NGÂN
HÀNG QUỐC GIA
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
169-KH
|
Hà
Nội, ngày 07 tháng 05 năm 1958
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH CỤ THỂ VỀ NỘI DUNG CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN ĐÃ
QUY ĐỊNH TRONG CHỈ THỊ SỐ 168-KH NGÀY 07-05-1958 CỦA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT
NAM
Để thi hành Nghị định số 144-TTg
ngày 09 tháng 04 năm 1957 của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng quốc gia Việt Nam
đã ra chỉ thị số 168-KH ngày 07-05-1958 quy định các hình thanh toán về các
giao dịch giữa các ngành trong khu vực kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Thông
tư này quy định và giải thích cụ thể chi tiết nội dung các hình thức thanh toán
và các thể thức, thủ tục phải thi hành.
Những công văn, chỉ thị thông tư
về thanh toán trong nội địa ban hành trước đây khác với thông tư này được bãi
bỏ.
CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN
Chỉ thị số 168-KH quy định 9
hình thức thanh toán:
a) Thanh toán giữa hai địa phương khác nhau:
1 – Chuyển tiền
2 – Nhờ thư nhận trả
3 – Thư tín dụng
4 – Tài khoản đặc biệt
b) Thanh toán trong một địa phương:
1 – Séc
2 – Séc bảo chi
3 – Giấy ủy nhiệm chi
4 – Giấy ủy nhiệm thu
5 – Nhờ thu nhận trả cùng một
địa phương.
Các hình thức thanh toán trên
chỉ áp dụng giữa công với công, hoặc giữa công với tư. Đối với việc thanh toán
giữa tư với tư hoặc giữa tư với công, sẽ có thể lệ riêng.
I. - NỘI DUNG VÀ THỦ TỤC CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN
GIỮA HAI ĐỊA PHƯƠNG KHÁC NHAU
A – THANH TOÁN THEO HÌNH THỨC
CHUYỂN TIỀN
Hình thức thanh toán chuyển tiền
chỉ áp dụng trong việc điều chuyển vốn, phân phối vốn, tập trung vốn giữa các
đơn vị kinh tế, cơ quan, đoàn thể, bộ đội, nhiều nhất là chuyển trong nội bộ
từng hệ thống. Trong trường hợp đặc biệt các cơ quan đoàn thể bộ đội cần tiền
mua hàng tại một xí nghiệp hoặc Mậu dịch quốc doanh ở địa phương khác, nếu biết
trước giá cả số lượng hàng theo giấy đặt hàng thì có thể xin chuyển tiền. Nếu
chưa biết rõ số tiền phải trả thì dùng tài khoản đặc biệt.
Để tránh tình trạng lợi dụng
hoặc sai lầm có thể xảy ra hiện nay Ngân hàng quốc gia Việt Nam dùng chuyển
tiền bằng thư và chuyển tiền bằng điện tín, không nhận làm chuyển tiền bằng sec
và chuyển tiền bằng điện thoại. Đặc biệt chuyển tiền giữa công với công, Ngân
hàng có thể giao giấy tờ cho đơn vị chuyển tiền mang đi không phải gửi qua Bưu
điện nếu họ yêu cầu.
Đối với
đơn vị xin chuyển tiền
1) Mỗi đơn vị kinh tế, cơ quan đoàn thể, bộ đội chỉ được
xin chuyển tiền đến một địa phương nhất định. Nếu cần chuyển nhiều món đi nhiều
địa phương thì từng số tiền chuyển cho từng đơn vị địa phương sẽ làm một chuyển
tiền riêng biệt.
Nếu người nhận chuyển tiền lại
muốn chuyển toàn bộ hay một phần số tiền ấy đi địa phương khác thì sẽ coi như
làm một lần chuyển tiền mới.
2) Trường hợp đơn vị chuyền tiền sau khi đã chuyển tiền
xong lại xin thoái hồi món tiền chuyển vì người được hưởng chuyển tiền đã rời
địa chỉ đi nơi khác hay vì lý do nào khác, Ngân hàng nơi người nhận chuyển tiền
sẽ chuyển trả cho Ngân hàng chuyển tiền để hoàn lại cho người chuyển tiền trước
kia.
Trường hợp này cũng coi như một
chuyển tiền mới và cũng phải chịu thủ tục phí mới.
3) Đơn vị chuyển tiền nộp cho Ngân hàng mình nhờ chuyển
các giấy tờ sau đây:
a - Giấy xin chuyển tiền 4 liên
trong đó nói rõ tên và địa chỉ của đơn vị xin chuyển tiền, tên và địa chỉ của
người nhận chuyển tiền, số tiền chuyển, mục đích chuyển tiền.
b - Giấy xin trích tài khoản.
Trường hợp không có tài khoản hoặc có tài khoản nhưng hết tiền (hết tồn khoản)
thì phải nộp tiền mặt vào Ngân hàng.
Đối với
đơn vị nhận tiền chuyển
1) Sau khi nhận được giấy báo chuyển tiền đến, nếu đơn
vị được chuyển tiền có tài khoản tại Ngân hàng thì số tiền chuyển được nhập
ngay vào tài khoản của mình, khi nào muốn sử dụng số tiền đó thì làm theo các
thủ tục về sử dụng theo tài khoản tiền gửi thông thường.
Trường hợp này, Ngân hàng nhận
chuyển tiền đến sẽ thay mặt đơn vị được hưởng chuyển tiền ký nhận để tự động
chuyển khoản: ghi CÓ tài khoản đơn vị được hưởng chuyển tiền.
Nếu đơn vị được nhận tiền chuyển
không có tài khoản ở Ngân hàng, có thể xin đến nhận toàn bộ hay một phần số
tiền chuyển tiền đó, hoặc yêu cầu Ngân hàng chuyển cho đơn vị khác.
2) Muốn lĩnh số tiền chuyển bằng tiền mặt đơn vị được
nhận chuyển tiền phải xuất trình Ngân hàng các giấy tờ sua đây:
a - Giấy ủy nhiệm của Thủ trưởng
cơ quan xí nghiệp trong đó ghi rõ họ tên người được ủy nhiệm (nếu là chuyển
tiền công).
b - Giấy chứng minh thư (nếu là
cá nhân cán bộ, bộ đội) được hưởng số tiền chuyển đó.
c - Thẻ đăng ký hoặc giấy chứng
nhận của chính quyền địa phương (nếu là xí nghiệp tư nhân).
B – THANH TOÁN THEO LỐI NHỜ THU
NHẬN TRẢ
Hình thức thanh toán theo lối
nhờ thu nhận trả chỉ được áp dụng cho những tổ chức kinh tế có những giao dịch
hàng hóa thường xuyên và sòng phẳng trên cơ sở hợp đồng. Các việc trả tiền về
cung ứng lao vụ (như điện, nước, bưu phí…) về điều chuyển vốn giữa hai địa
phương sẽ không dùng hình thức nhờ thu nhận trả mà dùng hình thức thanh toán
bằng chuyển tiền thông thường.
