BỘ
TƯ PHÁP-NGÂN HÀNG QUỐC GIA
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01-VHH-DS
|
Hà
Nội, ngày 09 tháng 01 năm 1958
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
VỀ CHỦ TRƯƠNG VÀ ĐƯỜNG LỐI GIẢI QUYẾT MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ
THỂ TRONG CÔNG TÁC THU NỢ NGÂN HÀNG QUỐC GIA
BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP - TỔNG GIÁM ĐỐC NGÂN HÀNG QUỐC
GIA VIỆT NAM
Kính gửi:
|
- Ủy ban Hành chính khu, tỉnh,
thành phố,
- Tòa án Nhân dân khu, tỉnh, thành phố Chi nhánh Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
các cấp
|
I. TÌNH HÌNH
CHUNG
Thực hiện chủ trương của Đảng và
Chính phủ, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã xuất một số vốn khá lớn cho nông lâm
ngư nghiệp, tiểu công nghệ, thủ công nghiệp, thương nghiệp tư doanh và vận tải
tư nhân vay để đẩy mạnh sản xuất, phục hồi công thương nghiệp và những ngành đó
đã đạt được một số kết quả đáng kể.
Hiện nay, Ngân hàng chủ trương
thu những số nợ đến hạn và quá hạn để thực hiện nhiệm vụ thu rút tiền về đảm bảo
thăng bằng tiền mặt, ổn định vật giá và chuẩn bị vốn cho Nhà nước, nhằm phục vụ
công tác “cho vay hợp tác hóa nông thôn” sau này.
Nhưng công tác thu nợ, từ đầu
năm đến nay, không đạt được kế hoạch đề ra, vì còn gặp những khó khăn như sau:
1) Một số người vay nợ
có khả năng, mặc dầu đã được giáo dục nhiều lần vẫn trây lười, có khi lại có
thái độ coi thường chính quyền, cán bộ và pháp luật. Trong số đó có một số cán
bộ xã mắc nợ không gương mẫu trả nợ, có nơi thành phong trào dây dưa không chịu
trả nợ Ngân hàng Quốc gia.
2) Một số lại tuyên
truyền xuyên tạc chính sách thu nợ, xui giục lôi kéo người cùng thôn xã không
trả nợ, thậm chí còn lăng mạ hành hung cán bộ đi thu nợ nữa.
3) Một số cán bộ đi
thu nợ Ngân hàng tham ô lấy tiền tiêu xài riêng hay cho vay lãi, không nộp trả
cho Ngân hàng. Ngoài ra, có một số người giả danh cán bộ ngân hàng lừa dối nhân
dân để thu nợ rồi trốn đi.
4) Một số người vay nợ
đã thay đổi chỗ ở chưa tìm ra hoặc đi mất tích.
Nguyên nhân chung là:
- Việc tuyên truyền giáo dục về
mục đích ý nghĩa của việc Ngân hàng cho vay và thu nợ chưa được sâu rộng trong
quảng đại quần chúng. Mặt khác, kế hoạch phối hợp giữa các ngành với Ngân hàng
chủ yếu là với Tư pháp, giữa Ngân hàng với đoàn thể chưa được ăn khớp và chặt
chẽ, nên chưa tạo được điều kiện tốt cho việc thu nợ.
- Tư tưởng của những người vay nợ
(kể cả cán bộ xã) còn nặng ý thức tự tư tự lợi và ỷ lại vào vốn của Chính phủ
cho rằng trả cũng được không trả cũng không sao. Mặt khác, nhân lúc tình hình sửa
sai nông thôn chưa được thật sự ổn định, những phần tử lạc hậu, phần tử xấu có
nhiều hành động tự do vô kỷ luật, gây tâm lý coi thường pháp luật, coi thường
chính quyền, không muốn trả nợ Ngân hàng.
Vì vậy, Bộ Tư pháp và Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam trung ương quy định dưới đây phương châm và chủ trưởng xử lý
đối với những trường hợp phạm pháp về thu nợ nhằm đẩy mạnh công tác này.
II. – PHƯƠNG
CHÂM
Phương châm giải quyết một số
trường hợp cụ thể trong công tác thu nợ Ngân hàng Quốc gia là:
Đối với số đông trong thành phần
nhân dân thì kiên trì giáo dục làm cho người vay nợ tự giác tự nguyện trả nợ, cần
thiết lắm mới xử lý bằng biện pháp tư pháp (án hộ), việc xử lý cũng chỉ nhằm
thúc đẩy công tác giáo dục. Cố nhiên chú ý tránh hữu khuynh, trong trường hợp cần
phải đối phó, đối với những phần tử xấu và bọn phá hoại: thì kiên quyết và khẩn
trương ngăn chặn kịp thời mọi hành động phạm pháp, nghiêm trị những tên cầm đầu
và những tên hành động trắng trợn công khai xuyên tạc, chống lại chính sách thu
nợ, hành hung cán bộ, tham ô, v.v…
III. CHỦ
TRƯƠNG CỤ THỂ
A. ĐỐI VỚI CÁC LOẠI DÂY DƯA, CHỐNG ĐỐI
LẠI CHÍNH SÁCH THU NỢ
1) Đối với người có khả năng mà
không trả nợ, thái độ coi thường chính quyền.
