BỘ NỘI VỤ-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI
CAO-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 01/TTLN
|
Hà Nội , ngày 07
tháng 1 năm 1995
|
THÔNG
TƯ LIÊN NGÀNH
SỐ 01/TTLN NGÀY 7-1-1995 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO, VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO, BỘ NỘI VỤ HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG ĐIỀU 95, ĐIỀU 96 BỘ LUẬT
HÌNH SỰ
Để áp dụng đúng đắn và thống nhất
các quy định của Điều 95 Bộ luật hình sự về tội "chế tạo,
tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương
tiện kỹ thuật quân sự" và Điều 96 Bộ luật hình sự về tội
"chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ", sau khi đã trao đổi ý kiến với Bộ Quốc
phòng, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ thống
nhất hướng dẫn một số điểm như sau:
A - VỀ ĐIỀU
95 BỘ LUẬT HÌNH SỰ
I - VỀ ĐỐI TƯỢNG
CỦA TỘI PHẠM
Đối tượng của tội phạm được quy
định tại Điều 95 Bộ Luật hình sự là vũ khí quân dụng, phương
tiện kỹ thuật quân sự.
1. Vũ khí quân dụng bao gồm các
loại súng ngắn, súng trường, súng liên thanh các cỡ, các loại súng lớn, các loại
vũ khí tự động, các loại đạn dùng cho các loại vũ khí trên và các thứ bom, mìn,
lựu đạn, kíp mìn, thuốc nổ được quy định tại điểm a Điều 1 Nghị
định số 175/CP ngày 11-12-1964 của Hội đồng Chính phủ về quản lý vũ khí
quân dụng, vũ khí thể thao quốc phòng và các loại vũ khí khác mà theo quy định
của Nhà nước là vũ khí quân dụng.
Các loại đạn được coi là vũ khí
quân dụng ở dạng nguyên viên và cả ở dạng rời từng bộ phận mà khi sử dụng mới lắp
chúng như vỏ đạn còn hạt nổ, đầu đạn còn ngòi nổ.
Theo quy định tại điểm
b Điều 1 Nghị định số 175/CP nói trên, thì vũ khí thể thao quốc phòng, và
các loại vũ khí khác như: súng săn, súng kíp, súng hoả mai, dao găm, mã tấu,
giáo mác, thuốc nổ và kíp mìn dùng trong sản xuất đều không coi là vũ khí quân
dụng. Do đó, cần lưu ý chỉ có kíp mìn, thuốc nổ, dây nổ dùng vào mục đích quốc
phòng mới được coi là vũ khí quân dụng, còn nếu được dùng trong sản xuất (kể cả
trang bị cho lực lượng vũ trang để làm kinh tế) thì được coi là chất nổ - đối
tượng của tội phạm quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự.
2. Phương tiện kỹ thuật quân sự
là các loại xe, khí tài, phương tiện khác được thiết kế, chế tạo và trang bị
cho lực lượng vũ trang để huấn luyện, chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
3. Vũ khí quân dụng, phương tiện
kỹ thuật quân sự đã được thanh lý theo đúng quy định của cơ quan Nhà nước về việc
thanh lý vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự hoặc thực tế hoàn toàn
không còn giá trị sử dụng theo chức năng của chúng thì không phải là đối tượng
của tội phạm quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự.
Đối với vũ khí quân dụng, phương
tiện kỹ thuật quân sự đã có quyết định thanh lý, nhưng không được tiến hành
thanh lý hoặc việc thanh lý không được thực hiện đúng quy định của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền mà vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự vẫn còn
giá trị sử dụng theo chức năng của chúng thì vẫn được coi là đối tượng của tội
phạm quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự.
II. VỀ HÀNH VI
PHẠM TỘI VÀ HƯỚNG XỬ LÝ
Các hành vi phạm tội quy định tại
Điều 95 Bộ luật hình sự bao gồm: Chế tạo trái phép, tàng trữ
trái phép, sử dụng trái phép, mua bán trái phép và chiếm đoạt vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự. Các hành vi phạm tội này được hiểu như sau:
1. Hành vi chế tạo vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự, là làm mới hoàn toàn hoặc lắp ráp từ những bộ phận
của vũ khí, phương tiện và có giá trị sử dụng theo tính năng tác dụng của
chúng. Đối với hành vi làm mới hoàn toàn súng được coi là chế tạo vũ khí quân dụng
nếu đạn sử dụng cho súng được làm mới đó là đạn dùng cho các loại vũ khí quân dụng.