Theo hình thức này, đơn vị bán
phải gửi hàng đi rồi mới nhờ Ngân hàng thu tiền hộ, đơn vị mua phải chấp nhận
việc trả tiền xong mới được sử dụng hàng. Đó là một nguyên tắc trong việc thanh
toán.
Đối với
đơn vị bán hàng
1) Đơn vị bán hàng phải thi hành đúng các điều đã ký kết
với đơn vị mua hàng trong hợp đồng như: số lượng hàng, chất lượng hàng, giá cả
hàng, cách đóng gói, kỳ hạn gửi hàng, trạm giao nhận hàng, v.v… Sau khi gửi
hàng đi, đơn vị bán hàng mới lập giấy tờ nhờ Ngân hàng thu tiền hộ.
2) Để tránh bớt thủ tục, số tiền mỗi lần nhờ thu hộ phải
là một món tương đối lớn, nói chung không dưới 200.000 đồng. Riêng về sách báo,
số tiền tối thiểu mỗi lần là 50.000đ. Nếu tổ chức kinh tế giao dịch nhiều mà số
tiền nhờ thu hộ dưới mức tối thiểu thì cần góp nhiều món nhỏ lại để nhờ thu hộ
một lần, nhưng thời hạn gộp các giấy tờ nhờ thu hộ không được để chậm quá 10
ngày. Quá thời hạn đó mà chưa đủ mức tiền tối thiểu để nhờ thu hộ thì sẽ không
nhờ Ngân hàng thu hộ về những số tiền đó nữa.
3) Thời hạn đem giấy tờ đến Ngân hàng nhờ thu hộ ấn định
tối đa là ba ngày lao động (tức là không tính ngày nghỉ) kể từ ngày gửi hàng
đi. Trường hợp địa điểm nơi giao hàng cách xa Ngân hàng trên 50 cây số, đường
giao thông không thuận tiện, có thể kéo dài thêm hai ngày.
Thí dụ: hàng hóa gửi cho đơn vị
mua ngày 10-01 thì một trong ba ngày sau 11, 12, 13, đơn vị bán phải đưa giấy
tờ đến Ngân hàng nhờ thu hộ.
Quá hạn này, Ngân hàng có thể
nhận thu hộ nhưng không cho vay thanh toán.
4) Cùng với hàng hóa gửi đi, đơn vị bán phải gửi cho đơn
vị mua các giấy tờ thanh toán sau đây:
a – Một bản hóa đơn trong đó kê
rõ: loại hàng hóa, số lượng, phẩm chất, giá cả, cước phí vận tải, tiền thuế đã
nộp hộ (nếu có), tổng số tiền phải trả, số và ngày ký hợp đồng hay giấy đặt hàng.
b – Các bản sao giấy tờ vận tải
trong đó có ghi số tiền cước phí (nếu đơn vị mua đến đơn vị bán mua hàng tự
mình chuyên chở về thì không cần có giấy vận tải).
c – Các giấy tờ nộp thuế (nếu
phải nộp thay cho đơn vị mua).
Đơn vị mua sẽ dùng các giấy tờ
trên đây làm căn cứ để kiểm tra đối chiếu với các điều khoản trong hợp đồng đã
ký kết.
5) Sau khi gửi hàng đi cho đơn vị mua, đơn vị bán gửi
cho Ngân hàng phục vụ mình đầy đủ các giấy tờ thanh toán sau đây theo đúng thời
hạn đã quy định ở điều 3 mục B (đối với đơn vị bán hàng):
a – Giấy đòi nợ (4 liên) đồng
thời cũng là giấy nhờ thu hộ, trong đó kê rõ tên, địa chỉ, đơn vị bán và đơn vị
mua, loại hàng hóa, trạm giao nhận hàng hóa, số tiền phải trả. Có ghi rõ giao
hàng theo hợp đồng hay giấy đặt hàng ngày ……. số ……
b – Một bản sao hóa đơn như đã
gửi cho đơn vị mua.
c – Các bản chính giấy tờ vận
tải (nếu có trả cước phí). Nếu đơn vị mua cử người đến tại nơi bán trực tiếp
kiểm nhận hàng và chuyên chở về, thì người đại diện đó phải ký nhận vào hóa đơn
và không phải gửi giấy vận tải đến Ngân hàng nữa.
d – Các giấy tờ khác theo quy
định chung nếu có.
6) Nếu đơn vị báo hàng thường xuyên không chấp hành
nghiêm chỉnh thủ tục giấy tờ thanh toán hoặc vi phạm hợp đồng một cách có hệ
thống như gửi hàng hóa không đúng phẩm chất, không tôn trọng thời gian giao
hàng hóa, v.v.. Ngân hàng sẽ không thu tiền hộ và không cho vay thanh toán.
7) Thời gian tối đa để làm các thủ tục giấy tờ thanh
toán từ khi gửi hàng đi cho đến khi thu tiền về quy định như sau:
- Thời gian tối đa đơn vị bán
nộp giấy tờ cho Ngân hàng để nhờ thu hộ là: 3 ngày (nếu đơn vị giao hàng ở xa
Ngân hàng trên 50 cây số và giao thông không thuận tiện thì thêm 2 ngày nữa,
tùy theo sự thỏa thuận của Ngân hàng địa phương và đơn vị giao dịch quyết định
theo thích hợp).
- Thời gian thực tế hai lần bưu
điện (thời gian Ngân hàng phục vụ đơn vị bán gửi giấy tờ cho Ngân hàng phục vụ
đơn vị mua và hồi đáp của Ngân hàng phục vụ đơn vị mua chờ Ngân hàng phục vụ
đơn vị bán).
- Thời gian cần thiết để chấp
nhận giấy tờ: 3 ngày (hoặc 4 ngày nếu đơn vị ở cách xa Ngân hàng trên 50 cây
số).
- Thời gian chuẩn bị trả tiền: 2
ngày (hoặc 3 ngày nếu ở xa Ngân hàng trên 50 cây số).
- Thời gian làm thủ tục giấy tờ
và xem xét giấy tờ ở hai Ngân hàng …… 2 ngày: Cộng …… ngày.
Ngân hàng Trung ương sẽ phối hợp
với Bưu điện làm sẵn một bản thời gian đường đi của Bưu điện gửi cho các Chi
nhánh.
Đối với
đơn vị mua hàng
1) Đối với mua phải chấp hành đúng các điều khoản trong
các hợp đồng đã ký kết với đơn vị bán, không được từ chối trả nếu không có lý
do chính đáng. Phải chấp nhận xong mới được sử dụng hàng.
Trường hợp hàng đến trước mà
giấy tờ đòi nợ chưa đến, nếu đơn vị mua cần ngay thì có thể sử dụng ngay số
hàng đó được và coi như là đơn vị mua đã chấp nhận, về sau không có quyền từ
chối chấp nhận nữa.
2) Sau khi nhận được giấy tờ của đơn vị bán gửi đến, đơn
vị mua kiểm tra chu đáo các giấy tờ xem có phù hợp với hợp đồng không. Nếu phù
hợp, đơn vị mua phải chấp nhận các giấy tờ thanh toán đó mặc dù hàng chưa đến,
đồng thời viết giấy báo gửi cho Ngân hàng phục vụ mình biết để tiến hành thanh
toán ngay.
