HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
01/2016/NQ-HĐTP
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 6 năm 2016
|
NGHỊ QUYẾT
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH TẠI KHOẢN 3 ĐIỀU 7 BỘ LUẬT
HÌNH SỰ SỐ 100/2015/QH13
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13
ngày 24 tháng 11 năm 2014;
Để áp dụng đúng và thống nhất
một số quy định tại Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27
tháng 11 năm 2015;
Sau khi có ý kiến thống nhất
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Về
việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội mà Bộ luật hình sự số
100/2015/QH13 đã bỏ hình phạt tử hình
1. Kể từ ngày 09 tháng 12 năm
2015 (ngày công bố Bộ luật hình sự số
100/2015/QH13), khi xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm không áp dụng hình
phạt tử hình đối với người phạm tội cướp tài sản (Điều 133),
tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm (Điều
157), tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 194), tội
chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194), tội phá hủy công trình,
phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231), tội
chống mệnh lệnh (Điều 316) và tội đầu hàng địch (Điều 322) Bộ luật hình sự số
15/1999/QH10 (được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12).
Trường hợp khi xét xử sơ thẩm hoặc
xét xử phúc thẩm, nếu xét thấy hành vi phạm tội là đặc biệt nghiêm trọng và
theo quy định của Bộ luật hình sự số
15/1999/QH10 (được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12) phải xử phạt người phạm tội với
mức hình phạt cao nhất là tử hình thì không xử phạt tử hình mà xử phạt người phạm
tội hình phạt tù chung thân.
2. Trường hợp hình phạt tử hình
đã tuyên trước ngày 09 tháng 12 năm 2015 đối với người phạm tội mà Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã bỏ hình phạt
tử hình và bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thi hành án tử hình thì
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm báo cáo ngay Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình
thành tù chung thân.
Điều 2. Về việc chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân đối với
người đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ các Điều kiện quy định
tại Điểm c Khoản 3 Điều 40 Bộ
luật hình sự số 100/2015/QH13
1. Kể từ ngày 09
tháng 12 năm 2015, người đã bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối
lộ và bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thi hành án tử hình mà thuộc một
trong các trường hợp sau đây thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung
thân:
a) Sau khi
bị kết án, người bị kết án tử hình đã chủ động nộp lại ít nhất ba
phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng
trong việc phát hiện, Điều tra, xử lý tội phạm;
b) Sau khi
bị kết án, người bị kết án tử hình đã chủ động nộp lại ít nhất ba
phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và lập công lớn.
2. “Chủ động nộp
lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ” là sau khi bị kết án tử
hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, người bị kết án đã chủ động nộp lại
ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ hoặc người bị kết án đã tích cực
tác động để cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em và những người khác khắc phục
hậu quả và những người này đã thực hiện việc nộp lại ít nhất ba phần tư giá trị
tài sản mà người bị kết án đã tham ô, nhận hối lộ.
3. “Hợp tác
tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, Điều tra, xử lý tội phạm” là
sau khi bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, người bị kết
án chủ động cung cấp những tin tức, tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa cho việc phát
hiện, Điều tra, xử lý tội phạm liên quan đến tội phạm mà họ bị kết án (như: chỉ
đúng nơi cất giấu vật chứng quan trọng giúp cơ quan chức năng thu hồi được vật
chứng đó; khai báo và chỉ đúng nơi đồng phạm khác đang bỏ trốn;
khai báo về tội phạm và người phạm tội mới liên quan đến tội phạm mà họ bị kết
án...). Ngoài những trường hợp nêu trên, có thể xác định những trường hợp khác
là “hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, Điều tra, xử
lý tội phạm” nhưng phải được các cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất áp dụng.
4. “Lập công lớn”
là sau khi bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, người bị kết
án đã giúp cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, truy bắt, Điều tra, xử lý tội
phạm không liên quan đến tội phạm mà họ bị kết án; cứu được người khác trong
tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên
của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn hoặc sự kiện
bất khả kháng khác; có phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị lớn được
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Ngoài những trường hợp nêu trên, có
thể xác định những trường hợp khác là “lập công lớn” nhưng phải được các
cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất áp dụng.