Chỉ những cơ sở sản xuất vũ khí
của lực lượng vũ trang và những cơ sở khác có giấy phép của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cấp mới được sản xuất, lắp ráp vũ khí quân dụng; do đó, mọi trường hợp
không được phép sản xuất, lắp ráp vũ khí quân dụng mà sản xuất, lắp ráp hoặc được
phép sản xuất, lắp ráp vũ khí quân dụng loại này lại sản xuất lắp ráp loại khác
đều được coi là chế tạo vũ khí trái phép. Hành vi sản xuất, lắp ráp phương tiện
kỹ thuật thuộc các trường hợp tương tự cũng được coi là chế tạo trái phép
phương tiện kỹ thuật quân sự.
2. Tàng trữ trái phép vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là cất giữ chúng mà không được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Nơi tàng trữ có thể là nơi ở, nơi làm việc,
mang theo trong người, trong hành lý hoặc cất giấu bất kỳ ở một vị trí nào khác
mà người phạm tội đã chọn. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối
với việc định tội.
Ngoài ra bất cứ ai có được vũ
khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự không kể do nguồn gốc nào mà có
(như được tặng, cho, đào bới được, nhặt được...) mà không khai và nộp cho cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền thì hành vi cất giữ các đối tượng đó của họ cũng được
coi là tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng phương tiện kỹ thuật quân sự.
Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng
mà gây hậu quả làm chết người, gây tổn hại sức khoẻ cho người khác, gây thiệt hại
nghiêm trọng về tài sản (như cất giấu lựu đạn để người khác đào bới gây nổ chết
người...); hoặc trường hợp đưa vũ khí tàng trữ trái phép ra lau chùi, tháo lắp
gây chết người, gây tổn hại cho sức khoẻ người khác, gây thiệt hại nghiêm trọng
về tài sản thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản
2 Điều 95 (hoặc Điều 96) Bộ luật hình sự về tội tàng trữ
trái phép vũ khí quân dụng với tình tiết định khung tăng nặng là gây hậu quả
nghiêm trọng mà không truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội vô ý làm chết
người, vô ý gây thương tích hoặc vô ý gây thiệt hại đến tài sản.
3. Sử dụng trái phép vũ khí quân
dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là sử dụng không có giấy phép hoặc không được
phép của người hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hành vi sử dụng là lên đạn,
bóp cò; hành vi sử dụng lựu đạn là rút chốt, giật nụ xuỳ...
Đối với trường hợp sử dụng vũ
khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự có giấy phép hoặc được phép của người
hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nếu chủ thể là những người được quy định tại
Điều 249 Bộ luật hình sự có hành vi vi phạm các quy định về
sử dụng vũ khí gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội "vi phạm các quy định về sử dụng vũ khí" theo Điều
268 Bộ luật hình sự; nếu chủ thể không phải là những người được quy định tại
Điều 249 Bộ luật hình sự thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội "vô ý làm chết người" mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo Điều 95 Bộ luật hình sự.
Đối với người được trang bị vũ
khí quân dụng đã sử dụng trái phép vũ khí quân dụng được trang bị thực hiện tội
phạm hoặc người tuy không được trang bị nhưng đã dùng vũ khí quân dụng thực hiện
tội phạm thì đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: "tội sử dụng
trái phép vũ khí quân dụng" theo Điều 95 Bộ luật hình sự và
tội phạm đã thực hiện theo điều luật tương ứng của Bộ
luật hình sự. Nếu tội phạm đã thực hiện mà điều luật có quy định "sử dụng
vũ khí" là tình tiết định khung hình phạt, thì phải truy cứu trách nhiệm
hình sự về khoản tương ứng của điều luật.
4. Theo tinh thần quy định tại Điều 3 Nghị định số 175/CP ngày 11-12-1984 của Hội đồng Chính
phủ thì chỉ những cơ quan được Chính phủ cho phép mới được mua, bán vũ khí quân
dụng, chất nổ; do đó, được coi là mua, bán vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật
quân sự trái phép, các hành vi mua bán không có giấy phép hoặc không được phép
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, không đòi hỏi phải có đầy đủ cả hai hành vi
mua và bán mà chỉ cần có một trong hai hành vi đó người phạm tội cũng phải bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 95 Bộ luật hình sự.
5. Chiếm đoạt vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự bao gồm các hành vi cướp, cưỡng đoạt, cướp giật,
công nhiên chiếm đoạt, tham ô, trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt, lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt.
Cũng được coi là chiếm đoạt vũ
khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự các hành vi của quân nhân, nhân
viên, công nhân quốc phòng và những người khác được trang bị vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự để huấn luyện chiến đấu, để thực hiện nhiệm vụ
trong thời gian công tác, khi xuất ngũ, phục viên, nghỉ việc về hưu hoặc chuyển
sang công tác khác mà không còn được phép sử dụng vũ khí quân dụng, phương tiện
kỹ thuật quân sự, nhưng đã không giao nộp lại theo quy định của Nhà nước.