Nếu đơn vị mua cử đại diện đến
nơi bán hàng kiểm nhận và chuyên chở hàng về, thì không có quyền từ chối chấp
nhận nữa.
3) Thời gian chấp nhận giấy đòi nợ đối với đơn vị mua là
3 ngày và thời gian trả tiền quy định là 2 ngày kể từ ngày giấy tờ thanh toán
do Ngân hàng phục vụ đơn vị mua gửi cho đơn vị mua. Cộng cả hai thời gian chấp
nhận và trả tiền là 5 ngày (không tính ngày nghỉ, ngày lễ).
Trường hợp đơn vị mua ở xa Ngân
hàng trên 50 cây số và đường giao thông không thuận tiện, thời gian chấp nhận
giấy đồi nợ có thể là 4 ngày và thời gian trả tiền là 3 ngày Cộng cả 2 thời
gian chấp nhận và trả tiền là 7 ngày.
Quá thời hạn chấp nhận nói trên,
nếu đơn vị mua không gửi giấy đến Ngân hàng từ chối chấp nhận một phần hay toàn
bộ (4 liên) thì coi như đã chấp nhận toàn bộ. Quá thời hạn trả tiền, mà đơn vị
mua không trả nợ, Ngân hàng sẽ căn cứ vào giấy tờ đơn vị bán đã gửi đến tự động
trích tài khoản đơn vị mua chuyển trả cho đơn vị bán.
Nếu tài khoản của đơn vị mua
không đủ tiền để trả, Ngân hàng sẽ đợi cho bao giờ tài khoản có số dư và căn cứ
trật tự ưu tiên nói ở mục II điều 5 của chỉ thị số 168-KH ngày 07-05-1958 của
Ngân hàng quốc gia Việt Nam mà tiến hành thanh toán. Trong những ngày tài khoản
không đủ số dư để thanh toán, Ngân hàng sẽ thu thêm một số tiền phạt cứ mỗi
ngày trả chậm là 0,05% về số tiền còn nợ chưa thanh toán. Đơn vị bán được hưởng
số tiền phạt đó.
4) Đơn vị mua có quyền từ chối chấp nhận một phần hay
toàn bộ số hàng trong những trường hợp sau đây:
a - Từ chối chấp nhận toàn bộ
- Số hàng gửi nhầm đến đơn vị
mua không hề ký hợp đồng mua hay đặt mua.
- Hàng hóa gửi đến hoàn toàn
không đúng quy định trong hợp đồng (số lượng, giá cả, quy cách…)
- Đơn vị bán giao hàng không
đúng theo kỳ hạn hoặc đặc điểm làm lỡ kế hoạch đơn vị mua.
- Đơn vị bán viết hóa đơn lần
thứ hai để đòi tiền hàng mà đơn vị mua đã trả rồi.
b - Từ chối chấp nhận một
phần
- Trong hóa đơn ghi giá cả hàng
gửi đến cao hơn giá đã thỏa thuận trong hợp đồng, từ chối số chênh lệch đó.
- Đơn vị bán gửi nhầm cả những
hàng hóa không đặt trước hoặc gửi quá số lượng hàng do hợp đồng ấn định của
từng thời gian.
- Đơn vị bán tính toán sai trong
hóa đơn, giấy đòi nợ (cộng, trừ, nhân, chia, sai).
5) Sau khi hàng hóa đến nơi, trong vòng một thời gian
nhất định dài hay ngắn do hợp đồng đôi bên quy định (tính từ ngày bốc hàng ở
ga, bến vận tải về) đơn vị mua phải tiến hành kiểm nhận hàng hóa, trong hòm,
kiện, xem thực chất hàng trong đó có đúng quy cách, mẫu mực, số lượng so với
hóa đơn và hợp đồng không. Nếu xét thấy sai sẽ lập một hợp đồng kiểm nghiệm,
thành phần gồm: Giám đốc xí nghiệp, phụ trách kỹ thuật, phụ trách tài vụ và có
đại biểu ty Công thương (hoặc Viện thí nghiệp của Bộ Công nghiệp) đến chứng
kiến. Trường hợp thật cần thiết có thể có đại biểu của Ngân hàng chứng kiến.
Đơn vị mua, dưới sự chứng kiến
của Hội đồng kiểm nghiệm lập biên bản từ chối chấp nhận nói rõ cụ thể từng
khoản vi phạm hợp đồng rồi gửi một bản tới Ngân hàng phục vụ mình và gửi thẳng
một bản đến đơn vị bán biết và đề nghị biện pháp xử lý đối với số hàng từ chối
đó.
Ngân hàng kiểm tra lại giấy tờ,
nếu thấy đúng là đơn vị bán hàng làm sai hợp đồng, thì sẽ căn cứ vào đó báo
ngay cho Ngân hàng phục vụ đơn vị bán. Ngân hàng này sẽ tự động trích tài khoản
đơn vị bán chuyển tới Ngân hàng phục vụ cho đơn vị mua để trả lại cho đơn vị
mua.
Nếu việc kiểm nhận kéo dài quá
thời hạn quy định, thì Ngân hàng không nhận việc tự động trích tài khoản đơn vị
bán chuyển trả đơn vị mua, sự xích mích đó sẽ do hai bên trực tiếp thương lượng
giải quyết.
6) Trong thời gian từ chối chấp nhận, chờ đợi đôi bên
mua và bán thương lượng, bên bán phải có kế hoạch tích cực giải quyết có hàng
bị từ chối, bên mua phải chịu trách nhiệm gìn giữ số hàng đó cho chu đáo và
tuyệt đối không được sử dụng.
Nếu vi phạm quy định trên, đơn
vị mua mặc nhiên coi như đã hoàn toàn chấp nhận số hàng đó, Ngân hàng sẽ tiến
hành thanh toán như thường lệ, đồng thời đơn vị mua lại phải bị phạt một khoản
tiền 1% trên giá trị số hàng đã sử dụng. Tiền phạt, đơn vị bán được hưởng. Ngân
hàng sẽ giữ giấy tờ từ chối và theo dõi trong vòng một tháng, nếu hai bên vẫn
dàn xếp không xong. Ngân hàng sẽ gửi trả lại giấy tờ cho đơn vị bán. Hai bên sẽ
nhờ tòa án xét xử. Sai lầm do bên nào gây ra bên ấy phải chịu mọi khoản phí
tổn, bảo quản hàng và tiền bưu phí về việc tranh chấp.
Đến khi đã thỏa thuận xong, Ngân
hàng căn cứ vào điều kiện thỏa thuận giữa hai bên mà giải quyết.
7) Những lý do từ chối chấp nhận nào không xuất phát từ
thể lệ hợp đồng và thể lệ thanh toán không được coi là lý do chính đáng để từ chối
chấp nhận.
