CÔNG ƯỚC
VỀ TRẤN ÁP VIỆC BUÔN BÁN NGƯỜI VÀ BÓC LỘT MẠI
DÂM NGƯỜI KHÁC, 1949
(Được
thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn theo Nghị quyết 317(IV) ngày
02/12/1949 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Có hiệu lực ngày 25/7/1951, theo quy
định tại điều 24)
Lời mở đầu
Xét rằng,
mại dâm và tệ nạn đi kèm với nó là buôn bán người vì mục đích mại dâm là trái với
nhân phẩm, giá trị con người và đe dọa đến hạnh phúc của mỗi cá nhân, gia đình
và cộng đồng,
Xét rằng, liên
quan tới việc trấn áp các hành động buôn bán phụ nữ, trẻ em, các văn kiện quốc
tế dưới đây đã và đang có hiệu lực:
1. Công ước quốc tế
ngày 18/5/1904 về trấn áp việc buôn bán phụ nữ để cưỡng bức mại dâm, đã được sửa
đổi theo Nghị định thư được thông qua bởi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày
3/12/1948,
2. Công ước quốc tế
ngày 4/5/1910 về trấn áp việc buôn bán phụ nữ để cưỡng bức mại dâm, đã được sửa
đổi bởi Nghị định thư nêu trên,
3. Công ước quốc tế
ngày 30/9/1921 về trấn áp việc buôn bán phụ nữ và trẻ em, đã được sửa đổi theo
Nghị định thư được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20/10/1947,
4. Công ước quốc tế
ngày 11/10/1933 về trấn áp việc buôn bán phụ nữ ở mọi lứa tuổi, đã được sửa đổi
bởi Nghị định thư nêu trên,
Xét rằng,
các nước Đồng minh, vào năm 1937, đã dự thảo một công ước mở rộng phạm vi của
các điều ước nói trên, và
Xét rằng,
những phát triển của tình hình kể từ năm 1937 đã dẫn đến việc có thể ký kết một
công ước hợp nhất tất cả nội dung của các văn kiện nói trên với Dự thảo Công ước
1937 với các điều chỉnh cần thiết:
Nay, Các Bên ký kết đã
thỏa thuận như sau:
Điều 1.
Các
quốc gia thành viên Công ước này nhất trí trừng phạt bất cứ người nào, để làm
thoả mãn dục vọng của người khác, mà:
1.Môi giới, dụ dỗ hoặc
dẫn dắt một người khác nhằm mục đích mại dâm, thậm chí với sự đồng ý của người
đó;
2.Bóc lột mại dâm người
khác, thậm chí với sự đồng ý của người đó,
Điều 2.
Các
thành viên của Công ước này cũng nhất trí sẽ trừng phạt bất cứ người nào:
1.Tổ chức hay quản lý,
cố ý tài trợ hoặc tham gia vào việc tài trợ cho một nhà chứa mại dâm;
2.Cố ý cho thuê hoặc
đi thuê một ngôi nhà hoặc một địa điểm khác hoặc bất kỳ một phần địa điểm như vậy
để sử dụng vào mục đích mại dâm.
Điều 3.
Trong
phạm vi pháp luật quốc gia cho phép, những cố gắng thực hiện bất kỳ tội phạm
nào được đề cập tại các điều 1 và 2, và những hành động chuẩn bị tiến hành các
tội phạm đó cũng sẽ bị trừng phạt.
Điều 4.
Trong
phạm vi pháp luật quốc gia cho phép, sự tham gia có chủ ý vào những hành vi phạm
tội được đề cập tại các điều 1 và 2 ở trên cũng sẽ bị trừng phạt.
Trong phạm vi pháp luật
quốc gia cho phép, những hành động tham gia vào các hành vi đó sẽ bị coi là những
tội danh riêng bất cứ khi nào cần thiết để ngăn chặn việc bỏ lọt tội phạm.
Điều 5.
Trong
những trường hợp mà pháp luật quốc gia quy định những người bị hại có quyền
tham gia quá trình tố tụng đối với những tội phạm được đề cập trong công ước
này, thì người nước ngoài cũng sẽ có những quyền đó, tương tự như các quyền được
áp dụng với công dân của nước sở tại.
