BỘ
TÀI CHÍNH-BỘ NỘI THƯƠNG-NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
21-TT/LB
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 06 năm 1966
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHỈ THỊ SỐ 153-TTG/TN NGÀY 21/12/1965 CỦA
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC CHO CÁN BỘ, CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC VAY TIỀN MUA XE ĐẠP
VÀ XE MÔ TÔ (HOẶC XE ĐẠP MÁY)
Kính gửi:
|
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan trực thuộc hội đồng Chính phủ,
- Các đoàn thể ở trung ương ương,
- Các ủy ban hành chính khu, tỉnh thành phố.
|
Thủ tướng Chính phủ đã Chỉ thị số
153-TTg/TN ngày 21-12-1965 về việc cho cán bộ, công nhân, viên chức (dưới đây gọi
tắt là công nhân viên chức) vay tiền mua xe đạp, xe mô tô (hoặc xe đạp máy) để
có phương tiện phục vụ công tác. Dưới đây Liên bộ Tài chính - Nội thương – Ngân
hàng nhà nước hướng dẫn thi hành chỉ thị nói trên về phần cho vay tiền mua xe đạp.
I. ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC MUA CHỊU XE
ĐẠP
Do khả năng của Mậu dịch quốc
doanh có hạn, mà yêu cầu cung cấp xe đạp thì lớn, nên việc xác định các đối tượng
được mua chịu xe đạp phải chặt chẽ, và cần sắp xếp thứ tự ưu tiên như sau:
1. Công nhân, viên chức hiện nay
làm công tác có tính chất lưu động mà chưa có xe đạp vì hoàn cảnh túng thiếu.
Tuy nhiên, trong nội bộ mỗi cơ
quan, xí nghiệp, nên dành ưu tiên cho những người phải lưu động thường xuyên, cần
có xe để đảm bảo sản xuất, công tác, nhưng lại quá túng thiếu, nên chưa mua được
xe.
2. Công nhân viên chức làm công
tác tỉnh không được chịu mua xe đạp. Cá biệt, đối với những người mà chỗ ở quá
xa nơi làm việc, chưa có xe đạp vì quá túng thiếu thì nếu còn xe, cơ quan, xí
nghiệp có thể xét chiếu cố và cho mua chịu, sau khi đã bán đủ xe cho những đối
tượng nói ở điểm 1.
Công nhân, viên chức đã có xe đạp,
nhưng sau ngày 21/12/1965 (ngày có chủ trương của Thủ tướng Chính phủ cho bán
chịu xe) đã chuyển nhượng hoặc bán lại xe, thì không được mua chịu xe đạp.
II. TRÁCH NHIỆM VÀ QUYỀN LỢI
CỦA NGƯỜI ĐƯỢC MUA CHỊU XE ĐẠP.
1. Người được mua chịu xe đạp phải
trả ngay khi mua, ít nhất một phần ba tiền chiếc xe đạp. Số tiền còn lại sẽ trừ
dần vào lương hàng tháng, trong thời gian nhiều nhất là 18 tháng, theo đúng như
quy định trong Chỉ thị số 153-TTg/TN của Thủ tướng Chính phủ.
Trong bất cứ trường hợp
nào, người mua chịu xe không được viện lý do để xin kéo dài thời hạn trả nợ quá
18 tháng hoặc xin giảm nợ.
Quy định như trên là để người
mua chịu xe đạp tính toán sắp xếp kế hoạch chi tiêu của mình để khi mua xe và
trả tiền xe hàng tháng không ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường, đồng thời
cũng không ảnh hưởng đến tài chính Nhà nước. Trong quá trình trả nợ, nếu có điều
kiện, người mua xe có thể xin trả nợ trừ vào lương hàng tháng một mức cao hơn mức
đã dự kiến lúc mua xe, để chóng thanh toán nợ, trước thời hạn.
