NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
34-NH/TT
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 2 năm 1983
|
THÔNG TƯ
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC SỐ 34-NH/TT NGÀY 10 THÁNG 2 NĂM 1983
HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 151-HĐBT NGÀY 31-8-1982 CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
VỀ VIỆC CÁC GIA ĐÌNH CÓ THÂN NHÂN ĐỊNH CƯ Ở CÁC NƯỚC NGOÀI HỆ THỐNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA NHẬN TIỀN, NHẬN HÀNG DO THÂN NHÂN CỦA HỌ GỬI VỀ
I. CHỦ TRƯƠNG
CỦA NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC GỬI TIỀN VÀ NHẬN TIỀN TỪ NƯỚC NGOÀI CHUYỂN VỀ
Xét nguyện vọng của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài và gia đình của họ ở trong nước, Nhà nước ta cho phép
các gia đình có thân nhân định cư ở các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa
(sau đây gọi tắt là nước ngoài) được nhận tiền của họ gửi về.
Mục đích của việc cho gửi và nhận
tiền là để góp phần xây dựng đất nước; góp vốn cùng Nhà nước hoặc các tổ chức tập
thể sản xuất theo đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước, giúp đỡ gia đình
được nhận tiền duy trì cuộc sống bình thường.
Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện
thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi tiền về không hạn chế và
hướng vào việc sử dụng có lợi cho đất nước, đồng thời giúp đỡ các gia đình được
nhận tiền của thân nhân họ gửi về vừa phù hợp với luật lệ ngoại hối hiện hành ở
nước sở tại cũng như của nước ta, vừa thích hợp với mức tiêu dùng trong sinh hoạt,
tránh tình trạng để họ lợi dụng việc nhận tiền làm phương tiện đầu cơ, gây rối
loạn thị trường, trật tự an ninh quốc gia.
II. NHỮNG QUY
ĐỊNH KHUYẾN KHÍCH NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở CÁC NƯỚC NGOÀI HỆ THỐNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA CHUYỂN NGOẠI TỆ VỀ NƯỚC
Theo quyết định số 151-HĐBT ngày
31-8-1982 của Hội đồng bộ trưởng và quyết định số 32-CP ngày 31-1-1980, số
291-CP ngày 4-7-1981 của Hội đồng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định:
Người Việt Nam hiện đang làm ăn
sinh sống ơ nước ngoài có các loại ngoại tệ tư bản chuyển đổi: đô la Mỹ, bảng
Anh, phơ răng Pháp, phơ răng Thuỵ Sỹ, yên Nhật, đô la Hồng Kông, đô la Canađa,
mác Tây Đức chuyển về, bán cho Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, được hưởng
chính sách ưu đãi như sau:
1. Nếu bán ngoại tệ lấy đồng Việt
Nam để chi tiêu hoặc chuyển cho gia đình ở trong nước được hưởng theo tỷ giá
chính thức hiện hành do Ngân hàng Nhà nước công bố cộng với tỷ lệ tiền thưởng
thích hợp.
Các loại ngoại tệ trên đây và tỷ
lệ tiền thưởng do tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước quy định.
2. Nếu gửi vào quỹ tiết kiệm xã
hội chủ nghĩa được Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam các cấp mua theo tỷ giá có
thưởng quy định ở điểm 1 và được hưởng lãi suất hiện hành. (Mức khuyến khích cộng
thêm năm mươi phần trăm (50%) vào lãi suất tiết kiệm quy định tại thông tư số
114-NH/TT ngày 1-12-1981 chỉ có hiệu lực đến ngày 30-9-1982).
Người gửi tiết kiệm có thể rút dần
vốn và lãi để chi dùng hoặc chuyển cho người thụ hưởng trong nước, nhưng không
được chuyển ra nước ngoài.
3. Nếu ký gửi bằng ngoại tệ tại
ngân hàng các cấp, được mở tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ theo chế độ mở tài
khoản của người không cư trú. Người gửi được miễn lệ phí mở tài khoản, được hưởng
lãi suất bằng ngoại tệ do ngân hàng công bố và được phép chuyển cả vốn lẫn lãi
ra nước ngoài hoặc có thể chuyển cả vốn lẫn lãi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá có
thưởng quy định ở điểm 1, mục II để chuyển cho người thụ hưởng ở trong nước.
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
phối hợp với các Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và đặc khu tạo mọi điều
kiện dễ dàng cho người Việt Nam làm ăn sinh sống ở nước ngoài được mua hoặc
thuê các căn hộ trả bằng ngoại tệ cho bản thân hoặc người thân trong nước; góp
vốn cùng với các tổ chức trong nước sản xuất, kinh doanh (có văn bản hướng dẫn
riêng).