8) Trong quá trình thi hành một hợp đồng giao hàng, đối
với đơn vị mua trả không sòng phẳng, đơn vị bán có quyền đình chỉ bán hàng đến
khi trả hết nợ cũ. Sau đó hai bên nếu cần có thể chuyển hình thức thanh toán
theo lối nhờ thu nhận trả sang hình thức thư tín dụng.
9) Trên đây là những hình thức
thủ tục giấy tờ áp dụng chung cho các trường hợp thanh toán theo lối nhờ thu
nhận trả giữa hai địa phương.
Ngoài ra còn một số trường hợp
riêng biệt phải giải quyết theo lối nhờ thu nhận trả, như sau:
a – Trường hợp thay mặt giao
hàng – Trong trường hợp này, đơn vị bán hàng và đơn vị mua hàng đều ở hai
địa phương khác nhau, hàng hóa để tại một địa phương khác địa phương đơn vị bán
và do một đơn vị thứ ba giao hộ (gọi là trạm trung gian).
Đơn vị mua nhận hàng do đơn vị
thứ 3 gửi đến nhưng thanh toán thẳng với đơn vị bán.
Ví dụ: đơn vị bán hàng ở Hà Nội,
đơn vị mua hàng ở Nam Định, hàng và đơn vị giao hộ ở Hải Phòng.
Sau khi gửi hàng cho đơn vị mua,
theo đúng những điều đã ký kết trong hợp đồng, giữa đơn vị mua và đơn vị bán,
đơn vị “giao hàng hộ” thay mặt đơn vị bán làm thủ tục giấy tờ nhờ thu hộ, như
đã quy định ở trên (mục B điều 5 quy định đối với đơn vị bán hàng) và đưa tới
Ngân hàng địa phương mình, đồng thời gửi cho đơn vị bán hàng một bản sao hóa
đơn và một bản phó giấy nhờ thu. Đơn vị bán hàng dùng giấy tờ này để theo dõi
việc thu hồi tiền bán hàng và có thể xuất trình cho Ngân hàng phục vụ mình để
xin vay về loại “giấy tờ trên đường đi”.
Trên giấy tờ nhờ thu phải ghi
nhờ thu cho đơn vị bán hàng. Ngân hàng nơi đơn vị “giao hàng hộ”, sau khi kiểm
soát các thủ tục giấy tờ đầy đủ rồi, gửi các giấy tờ tới Ngân hàng phục vụ đơn
vị mua.
Ngân hàng phục vụ đơn vị mua sau
khi đòi được tiền theo các thủ tục đã quy định về hình thức thanh toán nhờ thu
nhận trả sẽ chuyển tiền về Ngân hàng phục vụ đơn vị bán để trả thẳng cho đơn vị
bán, chứ không chuyển trả cho đơn vị “giao hàng hộ”.
Trong trường hợp từ chối chấp
nhận, đơn vị mua sẽ gửi giấy từ chối chấp nhận tới Ngân hàng phục vụ mình, Ngân
hàng phục vụ đơn vị mua sẽ chuyển giấy tờ từ chối đó đến Ngân hàng phục vụ đơn
vị bán. Đôi bên mua và bán sẽ trực tiếp thương lượng giải quyết với nhau.
b – Trường hợp thay mặt nhận
hàng.
Trong trường hợp này, đơn vị mua
và đơn vị bán ở hai địa phương khác nhau và hàng giao cho một đơn vị thứ 3 ở
một địa phương khác thay mặt đơn vị mua để nhận. Đơn vị mua trả tiền thẳng cho
đơn vị bán.
Sau khi gửi hàng đi, theo đúng
các điều ký kết trong hợp đồng, đơn vị bán hàng làm các thủ tục giấy tờ gửi tới
Ngân hàng phục vụ mình để nhờ thu hộ. Giấy đòi nợ ghi tên đơn vị mua hàng.
Ngân hàng phục vụ đơn vị bán,
nhận được giấy tờ nhờ thu hộ, sau khi kiểm soát xong, gửi đến Ngân hàng phục vụ
đơn vị mua.
Đơn vị mua, căn cứ vào giấy đòi
nợ và hóa đơn do Ngân hàng phục vụ mình gửi tới sẽ chấp nhận giấy tờ và trả
tiền theo đúng thời hạn đã quy định chung.
Trường hợp từ chối chấp nhận
giấy tờ đòi nợ, đơn vị mua báo cho Ngân hàng phục vụ mình, đồng thời báo cho
đơn vị “nhận hàng hộ” biết lý do từ chối chấp nhận và giao trách nhiệm cho đơn
vị nhận hàng hộ phải bảo quản chu đáo không được sử dụng số hàng từ chối đó.
Ngân hàng phục vụ đơn vị mua sau
khi nhận được giấy tờ từ chối chấp nhận, kiểm soát lý do từ chối, nếu thấy lý
do từ chối là xác đáng, sẽ gửi giấy báo cho Ngân hàng phục vụ đơn vị bán.
Sau khi nhận được hàng hóa và
trong thời gian kiểm nhận đã thỏa thuận trong hợp đồng, nếu đơn vị “nhận hàng
hộ” phát hiện hàng hóa thực tế không đúng với hóa đơn hoặc với hợp đồng (về số
lượng, quy cách, phẩm chất, giá cả v.v…) lập hội đồng kiểm nghiệm làm biên bản
rồi gửi biên bản cho đơn vị mua. Căn cứ vào biên bản đó, đơn vị mua sẽ tới Ngân
hàng phục vụ mình để đề nghị đòi đơn vị bán trả tiền hàng lại.
Trách nhiệm
của các đơn vị Ngân hàng phục vụ.
1) Các đơn vị Ngân hàng phục vụ
có nhiệm vụ theo dõi kiểm tra trong việc chấp hành các thể lệ thanh toán, theo
hình thức nhờ thu nhận trả, cụ thể là:
a – Chi nhánh Ngân hàng phục
vụ đơn vị bán có trách nhiệm theo dõi và kiểm tra đơn vị bán.
Nắm vững nguyên tắc: hàng hóa đã
chuyên chở rồi mới xuất trình giấy đòi nợ nhờ Ngân hàng thu hộ.
Giấy đòi nợ nhờ thu hộ, phải ghi
cả số hiệu và ngày hợp đồng ký kết. Trường hợp đơn vị mua trực tiếp cử người
đến nhận hàng thì trong hóa đơn có chữ ký của người đại diện hợp thức.
Về thời hạn tối đa nhờ thu hộ
nếu quá 3 hoặc 5 ngày sau khi đã gửi hàng đi mới gửi giấy tờ đến Ngân hàng thì
đơn vị bán hàng không được quyền vay về giấy tờ thanh toán trên đường đi. Như
vậy sẽ có tác dụng thúc đẩy xí nghiệp coi trọng công tác tài vụ của mình và
khỏi nhập nhằng trong việc vận dụng vốn.
Ngoài ra, Ngân hàng phục vụ đơn
vị bán phải theo dõi Ngân hàng phục vụ đơn vị mua, thông báo kịp thời về những
nguyên nhân chậm trả như từ chối chấp nhận, thiếu số dư tài khoản để thanh
toán.
