NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM- BỘ TÀI CHÍNH
*******
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số
: 14-LB/TT
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 02 năm 1977
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG CẢI TIẾN VÀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG
Trong những
năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã động viên những nguồn vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế và nhiều nguồn khác để cho vay, góp phần bảo đảm cho các xí nghiệp quốc
doanh có vốn cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh; giúp khu vực
kinh tế tập thể bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, đưa được một số
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, góp phần giữ vững sản xuất và củng cố quan hệ sản
xuất mới, trong hoàn cảnh có thiên tai, dịch họa và nguồn thu nhập, tích luỹ của
các hợp tác xã còn hạn chế. Ở các tỉnh phía Nam sau ngày miền Nam được hoàn
toàn giải phóng, tín dụng ngân hàng đã góp phần phục hồi và cải tạo nông nghiệp,
công nghiệp, thương nghiệp và các ngành khác. Thông qua hoạt động tín dụng,
Ngân hàng Nhà nước đã cố gắng thực hiện việc kiểm soát bằng đồng tiền đối vối
hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy các ngành, các xí nghiệp và tổ chức
kinh tế cơ sở từng bước tăng cường quản lý kinh tế tài chánh, xác lập và củng cố
chế độ hạch toán kinh tế.
Tuy nhiên,
công tác tín dụng chưa bao quát được các lĩnh vực và các đối tượng cần đầu tư,
nhiều xí nghiệp quốc doanh không vay vốn hoặc vay vốn ngân hàng không thường
xuyên, tín dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản phát triển chậm; căn cứ kinh tế
và kỹ thuật để thực hiện cho vay và quản lý vốn chưa được tôn trọng, nhiều trường
hợp vốn cho vay còn mang tính chất bao cấp, việc theo dõi và kiểm tra các xí
nghiệp và tổ chức kinh tế về quản lý, sử dụng vốn thiếu chặt chẽ, hiệu quả sử dụng
vốn thấp, nhiều trường hợp không thu được nợ, vật tư hàng hóa ứ đọng còn nhiều,
tình trạng các xí nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau gây ra nợ nần dây dưa phổ biến
và nghiêm trọng; trách nhiệm của tài chính, ngân hàng, xí nghiệp về mặt bảo đảm
vốn và quản lý vốn chưa rõ, nhiều trường hợp giữa ngân hàng và tài chính khi giải
quyết khó khăn cho xí nghiệp còn đùn đẩy cho nhau, dẫm đạp vào công tác của
nhau, đồng thời bỏ trống trận địa, tạo sơ hở trong công tác quản lý.
Những khuyết,
nhược điểm trên, một phần do bước đầu xây dựng nền kinh tế từ sản xuất nhỏ đi
lên, bản thân ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm ; trong điều kiện chiến tranh,
yêu cầu hàng đầu là duy trì và bảo đảm sản xuất và chiến đấu cho nên việc
thực hiện các nguyên tắc chế độ còn cần phải châm chước, tính chất bao cấp của
tín dụng do đó càng trở nên phổ biến.
Bước vào giai
đoạn mới của sự nghiệp cách mạng đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, việc khắc
phục những khuyết điểm và nhược điểm về quản lý vốn và cải tiến quản lý vốn có
vị trí rất quan trọng trong toàn bộ công tác cải tiến quản lý kinh tế. Thi hành
quyết định số 32-CP ngày 11-02-1977 về cải tiến và mở rộng tín dụng ngân hàng của
Hội đồng Chính phủ, liên bộ Ngân hàng Nhà nước – Tài chính ban hành thông tư hướng
dẫn việc thực hiện chủ trương trên như sau.
I. CẢI TIẾN
CHẾ ĐỘ CHO VAY, CẤP PHÁT VÀ QUẢN LÝ VỐN LƯU ĐỘNG
1. Yêu cầu của
việc cho vay, cấp phát và quản lý vốn lưu động là nhằm bảo đảm đủ vốn cần thiết
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp và các tổ chức kinh tế khác,
không để xí nghiệp và các tổ chức kinh tế gặp khó khăn vì thiếu vốn, ảnh hưởng
đến sản xuất kinh doanh; đồng thời đòi hỏi xí nghiệp phải huy động và sử dụng mọi
nguồn vốn tự có để đưa vào sản xuất, kinh doanh, không để thừa vốn, ứ đọng và
lãng phí vốn, thông qua việc cho vay, cấp phát và quản lý vốn, mà thúc đẩy việc
luân chuyển vốn, hàng hóa vật tư và không ngừng tăng cường quản lý xí nghiệp.
2. Cần phải
tính toán và xét duyệt định mức vốn lưu động cho xí nghiệp, tổ chức kinh tế.