Điều 6.
Các
quốc gia thành viên công ước này nhất trí thực hiện mọi biện pháp cần thiết nhằm
bãi bỏ hoặc xoá bỏ các quy định pháp luật hoặc quy định hành chính hiện hành mà
theo đó những người tham gia hoặc bị tình nghi là tham gia mại dâm buộc phải có
đăng ký đặc biệt hoặc có một văn bản đặc biệt hoặc theo bất kỳ yêu cầu ngoại lệ
nào, cho việc giám sát hoặc thông báo.
Điều 7.
Những
tiền án được công bố ở nước ngoài đối với những tội phạm được đề cập trong Công
ước này, trong phạm vi pháp luật quốc gia cho phép, sẽ được xem xét nhằm mục
đích:
(1) Xác định sự tái phạm;
(2) Tước bỏ một số quyền
dân sự của người phạm tội.
Điều 8.
Những
tội phạm được đề cập tại các điều 1 và 2 của Công ước này sẽ bị coi là những tội
phạm có thể dẫn độ theo các điều ước quốc tế về dẫn độ đã được hoặc có thể được
ký kết giữa bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước này.
Những quốc gia thành
viên Công ước này không coi sự tồn tại của một điều ước quốc tế về dẫn độ là điều
kiện cho việc dẫn độ sẽ thừa nhận những tội phạm được đề cập tại các điều 1 và
2 của Công ước này là các tội phạm có thể dẫn độ giữa những quốc gia này với
nhau.
Việc dẫn độ sẽ được thực
hiện phù hợp với pháp luật của quốc gia được đề nghị dẫn độ.
Điều 9.
Tại
những quốc gia mà pháp luật không cho phép dẫn độ công dân, những công dân nào
đã trở về quốc gia họ, sau khi đã thực hiện bất kỳ tội phạm nào được nêu tại
các điều 1 và 2 của Công ước này ở nước ngoài, sẽ bị khởi tố và trừng phạt bởi
toà án của chính quốc gia của họ.
Quy định này sẽ không
được áp dụng trong trường hợp tương tự giữa các quốc gia thành viên Công ước
này, nếu việc dẫn độ người nước ngoài là không được phép.
Điều 10.
Những
quy định tại điều 9 sẽ không được áp dụng khi người bị cáo buộc phạm tội đã bị
xét xử ở nước ngoài, và nếu bị kết án, đã thi hành án hoặc được miễn thi hành,
hoặc được giảm án, phù hợp với pháp luật của quốc gia đó.
Điều 11.
Không
một quy định nào trong Công ước này được giải thích nhằm xác định thái độ của một
quốc gia đối với vấn đề chung về giới hạn quyền tài phán hình sự theo luật quốc
tế.
Điều 12.
Công
ước này không ảnh hưởng đến nguyên tắc những tội phạm được đề cập tại Công ước
này sẽ bị điều tra, bị khởi tố và trừng phạt phù hợp với pháp luật quốc gia của
mỗi nước.
Điều 13.
Các
quốc gia thành viên Công ước này có nghĩa vụ thực hiện những thư đề nghị liên
quan đến những tội phạm được đề cập trong công ước này phù hợp với pháp luật và
thực tiễn của mình.
Việc chuyển thư đề nghị
sẽ được thực hiện:
(1) Bằng việc thông
tin trực tiếp giữa các cơ quan tư pháp; hoặc
(2) Bằng việc thông
tin trực tiếp giữa các Bộ trưởng Tư pháp của hai quốc gia thành viên, hoặc bằng
việc thông tin trực tiếp từ một cơ quan có thẩm quyền của quốc gia gửi đề nghị
cho Bộ trưởng Tư pháp của quốc gia nhận được đề nghị; hoặc
(3) Thông qua cơ quan
đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của quốc gia gửi đề nghị tại quốc gia nhận được
đề nghị đó; cơ quan đại diện này sẽ trực tiếp gửi thư đề nghị lên cơ quan tư
pháp có thẩm quyền hoặc lên cơ quan mà chính phủ của quốc gia nhận được đề nghị
chỉ định, và sẽ tiếp nhận trực tiếp từ cơ quan đó những tài liệu giải trình về
việc thực hiện thư đề nghị.