Dùng hình thức họp tổ vay nợ, tổ
nông hội, v.v… để giáo dục và vận động cá biệt, động viên trả nợ. Nếu không kết
quả, thì đưa lên Ủy ban xã giáo dục thêm, tùy thái độ từng người mà phê bình, cảnh
cáo, bắt ký nhận cam kết ngày trả nợ.
Nếu lên xã không nghe thì huyện
sẽ gọi lên giáo dục, cảnh cáo, bắt làm giấy cam kết trả nợ, đưa về thôn xóm kiểm
thảo và có thể tùy trường hợp, áp dụng biện pháp hành chính, phạt theo thể lệ của
Ngân hàng.
Trường hợp thật ngoan cố thì tòa
án huyện sẽ kê biên tài sản để làm áp lực cho việc thu nợ. Cần thiết lắm tòa án
tỉnh, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, sẽ xử một đôi tên (về bộ) và ra lệnh tịch biên
sai áp tài sản để trả nợ Ngân hàng, nhưng lúc tịch biên, không nên đụng chạm đến
khẩu phần (ruộng đất, nhà cửa, nông cụ, trâu bò) đã chia trong cải cách ruộng đất
và khi kê biên tài sản thì chỉ kê biên một số tài sản đủ đảm bảo trả nợ, không
làm tràn lan.
2) Đối với người có khả năng,
tìm cách lẩn trốn đi nơi khác, không chịu trả nợ hay đi mất tích hoặc đối
với những người có khả năng, thay đổi chỗ ở không cho Ngân hàng biết.
Chi nhánh ngân hàng điều tra laị
chỗ, lập danh sách và lý lịch của những người vay nợ trốn đi, gửi sang công an
để truy tìm. Khi biết được địa chỉ mới của họ, báo với Ủy ban Hành chính địa
phương hay nhờ Ngân hàng nơi đó truy thu và áp dụng cách giải quyết như trên.
Riêng đối với những người có khả năng mà cố ý lẫn trốn nợ bằng cách di chuyển,
thì tùy trường hợp, phạt theo thể lệ ngân hàng.
3) Đối với hành động phản tuyên
truyền, xuyên tạc chính sách, tổ chức xui dục người khác không trả nợ.
Cần chú ý phân biệt mấy trường hợp
sau đây:
a) Hành động của phần tự lạc hậu,
động cơ tự tư tự lợi: chủ yếu là kiên trì giáo dục, trường hợp đặc biệt là kẻ
ngoan cố gây tác hại quan trọng cản trở rõ rệt cho việc chấp hành chính sách,
thì tòa án cảnh cáo ở phòng Công tố, nặng hơn nữa có thể phạt theo điều 7 và 8
sắc lệnh số 267 ngày 15-06-1956.
b) Hành động của phần tử xấu
(lưu manh, ngụy quân ngụy quyền có tội ác được khoan hồng nhưng chưa chịu cải tạo)
đã được giáo dục nhưng vẫn ngoan cố tác hại rõ rệt, thì có thể tùy trường hợp
truy tố và phạt theo điều 4 sắc lệnh số 267 ngày 15-06-1956.
c) Hành động của phần tử địch (địa
chủ ngóc đầu dậy, bọn phản động trong vùng có đông giáo dân) thì kiên quyết xử
trí, nhưng cần hết sức thận trọng trong việc phân biệt địch và phần tử lạc hậu
và phải thỉnh thị Khu hoặc Bộ trước khi truy tố xét xử. Trường hợp này, có thể
áp dụng sắc lệnh số 267 ngày 15-06-1956 hoặc sắc lệnh số 133 ngày 20-01-1953.
Cần nghiêm trị những tên cầm đầu
chỉ huy và những tên có hành động trắng trợn.
4) Đối với hành động đánh chửi
cán bộ.
Áp dụng thông tư số 128-VHH-DS
ngày 24-10-1957.
5) Đối với trường hợp người vay
nợ đi Nam.
Trường hợp này sẽ nghiên cứu
sau.
B. - ĐỐI VỚI HÀNH ĐỘNG THAM Ô, BIỂN THỦ
TIỀN THU NỢ CỦA NGÂN HÀNG
1) Đối với trường hợp lấy tiền
thu nợ được hay nhận hộ tiền trả nợ của người khác đem tiêu riêng.