Sau khi nhận được giấy nhờ thu
hộ do đơn vị bán gửi đến, Ngân hàng phải có trách nhiệm gìn giữ các giấy tờ đó
không để thất lạc, đồng thời chuyển ngay ngày hôm đó cho Ngân hàng phục vụ đơn
vị mua. Phải kịp thời hành tự và báo có cho đơn vị bán sau khi nhận được chuyển
tiền do đơn vị mua chuyển trả, chậm nhất là sáng ngày hôm sau.
b – Chi nhánh Ngân hàng phục
vụ đơn vị mua có trách nhiệm theo dõi và kiểm tra đơn vị mua.
Về thời hạn chấp nhận và thời
hạn trả nợ của đơn vị mua để đảm bảo thu hộ món nợ cho kịp thời, góp phần củng
cố kỷ luật chi trả.
Về nguyên nhân từ chối chấp nhận
(xem lý do có được chính đáng không). Cở sở của việc kiểm tra này là bản hợp
đồng đã ký kết.
Về việc đơn vị mua bảo quản số
hàng hóa của đơn vị bán trong thời gian từ chối chấp nhận. Trường hợp Ngân hàng
phát hiện ra đơn vị mua mang sử dụng số hàng đó thì kịp thời thi hành các biện
pháp cần thiết như: trích tài khoản trả cho đơn vị bán, áp dụng khoản tiền phạt
v.v…
Nói chung, Ngân hàng không tham
gia Hội đồng kiểm nghiệm hàng hóa. Nhưng đối với các xí nghiệp thường xảy ra từ
chối chấp nhận không chính đáng thì có thể tham gia chứng kiến để có thái độ
thích đáng trong trường hợp đơn vị mua xin vay thanh toán.
C. - THANH TOÁN THEO THƯ TÍN DỤNG
Hình thức thanh toán theo thư
tín dụng chỉ áp dụng trong việc giao dịch hàng hóa giữa các tổ chức kinh tế ở
hai địa phương khác nhau trong các trường hợp sau đây:
1) Giữa đơn vị bán và đơn vị mua chưa có các quan hệ
giao dịch thường xuyên, chỉ có những giao dịch ký kết từng lần, sự tín nhiệm
nhau còn ít.
2) Đối với những đơn vị xí nghiệp vì hạch toán kinh tế
còn kém thường bị lỗ, những tổ chức kinh tế dự trữ vật tư quá mức quy định
trong kế hoạch một cách có kế hoạch thường xảy ra khó khăn trong việc thanh
toán nợ, những đơn vị mua thường xuyên không trả các giấy đòi nợ đúng thời hạn,
do đó mà không được tín nhiệm của đơn vị bạn.
Theo hình thức này đơn vị mua
phải gửi trước vào Ngân hàng một số tiền nhất định để đảm bảo việc trả các hàng
hóa của đơn vị bán, tài khoản thư tín dụng mở ở bên Ngân hàng phục vụ đơn vị
mua, nhưng việc trả tiền thì làm ở bên Ngân hàng phục vụ đơn vị bán. Đơn vị báu
sau khi chuyển vận hàng đi, đưa đủ giấy tờ đến Ngân hàng rồi mới có quyền nhận
số tiền bán hàng.
Đối với
đơn vị mua hàng.
1) Thư tín dụng chỉ mở cho một đơn vị bán hàng và đứng
tên đơn vị bán hàng. Nếu muốn giao dịch với nhiều đơn vị bán, đơn vị mua phải
xin mở nhiều thư tín dụng. Nếu thư tín dụng chưa sử dụng hết, đơn vị mua có thể
xin đổi tên đơn vị bán trên thư tín dụng sau khi đã hủy hợp đồng với đơn vị bán
cũ.
2) Muốn mở thư tín dụng, đơn vị mua phải gửi đến Ngân
hàng giữ tài khoản của mình giấy yêu cầu, và lập thư tín dụng 4 liên (nếu gửi
bằng điện tín) hay lập 5 liên (nếu gửi bằng đường bưu điện). Trường hợp không
có tài khoản, đơn vị mua phải nộp vào Ngân hàng toàn bộ số tiền ghi trên thư
tín dụng hoặc có thể xin vay của Ngân hàng cùng với việc gửi giấy yêu cầu mở
thư tín dụng.
3) Số tiền tối thiểu ấn định cho mỗi thư tín dụng là
500.000 đồng. Trường hợp muốn tăng số tiền của thư tín dụng đơn vị mua phải mở
thư tín dụng mới, chứ không có thể thêm vào.
4) Đơn vị mua hàng định trước trong thư tín dụng số
lượng và phẩm chất hàng hóa, cách bao bì đóng gói, trạm gửi hàng và trạm nhận
hàng, v.v… nếu cần thì có thể cử người đại diện tới địa điểm mua hàng kiểm tra
hàng hóa trước khi đóng gói, để trách xích mích về sau.
Trong thư tín dụng, cần nói rõ
các điều kiện thanh toán như sau:
a - Thời hạn có giá trị của thư
tín dụng (để đơn vị bán không thể kéo dài việc gửi hàng hóa).
b - Loại hàng hóa (bao nhiêu,
hàng gì).
c - Điều kiện chuyên chở (vận
tải bằng phương tiện gì).
d - Tên đơn vị bán hàng.
e - Tên và chữ ký mẫu người đại
diện của đơn vị mua phải tới kiểm tra hàng hóa (nếu có).
g - Các điều kiện cụ thể khác
nếu đơn vị bán cần nhờ Ngân hàng tham gia giám đốc bên mua.
5) Thư tín dụng có thể bị hủy bỏ trong hai trường hợp
như sau:
a - Do yêu cầu của đơn vị mua
được sự đồng ý của đơn vị bán nhưng phải đòi Ngân hàng phục vụ đơn vị bán hồi
báo đình chỉ trả số tiền đó xong, thì Ngân hàng phục vụ đơn vị mua mới hoàn lại
số tiền thừa.
b - Thời hạn của thư tín dụng
hết rồi mà số tiền trong thư tín dụng không sử dụng đến hoặc chưa sử dụng hết
thì Ngân hàng sẽ trả số tiền còn lại và hủy thư tín dụng.
Đối với
đơn vị bán hàng.
1 – Sau khi nhận được giấy báo về việc mở thư tín dụng
của Ngân hàng gửi đến, căn cứ vào hợp đồng đã ký kết với đơn vị mua, đơn vị bán
phải gửi ngay hàng hóa cùng với hóa đơn và giấy chuyên chở hàng hóa cho đơn vị
mua. Đồng thời gửi ngay đến Ngân hàng nơi phục vụ mình những giấy tờ sau đây:
a) Giấy hóa đơn trong đó kê rõ
loại hàng hóa, số lượng, phẩm chất, giá cả, cước phí vận tải, tiền thuế đã nộp
hộ (nếu có) tổng số tiền phải trả, số và ngày của hợp đồng hay giấy đặt hàng.
b) Giấy tờ chuyên chở hàng trong
đó kê rõ số tiền cước phí.
c) Nếu trong thư tín dụng đơn vị
mua có ra điều kiện đòi hỏi một sự đảm bảo về chất lượng hàng hóa, đơn vị bán
hàng phải gửi thêm cho Ngân hàng giấy chứng nhận kỹ thuật của Phòng thí nghiệm
xí nghiệp hay Phòng kỹ thuật xí nghiệp.