Phải căn cứ vào
tính chất, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và các điều kiện cung cấp, sản xuất
tiêu thụ sản phẩm của từng xí nghiệp mà tiến hành tính toán và xét duyệt định mức
vốn lưu động một cách hợp lý, có căn cứ kinh tế - kỹ thuật, làm cơ sở cho việc
xác định mức vốn lưu động năm 1977 và các năm tiếp theo cho đến năm 1980. Định
mức vốn lưu động của xí nghiệp do giám đốc xí nghiệp hoặc chủ nhiệm công ty, tổng
công ty, liên hiệp xí nghiệp tính toán, với sự tham gia của cơ quan tài chính
và ngân hàng phục vụ mình, sau đó trình lên cấp có thẩm quyền xét duyệt. Đối với
những xí nghiệp, tổ chức kinh tế trực thuộc trung ương do bộ chủ quản, Bộ Tài
chính và Ngân hàng Nhà nước trung ương xét duyệt; đối với các xí nghiệp, tổ chức
kinh tế địa phương do Sở, Ty, chủ quản, Sở, Ty tài chính, ngân hàng Nhà nước tỉnh,
thành phố xét duyệt.
Kể từ năm
1978 cho đến năm 1980, hàng năm, các xí nghiệp căn cứ vào định mức vốn lưu động
nói trên và sự thay đổi giá trị tổng sản lượng hoặc doanh số hoạt động để tính
toán kế hoạch vốn lưu động ăn khớp với kế hoạch sản xuất - kỹ thuật – tài chính
của xí nghiệp, theo nguyên tắc chung là tốc độ tăng vốn lưu động phải thấp hơn
tốc độ tăng giá trị tổng sản lượng hoặc doanh số hoạt động. Bộ Tài chính và
Ngân hàng Nhà nước sẽ cùng với ngành chủ quản quy định cụ thể hệ số tăng, giảm
vốn lưu động so với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh để các xí nghiệp tính mức vốn
lưu động được đơn giản và kịp thời. Khi nào giá trị tổng sản lượng, hoặc doanh
số hoạt động tăng thêm 30% trở lên đối với nông trường quốc doanh và các xí
nghiệp đã sử dụng trên 70% công suất thiết bị, 50% trở lên đối với các xí nghiệp
khác, so với lần định mức trước, thì tính toán và xét duyệt lại định mức vốn
lưu động.
3. Vốn lưu động
định mức của xí nghiệp quốc doanh được hình thành bằng hai nguồn vốn: vốn lưu động
tự có và coi như tự có, vốn lưu động vay của Ngân hàng Nhà nước .
Vốn lưu động
tự có và coi như tự có gồm:
- Vốn ngân
sách Nhà nước cấp;
- Vốn được bổ
sung bằng lợi nhuận xí nghiệp;
- Vốn coi như
tự có gồm: tiền lương phải trả nhưng chưa đến kỳ trả, chi phí về tiền nhà, điện,
nước phải trả nhưng chưa đến kỳ trả, các khoản phải nộp ngân sách nhưng chưa đến
hạn nộp, chi phí trước trước và các khoản khác (nếu có).
4. Tỷ lệ vốn
lưu động tự có và coi như tự có tham gia cấu tạo vốn lưu động định mức hàng năm
quy định như sau :
- 10% (mười
phần trăm) đối với các xí nghiệp dịch vụ, vốn lưu động hàng hóa của xí nghiệp
ăn uống công cộng;
- 20% (hai
mươi phần trăm) đối với các nghiệp vận tải, nghiệp vụ bưu điện;
- 30% (ba
mươi phần trăm) đối với vốn lưu động hàng hóa của các tổ chức thương nghiệp;
- 50% (năm
mươi phần trăm) đối với các xí nghiệp, công nghiệp của tất cả các ngành; xí
nghiệp nông nghiệp, khai thác lâm sản, thủy hải sản, muối; các tổ chức cung
tiêu kể cả thiết bị lẻ, và các loại xí nghiệp khác.
Vốn lưu động
định mức không phải là hàng hóa của các tổ chức thương nghiệp và cung
tiêu được ngân sách Nhà nước cấp 100% (một trăm phần trăm).
Các xí nghiệp
xây lắp; bao thầu phải hạch toán kinh tế và xác định mức vốn lưu động như các
xí nghiệp sản xuất khác; Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính sẽ quy định tỷ lệ vốn
tự có và vốn đi vay thích hợp.
5. Mức vốn
lưu động tự có và coi như tự có kế hoạch tăng thêm hàng năm quy định như sau :
- Trước hết
các xí nghiệp phải tận dụng các khoản nợ định mức tăng thêm;
- Số còn thiếu,
xí nghiệp được trích từ lợi nhuận năm kế hoạch để bổ sung theo chế độ phân phối
lợi nhuận hiện hành. Nếu lợi nhuận kế hoạch không đủ (hoặc không có lợi nhuận kế
hoạch) thì ngân sách Nhà nước cấp thêm vốn lưu động cho xí nghiệp.