III. QUY ĐỊNH
VỀ NHẬN VÀ GỬI TIỀN ĐỐI VỚI NGƯỜI TRONG NƯỚC
1. Phù hợp với thời gian ấn định
tại thông tư số 370-CT ngày 31-12-1982 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, kể từ
ngày 15 tháng 3 năm 1983 trở đi ngân hàng trả tiền cho người Việt Nam cư trú
trong nước có tiền của thân nhân định cư ở nước ngoài chuyển về khi họ xuất
trình SỔ NHẬN TIỀN (từ nước ngoài chuyển về) hoặc đơn xin nhận tiền, được Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu (sau đây gọi tắt là Uỷ ban nhân dân tỉnh)
cấp.
Căn cứ vào số nhân khẩu ghi
trong SỔ NHẬN TIỀN hoặc đơn xin nhận tiền và số tiền thực tế trong chuyển tiền
phải trả về kiều hối của hệ thống Ngân hàng Ngoại thương chuyển đến ngân hàng
cơ sở được phép trả cho người có sổ hoặc đơn xin nhận tiền bình quân mỗi người
trong hộ mỗi quý (quy theo lịch) không quá 6000 đồng đối với thành phố Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh, không quá 4500 đồng đối với các tỉnh, thành phố khác
để chi dùng cho sinh hoạt gia đình.
Riêng tháng 3 năm 1983 hạn mức
trả tiền được tính theo cả quý.
Trường hợp nhiều người có tên
trong cùng một SỔ NHẬN TIỀN hoặc đơn xin nhận tiền, có tiền từ nước ngoài chuyển
về, ngân hàng cơ sở cũng chỉ trả theo hạn mức cho từng người nói trên.
Nếu trong một lần số tiền nhận của
người có sổ hoặc đơn chưa đạt tới hạn mức trong quý thì được phép tiếp tục nhận
cho đến khi tổng số tiền của nhiều lần trong quý bằng hạn mức quy định.
Trong mỗi quý, nếu tổng số tiền
ghi trên các giấy chuyển tiền vượt hạn mức được trả dưới 1000 đồng Việt Nam
tính chung cho cả hộ nhận tiền, Ngân hàng được phép trả luôn; nếu số tiền còn lại
vượt hạn mức được trả tính chung cho cả hộ từ 1000 đồng trở lên thì Ngân hàng
cơ sở phải chuyển qua tài khoản tiền gửi.
Khi hộ nhận tiền đã có tài khoản
tại ngân hàng (còn số dư), ngân hàng căn cứ hạn mức hàng quý và số tiền chuyển
về để chi trả, số vượt hạn mức được chuyển qua tài khoản tiền gửi.
Tài khoản này gọi là tài khoản
Tiền gửi từ nước ngoài chuyển về mang số 656, mở tại ngân hàng trả tiền. Số dư
trên tài khoản này được hưởng lãi suất sáu phần trăm (6%) năm. Phần lãi được
rút ra không hạn chế.
2. Đối với những khoản tiền vượt
hạn mức được trả trong quý từ 50000 đồng Việt Nam trở lên, nếu người nhận không
muốn chuyển qua tài khoản tiền gửi bằng đồng Việt Nam thì được phép mở tài khoản
bằng ngoại tệ tại ngân hàng thị xã hoặc ngân hàng quận, đối với các địa phương
không có Ngân hàng Ngoại thương được hưởng lãi bằng ngoại tệ, được rút vốn và
lãi ra bằng đồng Việt Nam theo hạn mức quy định, nhưng không được chuyển ra nước
ngoài.
3. Trường hợp người gửi có nhu cầu
đột xuất cần lĩnh tiền để chi dùng khi ốm đau, ma chay, cưới xin, sửa chữa hoặc
mua nhà...thì phải xuất trình cho ngân hàng trả tiền giấy chứng nhận của cơ
quan công tác hoặc chính quyền phường, xã. Ngân hàng trả tiền sẽ căn cứ vào số
dư thực tế bằng đồng Việt Nam trên tài khoản Tiền gửi từ nước ngoài chuyển về để
giải quyết cho người gửi được lĩnh tiền chi dùng cho nhu cầu đó. Trưởng ngân
hàng quận, huyện được phép cho rút ra mỗi lần không quá 10000 đồng và không quá
hai lần trong một năm. Vượt mức và vượt số lần trên do giám đốc ngân hàng Nhà
nước tỉnh quyết định.