Trường hợp đơn vị mua có người
đại diện đến tại nơi bán, thì đơn vị bán có thể yêu cầu người đại diện ký tên
vào hóa đơn để thanh toán.
Nếu đơn vị mua không cử đại diện
đến nhận hàng tại chỗ, thì trước khi trả tiền thư tín dụng, Ngân hàng sẽ kiểm
soát qua những giấy tờ do đơn vị bán gửi đến Ngân hàng, về tất cả các điều kiện
của thư tín dụng (trừ phẩm chất của hàng hóa).
2 – Đơn vị bán sau khi đã gửi hàng cho đơn vị mua, được
nhận tiền thư tín dụng của đơn vị mua về số hàng đã chuyển cho đơn vị mua. Giao
hàng toàn bộ thì được nhận tiền toàn bộ. Giao hàng từng phần thì nhận tiền từng
phần nhưng không quá hai lần. Chỉ được nhận tiền bằng chuyển khoản, không được
đòi nhận tiền bằng tiền mặt.
3 – Thư tín dụng có giá trị trong thời hạn một tháng
kể từ ngày đơn vị bán được báo có thư tín dụng. Trong một vài trường hợp đặc
biệt thư tín dụng có thể kéo dài tối đa là 45 ngày, tùy hoàn cảnh cụ thể mà quy
định.
D. – THANH TOÁN THEO TÀI KHOẢN ĐẶC
BIỆT
Hình thức thanh toán theo tài
khoản đặc biệt áp dụng cho đơn vị kinh tế cần chuyển một số tiền đến một địa
phương khác không qua Ngân hàng hoi mình ở, đơn vị này xin mở tài khoản tại
Ngân hàng nơi đến mua hàng để sử dụng.
Tài khoản đặc biệt áp dụng trong
trường hợp mua hàng không có hợp đồng, và thông thường áp dụng cho Mậu dịch
quốc doanh thu mua sản phẩm. Ngoài ra, có thể dùng để trả các món tiền vận tải,
bốc vác tại nơi đến mua hàng.
Với hình thức thanh toán này,
đơn vị mua có thể trả tiền cho nhiều đơn vị bán hàng trong một thành phố hay
một địa phương.
Khác với thư tín dụng, khi tài
khoản đặc biệt hết tiền, đơn vị mua có quyền xin chuyển thêm tiền vào bằng hình
thức vãng lai chuyển tiền.
Tài khoản đặc biệt chỉ mở tại
Ngân hàng nơi đến mua hàng đứng tên đơn vị mua, không đứng tên đơn vị bán.
Có thể trích trong tài khoản đặc
biệt để chuyển số dư sang một địa phương khác để tiếp tục mua hàng. Trong
trường hợp này đơn vị mua hàng cần phải ghi rõ trong giấy yêu cầu mở tài khoản
đặc biệt.
Đơn vị mua hàng phải:
1) Muốn mở tài khoản đặc biệt tại một địa phương nào để
mua hàng, đơn vị mua hàng gửi tới Ngân hàng phục vụ mình các giấy tờ sau đây:
a - Giấy xin trích tài khoản
tiền gửi của mình hay nộp tiền mặt nếu không có tài khoản tại Ngân hàng hoặc
tài khoản hết tiền.
b - Giấy xin mở tài khoản đặc
biệt trong đó nói rõ việc mở tài khoản đặc biệt mua tại đâu, để làm gì, v.v… và
về sau có cần chuyển số dư đến một địa phương nào để tiếp tục mua hàng không?
c - Nộp cho Ngân hàng mẫu chữ ký
và giấy ủy nhiệm người đại diện có thẩm quyền rút số tiền ở Ngân hàng nơi đến
mua hàng.
2) Số tiền tối thiểu mở tài khoản đặc biệt lần đầu là
800.000 đồng nếu lần sau gửi thêm thì không quy định mức tối thiểu. Số tiền chi
mỗi món tối thiểu là 50.000 đồng.
3) Sau khi đến mở tài khoản đặc biệt, đơn vị mua hoặc
người đại diện không được mang thêm một số tiền mặt nào đến địa phương mua
hàng, không được chuyển một món thu nào nhập thêm vào tài khoản đặc biệt. Trừ
trường hợp yêu cầu tăng thêm số tiền tài khoản đặc biệt qua chuyển tiền như đã
quy định trên.
4) Tài khoản đặc biệt mở không có thời hạn, nhưng sau
một tháng, đơn vị mua không sử dụng đến hoặc nếu đã sử dụng rồi mà không tiếp
tục sử dụng nữa kéo dài trên một tháng, Ngân hàng báo cho đơn vị mua biết và
hủy tài khoản đặc biệt, đồng thời chuyển số dư trả lại cho đơn vị mua. Số dư
tài khoản đặc biệt, đồng thời chuyển số dư trả lại cho đơn vị mua. Số dư tài
khoản đặc biệt không được hưởng lãi tiền gửi.
5) Để tránh xích mích về sau, đơn vị mua bắt buộc phải
cử đại diện đến địa phương các đơn vị bán hàng để chọn hàng và nhận hàng.
Người đại diện có quyền ký nhận
trên các hóa đơn và giấy gửi hàng, ký giấy xin trích tài khoản để trả cho đơn
vị bán. Vì đã trực tiếp mua hàng và nhận hàng của đơn vị bán nên không có
trường hợp từ chối việc trả tiền hàng nữa.
6) Trường hợp mua hàng của các đơn vị bán hàng có tài
khoản tại Ngân hàng, người đại diện mua hàng sau khi đã chọn hàng, lấy hóa đơn
đưa đến Ngân hàng xin trích tài khoản chuyển khoản trả cho đơn vị bán hàng. Sau
đó lấy giấy báo “Có” đưa đến đơn vị bán hàng để nhận hàng.
Trường hợp mua hàng của tư
nhân hoặc các tập đoàn sản xuất không có tài khoản tại Ngân hàng, thì người đại
diện mua xin rút tiền mặt để trả tiền mua hàng.
II. – CÁC
HÌNH THỨC THANH TOÁN TRONG MỘT ĐỊA PHƯƠNG
(Thanh toán qua một đơn vị Ngân
hàng hoặc qua hai đơn vị Ngân hàng cùng trong một địa phương).
A – THANH TOÁN BẰNG SÉC
1) Thanh toán bằng séc là hình thức thông dụng hiện nay,
thủ tục đơn giản.
Đơn vị mua khi nhận hàng thì
phát hành séc trả trực tiếp cho đơn vị bán.
Séc có hai loại:
a - Loại séc tiền mặt.
b - Loại séc chuyển khoản.