Trường hợp xí
nghiệp chưa trích kịp hoặc không thực hiện được kế hoạch lợi nhuận cho nên
không có đủ tiền để bổ sung vốn lưu động theo kế hoạch, thì xí nghiệp vay Ngân
hàng Nhà nước .
6. Các nhu cầu
vốn lưu động vượt quá mức vốn lưu động tự có và coi như tự có, xí nghiệp được
vay ở Ngân hàng Nhà nước:
a) Loại cho
vay vốn lưu động trong kế hoạch, gắn liền với kế hoạch vốn lưu động của xí nghiệp
và được dự trù trong kế hoạch tín dụng.
Đối với các xí
nghiệp quốc doanh có đủ điều kiện (ổn định sản xuất, công tác quản lý tương đối
có nề nếp, xí nghiệp tự nguyện) được Ngân hàng Nhà nước cho vay vốn lưu động
trong kế hoạch theo phương thức cho vay luân chuyển vật tư và chi phí bằng một
tài khoản, bao quát mọi khoản chi trả và thanh toán của xí nghiệp.Chuyển việc
cho vay theo theo từng lần, từng việc qua cho vay theo kế hoạch và hạn mức cho
vay chung. Xí nghiệp được chủ động chi trả và thanh toán trong phạm vi hạn mức
cho vay chung đã quy định; chịu trách nhiệm về tính chất hợp lý, hợp pháp của từng
khoản chi, có nghĩa vụ nộp các khoản thu nhập bằng tiền vào tài khoản này để trả
nợ và tạo ra nguồn vốn để tiếp tục chi trả và thanh toán.
b) Loại cho
vay vốn lưu động ngoài kế hoạch để bổ sung các nhu cầu vốn cần thiết cho xí
nghiệp mở rộng sản xuất, kinh doanh và giải quyết những khó khăn tài chính tạm
thời.
Các trường hợp
vay ngoài kế hoạch vì lợi ích kinh tế quốc dân, như dự trữ nguyên vật liệu,
hàng hóa theo thời vụ, sản xuất kinh doanh vượt mức theo phương hướng kế hoạch
Nhà nước …được trả mức lợi suất như vay vốn trong kế hoạch. Các trường hợp vay
ngoài kế hoạch do khuyết điểm chủ quan của xí nghiệp phải trả mức lợi suất cao
hơn.
7. Cơ quan
tài chính cấp phát vốn lưu động theo kế hoạch đã duyệt và dựa vào bản phân phối
của cơ quan chủ quản mà chuyển thẳng vào tài khoản của tổ chức kinh doanh hay
xí nghiệp hạch toán kinh tế độc lập (không cấp vốn qua cơ quan chủ quản như trước)
Cơ quan chủ
quản được điều hòa trong phạm vi từ 1% đến 3% tổng số vốn lưu động tự có giữa
các xí nghiệp và tổ chức kinh tế thuộc quyền quản lý của mình.
8. Từ nay, bỏ
chế độ cho vay đặc biệt không tính lãi. Trường hợp đặc biệt ở các tổ chức cung
tiêu, thương nghiệp và một số ít xí nghiệp quốc doanh trung ương cần dự trữ vật
tư nhập của nước ngoài, vượt quá phạm vi cấp phát và cho vay thông thường, thì
được vay Ngân hàng Nhà nước với mức lãi suất thấp.
Các xí nghiệp
có những vật tư, hàng hóa đã được ngân hàng cho vay đặc biệt không tính lãi, hoặc
ngân sách cấp vốn dự trữ 100%, phải phân loại và đưa vào luân chuyển để thu hồi
vốn trả nợ ngân hàng hoặc nộp ngân sách Nhà nước.
9. Hàng năm,
đi đôi với việc lập kế hoạch sản xuất kỹ thuật – tài chính, xí nghiệp phải lập
kế hoạch vay vốn lưu động, kèm theo các tài liệu chứng minh hiệu quả kinh tế của
tiền vốn, gửi cơ quan chủ quản và ngân hàng phục vụ mình. Bộ, Tổng cục, Sở, Ty
chủ quản tổng hợp kế hoạch vốn lưu động của các xí nghiệp, tổ chức kinh tế thuộc
phạm vi quản lý của mình gửi Ngân hàng Nhà nước trung ương và Bộ Tài chính.
Ngân hàng Nhà
nước căn cứ vào kế hoạch của các xí nghiệp, tổ chức kinh tế cơ sở, của các Bộ,
Tổng cục, Sở, Ty chủ quản tính toán nhu cầu cho vay vốn, lập kế hoạch tín dụng
trình Hội đồng chính phủ xét duyệt. Ngân hàng Nhà nước sẽ thông báo kế hoạch
cho vay vốn đối với từng Bộ, Tổng cục, Sở, Ty chủ quản và từng đơn vị kinh tế
cơ sở, sau kế hoạch tín dụng được Hội đồng chính phủ phê chuẩn.