2. Công nhân, viên chức được mua
chịu xe đạp, nếu chưa trả hết số tiền còn chịu thì không được bán lại xe. Sau
khi trả hết nợ, nếu muốn bán xe thì phải được Thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp,
sau khi có ý kiến của công đoàn, cho phép và chi được bán lại trong nội bộ cơ
quan, xí nghiệp hoặc cho thương nghiệp quốc doanh, tuyệt đối không được đem ra
đổi chác mua bán ở thị trường tự do. Ngành công an sẽ có sự phối hợp để quản lý
qua việc đăng ký xe đạp.
3. Người mua chịu sẽ đạp được hưởng
giá bán cung cấp nếu:
- Từ trước đến nay chưa có xe đạp;
- Hoặc đã có xe đạp nhưng đã bán
cho thương nghiệp quốc doanh hoặc đã nhượng lại cho người khác trong nội bộ cơ
quan, xí nghiệp (theo giá thu mua của thương nghiệp quốc doanh), hoặc bị mất xe
trong những trường hợp được xác nhận.
Đối với những người đã có xe đạp
(không phân biệt là xe trước đây mua lại của cơ quan, hay mua theo phiếu cung cấp,
hay mua tự do) nhưng đã bán ở thị trường tự do, bất cứ vì lý do gì, thì phải
mua theo giá bán tự do của thương nghiệp quốc doanh, dù được mua chịu hay mua
trả tiền ngay.
4. Mỗi người chỉ được mua chịu một
xe. Người đã được mua chịu xe thì không được mua chịu xe mô tô ( hoặc xe đạp
máy) và ngược lại.
5. Người vay tiền mua xe đạp phải
có giấy biên nhận và cam đoan xin trừ vào tiền lương hàng tháng (mẫu số 3-XĐ)([1]).
III. PHÂN PHỐI XE ĐẠP BÁN CHỊU
Tùy theo khả năng vật tư, hàng
năm, Thủ tướng Chính phủ sẽ ấn định sổ lượng xe đạp bán chịu cho công nhân,
viên chức. Căn cứa vào số lượng xe đó, Bộ Nội thương phối hợp với Bộ tài chính
đặt kế hoạch phân phối từng thời kỳ.
Ở các địa phương, khi nhận được
chỉ tiêu phân phối xe, cơ quan thương nghiệp sẽ phối hợp với cơ quan tài chính
cùng cấp, đặt kế hoạch phân phối cho mỗi cơ quan, xí nghiệp đóng tại địa
phương. Sau khi được Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố duyệt kế hoạch bán chịu
xe đạp, cơ quan thương nghiệp làm thông báo số lượng xe phân phối cho từng cơ
quan, xí nghiệp, đồng thời sao gửi cho cơ quan tài chính để làm tài liệu xét
các dự trù mua chịu xe. Thông báo ghi rõ số lượng xe từng loại, giá tiền (cung
cấp và tự do).
Về kiểu xe, xe nữ chỉ dành riêng
cho nữ công nhân, viên chức được mua thôi.
IV. THỦ TỤC CẤP PHÁT CHO VAY
TIỀN MUA XE VÀ THU HỒI NỢ.
1. Lập và xét duyệt dự trù cho
vay tiền mua chịu xe.
Tại mỗi cơ quan, xí nghiệp, căn
cứ vào số lượng xe được phân phối từng đợt, chính quyền phối hợp với đoàn
nghiên cứu, xét duyệt danh sách những người được mua chịu xe, và lập bản dự trù
vay tiền (mẫu số 1-XĐ)([2]). Bản dự trù này do thủ trưởng cơ
quan, xí nghiệp (hoặc người được ủy nhiệm) ký, sẽ coi là một hợp đồng vay tiền
và gửi đến cơ quan tài chính cùng cấp xét, cấp tiền cho vay.
Ngành chủ quản xét và tổng hợp dự
trù vay tiền của các đơn vị trực thuộc (mẫu số 2 - XĐ)([3])gửi
đến cơ quan tài chính cùng cấp xét cấp tiền cho vay.
Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc
phân phối và mua xe cũng như việc theo dõi thu hồi nợ, các đơn vị trực thuộc
Trung ương đóng tại địa phương (không kể những cơ sở ở nội ngoại thành Hà Nội)
có tính chất ổn định, không phải gửi dự trù về Bộ chủ quản tổng hợp, mà gửi đến
cơ quan tài chính nơi đơn vị đồng trụ sở xét cấp tiền vay.
Những đơn vị trực thuộc Trung
ương đóng tại địa phương, nhưng chỗ ở không được ổn định (thí dụ các công trường
cầu đường của Bộ Giao thông vận tải, các công trường thuỷ nông của Bộ Thuỷ lợi,
các cơ sở sơ tán của các Bộ, Tổng cục…) gửi bản dự trù về Bộ chủ quản tổng hợp
và chuyển đến Bộ Tài chính xét cấp tiền vay.
Đối với những cơ quan, xí nghiệp
trực thuộc khu Việt Bắc và Khu Tây Bắc thì dự trù vay tiền gửi đến các Ty tài
chính Bắc Thái (đối với khu Việt Bắc) và Sơn La (đối với khu Tây Bắc) giải quyết.
Ở cấp huyện, Ủy ban hành chính
huyện lập dự trù chung cho những cơ quan lĩnh lương tại huyện và gửi đến ty tài
chính tỉnh xét cấp tiền vay. Đối với những cơ quan chung quanh huyện nhưng do
các ty chủ quản trả lương, thì dự trù mua chịu xe với các ty chủ quản.
2. Cấp phát tiền vay mua xe đạp
và thanh toán tiền xe với mậu dịch.
Tiền cho công nhân, viên chức
vay mua xe đạp do ngân sách nhà nước tạm cấp. Ở Trung ương, Bộ tài chính tạm cấp
vào ngân sách Trung ương. Ở địa phương, Sở, Ty tài chính tạm cấp vào ngân sách
địa phương. Tiền cho vay mua xe đạp không cấp cho cá nhân hoặc đơn vị vay tiền
mà sẽ chuyển khoản cho công ty kinh doanh xe đạp.
Tiền cho vay mua xe đạp thu hồi
hàng tháng không nộp vào ngân sách nhà nước mà sẽ nộp vào tài khoản riêng (tài
khoản 733, tiểu khoản 02 “ tiền cho vay mua xe đạp”) của cơ quan tài chính mở tại
Ngân hàng Nhà nước để làm vốn luân chuyển cho vay mua xe đạp. Trong những đợt
sau đợt đầu, nếu vốn này thiếu, thì ngân sách mới tạm cấp thêm. Tuyệt đối không
được dùng tiền ở tài khoản trên để chi vào việc nào khác ngoài việc cho vay mua
xe đạp.
Cơ quan tài chính, sau khi cấp
tiền vay mua xe đạp, sẽ cấp cho đơn vị được vay tiền một giấy giới thiệu mua xe
đạp (mẫu số 5-XĐ)([4])và gửi đến Ngân hàng Nhà nước (hoặc
Ngân hàng kiến thiết) nơi đơn vị mở tài khoản, thông báo khấu trừ lương hàng
tháng (mẫu số 4-XĐ)([5]).
Căn cứ vào giấy giới thiệu, đối
chiếu với giấy báo Có của ngân hàng, công ty kinh doanh xe đạp thu đủ số tiền mặt
của đơn vị phải thanh toán và cấp cho đơn vị các phiếu lĩnh xe (mỗi xe cấp một
phiếu, trong đó ghi rõ loại xe, kiểu xe, giá tiền, thời hạn lĩnh xe, cửa hàng
giao xe).
Đơn vị phân phối phiếu lĩnh xe
cho người mua để tự đi lĩnh xe ở cửa hàng quy định. Khi giao xe, cửa hàng cấp
hóa đơn cho người mua để tiện sử dụng trong việc đăng ký xe.
3. Theo dõi thu hồi tiền cho vay
mua xe đạp.