Một bản sao thư đề nghị
sẽ được gửi cho cơ quan cấp có thẩm quyền cao nhất của quốc gia nhận được đề
nghị trong các trường hợp 1 và 3.
Trừ khi có thoả thuận
khác thư đề nghị sẽ được viết bằng ngôn ngữ của cơ quan gửi đề nghị với điều kiện
quốc gia nhận được đề nghị có thể yêu cầu một bản dịch ra ngôn ngữ của mình, có
xác nhận của cơ quan gửi đề nghị.
Mỗi quốc gia thành
viên của Công ước này sẽ thông báo cho các quốc gia thành viên khác về một hoặc
những phương thức/thủ tục mà mình công nhận về việc chuyển thư đề nghị được đề
cập trên đây.
Chừng nào một quốc gia
chưa đưa ra một thông báo như vậy, thì thủ tục hiện hành đối với thư đề nghị vẫn
có hiệu lực.
Việc thực hiện thư đề
nghị không có nghĩa là chấp nhận yêu cầu đòi bồi hoàn những chi phí hoặc chi
tiêu cho bất kỳ vấn đề nào khác ngoài những chi phí cho chuyên gia.
Không một nội dung nào
trong điều này được hiểu là sự cam kết của các quốc gia thành viên Công ước này
đối với việc thông qua bất kỳ hình thức hoặc phương pháp kiểm chứng nào trái với
pháp luật quốc gia của họ trong các vấn đề hình sự.
Điều 14.
Mỗi
quốc gia thành viên Công ước này cần thiết lập hoặc duy trì một cơ quan phụ
trách việc điều phối và thu thập kết quả điều tra về các loại tội phạm được nêu
trong Công ước này.
Những cơ quan này cần
thu thập mọi thông tin nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng chống và trừng
trị những loại tội phạm được nêu trong Công ước này, và cần có sự liên hệ chặt
chẽ với các cơ quan tương ứng ở các quốc gia thành viên khác.
Điều 15.
Trong
phạm vi pháp luật quốc gia cho phép và trong chừng mực các cơ quan chức năng chịu
trách nhiệm về những công việc được đề cập tại điều 14 đánh giá là cần thiết,
các cơ quan này sẽ cung cấp cho các cơ quan chức năng chịu trách nhiệm về các
công việc tương ứng ở các quốc gia thành viên khác những thông tin sau:
1. Những thông tin cụ
thể về bất kỳ tội phạm nào được nêu trong Công ước này hoặc mọi cố gắng thực hiện
tội phạm đó;
2. Những thông tin cụ
thể về mọi kế hoạch điều tra nhằm khởi tố, bắt giữ, kết tội, từ chối chấp nhận
hoặc trục xuất những người người phạm bất kỳ tội nào được nêu trong Công ước này,
việc di chuyển của những người này và mọi thông tin hữu ích khác liên quan đến
họ.
Thông tin được cung cấp
như vậy phải bao gồm những mô tả về người phạm tội, dấu vân tay, ảnh, phương
pháp hoạt động của họ, hồ sơ của cảnh sát và hồ sơ kết án.
Điều 16.
Các
quốc gia thành viên của Công ước này nhất trí tiến hành, hoặc khuyến khích, những
biện pháp nhằm ngăn chặn nạn mại dâm, phục hồi và hoà nhập xã hội cho những nạn
nhân của tệ nạn mại dâm và những tội phạm được nêu trong công ước này, thông
qua các dịch vụ giáo dục, y tế, xã hội, kinh tế công và tư cũng như các dịch vụ
liên quan khác.
Điều 17.
Liên
quan đến vấn đề nhập cư và di trú, các quốc gia thành viên công ước này cam kết
áp dụng hoặc duy trì, những biện pháp cần thiết, phù hợp với các nghĩa vụ theo
Công ước này, nhằm kiểm soát việc buôn bán người thuộc cả hai giới vào mục đích
mại dâm.