10. Các xí
nghiệp và tổ chức kinh tế phải tăng cường quản lý kế hoạch vốn lưu động, kể cả
vốn vay và vốn tự có, nâng cao hiệu quả kinh tế của đồng vốn. Trước mắt, cần tiến
hành việc thanh lý vật tư, hàng hóa ứ đọng, kém phẩm chất, mất phẩm chất; giải
quyết dứt điểm công nợ dây dưa và thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hợp đồng kinh tế,
kỷ luật thanh toán và kỷ luật trả tiền, không để nợ nần dây dưa, gây nên ứ đọng
vốn và trở ngại cho việc thực hiện kế hoạch vốn lưu động đã được xác định. Cơ
quan tài chính, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện việc kiểm soát bằng đồng tiền,
giúp đỡ xí nghiệp củng cố và tăng cường công tác quản lý và sử dụng vốn, thúc đẩy
luân chuyển vốn nhanh, làm tròn nghĩa vụ đối với ngân sách và trả nợ ngân hàng
đúng hạn.
II. CẢI TIẾN
VÀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀO LĨNH VỰC XÂY DỰNG CƠ BẢN ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH
TẾ QUỐC DOANH
11. Yêu cầu đối
với việc cấp phát và cho vay xây dựng cơ bản là nhằm tạo điều kiện cho xí nghiệp
và các tổ chức kinh tế không ngừng tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật để
phát triển sản xuất kinh doanh; huy động và sử dụng hợp lý tài sản, tiền vốn và
lao động sẵn có kết hợp với xây dựng mới, xây dựng bổ sung, không ngừng nâng
cao công suất của máy móc thiết bị và tài sản của xí nghiệp, tăng năng suất lao
động và hiệu quả vốn đầu tư; góp phần phát huy tính tự chủ, tăng cường trách
nhiệm của các Bộ, Tổng cục, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, các đơn vị kinh tế
cơ sở trong việc quản lý và sử dụng vốn xây dựng cơ bản. Trách nhiệm của ngành
tài chính và ngân hàng là kết hợp chặt chẽ hai phương pháp cấp phát ngân sách
và tín dụng bảo đảm cung cấp vốn cho nhu cầu xây dựng cơ bản và đòi hỏi xí nghiệp,
tổ chức kinh tế phải sử dụng vốn đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả kinh tế
cao và đưa nhanh công trình vào sản xuất kinh doanh.
12. Nguồn vốn
đầu tư xây dựng cơ bản của xí nghiệp, tổ chức kinh tế bao gồm: nguồn vốn tự có
của xí nghiệp, tổ chức kinh tế; nguồn vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước, nguồn
vốn vay của Ngân hàng Nhà nước.
13. Ngân sách
Nhà nước cấp phát:
a) Những công
trình xây dựng cơ bản sản xuất, kinh doanh quy mô lớn, thi công lâu năm, có tác
dụng làm biến đổi và cải thiện tình hình kinh tế trong phạm vi cả nước, trong từng
vùng lớn vượt quá khả năng của từng ngành, từng đơn vị và tổ chức kinh tế cơ sở.
b) Những công
trình xây dựng cơ bản có tính chất hành chính, sự nghiệp như các công trình văn
hóa, xã hội, phúc lợi công cộng…
Ngân sách Nhà
nước không bố trí vốn để cấp phát đối với các công trình và chi phí đầu tư xây
dựng cơ bản thuộc đối tượng vay vốn ngân hàng.
14. Ngân hàng
Nhà nước cho vay :
Những công
trình xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh, đã được ghi vào kế hoạch Nhà nước, nhưng không thuộc phạm vi cấp phát của
ngân sách; kể cả xây dựng mới, khôi phục và mở rộng, thuộc khu vực kinh tế quốc
doanh, công tư hợp doanh trung ương hay địa phương; có khả năng đem lại hiệu quả
kinh tế, có thể tính toán trực tiếp trong từng đơn vị kinh tế và bảo đảm trả nợ
cho ngân hàng trong thời hạn quy định.
Những công
trình đầu tư xây dựng cơ bản của các xí nghiệp đang sản xuất kinh doanh nhằm sử
dụng hợp lý khả năng về máy móc, thiết bị lao động, đất đai, phế liệu, phế phẩm…
hoặc áp dụng những biện pháp cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất…có khả năng
đưa lại hiệu quả kinh tế, thu hồi vốn nhanh nhưng kế hoạch chung của Nhà nước
không thể dự kiến hết được.