Việc thu hồi tiền chi vay mua xe
đạp bắt đầu từ tháng tiếp ngay sau tháng đơn vị được cấp tiền vay. Thí dụ: được
cấp tiền vay tháng 7 thì bắt đầu trừ lương từ tháng 8, được cấp tháng 10 thì bắt
đầu trừ lương từ tháng 11.
a) Trách nhiệm của cơ quan xí
nghiệp.
Cơ quan, xí nghiệp vay tiền mua
xe đạp có trách nhiệm theo dõi việc thu hồi tiền cho công nhân, viên chức vay bằng
cách trừ vào phần lương kỳ đầu của mỗi tháng. Để không ảnh hưởng đến sinh hoạt
thường của người mua chịu xe, tiền lương của người đó, sau khi trừ tiền nợ xe đạp,
được trả làm hai lần theo tỷ lệ như quy định hiện hành. Thí dụ: ông A lĩnh
lương tháng 70đ, phải trả nợ tiền mua chịu xe đạp mỗi tháng 10đ. Tiền lương còn
lại trả như sau:
- Trừ tiền nợ xe đạp vào lương kỳ
I: 10 đ
- Được lĩnh lương kỳ I 60% số
lương còn lại:
(70đ – 10đ) x 60
|
=
|
36đ
|
100
|
- Lương kỳ II còn được lĩnh 40%
số lương còn lại:
(70đ – 10đ) x 40
|
=
|
24đ
|
100
|
Cơ quan, xí nghiệp có vay tiền
mua xe phải mở sổ theo dõi từng người mua xe để ghi số tiền vay, số tiền trừ
vào lương hàng tháng.
Việc lập thông báo khấu trừ
lương do cơ quan, xí nghiệp vay chịu trách nhiệm gửi hai bản đến cơ quan tài
chính.
Trong qúy nếu có thay đổi mức khấu
trừ, cần kịp thời lập lại thông báo.
Hàng tháng, khi đến lĩnh lương kỳ
I, đơn vị vay nộp cho ngân hàng Nhà nước giấy rút kinh phí kiêm giấy ủy nhiệm
chi (nếu là cơ quan hành chính sự nghiệp), hoặc giấy ủy nhiệm chi kèm theo giấy
nộp tiền (nếu là xí nghiệp) để trả vào tài khoản “tiền cho vay mua xe đạp”
đúng số tiền đã ghi trong thông báo trừ lương.
Hàng quý, cơ quan, xí nghiệp làm
báo cáo tình hình thu hồi nợ gửi đơn vị chủ quản để tổng hợp gửi cơ quan tài
chính. Báo cáo cần ghi rõ tổng số tiền được vay, số tiền trả từng qúy, sổ tiền
còn nợ.
b) Trách nhiệm của cơ quan tài
chính.
Cơ quan tài chính cần mở sổ theo
dõi riêng từng đơn vị chủ quản có vay tiền mua xe đạp, đồng thời cũng phải có sổ
theo dõi tài khoản “tiền cho vay mua xe đạp” lưu ký ở Ngân hàng Nhà nước để
luôn luôn nắm chắc tình hình chi, thu. Hàng tháng, cơ quan tài chính phải đối
chiếu sổ sách với Ngân hàng nhà nước về số chi, thu của tài khoản nói trên.
Ngoài ra, mỗi lần cấp lệnh tạm cấp
tiền cho vay mua xe đạp, cơ quan tài chính phải ghi sổ riêng để theo dõi việc bỏ
vốn ra cho công nhân, viên chức vay mua xe đạp và hoàn lại toàn bộ số vốn đó
cho ngân sách Nhà nước sau này, khi có chủ trương đình chỉ việc bán chịu xe.
c) Trách nhiệm của cơ quan Ngân
hàng Nhà nước và Ngân hàng kiến thiết.
Các cơ quan này có trách nhiệm,
căn cứ vào thông báo khấu trừ lương, hàng tháng thu hồi và nộp tiền khấu trừ
vào tài khoản “tiền cho vay mua xe đạp”.
Ngân hàng sẽ chủ động giữ lại phần
lương phải trừ đối với những đơn vị không làm đầy đủ thủ tục trích nộp hoặc trả
nợ dưới mức ghi trong thông báo trừ lương.