Cụ thể, các quốc gia
thành viên cam kết:
(1) Ban hành những qui
định cần thiết cho việc bảo vệ người di trú hoặc nhập cư, đặc biệt với phụ nữ
và trẻ em, ở tại cả nơi đến, nơi xuất phát và trên đường đi;
(2) Khuyến cáo công
khai một cách thích hợp cho người dân về những nguy cơ của tình trạng buôn bán
người được đề cập ở trên;
(3) Thực hiện các biện
pháp thích hợp nhằm bảo đảm giám sát các nhà ga xe lửa, sân bay, cảng biển và
trên đường đi, các địa điểm công cộng khác nhằm ngăn chặn việc buôn bán người
trên phạm vi quốc tế vào mục đích mại dâm;
(4) Thực hiện các biện
pháp thích hợp để các cơ quan chức năng liên quan được thông báo về việc đến của
những người bị tình nghi là thủ phạm, tòng phạm hay nạn nhân của việc buôn bán
người.
Điều 18.
Các
quốc gia thành viên Công ước này, phù hợp với những điều kiện do pháp luật quốc
gia qui định, cam kết sử dụng những khai báo của người nước ngoài làm nghề mại
dâm để xác định nhận dạng và địa vị dân sự của họ và để phát hiện người đã khiến
họ phải rời bỏ tổ quốc của mình. Những thông tin thu thập được sẽ chuyển cho
các cơ quan chức năng của quốc gia xuất xứ của những người được đề cập ở trên để
hồi hương họ sau này.
Điều 19.
Các
quốc gia thành viên Công ước này, phù hợp với những điều kiện do pháp luật quốc
gia quy định và không làm phương hại đến việc truy tố hoặc các hoạt động khác đối
với các hành vi vi phạm được đề cập dưới đây, với hết mức có thể, cam kết:
(1) Trong khi chờ hoàn
tất việc thu xếp hồi hương cho những nạn nhân của việc buôn bán người quốc tế
vì mục đích mại dâm, cung cấp các điều kiện phù hợp để họ được quan tâm chăm
sóc tạm thời;
(2) Hồi hương những
người được đề cập tại điều 18 có mong muốn được hồi hương, hoặc theo yêu cầu của
những người đang có thẩm quyền với họ, hoặc bị ra lệnh trục xuất phù hợp với
quy định của pháp luật. Việc hồi hương chỉ diễn ra sau khi đạt được sự nhất trí
với các quốc gia tiếp nhận về nhận dạng, quốc tịch cũng như địa điểm và thời
gian đến cửa khẩu. Mỗi quốc gia thành viên Công ước này phải tạo điệu kiện thuận
lợi cho việc di chuyển của những người này qua lãnh thổ của mình.
Trong trường hợp những
người được đề cập trên đây không thể tự chi trả các chi phí hồi hương, cũng như
không có vợ hoặc chồng, người thân hay người giám hộ trả những chi phí đó cho họ,
thì chi phí cho việc hồi hương tính đến cửa khẩu xuất cảnh hoặc cảng biển, hoặc
sân bay gần nhất để trở về với quốc gia xuất xứ sẽ do quốc gia nơi họ đang cư
trú chịu, và chi phí cho chặng còn lại của chuyến đi sẽ do quốc gia xuất xứ chịu.
Điều 20.
Các
quốc gia thành viên Công ước này sẽ tiến hành các biện pháp cần thiết, nếu chưa
làm như vậy, để giám sát các cơ quan giới thiệu việc làm nhằm ngăn chặn việc những
người đang tìm kiếm việc làm, cụ thể là phụ nữ và trẻ em, bị đặt vào nguy cơ mại
dâm.
Điều 21.
Các
quốc gia thành viên của Công ước này có nghĩa vụ gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc những quy định pháp luật đã được ban hành trong nước, và những quy định
pháp luật được ban hành sau đó hàng năm liên quan đến nội dung của Công ước
này, cũng như mọi biện pháp được các quốc gia áp dụng liên quan đến việc thực
hiện Công ước này. Mọi thông tin nhận được sẽ được Tổng thư ký công bố theo định
kỳ và gửi cho tất cả các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc cũng như các quốc
gia chưa phải là thành viên nhưng đã được chính thức gửi văn kiện phê chuẩn hay
gia nhập công ước này theo quy định tại điều 23.