4. Nếu người gửi muốn rút tiền
ra để xây dựng đất nước, góp vốn cùng Nhà nước sản xuất kinh doanh hoặc hùn vốn
với những người khác thành lập hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công nghiệp thì
không hạn chế mức. Người gửi cần xuất trình cho ngân hàng trả tiền những giấy tờ
cần thiết (quyết định của chính quyền phường, xã, giấy phép đăng ký kinh doanh,
số hiệu tài khoản tiền gửi của tổ chức nhận vốn) chứng minh cho việc tham gia
vào các tổ chức trên là đúng. Ngân hàng giữ tài khoản sẽ chuyển vốn cho tổ chức
tiếp nhận nguồn vốn đó, đồng thời thông báo cho chính quyền địa phương biết.
5. Mỗi lần chi trả tiền cho người
có sổ hoặc đơn xin nhận tiền, ngân hàng cơ sở phải ghi vào sổ nhận tiền theo những
nội dung đã được quy định trong sổ nhận tiền. Trong phần diễn giải cần ghi rõ từng
chuyến tiền, số tiền đã trả theo định mức cho sinh hoạt, nhu cầu đột xuất hoặc
cho sản xuất, số tiền chưa được nhận còn ký gửi ở ngân hàng. Trưởng kế toán
ngân hàng cơ sở phải kiểm soát và ký vào cột quy định trong sổ nhận tiền hoặc sổ
theo dõi.
6. Đối với các trí thức, nhân sĩ
là Việt kiều theo danh sách do chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh gửi cho ngân hàng
thì việc nhận tiền không hạn chế mức.
IV. THỦ TỤC LẬP
VÀ CẤP SỔ NHẬN TIỀN
Căn cứ thông tư số 370-CT ngày
31-12-1982 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng và thông tư liên bộ Ngoại thương -
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 9-TTLB/NgT/NH ngày 31-1-1983:
1. Kể từ ngày 15 tháng 3 năm
1983 sau khi nhận được danh sách và giấy phép của Uỷ ban nhân dân tỉnh cấp cho
các hộ gia đình được nhận tiền thường xuyên của thân nhân định cư ở nước ngoài
chuyển đến, Ngân hàng Nhà nước tỉnh phân loại theo từng quận, huyện, rồi chuyển
toàn bộ danh sách, giấy phép kèm theo sổ nhận tiền về ngân hàng quận, huyện, thị
(gọi tắt là ngân hàng cơ sở) để ngân hàng cơ sở lập sổ và cấp sổ cho các hộ gia
đình. SỔ NHẬN TIỀN (từ nước ngoài chuyển về) do ngân hàng cấp được xem như giấy
phép thường xuyên để nhận tiền tại ngân hàng.
2. Khi lập SỔ NHẬN TIỀN, ngân
hàng cơ sở cần làm đầy đủ các thủ tục sau:
Ghi số sổ, họ và tên, địa chỉ của
người được cấp sổ, các người trong hộ và thân nhân ở nước ngoài, số giấy phép
và ngày, tháng, năm của cơ quan cấp giấy phép, ngày, tháng, năm, dấu và chữ ký
của ngân hàng cấp sổ.
Các yếu tố ghi trong SỔ NHẬN TIỀN
phải phù hợp với giấy phép của Uỷ ban nhân dân tỉnh.
Phải bảo quản vào hồ sơ riêng
các SỔ NHẬN TIỀN, giấy phép và đơn xin phép của các hộ để theo dõi và sử dụng
khi khách hàng đến nhận sổ hoặc điều chỉnh sau này.
3. Lập giấy báo mời các hộ (người
có tên trong giấy phép) đến nhận SỔ NHẬN TIỀN.
Khi khách hàng đến nhận SỔ NHẬN
TIỀN, ngân hàng cơ sở phải kiểm soát và đối chiếu họ tên, địa chỉ, danh sách
người trong gia đình ghi trong giấy phép với sổ hộ tịch (nếu ở thành phố) hoặc
giấy chứng nhận của chính quyền xã (nếu ở nông thôn) và giấy chứng minh nhân
dân của người nhận sổ.
Nếu người được cấp giấy phép
không thể đến nhận SỔ NHẬN TIỀN mà uỷ nhiệm cho người khác nhận thay, thì người
đó dù có tên trong SỔ NHẬN TIỀN hay không đều phải có giấy uỷ nhiệm của người
được cấp giấy phép, có xác nhận của chính quyền phường, xã.