6. Hành vi phá vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự để lấy một số bộ phận thì tuỳ từng đối tượng mà xử
lý như sau:
- Trong trường hợp đối tượng là
những phương tiện quan trọng về an ninh quốc phòng như máy bay, tàu chiến, ra
đa, xe tăng, xe bọc thép, tên lửa..., mà người có hành vi phạm tội có mục đích
nhằm chống chính quyền nhân dân thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
"phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội" theo Điều 79 Bộ luật hình sự; nếu không có mục đích nhằm chống
chính quyền nhân dân thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "phá huỷ
phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia" theo Điều 94 Bộ
luật hình sự.
- Trong trường hợp đối tượng là
vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự khác nếu chủ thể là những người
được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự, thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội "huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật
quân sự" (theo điều 269 Bộ luật hình sự); nếu chủ thể
là những người khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội huỷ hoại tài sản
xã hội chủ nghĩa (theo Điều 138 Bộ luật hình sự).
7. Trong trường hợp người có
hành vi chế tạo, tàng trữ, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự, với mục đích là chuẩn bị công cụ, phương tiện để
thực hiện một tội phạm khác và tội phạm khác đã được thực hiện thì phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về hai tội "chế tạo, tàng trữ, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự" gây hậu quả
nghiêm trọng theo điểm c, khoản 2 Điều 95 Bộ luật hình sự và
tội phạm tương ứng dã được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm khác chưa được
thực hiện là một tội nghiêm trọng thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
hai tội.
8. Điều 95 Bộ luật
hình sự quy định nhiều hành vi phạm tội khác nhau đối với nhiều loại đối tượng
khác nhau. Vì vậy trong trường hợp bị can, bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm
tội khác nhau, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà kẻ phạm tội có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về một tội với tên tội danh đầy đủ các hành vi đã được thực
hiện hay về nhiều tội độc lập đối với từng hành vi đã thực hiện và khi xét xử sẽ
áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt
chung, cụ thể như sau:
- Nếu kẻ phạm tội thực hiện nhiều
hành vi phạm tội mà những hành vi phạm tội này liên quan chặt chẽ với nhau
(hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện, là hậu quả tất yếu của hành vi
phạm tội kia) đối với cùng nhiều đối tượng hay một đối tượng, thì chỉ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về một tội với tên tội danh đầy đủ các hành vi đã được thực
hiện. Thí dụ: Một người chế tạo vũ khí rồi tàng trữ và đưa ra sử dụng, thì bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "chế tạo, tàng trữ và sử dụng trái
phép vũ khí quân dụng".
- Nếu kẻ phạm tội thực hiện nhiều
hành vi độc lập đối với các đối tượng độc lập khác nhau thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về nhiều tội độc lập với từng hành vi độc lập đã được thực hiện
và khi xét xử sẽ áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự để quyết định
hình phạt chung. Thí dụ: Một người tàng trữ hai khẩu súng quân dụng và mua 5 quả
lựu đạn, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội "tàng trữ trái
phép vũ khí quân dụng" và tội "mua trái phép vũ khí quân dụng".
III. VỀ SỐ LƯỢNG
VẬT PHẠM PHÁP ĐỂ LÀM CĂN CỨ TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO CÁC KHOẢN CỦA ĐIỀU
LUẬT
Việc xác định số lượng vật phạm
pháp để truy cứu trách nhiệm hình sự theo các khoản của Điều 95
Bộ luật hình sự phải căn cứ vào tính năng, tác dụng và giá trị sử dụng của
từng loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự cụ thể.
Đối với một số đối tượng phổ biến
việc xác định số lượng vật phạm pháp để truy cứu trách nhiệm hình sự theo các
khoản của điều luật như sau:
1. Người nào chế tạo, tàng trữ,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng với số lượng sau
đây thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều
95 Bộ luật hình sự:
a) Súng bộ binh bắn phát một: từ
1 đến 5 khẩu.
b) Súng liên thanh cá nhân như
trung liên, tiểu liên các loại: 1 khẩu hoặc 2 khẩu.
c) Súng bộ binh khác như thượng
liên, đại liên, B40, B41, 12 ly 7, 14 ly 5: 1 khẩu.
d) Lựu đạn, đạn cối, đạn pháo đến
100 ly: từ 1 đến 10 quả.