15. Thời hạn
cho vay đối với mỗi loại công trình phải căn cứ vào thời gian mà tài sản cố định
được tạo ra với vốn vay của ngân hàng có thể đưa lại hiệu quả kinh tế để trả nợ
ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cùng với Bộ hoặc ngành chủ quản, dựa trên những
căn cứ về kinh tế kỹ thuật đã kết luận để ấn định cụ thể thời hạn cho vay. Thời
hạn cho vay tính từ khi phát khoản cho vay đầu tiên; thời gian bắt đầu thu nợ đối
với từng loại công trình là thời hạn công trình hoặc bộ phận công trình phải dựa
vào sản xuất, kinh doanh theo kế hoạch quy định.
Thời hạn tối
đa đối với các công trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, sử dụng phế
liệu, phế phẩm…là 5 năm, cá biệt 7 năm.
Thời hạn tối
đa đối với các công trình xây dựng cơ bản về công nghiệp, vận tải, các ngành
kinh tế khác là 10 năm. Riêng đối với một số đối tượng cụ thể về sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp có thể trên 20 năm.
16. Ngân hàng
cho vay vốn xây dựng cơ bản bao gồm các loại chi phí xây lắp, thiết bị, kiến
thiết cơ bản khác theo đề án thiết kế và dự toán được duyệt cho một công trình.
Những công
trình đầu tư cơ bản vay bằng vốn ngoại tệ, phải có kế hoạch trực tiếp sản xuất
hoặc góp phần sản xuất hàng xuất khẩu và tạo ra khả năng khác để thu ngoại tệ
bù lại vốn đã vay. Ngoại tệ vay thuộc khu vực nào (xã hội chủ nghĩa, ngoài xã hội
chủ nghĩa) phải trả bằng ngoại tệ thuộc khu vực ấy.
17. Để vay vốn
Ngân hàng Nhà nước, các đơn vị có công trình xây dựng cơ bản phải có các điều
kiện sau đây:
a) Có kế hoạch
vay vốn hàng năm và cho cơ quan Ngân hàng Nhà nước phục vụ mình biết rõ kế hoạch
sản xuất kinh doanh, kế hoạch vốn và mức vốn phải vay, hiệu quả tiền vốn và nguồn
vốn trả nợ; gửi cho ngân hàng các tài liệu cần thiết như: nhiệm vụ thiết kế,
khái toán công trình, giấy phép cấp đất xây dựng, thiết kế sơ bộ, thiết kế kỹ
thuật (nếu có), dự toán chi phí của công trình và bàn tính hiệu quả kinh tế dựa
trên những định mức kinh tế kỹ thuật đã được cấp có thẩm quyền quy định.
b) Được ghi
vào kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước, được bảo đảm cung cấp về vật
tư, thiết bị và lực lượng thi công. Nếu là công trình phát sinh trong quá trình
sản xuất, kinh doanh mà kế hoạch đầu năm chưa dự kiến được, nhưng có hiệu quả
kinh tế, có khả năng thu hồi vốn nhanh, có nguồn cung cấp vật tư, lao động và
các điều kiện thực hiện khác cũng được xét bổ sung vào kế hoạch tín dụng và được
vay vốn. Xí nghiệp vay vốn phải cung cấp cho ngân hàng đầy đủ căn cứ và tài liệu
chứng minh.
c) Người đứng
ra vay vốn là giám đốc xí nghiệp, chủ nhiệm công ty, tổng công ty, liên hiệp xí
nghiệp…có đủ tư cách pháp nhân. Nếu là công trình xây dựng mới chưa bổ nhiệm
giám đốc, chủ nhiệm thì thủ trưởng cơ quan sản xuất, kinh doanh chủ quản cấp
trên phải cử người có đủ tư cách pháp nhân đứng ra vay vốn và chịu trách nhiệm
bàn giao cho giám đốc, chủ nhiệm của xí nghiệp, tổ chức kinh tế sau này để hoàn
trả nợ vay ngân hàng đúng thời hạn.
d) Người đứng
ra vay vốn phải làm đơn xin vay, trong đó ghi rõ mục đích, đối tượng, số vốn
vay, thời hạn trả nợ…kèm theo các tài liệu chứng minh rõ ràng, có đủ các điều
kiện được vay vốn, cam kết sử dụng vốn vay đúng đối tượng, đúng mục đích đã ghi
rõ trong đơn xin vay và đã được chấp thuận; phải bảo đảm chấp hành đầy đủ các
chế độ về quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước trong quá trình đầu tư xây dựng
cơ bản cũng như trong sản xuất, kinh doanh; bảo đảm trả nợ Ngân hàng Nhà nước
đúng kỳ hạn quy định.