Hàng tháng, Ngân hàng nhà nước lập
bản sao kê tài khoản “tiền cho vay mua xe đạp” gửi cho cơ quan tài chính để
theo dõi đối chiếu sổ sách.
Đối với những đơn vị do vốn kiến
thiết cơ bản đài thọ tiền lương, các chi điểm ngân hàng kiến thiết có trách nhiệm
kiểm soát bảng lương và giữ lại số tiền trừ nợ xe đạp như đã ghi trong thông
báo. Ngân hàng kiến thiết làm séc chuyển khoản số tiền đó trả cho tài chính vào
tài khoản 733 tiểu khoản 02 “tiền cho vay mua xe đạp” lưu ký ở Ngân
hàng Nhà nước.
d) Theo dõi nợ khi người vay được
điều động đi nơi khác.
Trong trường hợp công nhân, viên
chức chưa trả hết tiền vay mua xe đạp mà được điều động đến công tác ở
đơn vị khác, việc theo dõi thu hồi nợ phải hết sức chặt chẽ trên nguyên tắc:
- Người vay có trách nhiệm tiếp
tục tài trả nợ khi đến nhận công tác và lĩnh lương tại đơn vị mới;
- Sau khi đơn vị cũ hết trách
nhiệm trừ vào lương trả cho người vay đến tháng thôi lĩnh lương ở đơn vị cũ,
thì đơn vị mới bắt đầu có trách nhiệm tiếp tục trừ lương của đương sự ngay
từ tháng bắt đầu lĩnh lương tại đơn vị mình;
- Nếu người vay được điều động đến
tỉnh khác, cơ quan tài chính nơi mới có trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại
của đương sự, trả vào tài khoản “tiền cho vay mua xe đạp” của cơ quan tài chính
nơi cũ.
Để đảm bảo thực hiện các nguyên
tắc trên đây, cần tiến hành những thủ tục như sau:
Đối với đơn vị cũ:
- Ghi rõ trên “giấy thôi trả
lương” của người vay số tiền còn thiếu và số tháng còn phải trả;
- Báo cho đơn vị mới biết bằng
công văn riêng kèm theo giấy biên nhận của đương sự khi vay tiền;
- Lập lại thông báo trừ lương gửi
cơ quan tài chính để điều chỉnh mức khẩu trừ (kèm theo giấy báo tên người vay,
được điều động công tác đến cơ quan, xí nghiệp ở tỉnh nào).
Đối với đơn vị mới:
- Ghi tên đương sự vào sổ theo
dõi người vay tiền mua xe đạp;
- Lập thông báo trừ lương gửi cơ
quan tài chính xác nhận và tiếp tục trừ lương của đương sự tại đơn vị mình.
Đối với cơ quan tài chính:
- Nếu người vay chuyển công tác
cùng một tỉnh, thì phải xác nhận trên các thông báo trừ lương của đơn vị cũ và
đơn vị mới để điều chỉnh mức thu nợ giữa hai đơn vị, trước khi gửi cho ngân
hàng;
- Nếu người vay chuyển đi tỉnh
khác, cơ quan tài chính nơi cũ xác nhận thông báo trừ lương của đơn vị cũ như
trên, đồng thời báo cho cơ quan tài chính nơi mới biết số tiền đương sự còn phải
trả nợ, số tháng trả và tên đơn vị tiếp nhận người vay;
- Cơ quan tài chính nơi mới, sau
khi xác minh người vay đã đến nhận công tác tại tỉnh mình, làm thư chuyển tiền
trích khoản “tiền cho vay mua xe đạp” của địa phương để thanh toán hết số nợ
còn lại của đương sự, trả cho cơ quan tài chính nơi cũ (qua vãng lai liên hàng)
vào tài khoản “Tiền cho vay mua xe đạp” ở nơi đó.