đ) Đạn cối, đạn pháo trên 100
ly: từ 1 đến 5 quả.
e) Từ 50 viên đến 300 viên đạn
súng bộ binh (từ đại liên trở xuống).
g) Từ 30 viên đến 200 viên đối với
các loại đạn 12 ly 7, 14 ly 5, 23 ly, 24 ly (không phải là đạn pháo).
h) Thuốc nổ các loại từ 1kg đến
15kg.
i) Từ 200 cái đến 1000 cái đối với
kíp mìn, nụ xuỳ.
k) Từ 500m đến 3000m dây cháy chậm,
dây nổ.
l) Đối với người có hành vi chế
tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng với
số lượng dưới mức hướng dẫn tại các điểm e, g, h, i, k trên đây, nhưng đã bị xử
phạt hành chính về một trong các hành vi này hoặc đã bị kết án nhưng chưa được
xoá án về tội cố ý hoặc trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình
sự.
2. Người nào chế tạo, tàng trữ,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng với số lượng sau
đây thì được coi là vật phạm pháp có số lượng lớn và phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 2 Điều 95 Bộ luật hình sự:
a) Súng bộ binh bắn phát một: từ
6 khẩu đến 25 khẩu.
b) Súng liên thanh cá nhân như
trung liên, tiểu liên các loại: từ 3 khẩu đến 15 khẩu.
c) Súng bộ binh khác như thượng
liên, đại liên, B40, B41, 12 ly 7, 14 ly 5: từ 2 khẩu đến 10 khẩu.
d) Lựu đạn, đạn cối, đạn pháo đến
100 ly: từ 11 quả đến 50 quả.
đ) Đạn cối, đạn pháo trên 100
ly: từ 6 đến 15 quả.
e) Đạn bộ binh (từ đại liên trở
xuống): từ trên 300 viên đến 1.500 viên.
g) Đạn 12 ly 7, 14 ly 5, 23 ly,
24 ly (không phải là đạn pháo): từ trên 200 viên đến 1000 viên.
h) Thuốc nổ các loại từ trên
15kg đến 75kg.
i) Kíp mìn, nụ xuỳ: từ trên 1000
cái đến 5000 cái.
k) Dây cháy chậm, dây nổ: từ
trên 3000m đến 15.000m.
3. Người nào chế tạo, tàng trữ,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng với số lượng trên mức
tối đa được hướng dẫn tại điểm 2 mục này là phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản
3 Điều 95 Bộ luật hình sự.
4. Người nào chế tạo, tàng trữ,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng đối với nhiều loại
vũ khí quân dụng khác nhau, mà số lượng đối với mỗi loại chưa đến mức được hướng
dẫn tại điểm 1 mục này, thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự. Nếu số lượng đối với mỗi loại
vũ khí đến mức được hướng dẫn tại điểm 1 mục này thì phải bi truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 2 Điều 95 Bộ luật hình sự. Nếu số lượng
đối với mỗi loại vũ khí đến mức được hướng dẫn tại điểm 2 mục này thì phải bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 95 Bộ Luật hình
sự.
B - VỀ ĐIỀU 96 BỘ LUẬT HÌNH SỰ.
I. VỀ ĐỐI TƯỢNG
CỦA TỘI PHẠM.
Đối tượng của tội phạm được quy
định tại Điều 96 Bộ Luật hình sự là chất nổ, chất cháy, chất
độc hoặc chất phóng xạ.
1. Chất nổ là chất có khả năng
gây nên một phản ứng hoá học nhanh, mạnh, toả nhiều nhiệt và ánh sáng, đồng thời
sinh khí và tạo ra tiếng nổ như kíp mìn, các loại thuốc nổ, dây nổ, dây cháy chậm,
thuốc phóng v.v...
Cần lưu ý rằng chỉ có kíp mìn,
thuốc nổ, dây nổ, dây cháy chậm (kể cả trang bị cho lực lượng vũ trang) dùng
trong sản xuất, xây dựng dân dụng và các mục đích kinh tế khác ngoài huấn luyện,
chiến đấu và phục vụ chiến đấu mới được coi là chất nổ.
2. Chất cháy là chất có đặc tính
tự bốc cháy khi tiếp xúc với ôxy trong không khí, nước hoặc khi có tác động của
các yếu tố khác và những chất dễ tự bốc cháy ở nhiệt độ không cao, như: diêm
tiêu (ka-li-ni trat), phốt pho, thuốc đạn...