18. Cơ quan
Ngân hàng trực tiếp cho vay vốn có trách nhiệm phải theo dõi và kiểm tra việc sử
dụng vốn bao gồm vốn tự có của xí nghiệp và vốn vay, đòi hỏi xí nghiệp và tổ chức
vay vốn tôn trọng kỷ luật tín dụng, kỹ luật tiền mặt, chế độ thanh toán và các
nguyên tắc quản lý của Nhà nước, bảo đảm thu hồi nợ đúng thời hạn.
19. Lãi suất
cho vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Ngân hàng Nhà nước đối với khu vực kinh
tế quốc doanh tạm quy định là 3% năm (ba phần trăm). Mỗi lần trả nợ, đơn vị vay
phảo trả cả gốc và lãi trên số gốc trả. Tiền lãi vay trong kế hoạch được tính
vào giá thành sản phẩm hoặc phí lưu thông.
Nếu trả xong
nợ trước kỳ hạn thì số tiền lãi được giảm do trả nợ trước thời hạn, được đưa
vào lợi nhuận của xí nghiệp. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước sẽ căn cứ vào thời
gian trả nợ trước thời hạn, so với thời hạn phải trả đã quy định mà giảm lãi suất
cho đơn vị vay vốn với tỷ lệ tương ứng; số tiền này xí nghiệp được quyền sử dụng
để tăng lợi nhuận.
Trong trường
hợp không trả nợ đúng hạn do những khuyết điểm chủ quan, đơn vị vay vốn chịu
lãi phạt theo tỷ lệ tương ứng với thời gian quá hạn; tiền lãi phạt trích từ lợi
nhuận xí nghiệp.
Tổng giám đốc
Ngân hàng Nhà nước căn cứ vào mức lãi suất chung nói trên sẽ bàn với bộ, ngành
chủ quản quy định mức lãi suất cụ thể, phù hợp với tính chất và đặc điểm của từng
loại công trình thuộc ngành nghề khác nhau và theo phương hướng chủ trương đầu
tư trong từng thời kỳ của Nhà nước.
20. Nguồn vốn
để trả nợ về đầu tư xây dựng cơ bản của đơn vị kinh tế bao gồm:
a) Vốn khấu
hao cơ bản của tài sản cố định do ngân hàng cho vay;
b) Lợi nhuận
của xí nghiệp sau khi đã trích lập các quỹ theo chế độ.
Trong thời
gian chưa trả hết nợ ngân hàng, xí nghiệp không phải nộp lợi nhuận cho ngân
sách Nhà nước.
Đối với những
công trình ngân hàng cho vay để mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa
sản xuất thì xí nghiệp dùng số lợi nhuận do hiệu quả sử dụng vốn vay đưa lại để
trả nợ ngân hàng.
Những công
trình sau khi đã trả hết nợ ngân hàng mà vẫn còn tiếp tục trích khấu hao cơ bản,
xí nghiệp được sử dụng tiền khấu hao để tăng quỹ phát triển sản xuất.
21. Ngân hàng
Nhà nước cho vay đơn vị chủ công trình (bên A) thuộc đối tượng tín dụng của
ngân hàng để:
- Mua vật tư,
thiết bị của công trình xây dựng mà bên A có nhiệm vụ dự trữ để cung cấp cho
bên B, các chi phí đầu tư xây dựng cơ bản khác do bên A trực tiếp chỉ cho công
trình.
- Thanh toán
cho xí nghiệp xây lắp bao thầu theo từng phần hay toàn bộ công trình được nghiệm
thu và đưa vào sản xuất kinh doanh theo kế hoạch.
22. Việc cho
các xí nghiệp xây lắp bao thầu vay vốn để thi công những công trình xây dựng cơ
bản thuộc phạm vi cho vay, Ngân hàng Nhà nước sẽ căn cứ điều kiện cụ thể và
tính chất từng loại công trình để tựa vào ngân hàng kiến thiết thuộc Bộ Tài
chính để cho vay, hoặc tự mình trực tiếp cho xí nghiệp xây lắp vay.
Trong quá
trình thi công, nếu đơn vị chủ công trình vay vốn cần sửa đổi đồ án thiết kế,
điều chỉnh dự toán công trình, phải có ý kiến của Ngân hàng Nhà nước trước khi
trình cấp có thẩm quyền xét duyệt.
23. Ngân hàng
Nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra và thúc đẩy các đơn vị chủ công trình, tổ chức
xây lắp bao thầu thực hiện đúng tiến độ thi công, đồ án thiết kế và giá thành kế
hoạch. Trường hợp phát hiện thiếu sót có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả vốn
đầu tư và khó khăn cho việc thu hồi vốn sau này, Ngân hàng Nhà nước phải đình
chỉ cho việc thu hồi vốn sau này, Ngân hàng Nhà nước phải đình chỉ việc cho vay
và báo cáo, kiến nghị giải quyết lên cơ quan quản lý trực tiếp công trình và
Ngân hàng Nhà nước cấp trên.