Khi đối chiếu danh sách người
trong hộ ghi trong giấy phép với sổ hộ tịch hoặc giấy chứng nhận của chính quyền
phường, xã, nếu có những điểm nào không khớp thì ngân hàng chưa cấp SỔ NHẬN TIỀN
và yêu cầu khách hàng lấy xác nhận của cơ quan cấp giấy phép.
Khi nhận sổ, khách hàng phải ký
nhận vào sổ theo dõi của ngân hàng và nộp lệ phí là 50 đồng.
V. CÁCH GIẢI
QUYẾT ĐỐI VỚI CÁC CHUYỂN TIỀN MUA HÀNG VÀ GIẤY CHỨNG NHẬN THU ĐỔI NGOẠI TỆ
1. Chủ trương tăng mức tiền thưởng
đối với các khoản ngoại tệ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển về nhằm
để cho người nhận tiền dùng số tiền Việt Nam mua sắm hàng hoá trên thị trường.
Nhà nước không tổ chức cửa hàng đặc biệt bán theo giá ưu đãi nữa. Vì vậy kể từ
ngày 1 tháng 3 năm 1983 đình chỉ việc cấp giấy chứng nhận thu đổi ngoại tệ tại
các cơ sở ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Mọi chuyển tiền của người Việt Nam định
cư ở nước ngoài chuyển về nước để mua hàng cho gia đình ở trong nước, Ngân hàng
ngoại thương Việt Nam các cấp chỉ được tính đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá có
thưởng quy định ở điểm 1, phần II của thông tư này để trả cho người nhận theo hạn
mức được nhận hàng quý quy định ở phần III thông tư này.
2. Đối với những người đã được
Ngân hàng ngoại thương cấp giấy chứng nhận thu đổi ngoại tệ trước ngày 1 tháng
3 năm 1983 còn giá trị được tiếp tục mua hàng đến hết ngày 15 tháng 3 năm 1983.
Sau ngày 15 tháng 3 năm 1983 người còn giấy chứng nhận thu đổi ngoại tệ còn giá
trị thì đem đến ngân hàng trước đây đã trả tiền để nhờ thu hộ khoản chênh lệch
giữa tỷ giá có thưởng mới và cũ, hoặc đến ngân hàng được giao trách nhiệm xác
nhận giấy chứng nhận thu đổi ngoại tệ để nhận khoản chênh lệch trên.
VI. TỔ CHỨC
THI HÀNH
Giám đốc Ngân hàng ngoại thương
trung ương tổ chức phổ biến các quyết định thông tư của Hội đồng bộ trưởng và
thông tư này cho các giám đốc ngân hàng Nhà nước và ngân hàng ngoại thương
trong toàn quốc và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện ở các ngân hàng cơ sở,
báo cáo kịp thời lên tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước về những sai sót, lệch lạc
cần uốn nắn bổ khuyết.
Vụ trưởng vụ kế toán và quản lý
quỹ ngân sách Nhà nước có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể chế độ hạch toán đến kế
toán trưởng toàn ngành.
Giám đốc Ngân hàng Nhà nước tỉnh
cùng giám đốc ngân hàng ngoại thương cơ sở tranh thủ sự lãnh đạo của chính quyền
các cấp phổ biến và chỉ đạo thực hiện thông tư này. Tại các thành phố lớn và
các tỉnh trọng điểm ở miền Nam cần tổ chức phổ biến đến các quận, huyện, phường,
xã và nhân dân các địa phương thường nhận kiều hối.
Trưởng ngân hàng cơ sở cần tổ chức
học tập kỹ thông tư này, bố trí cán bộ có năng lực bảo đảm tốt công tác kiều hối.
Việc chi trả kiều hối phải thực hiện đúng chế độ, phải giải quyết nhanh chóng
không để tình trạng chậm trễ ảnh hưởng không tốt đến chính sách. Mọi trường hợp
thiếu trách nhiệm, gây phiền hà cho nhân dân hoặc lợi dụng của cán bộ, nhân
viên ngân hàng trong việc trả tiền cho người nhận đều bị xử lý nghiêm minh.
Khoản tiền chênh lệch giữa tỷ
giá kết toán nội bộ và tỷ giá có thưởng phát sinh kể từ ngày 1-3-1983 trở đi phải
được hạch toán vào tài khoản riêng để thanh toán với ngân sách Nhà nước.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày
ký. Các quy định trước đây trái với thông tư này đều bãi bỏ.
Trong quá trình thực hiện thông
tư này, nếu có khó khăn trở ngại, đề nghị các ngành và các đơn vị phản ánh về
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trung ương để kịp thời giải quyết.