Người phạm lỗi có thể là nhân
dân (tội bội tín) hay cán bộ xã, cán bộ Chi nhánh ngân hàng (tội tham ô), Nếu
nhẹ, thì nói chung là kiểm thảo, giáo dục, dùng kỷ luật hành chính bắt hoàn lại
số tiền đã tiêu hoặc làm giấy cam kết hẹn ngày trả lại, theo yêu cầu của Ngân
hàng.
Trường hợp nặng, thì ngoài biện
pháp nói trên, bị can có thể bị cảnh cáo tại phòng Công tố hoặc bị truy tố trước
tòa án (sắc lệnh số 223 ngày 27-11-1946. Thông tư số 442-TTg ngày 29 tháng 01
năm 1955 và sắc lệnh số 267 ngày 15-06-1956).
Trường hợp dùng thủ đoạn để tham
ô (như chữa biên lai, thu nhiều ghi biên lai ít, biên lai và tồn căn không ăn
khớp, giả mạo giấy tờ khế ước để lấy tiền Ngân hàng, giả tạo bị cướp, bị trộm
v.v… thì tòa án có thể truy tố và xử phạt với tình tiết tăng tội nếu là trường
hợp nghiêm trọng.
2) Đối với trường hợp giả danh
cán bộ đi thu nợ Ngân hàng.
Ngân hàng lập hồ sơ gửi sang tòa
án truy tố về tội lừa đảo.
IV. PHƯƠNG
PHÁP THỰC HIỆN
Để thực hiện chủ trương thu nợ
nói trên, Liên bộ Tư pháp và Ngân hàng Quốc gia trung ương Việt Nam đề ra những
phương pháp sau đây:
1) Kết hợp với đợt giáo dục
chính trị do chỉ thị số 450-TTg ngày 03-10-1957 đề ra, tiến hành giải thích ý
nghĩa chính trị lớn lao của việc Chính phủ cho vay trong chế độ ta, giáo dục ý
thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng chính quyền, ý thức chấp hành nghiêm chỉnh
chính sách kinh tế tài chính và giáo dục trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng Quốc
gia. Giải thích chính sách chung cho nhân dân trước để lấy lý lẽ của quần chúng
làm áp lực thuyết phục những người vay nợ. Đồng thời đả phá mọi luận điệu phản
tuyên truyền, gây ý thức bảo vệ chế độ, bảo vệ trật tự an ninh, kết hợp với
công tác tôn giáo vận.
2) Đối phó kịp thời ngăn chặn mọi
hành động có ảnh hưởng xấu cho việc thu nợ (trây lười, dây dưa có hệ thống, chống
quá chính sách thu nợ, hành hung đánh cán bộ, tham ô). Diện truy tố xét xử cần
thu hẹp. Phải nắm vững phương châm giáo dục là chính, trong trường hợp cần thiết
mới trừng trị và có trừng trị cũng chỉ cốt để thúc đẩy việc giáo dục quần chúng
và cán bộ.
3) Nắm vững tình hình và khả
năng tài chính của người vay mỗi khi cần truy tố: Cán bộ ngân hàng về tận nơi
điều tra kỹ lưỡng, nắm vững tình hình và khả năng tài chính của người vay nợ
(như thóc, gạo, lợn gà vịt và tài sản khác có thể bán trả nợ Ngân hàng quốc
gia) rồi lập hồ sơ truy tố trước tòa án. Về phần tòa án tùy mọi trường hợp phải
hết sức chú ý đảm bảo việc thu nợ cho Ngân hàng quốc gia và coi việc thu nợ là
một trong những công tác trọng tâm của ngành hiện nay.
4) Lưu động xét xử: Khi cần xét
xử thì tòa án nên lưu động về tận địa phương để mở phiên tòa.
Trên đây là đường lối chủ trương
và một số biện pháp cụ thể đối với những trường hợp phạm pháp xảy ra trong việc
thu nợ ngân hàng (1). Trong
khi tiến hành, các chi nhánh Ngân hàng và tòa án các cấp thấy có điểm nào chưa
hợp lý, hoặc có gặp khó khăn hay có kinh nghiệm gì, yêu cầu báo cáo cho Ngân
hàng Trung ương và Bộ Tư pháp biết để nghiên cứu bổ sung hoặc phổ biến kinh
nghiệm cho các nơi khác.
BỘ
TRƯỞNG
BỘ TƯ PHÁP
Vũ Đình Hòe
|
TỔNG
GIÁM ĐỐC
NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM
Lê Viết Lượng
|
(1)
Tình hình từng địa phương thay đổi, thời gian học tập cũng thay đổi, không dùng
thời gian nói trong chỉ thị. Tùy tình hình đó, để kết hợp giáo dục trong những
đợt học tập của từng giai đoạn.