24. Đối với các
công trình thi công theo phương pháp tự làm, Ngân hàng Nhà nước cho đơn vị chủ
công trình mà ban kiến thiết là đại diện, vay vốn lưu động như đối với một tổ
chức xây lắp bao thầu (xem như bên B), để dự trữ vật tư, thiết bị và thực hiện
các chi phí cần thiết cho việc xây dựng công trình. Khi từng phần hay toàn bộ
công trình xây dựng được hoàn thành đưa vào sản xuất kinh doanh, Ngân hàng Nhà
nước dựa trên kết quả xây dựng đó mà cho đơn vị chủ công trình (xem như bên A)
vay vốn dài hạn để thanh toán số tiền đã vay ngắn hạn.
25. Kế hoạch
cho vay đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận gắn liền với kế hoạch đầu tư xây
dựng cơ bản của Nhà nước, được xây dựng cùng một lúc với các kế hoạch khác của
nền kinh tế quốc dân.
Cơ quan ngân
hàng Nhà nước và tài chính các cấp có trách nhiệm cùng Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
lập kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản ngay từ khâu giao số kiểm tra cũng như
trong quá trình lập và tổng hợp kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước.
26. Việc tính
toán và xây dựng kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và kế hoạch tín dụng phải được
hướng dẫn và chỉ đạo chặt chẽ từ trung ương, phù hợp với đường lối, phương hướng,
chủ trương của Đảng và Nhà nước và phải được tính toán cụ thể từ đơn vị sản xuất
kinh doanh cơ sở. Khi xí nghiệp, tổ chức kinh tế bảo vệ kế hoạch sản xuất, kinh
doanh trước cấp ủy và chính quyền địa phương, cơ quan tài chính và ngân hàng có
trách nhiệm phát biểu ý kiến của mình về mặt cân đối và hiệu quả tiền vốn của từng
xí nghiệp, tổ chức kinh tế.
27. Các Bộ, Tổng
cục, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổng hợp và lập kế
hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của ngành, địa phương mình, có phân chia vốn tự
có, vốn đầu tư ngân sách, vốn vay của ngân hàng, gửi Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước. Bộ Tài chính tổng hợp kế hoạch thu chi ngân
sách Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước tổng hợp kế hoạch tín dụng trình Hội đồng
Chính phủ cùng một lúc với việc xét duyệt kế hoạch kinh tế quốc dân.
Sau khi Hội đồng
chính phủ xét duyệt và giao chỉ tiêu kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản cho các Bộ,
Tổng cục, tỉnh, thành phố, thì Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính thông báo cho
đơn vị được sử dụng vốn và các đơn vị trong hệ thống của mình để tiến hành cho
vay hoặc cấp phát vốn. Kế hoạch cấp phát vốn và kế hoạch tín dụng là căn cứ để
Nhà nước và từng ngành chỉ đạo công tác đầu tư xây dựng cơ bản.
III. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ CHỦ TRƯƠNG CẢI TIẾN VÀ MỞ RỘNG
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Như quyết định
của Hội đồng chính phủ đã nêu rõ, cải tiến và mở rộng tín dụng ngân hàng là một
khâu quan trọng trong cải tiến quản lý kinh tế. Đây là một công tác có liên
quan mật thiết các ngành, các cấp. Để thực hiện có kết quả, phải chuẩn bị và tạo
ra những tiền đề cần thiết. Vì vậy, phải thực hiện việc cải tiến quản lý tuơng
đối có hệ thống, đồng bộ, nhưng không cầu toàn, phải làm có trọng tâm, trọng điểm,
vừa làm vừa rút kinh nghiệm, bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, bổ sung và nâng cao từng
bước.
A. Đối với vốn
lưu động
Phải phấn đấu
bắt đầu từ quý II năm 1977 áp dụng một cách rộng rãi những nguyên tắc và nội
dung cải tiến và mở rộng tín dụng ngân hàng theo quyết định của Hội đồng Chính
phủ. Các cơ quan ngân hàng, tài chính và ngành chủ quản phải tập trung sức giúp
xí nghiệp giải quyết những khó khăn về vốn đi liền với việc cải tiến quản lý vốn,
quản lý sản xuất, kinh doanh:
1. Tính toán
và xác định lại mức vốn lưu động cho từng xí nghiệp, trước hết đối với các xí
nghiệp trọng điểm, đi đôi với việc tiến hành thanh lý, xử lý những vật tư ,
hàng hoá ứ đọng, kém phẩm chất, mất phẩm chất; giải quyết dứt điểm công nợ dây
dưa, không để thừa vốn, thiếu vốn một cách giả tạo, ảnh hưởng đến kế hoạch sản
xuất kinh doanh của xí nghiệp.