5. Đối với người bị
kết án tử hình thuộc trường hợp hướng dẫn tại Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều này,
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm chủ trì, phối hợp với Cơ quan Công an, Viện
kiểm sát, Cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp rà soát, báo cáo ngay Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định chuyển
hình phạt tử hình thành tù chung thân.
Điều 3. Về việc không xử lý hình sự đối với người thực hiện hành vi mà
Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 (được sửa đổi, bổ sung theo Luật số
37/2009/QH12) quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 không
quy định là tội phạm
1. Kể từ ngày 09 tháng 12 năm 2015, không xử lý
hình sự đối với các trường hợp quy định tại Điểm d, Điểm đ Khoản
2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 và những trường hợp sau đây:
a) Người
thực hiện hành vi mà theo quy định của Bộ luật
hình sự số 15/1999/QH10 (được sửa đổi, bổ sung theo Luật
số 37/2009/QH12) là tội phạm nhưng theo quy
định của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13
thì hành vi đó chưa cấu thành tội phạm do có bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu
thành tội phạm đó.
Ví dụ 1: Một người chưa bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa bị kết
án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc đã bị kết án về tội tàng trữ trái
phép chất ma túy nhưng đã được xóa án tích mà có hành vi tàng trữ trái phép chất
ma túy có khối lượng hoặc thể tích dưới mức quy định tại một trong các Điểm từ Điểm b đến Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự số
100/2015/QH13 thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ
trái phép chất ma túy.
Ví dụ 2: Một người chưa bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hoặc
hành vi tổ chức đánh bạc, chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức
đánh bạc hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc nhưng đã
được xóa án tích mà có hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được
thua bằng tiền hay hiện vật trị giá dưới 5.000.000 đồng thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
b) Người thực hiện hành vi chuẩn
bị phạm các tội trừ các tội danh quy định tại Khoản 2 Điều 14 Bộ
luật hình sự số 100/2015/QH13.
2. Đối
với các trường hợp hướng dẫn tại Điểm a và Điểm b Khoản 1 Điều này, nếu vụ án
đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ vào Điều 25 Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 (được
sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12)
miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; trường
hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi
hành án thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trường hợp người bị kết
án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án thì được miễn chấp
hành toàn bộ hình phạt.
Những
người đã chấp hành xong hình phạt, được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc
hình phạt còn lại thì đương nhiên được xóa án tích.
Điều 4. Về
việc xử lý hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
1. Kể
từ ngày 09 tháng 12 năm 2015 đến ngày Bộ luật
hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành, chỉ áp dụng quy định của Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 (được
sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12) để xử lý hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi về tội phạm thỏa mãn quy định tại Khoản 2 Điều 12 Bộ
luật hình sự số 15/1999/QH10 (được sửa đổi, bổ sung
theo Luật số 37/2009/QH12) và Khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự số
100/2015/QH13.
2. Kể
từ ngày Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có
hiệu lực thi hành, chỉ xử lý hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
về tội phạm quy định tại Khoản 2 Điều 12 và Điểm b, Điểm c Khoản
2 Điều 14 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13.
Điều 5. Về
việc đình chỉ vụ án đối với các trường hợp quy định tại Điểm d và Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết
số 109/2015/QH13
Kể từ ngày 09 tháng 12 năm 2015,
việc đình chỉ vụ án đối với các trường hợp quy định tại
Điểm d và Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc xét
xử tái thẩm được thực hiện như sau:
1. Trường hợp Viện kiểm sát có
Công văn rút lại hồ sơ để Điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm hình sự của bị
can mà Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy thuộc trường hợp quy
định tại Điểm d và Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số
109/2015/QH13 thì Tòa án áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều
176 Bộ luật tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 (kể từ ngày Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 có hiệu
lực thi hành thì áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 277 Bộ luật tố tụng
hình sự số 101/2015/QH13) ra quyết định trả hồ sơ để Điều tra bổ sung cho
Viện kiểm sát.
2. Trường hợp Viện kiểm sát có
Công văn (hoặc Quyết định) rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ
án, thì Thẩm phán được phân công làm Chủ toạ phiên tòa áp dụng Điểm
d hoặc Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13, Điểm
c Khoản 2 Điều 176, Điều 180 và Điều 181 Bộ luật tố tụng hình sự số
19/2003/QH11 (kể từ ngày Bộ luật tố tụng
hình sự số 101/2015/QH13 có hiệu lực thi hành thì áp dụng Điểm
c Khoản 1 Điều 277, Điều 282 và Điều 285 Bộ luật tố tụng hình sự số
101/2015/QH13) ra quyết định đình chỉ vụ án.