Số tiền thanh toán này coi như một
khoản tạm cấp cho đơn vị tiếp nhận người vay được chuyển đến, nên sau khi báo
cho đơn vị đó biết, cơ quan tài chính nơi mới ghi vào sổ theo dõi các đơn vị
vay tiền mua xe đạp và đôn đốc việc thu hồi nợ vào tài khoản “Tiền cho vay mua
xe đạp” của tỉnh mình.
V. TỔ CHỨC BÁN CHỊU XE ĐẠP.
Việc bán chịu xe đạp cho công
nhân, viên chức sẽ tiến hành mỗi quý một đợt vào tháng đầu qúy.
Đợt đầu sẽ tiến hành vào đầu qúy
III năm 1966.
Các cơ quan, xí nghiệp cần gửi dự
trù vay tiền mua xe đến cơ quan tài chính trước ngày 20 tháng thứ ba của mỗi
qúy.
VI. PHẠM VI THI HÀNH.
Chế độ bán chịu xe đạp trên đây
áp dụng chung cho các cơ quan hành chính sự nghiệp và các xí nghiệp quốc doanh
(kể cả xí nghiệp công tư hợp doanh đã thi hành thống nhất chế độ tiền lương như
xí nghiệp quốc doanh) từ cấp huyện trở lên. Các cơ quan Đảng, các đoàn thể quần
chúng và các tổ chức xã hội được ngân sách nhà nước trợ cấp thường xuyên, cũng
áp dụng chế độ bán chịu xe đạp nói trên.
Riêng đối với các lực lượng vũ
trang, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, dựa vào những quy định chung của thông tư
này, có văn bản hướng dẫn thi hành trong các cơ quan đơn vị thuộc ngành mình,
sau khi thỏa thuận với Bộ Tài chính.
Căn cứ thông tư này, Bộ Nội
thương, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước sẽ có những quy định riêng về nghiệp
vụ để hướng dẫn trong ngành thi hành thông tư này được thống nhất, đầy đủ và chặt
chẽ.
Việc bán chịu xe cho công nhân,
viên chức có một số khó khăn, phức tạp, nhu cầu của công nhân, viên chức thì lớn
mà khả năng cung cấp xe thì hạn chế nên chỉ giải quyết được trong một chừng mực
nhất định; thời gian thu hồi đủ vốn cho vay về ngân sách Nhà nước phải kéo dài
trên một năm nên việc theo dõi, thu nợ có khó khăn nhất định, đặc biệt là đối với
những công nhân, viên chức có thay đổi đơn vị công tác…
Vì vậy, liên Bộ đề nghị các Bộ,
các cơ quan và Ủy ban hành chính các cấp chú trọng lãnh đạo chặt chẽ việc bán
chịu xe cho công nhân, viên chức, nhằm thực hiện tốt chủ trương của Chính phủ
là bán đúng đối tượng, đúng nơi có nhu cầu, nhằm bảo đảm công tác, đảm bảo đoàn
kết và nhất thiết không được để hao hụt công qũy.
Ở mỗi ngành, mỗi cấp làm thí điểm
(trước một bước) tại một hoặc hai đơn vị để có kinh nghiệm chỉ đạo rộng rãi. Cơ
quan tài chính phải hướng dẫn kỹ các đơn vị trong việc giữ sổ sách.
Trong khi thi hành, nếu có khó
khăn vướng mắc, đề nghị các Bộ, các cơ quan và Ủy ban hành chính các cấp kịp thời
phản ánh về liên Bộ để nghiên cứu giải quyết.
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ NỘI THƯƠNG
THỨ TRƯỞNG
Hoàng Quốc Thịnh
|
KT. TỔNG
GIÁM ĐỐC
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
Trần Dương
|
[1]Mẫu số 3 – XĐ
không đăng công báo
[2]Các mẫu số 1 – XĐ
và số 2 – XĐ không công báo.
[3]Các mẫu số 1 – XĐ
và số 2 – XĐ không công báo.
[4]Các mẫu số 5-XĐ và
số 4 – XĐ không đăng công báo
[5]Các mẫu số 5-XĐ và
số 4 – XĐ không đăng công báo
|