền, cải tạo không giam giữ, cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội nhưng
các hình phạt này đều nhẹ hơn hình phạt tù nên cũng áp dụng thời hiệu thi hành
án như đối với trường hợp phạt tù từ 5 năm trở xuống.
Trường hợp bản án đã được đưa ra
thi hành mà người bị kết án không có khả năng nộp phạt, đã cho tạm hoãn nhiều lần
và kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đã quá 10 năm mà người bị kết án vẫn
không có khả năng nộp phạt, được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực
thuộc Trung ương xác nhận thì Toà án sẽ xét cho họ miễn chấp hành hình phạt.
2. Hình phạt chính đã hết thời
hiệu thi hành phạt bổ sung không thi hành nữa.
Đối với các hình phạt bổ sung là
quản chế hoặc cấm cư trú thì thời hạn thi hành kể từ ngày thi hành xong hình phạt
tù. Nếu kể từ ngày đó mà thời gian phải thi hành hình phạt bổ sung đã hết, thì
người bị kết án không phải thi hành hình phạt bổ sung nữa; nếu thời gian phải
thi hành hình phạt bổ sung vẫn còn thì họ chỉ phải chấp hành phần còn lại.
3. Pháp luật chưa quy định thời
hiệu thi hành bản án dân sự, do đó chưa áp dụng thời hiệu đối với các quyết định
về bồi thường thiệt hại trong bản án hình sự. Tuy nhiên, nếu người có trách nhiệm
bồi thường không có khả năng bồi thường, đã cho tạm hoãn nhiều lần và kể từ
ngày bản án hình sự có hiệu lực pháp luật đã quá 10 năm, mà họ vẫn không có khả
năng bồi thường thì Toà án xét cho miễn các khoản bồi thường cho Nhà nước hoặc
cho tập thể. Riêng khoản bồi thường thiệt hại cho tư nhân thì việc miễn phải được
sự đồng ý của bên bị thiệt hại.
IV- CÁC TRƯỜNG
HỢP KHÔNG ÁP DỤNG THỜI HIỆU
1. Theo khoản 2 Điều 46 Bộ Luật
Hình sự, những người bị kết án về tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc
gia thì bị phạt tù từ 15 năm trở xuống và những người bị phạt tù từ 15 năm đến
20 năm không kể về tội gì, nếu có lý do đặc biệt thì theo kết luận của Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao có thể quyết định không áp dụng
thời hiệu. Lý do đặc biệt có thể là người bị kết án thuộc loại rất nguy hiểm
cho an ninh chính trị hoặc trật tự xã hội (như những tên chủ mưu, cầm đầu tổ chức
phản cách mạng, những tên có nhiều tội ác, những tên lưu manh chuyên nghiệp...)
mà vẫn còn có thái độ chống đối.
2. Các quy định về thời hiệu thi
hành bản án hình sự được áp dụng đối với các bản án hình sự đã có hiệu lực trước
cũng như sau ngày 1-1-1986.
V- TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
1. Các Toà án nhân dân cấp tỉnh
và cấp huyện cần rà soát lại tất cả các bản án hình sự mà cấp mình có trách nhiệm
thi hành nhưng chưa thi hành, phân thành các loại: phải thi hành ngay; cho tạm
hoãn; cho miễn chấp hành hình phạt hoặc cho hưởng thời hiệu thi hành bản án.
Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và cơ quan Công an trao đổi thống nhất
về các danh sách đó rồi mỗi cơ quan thực hiện những công việc thuộc chức năng,
nhiệm vụ của mình. Những người phải thi hành ngay thì Toà án ra lệnh bắt để thi
hành. Những người được tạm hoãn hoặc được miễn chấp hành hình phạt thì Toà án
ra quyết định. Quyết định miễn chấp hành hình phạt do Chánh án Toà án nhân dân
cấp tỉnh ký. Nếu người bị kết án được hưởng thời hiệu thi hành án thì Toà án
thông báo cho họ biết.
Những trường hợp giữa ba cơ quan
không nhất trí về chủ trương giải quyết, thì mỗi cơ quan phải báo cáo với cấp
trên theo ngành dọc của mình để cơ quan cấp trên giải quyết.
Mỗi cơ quan gửi danh sách những
người bị kết án đã phân loại nói trên lên cơ quan cấp trên theo ngành dọc của
mình trước ngày 30-6-1987.
2. Cùng với việc rà soát các bản
án hình sự chưa được thi hành, các Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và
cơ quan Công an cấp tỉnh và cấp huyện phải thường xuyên làm tốt chức năng của
mình đối với công tác thi hành án. Ba tháng một lần, mỗi cơ quan phải báo cáo với
cấp trên trực tiếp về những trường hợp cho tạm hoãn, cho miễn chấp hành hình phạt
hoặc cho hưởng thời hiệu thi hành bản án.
3. Người đã được hưởng thời hiệu
thi hành bản án nếu muốn được xoá án thì áp dụng thủ tục về xoá án đã được hướng
dẫn trong Thông tư liên ngành số 02-TTLN ngày 1-8-1986.
Các Toà án nhân dân, Viện Kiểm
sát nhân dân, các cơ quan Công an địa phương và các Toà án quân sự, Viện Kiểm
sát quân sự cần nghiên cứu và thực hiện đúng Thông tư liên ngành này. Nếu có vấn
đề chưa rõ thì báo cáo ngay với lãnh đạo của ngành ở Trung ương để hướng dẫn
thêm.
Trần
Đông
(Đã
ký)
|
Trịnh
Hồng Dương
(Đã
ký)
|
Trần
Lê
(Đã
ký)
|
Trần
Quyết
(Đã
ký)
|