3. Chất độc là những chất có độc
tính rất cao và rất có hại đối với sức khoẻ và tính mạng của con người, nếu bị
nhiễm phải một liều lượng nhất định nào đó (có thể là rất ít). Những loại thuốc
độc quy định tại bảng A như: A-cô-ni-tin và các muối của nó, kẽm Phốt-pho,
Ni-cô-tin và các muối của nó, các loại muối thuỷ ngân... đều là đối tượng của tội
phạm quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự.
4. Chất phóng xạ là nhân tố sát
thương của vũ khí hạt nhân, gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hoá học
có khả năng phát ra các chùm tia An-pha, Bê-ta, Gam-ma... Tác hại đặc trưng của
chất phóng xạ là gây bệnh, phóng xạ đối với người và động vật.
5. Trong trường hợp cần xác định
có phải là chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ hay không cũng như trong
trường hợp cần xác định tính năng, tác dụng, giá trị sử dụng, tính nguy hiểm của
từng loại chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ thì cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án cần hỏi ý kiến của các cơ quan chức năng có thẩm quyền hoặc cần
phải trưng cầu giám định.
II. VỀ CÁC HÀNH
VI PHẠM TỘI VÀ HƯỚNG XỬ LÝ
Các hành vi phạm tội quy định tại
Điều 96 Bộ luật hình sự bao gồm: chế tạo trái phép, tàng trữ
trái phép, sử dụng trái phép, mua bán trái phép và chiếm đoạt chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ. Các hành vi phạm tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng,
mua bán như thế nào được coi là trái phép cũng như hành vi nào là chiếm đoạt và
hướng xử lý được thực hiện tương tự theo hướng dẫn tại mục II phần
A của Thông tư này.
III. VỀ SỐ LƯỢNG
VẬT PHẠM PHÁP ĐỂ LÀM CĂN CỨ TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO CÁC KHOẢN CỦA ĐIỀU
LUẬT
Việc xác định số lượng vật phạm
pháp để truy cứu trách nhiệm hình sự theo các khoản của Điều 96
Bộ luật hình sự phải căn cứ vào tính năng, tác dụng, giá trị sử dụng, tính
nguy hiểm của từng loại chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ.
Đối với một số loại chất nổ phổ
biến việc xác định số lượng vật phạm pháp để truy cứu trách nhiệm hình sự theo
các khoản của điều luật như sau:
1. Người nào chế tạo, tàng trữ,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ với số lượng sau đây, thì phải
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật
hình sự:
a) Thuốc nổ các loại từ 1kg đến
15kg.
b) Thuốc pháo: từ 3kg đến 30kg.
c) Thuốc phóng: từ 1kg đến 10kg.
d) Dây cháy chậm, dây nổ: Từ
500m đến 3000m.
đ) Kíp mìn, nụ xuỳ: từ 200 cái đến
1000 cái.
Đối với người có hành vi chế tạo,
tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ với số lượng dưới
các mức hướng dẫn trên đây nhưng đã bị xử phạt hành chính về một trong các hành
vi này hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xoá án về tội cố ý, có tính chất
chuyên nghiệp hoặc trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự.
2. Người nào chế tạo, tàng trữ,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ với số lượng sau đây, thì được
coi là vật phạm pháp có số lượng lớn và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 2 Điều 96 Bộ luật hình sự:
a) Thuốc nổ các loại từ trên
15kg đến 75kg.
b) Thuốc pháo: Từ trên 30kg đến
150kg.
c) Thuốc phóng: Từ trên 10kg đến
50kg.
d) Dây cháy chậm, dây nổ: Từ
trên 3.000m đến 15.000m.
đ) Kíp mìn, nụ xuỳ: Từ trên
1.000 cái đến 10.000 cái.
3. Người nào chế tạo, tàng trữ,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ với số lượng trên mức tối đa
được hướng dẫn tại điểm 2 mục này là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều
96 Bộ luật hình sự.
4. Người nào chế tạo, tàng trữ,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ đối với nhiều loại khác nhau
mà số lượng đối với mỗi loại chưa đến mức được hướng dẫn tại điểm 1 mục này,
thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ
luật hình sự. Nếu số lượng đối với mỗi loại đến mức được hướng dẫn tại điểm
1 mục này thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều
96 Bộ luật hình sự. Nếu số lượng đối với mỗi loại đến mức được hướng dẫn tại
điểm 2 mục này thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản
3 Điều 96 Bộ Luật hình sự.
C - VỀ HIỆU
LỰC THI HÀNH:
Thông tư này có hiệu lực kể từ
ngày ban hành và thay thế các văn bản của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ được ban hành trước đây trái với Thông tư này.
Trong quá trình thực hiện, nếu
có gì vướng mắc, các cơ quan hữu quan cần phải phản ánh cho Toà án nhân dân tối
cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ để có hướng dẫn kịp thời.