Điều 22.
Bất
kỳ tranh chấp nào nảy sinh giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải
thích hoặc áp dụng Công ước, và nếu tranh chấp đó không thể giải quyết được bằng
những biện pháp khác, thì theo đề nghị của bất kỳ một trong các bên tranh chấp,
tranh chấp đó sẽ được chuyển lên Toà án Công lý Quốc tế để giải quyết.
Điều 23.
Công
ước này sẽ để ngỏ cho bất kỳ quốc gia thành viên nào của Liên Hợp Quốc và bất kỳ
quốc gia nào khác mà Hội đồng Kinh tế và Xã hội đã gửi giấy mời ký.
Công ước này phải được
phê chuẩn, văn kiện phê chuẩn sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Những quốc gia được đề
cập tại khoản 1 điều này mà chưa ký Công ước thì có thể gia nhập công ước.
Việc gia nhập sẽ có hiệu
lực sau khi văn kiện gia nhập đã được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Trong Công ước này, từ
quốc gia sẽ bao gồm mọi thuộc địa và lãnh thổ uỷ trị của một quốc gia thành
viên Công ước này, và việc ký kết hoặc gia nhập của quốc gia chính quốc với
Công ước này sẽ có hiệu lực cho tất cả các lãnh thổ mà quốc gia đó có trách nhiệm
quốc tế.
Điều 24.
Công
ước này sẽ bắt đầu có hiệu lực sau 90 ngày kể từ ngày văn kiện phê chuẩn hoặc
gia nhập thứ hai được nộp lưu chiểu.
Đối với mỗi quốc gia
phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước này sau khi văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập
thứ hai đã được nộp lưu chiểu, Công ước sẽ bắt đầu có hiệu lực sau 90 ngày kể từ
ngày quốc gia đó nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập.
Điều 25.
Sau
5 năm kể từ khi Công ước này bắt đầu có hiệu lực, mọi quốc gia thành viên có thể
rút khỏi Công ước bằng một văn bản thông báo gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Việc rút khỏi Công ước
sẽ có hiệu lực đối với quốc gia thành viên rút khỏi Công ước sau một năm kể từ
ngày Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhận được thông báo rút khỏi Công ước.
Điều 26.
Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên Liên Hợp
Quốc và các quốc gia chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc được đề cập tại
điều 23 về:
a. Các văn kiện ký,
phê chuẩn và gia nhập nhận được theo điều 23;
b. Ngày mà công ước
này sẽ bắt đầu có hiệu lực theo điều 24;
c. Thông báo rút khỏi Công
ước nhận được theo điều 25;
Điều 27.
Mỗi
quốc gia thành viên Công ước này, phù hợp với Hiến pháp của mình, cam kết áp dụng
các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp cần thiết khác nhằm bảo đảm việc thực
hiện Công ước này.
Điều 28.
Các
quy định trong Công ước này sẽ thay cho những quy định trong các văn kiện quốc
tế được đề cập tại các điểm 1,2,3 và 4 của đoạn thứ hai trong Lời nói đầu,
trong quan hệ giữa các quốc gia thành viên. Những văn kiện đó sẽ bị coi là chấm
dứt hiệu lực khi tất cả các thành viên của những văn kiện quốc tế đó trở thành
thành viên của Công ước này.
Nghị định thư cuối cùng
Không một quy định nào
trong Công ước này được coi là làm phương hại đến bất kỳ văn bản pháp luật nào
đưa ra các điều kiện nghiêm khắc hơn những điều kiện được quy định trong Công ước
này, để thực hiện những quy định nhằm bảo đảm trấn áp việc buôn bán người và
bóc lột người khác vào mục đích mại dâm.
Những quy định từ các
điều 23 đến 26 trong Công ước sẽ áp dụng cho Nghị định thư này.