3. Trường hợp Viện kiểm sát vẫn
giữ nguyên quyết định truy tố thì Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên
tòa (nếu trong thời hạn chuẩn bị xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại phiên
tòa sơ thẩm) áp dụng Điểm d hoặc Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết
số 109/2015/QH13, Khoản 2 Điều 107 và Điều 180 Bộ luật tố tụng
hình sự số 19/2003/QH11 (kể từ ngày Bộ luật
tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 có hiệu lực thi hành thì áp dụng Khoản 2 Điều 157 và Điều 282 Bộ luật tố tụng hình sự số
101/2015/QH13) ra quyết định đình chỉ vụ án.
4. Trường hợp vụ án đang trong
giai đoạn xét xử phúc thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa và Hội đồng
xét xử áp dụng Điểm d hoặc Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số
109/2015/QH13, Khoản 2 Điều 107 và Điều 251 Bộ luật tố tụng
hình sự số 19/2003/QH11 (kể từ ngày Bộ luật
tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 có hiệu lực thi hành thì áp dụng Khoản 2 Điều 157 và Điều 359 Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13)
quyết định huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án.
5. Trường hợp đã có kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và vụ án đang trong giai đoạn xét xử
giám đốc thẩm hoặc xét xử tái thẩm thì Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm áp dụng
Điểm d hoặc Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13,
Khoản 2 Điều 107 và Điều 286 hoặc Khoản 3 Điều 298 Bộ luật tố tụng
hình sự số 19/2003/QH11 (kể từ ngày Bộ luật
tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 có hiệu lực thi hành thì áp dụng Khoản 2 Điều 157 và Điều 392 hoặc Khoản 3 Điều 402 Bộ luật tố tụng
hình sự số 101/2015/QH13) quyết định huỷ bản án đã có hiệu lực pháp luật,
tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án.
6. Việc đình chỉ vụ án đối với
các trường hợp quy định tại Điểm d và
Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 là đình chỉ về
trách nhiệm hình sự. Tòa án phải ghi rõ trong quyết định hoặc trong bản án lý
do của việc đình chỉ là do chính
sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước, người được đình chỉ không có quyền yêu
cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Tòa án phải chuyển quyết định hoặc bản
án kèm theo hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 63 Luật xử lý vi phạm hành chính.
Việc xét xử về các tội phạm khác
đối với người được đình chỉ, các bị cáo khác trong vụ án (nếu có) được giải quyết
theo thủ tục chung.
Điều 6. Về
việc miễn chấp hành hình phạt đối với các trường hợp quy
định tại Điểm d,
Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 và hướng dẫn tại Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết
này
Việc miễn chấp hành hình phạt đối
với các trường hợp quy định tại Điểm
d, Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 và hướng dẫn tại
Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết này được thực hiện như sau:
1. Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương
đương nơi người bị kết án đang chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành
phần hình phạt còn lại đối với trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình
phạt tù hoặc đang thi hành án treo.
2. Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương
đương nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần
hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với trường hợp người
bị kết án bị xử phạt tù đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được
hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt.
3. Chánh án Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án Tòa án quân sự khu
vực nơi người bị kết án chấp hành hình phạt ra quyết định:
a) Miễn chấp hành phần hình phạt
còn lại đối với trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt cải tạo
không giam giữ;
b) Miễn chấp hành thời hạn cấm cư
trú hoặc thời hạn quản chế còn lại đối với trường hợp người bị kết án đang chấp
hành hình phạt cấm cư trú hoặc quản chế.
4. Chánh án Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án Tòa án quân sự khu
vực nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc ra quyết định:
a) Miễn chấp hành thời hạn cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, miễn chấp hành thời
hạn tước một số quyền công dân còn lại đối với trường hợp người bị kết án đang
chấp hành hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định, tước một số quyền công dân;
b) Miễn chấp hành phần hình phạt
còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với trường hợp người bị kết
án bị xử phạt bằng các hình phạt khác đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt,
đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt.