2) Để thuận tiện cho việc thanh toán, Ngân hàng quốc gia
Việt Nam quy định các mức tiền thanh toán bằng séc mỗi lần như sau:
- Các khoản trả dưới 10.000 đồng
có thể thanh toán bằng tiền mặt.
- Các khoản trả từ 10.000 đồng
đến 50.000 đồng có thể thanh toán bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản tùy theo
sự thỏa thuận của hai bên.
- Các khoản trả từ 50.000 đồng
trở lên bắt buộc phải thanh toán bằng chuyển khoản trong Ngân hàng.
- Nhưng đối với tư nhân không có
tài khoản tại Ngân hàng, thì phát hành séc tiền mặt.
3) Đơn vị phát hành séc phải có số dư tài khoản trong
Ngân hàng và chỉ được quyền phát hành trong phạm vi số tồn khoản. Ngân hàng chỉ
thanh toán khi nào trong tài khoản có đủ số dư. Do đó, trật tư trả tiền ưu tiên
không áp dụng đối với hình thức thanh toán này.
Trường hợp phát hành séc quá số
dư, đơn vị phát hành séc phải chịu một khoản tiền phạt là 0,05% mỗi ngày trên
số tiền chậm trả để bồi thường cho đơn vị bán hàng. Đồng thời Ngân hàng sẽ báo
cáo sự vi phạm đó cho cấp trên đơn vị phát hành séc biết. Trường hợp Ngân hàng
vì một lý do nào đó mà đã trả quá số dư tài khoản, thì Ngân hàng được hưởng
khoản tiền phạt đó.
Nếu cố tình vi phạm lần thứ 2,
thì Ngân hàng sẽ đưa đơn vị đó ra tòa án để có biện pháp thi hành kỷ luật thích
đáng.
4) Tuyệt đối không được chuyển nhượng séc cho nhau thay
giấy bạc.
Mỗi tờ séc có giá trị trong thời
hạn là 5 ngày, kể từ ngày phát hành séc.
Séc không được tẩy xóa hoặc viết
hỏng, nếu muốn sử dụng tờ séc đã viết hỏng, thì phải sửa lại bằng mực đó và chủ
tài khoản ký tên đóng dấu xác nhận. Viết hỏng nhiều thì hủy séc đó làm séc
khác.
5) Khách hàng bên Nợ hoặc bên Có đều có thể mang séc
chuyển khoản đến Ngân hàng thanh toán.
Mẫu séc chuyển khoản cũng dùng
loại séc tiền mặt nhưng gạch thêm hai gạch song song cách nhau từ một đến hai
phân từ góc dưới bên trái đến góc trên bên phải.
Séc chuyển khoản có thể thanh
toán cho một hay nhiều khách hàng bên Có trong một địa phương, nếu thanh toán
với nhiều đơn vị phải có bảng kê kèm theo. Không được dùng séc tiền mặt để
thanh toán chuyển khoản và ngược lại không được dùng séc chuyển khoản mà thanh
toán bằng tiền mặt.
6) Khi phát hành séc, đơn vị phát hành phải ghi rõ:
- Tên Ngân hàng mở tiểu khoản
bên nợ.
- Tên đơn vị và số tiểu khoản
đơn vị phát hành séc.
- Tên đơn vị có hoặc tên người
được hưởng séc đúng với chứng minh thư hay giấy thông hành.
- Số tiền bằng chữ và bằng số
đúng nhau.
- Ngày phát hành tờ séc đó (ngày
ghi bằng chữ, tháng năm ghi bằng số).
- Chữ ký, dấu dùng như chữ ký và
dấu lưu chiếu ở Ngân hàng.
Đơn vị phát hành chịu trách
nhiệm hoàn toàn trong khi viết séc. Nếu viết séc không đúng thể lệ, Ngân hàng
không thanh toán và Ngân hàng không chịu trách nhiệm về những sự thiệt thòi có
thể xảy ra cho đôi bên do tờ séc phát hành không hợp lệ.
7) Khi muốn dùng hình thức séc thanh toán, đơn vị phát
hành phải đến Ngân hàng làm thủ tục xin mua quyển séc. Khi nào không sử dụng
quyển séc nữa, số tờ séc còn thừa phải mang nộp lại cho Ngân hàng, để tránh
những sự lạm dụng có thể xảy ra.
8) Chủ tài khoản chịu trách nhiệm khi có tờ séc hay
quyển séc bị mất cắp hoặc bị lợi dụng.
Nếu mất tờ séc đã ký tên đóng
dấu ghi rõ số tiền thì đơn vị phát hành tờ séc phải một mặt báo cho đơn vị mình
giao dịch mua hàng hóa biết đình chỉ việc trả tờ séc đó, một mặt phải báo cho
Ngân hàng. Phải chờ hết thời hạn 10 ngày, được Ngân hàng báo cho biết là séc đó
chưa có ai mua hàng hoặc lĩnh tiền thì mới được phát hành tờ séc khác để thay
thế và coi tờ séc đó là hủy bỏ. Trên tờ séc mới, phải ghi “Phát hành thay séc
số …… ngày …… bị mất”.
Trong thời gian 10 ngày, nếu tờ
séc bị thất lạc đã có người tới mua hàng hóa, lĩnh tiền rồi, thì cơ quan phát
hành tờ séc ấy phải chịu trách nhiệm về số tiền ghi trên séc, coi như chính
mình trích tài khoản trả tiền và phải thanh toán số tiền bị lợi dụng đó.
Nếu tờ séc trắng (chưa viết gì)
hay quyển séc trắng bị thất lạc thì cũng làm các thủ tục báo mất séc cho các
đơn vị thường giao dịch mua hàng hóa và Ngân hàng để đình chỉ không trả các tờ
séc mang số đó. Khi cần tiền thanh toán có thể được sử dụng tờ séc khác, nhưng
vẫn phải chịu trách nhiệm thanh toán về sau nếu có người sử dụng tờ séc đó mua
hàng.
9) Đơn vị bán hàng, sau khi nhận được tờ séc phát hành
do đơn vị mua giao, nên chú ý xem nội dung tờ séc, ngày phát hành ghi trên tờ
séc, xem thời hạn giá trị của tờ séc còn đủ 5 ngày không. Trong thời hạn đó
phải đem tờ séc đến Ngân hàng nhờ chuyển khoản. Nếu để séc quá hạn mới đến lĩnh
tiền thì Ngân hàng không thanh toán. Gặp trường hợp được đơn vị mua hàng báo tờ
séc bị thất lạc, cần phải theo dõi và chú ý kiểm soát không nhận thanh toán
tiền mua hàng bằng tờ séc ấy.
10) Người được hưởng loại séc tiền mặt phải tự mình mang
từ séc đến Ngân hàng để lĩnh tiền mặt.