2. Phối hợp
chặt chẽ giữa tài chính, ngân hàng ngành chủ quản điều chỉnh lại vốn theo định
mức và kế hoạch; thu hồi vốn đã cấp phát quá mức, cấp phát thêm cho những xí
nghiệp còn thiếu. Ngân hàng tiến hành việc cho vay và làm chức năng thanh toán,
quản lý của mình.
Trên cơ sở làm tốt những việc nói trên mà tạo điều kiện và giúp xí nghiệp tăng
cường quản lý, nâng cao hạch toán, và phát huy vai trò kiểm soát bằng đồng tiền
của tài chính và ngân hàng,
3. Giúp xí
nghiệp cải tiến quản lý vốn, thông qua quản lý vốn mà tăng cường quản lý các mặt
của xí nghiệp, khắc phục những thiếu sót và sơ hở trong việc sử dụng vốn, quản
lý vốn, quản lý vật tư, lao động, hàng hoá…của xí nghiệp, từng buớc đưa việc quản
lý xí nghiệp đi vào nền nếp, chế độ và nguyên tắc quản lý xã hội chủ nghĩa.
4. Đối với
các xí nghiệp quốc doanh, nói chung cần có kế hoạch và biện pháp giúp xí nghiệp
chấn chỉnh việc quản lý sử dụng vốn. Tuy nhiên, trong từng thời gian phải tập
trung sức làm tốt một số xí nghiệp có tính tiêu biểu cho từng ngành và từng
vùng. Chú trọng những xí nghiệp có tầm quan trọng lớn và khó khăn nhiều.
Vừa làm vừa
rút kinh nghiệm để phổ biến cho nơi khác và chuẩn bị cho bước tiếp theo.
B. Đối với
xây dựng cơ bản
Trong năm
1977, yêu cầu là phải bảo đảm thực hiện kế hoạch xây dựng cơ bản từ những tháng
đầu năm không bị gián đoạn, đồng thời tập trung sức tiến hành có trọng tâm, trọng
điểm theo yêu cầu và nội dung mới :
1. Đối với
các công trình xây dựng cơ bản thuộc phạm vi và đối tượng cho vay của Ngân hàng
Nhà nước đã được khởi công từ các năm trước còn phải chuyển sang năm 1977. Bộ
Tài chính thông qua ngân hàng kiến thiết tiếp tục cấp phát vốn, đồng thời thông
báo cho Ngân hàng Nhà nước theo dõi nắm tình hình để sau đó sẽ chuyển sang đầu
tư bằng vốn tín dụng.
Riêng những
công trình xây dựng dở dang nhưng thi công gọn, có hồ sơ tài liệu rõ ràng, có
thể xét ngay việc chuyển từ cấp phát ngân sách sang vay vốn ngân hàng.
Ngân hàng Nhà
nước và Bộ Tài chính sẽ cùng các ngành, các địa phương bàn bạc cụ thể việc chuyển
phương thức đầu tư vốn đối với những công trình nói trên.
2. Đối với những
công trình thuộc phạm vi, đối tượng cho vay ngân hàng khởi công trong năm 1977,
nằm trong danh mục và kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản đã được Hội đồng Chính phủ
xét duyệt thì các Bộ, Tổng cục, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố lập danh
mục và kế hoạch vay vốn gửi Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước tính toán,
xem xét hiệu quả kinh tế của từng công trình và tiến hành cho vay theo trách
nhiệm của mình.
3. Đối với những
công trình xây dựng cơ bản mà kế hoạch đầu năm chưa dự kiến hết nay phải làm
thêm thì các Bộ, Tổng cục, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố phải lập kế hoạch bổ
sung gửi Ngân hàng Nhà nước, thuyết minh rõ về nhu cầu vốn, thời hạn trả nợ khả
năng bảo đảm vật tư lao động, như đã qui định.
4. Cùng với
việc cấp phát và cho vay vốn xây dựng cơ bản năm 1977, các cơ quan ngân hàng
tài chính phải cùng các Bộ, ngành, địa phương và đơn vị kinh tế cơ sở rút kinh
nghiệm, tính toán kế hoạch vốn của các năm sau, có tách riêng phần đầu tư bằng
vốn tự có, vốn cấp phát và vốn vay ngân hàng như đã nói ở các phần trên.
Trong quá
trình thực hiện, ngành tài chính và ngân hàng Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ
giúp đỡ nhau về cán bộ và kinh nghiệm để làm tốt công tác.
Về tín dụng đối
với khu vực kinh tế tập thể và tín dụng trong lĩnh vực tiêu dùng. Ngân hàng Nhà
nước sẽ bàn bạc với các ngành có liên quan và các địa phương để có các văn bản
hướng dẫn riêng.
BỘ
TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Đào Thiện Thi
|
TỔNG
GIÁM ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Hoàng Anh
|