5. Khi xem xét, quyết định việc
miễn chấp hành hình phạt cần chú ý một số nội dung sau:
a) Chỉ miễn chấp hành hình phạt (hình
phạt chính và hình phạt bổ sung) đối với các trường hợp quy định tại Điểm d, Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 và
hướng dẫn tại Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết này; đối với các vấn đề
khác, như: trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng,
án phí hình sự, án phí dân sự... thì người được miễn chấp hành hình phạt vẫn phải
thi hành;
b) Trường hợp một người bị kết
án về nhiều tội (trong cùng một bản án hoặc trong nhiều bản án) trong đó có tội
mà Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 không
quy định là tội phạm (thuộc các trường hợp hướng dẫn tại Khoản 1 Điều 3 Nghị
quyết này) thì việc miễn chấp hành hình phạt đối với tội này được thực hiện như
sau:
Trường hợp người bị kết án chưa
chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với tội mà Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 không quy định
là tội phạm (thuộc các trường hợp hướng dẫn tại Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết này).
Trường hợp người bị kết án đã chấp
hành một phần hình phạt chung hoặc đang chấp hành hình phạt mà thời gian đã chấp
hành hình phạt chưa vượt quá mức hình phạt mà Tòa án đã xử phạt đối với tội
không được miễn chấp hành hình phạt, thì người bị kết án được miễn chấp hành
toàn bộ hình phạt đối với tội mà Bộ luật hình
sự số 100/2015/QH13 không quy định là tội phạm (thuộc các trường hợp hướng
dẫn tại Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết này).
Trường hợp người bị kết án đã chấp
hành một phần hình phạt chung hoặc đang chấp hành hình phạt mà thời gian đã chấp
hành hình phạt bằng hoặc vượt quá mức hình phạt mà Tòa án đã xử phạt đối với tội
không được miễn chấp hành hình phạt thì người bị kết án được miễn chấp hành phần
hình phạt còn lại.
c) Khi miễn chấp hành
hình phạt, Tòa án phải ghi rõ trong quyết định miễn chấp hành hình phạt lý do của
việc miễn chấp hành hình phạt là do chính
sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước, người được miễn chấp hành hình phạt
không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;
d) Việc
miễn chấp hành hình phạt theo hướng dẫn tại Điều này chỉ được tiến hành đối với
người bị kết án trước ngày 09 tháng 12 năm 2015. Đối với các đối tượng thuộc
các trường hợp quy định tại Điểm d, Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị
quyết số 109/2015/QH13 và hướng dẫn tại Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều 3 Nghị
quyết này mà bị kết án kể từ ngày 09 tháng 12 năm 2015 thì không thực hiện việc
miễn chấp hành hình phạt đối với họ mà phải xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật đối với họ theo thủ tục giám đốc thẩm.
Điều 7. Hiệu
lực thi hành
Nghị quyết này đã được Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2016 và có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2016.
Điều 8. Tổ
chức thực hiện
1. Chánh án Tòa án nhân dân và
Tòa án quân sự các cấp; Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao tổ
chức triển khai, quán triệt Nghị quyết này trong cơ quan, đơn vị mình nhằm bảo
đảm cho việc thi hành đúng và thống nhất.
2. Chánh án Tòa án nhân dân và
Tòa án quân sự các cấp chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát và Cơ quan thi hành
án hình sự có thẩm quyền rà soát, lập danh sách người được miễn chấp hành hình
phạt theo quy định tại Điểm d, Điểm
đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 và hướng dẫn tại Khoản
2 Điều 3 Nghị quyết này để làm cơ sở xem xét, quyết định miễn chấp hành hình phạt.
3. Đối với các đối tượng được
đình chỉ vụ án hoặc miễn chấp hành hình phạt theo quy
định tại Điểm d, Điểm đ Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số
109/2015/QH13 và hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết này mà đang
bị truy nã thì Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc miễn chấp hành hình phạt,
đồng thời gửi quyết định này cho cơ quan đã ra quyết định (lệnh) truy nã biết để
ra ngay quyết định đình nã nếu họ không bị truy nã về hành vi phạm tội khác.
Nơi nhận:
- Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
- Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội;
- Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội;
- Ban Chỉ đạo CCTPTW;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ (02 bản);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Công an;
- Bộ Tư pháp;
- Các TAND và TAQS;
- Các Thẩm phán TANDTC và các đơn vị thuộc TANDTC;
- Lưu: VT, Vụ PC&QLKH.
|
TM.
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Nguyễn Hòa Bình
|