Nếu vì lý do nào đó không đến
Ngân hàng được, có thể ủy nhiệm cho một người đến Ngân hàng nhận tiền, phải có
giấy ủy nhiệm do Thủ trưởng cơ quan chứng nhận nếu là cán bộ, nếu là nhân dân
có chính quyền khu phố chứng nhận. Trong giấy phải ghi rõ người được ủy nhiệm
tên họ theo đúng chứng minh thư, hoặc giấy thông hành, giấy đăng ký ngoại kiều,
v.v… và chữ ký mẫu của người được ủy nhiệm đến lĩnh. Ngân hàng chi trả tiền sau
khi đã công nhận có đủ bảo đảm cần thiết.
Người được ủy nhiệm lĩnh tiền
không được ủy nhiệm lại người khác thay mình đến Ngân hàng nhận tiền mặt.
11) Người được hưởng sẽ đến Ngân hàng lập phiếu thanh
toán séc tiền mặt 2 liên, ký tên, đóng dấu (nếu có) để làm thủ tục chi trả.
B – THANH TOÁN BẰNG SÉC BAO CHI
1) Việc giao dịch kinh tế giữa hai đơn vị như mua hàng ở
Mậu dịch quốc doanh, Hợp tác xã, có trường hợp bên bán chưa biết rõ bên mua,
hoặc bên bán thiếu tín nhiệm bên mua muốn phải có Ngân hàng bảo đảm số tiền đó.
Ngân hàng ký tên đóng dấu vào sau lưng tờ séc để bảo chi số tiền trên séc đó,
Ngân hàng chịu trách nhiệm thanh toán như vậy gọi là séc bảo chi. Séc bảo chi
cũng còn dùng để trả chi phí vận tải.
2) Để tránh những số tiền nhỏ cũng phải bảo chi, vừa mất
thì giờ khách hàng vừa tăng thêm thủ tục, séc bảo chi chỉ được sử dụng một cách
rất hạn chế.
Ngân hàng quốc gia Việt Nam quy
định số tiền tối thiểu của mỗi séc bảo chi từ 500.000 đồng trở lên, dưới
500.000 đồng Ngân hàng không bảo chi. Mỗi tờ séc bảo chi có giá trị 5 ngày kể
từ ngày chủ tài khoản ký tên phát hành tờ séc, không kể từ ngày Ngân hàng ký
bảo chi sau lưng tờ séc.
3) Khách hàng lập “phiếu xin bảo chi” 2 liên rồi trao
cho người kế toán kèm theo tờ séc. Nhân viên kế toán xem lại nội dung séc, các
chi tiết ghi trên phiếu và số dư tài khoản khách hàng, làm thủ tục trích tài
khoản ghi riêng ra số tiền báo chi đó trong một tiểu khoản và viết mấy chữ trên
tờ séc: “séc bảo chi”, ngày … tháng … năm … có chữ ký của Trưởng Ngân hàng rồi
giao cho khách hàng.
C. – THANH TOÁN THEO GIẤY ỦY NHIỆM
CHI
Thanh toán theo ủy nhiệm chỉ
có hai loại.
1) Thanh toán theo giấy ủy nhiệm chi áp dụng trong
trường hợp đơn vị mua hay bán chưa quen dùng séc thanh toán, đơn vị bán muốn
đảm bảo có tiền ngay sau khi giao hàng. Đơn vị bán chỉ giao hàng cho đơn vị
mua, sau khi đơn vị mua chứng minh đã trả tiền số hàng đó bằng chuyển khoản
trong Ngân hàng.
Căn cứ vào hợp đồng hoặc giấy
đặt hàng, đơn vị mua trực tiếp cử người đến kiểm soát tại hàng hóa, nếu đầy đủ
các điều kiện đã thỏa thuận, đơn vị mua lập giấy ủy nhiệm chi 3 liên đến nhờ
Ngân hàng trích tài khoản của mình chuyển sang tài khoản đơn vị bán. Lấy liên 1
thay giấy báo Có (tiểu khoản đơn vị bán hàng) do Ngân hàng giao lại cho mình để
mang tới đơn vị bán mà nhận hàng.
2) Có trường hợp, hai đơn vị mua và bán thanh toán theo
kế hoạch. Đơn vị mua phát hành một số giấy ủy nhiệm chi, sẽ trích tài khoản
theo các kỳ trả tiền đã định trước. Cách tiến hành như sau:
a – Hình thức thanh toán này
dùng cho hai đơn vị mua và bán cùng ở một địa phương có hợp đồng giao dịch với
nhau đều đặn, thường xuyên và số tiền trả thường có tính chất cố định.
Loại này có mấy trường hợp:
1) Giao hàng sau từng thời gian
nhất định, số lượng hàng mỗi lần giao không thay đổi số tiền thanh toán cũng là
cố định.
2) Hai đơn vị mua và bán, số
hàng giao tùy hàng ngày giao không cố định nhưng trong khoảng 10 hay 15 ngày,
có thể là cố định do quy luật giao dịch giữa hai đơn vị.
- Để đơn giản thủ tục, mỗi lần
giao nhận hàng đơn vị mua và bán không phải tới Ngân hàng làm giấy thanh toán.
Căn cứ vào tình hình giao dịch
hàng hóa, hai đơn vị mua và bán ký kết hợp đồng với nhau. Trong hợp đồng định
rõ kỳ hạn trả tiền và kỳ hạn điều chỉnh về các số tiền đã trả một lần.
Kỳ trả tiền tức là định ngày
trả, mỗi kỳ hạn trả tiền có thể là hai hoặc 3 ngày.
Kỳ điều chỉnh tức là tổng hợp
các số tiền của các kỳ trả tiền và đem đối chiếu với giá cả các số hàng hóa đã
giao, nếu thừa thiếu sẽ thanh toán điều chỉnh.
- Sau khi hai bên mua và bán
thỏa thuận với nhau, đơn vị mua gửi tới Ngân hàng, các giấy ủy nhiệm chi thuộc
kỳ điều chỉnh đó. Mỗi giấy ủy nhiệm chi là một kỳ trả tiền, trong giấy ủy nhiệm
chi ghi bằng chữ đỏ “ngày trả tiền”.
Ví dụ kỳ điều chỉnh là 15 ngày,
kỳ trả tiền là ba ngày một lần, thì đơn vị mua gửi đến Ngân hàng 5 giấy ủy
nhiệm chi, để trả vào các ngày 3, 6, 9, 12 và 15.
- Ngân hàng sẽ căn cứ vào giấy
ủy nhiệm chi của đơn vị mua, đúng đến ngày trả tiền ghi trên giấy ủy nhiệm chi,
tiến hành trích tài khoản đơn vị mua chuyển trả đơn vị bán.
Trường hợp tài khoản đơn vị mua
không đủ để trả, Ngân hàng sẽ theo trật tự ưu tiên chi trả để trích dẫn, khi
tài khoản đó có tiền. Nhưng không phải trả khoản tiền phạt về những ngày chậm
trả.
- Đến ngày điều chỉnh (ví dụ
ngày 15), hai đơn vị mua và bán gặp nhau làm tổng thanh toán để thanh toán số
chênh lệch còn laị, đơn vị nào Nợ sẽ làm giấy ủy nhiệm chi trích tài khoản trả
bên Có.
Nếu hai đơn vị lại muốn tiếp tục
thanh toán bằng lối này, thì hai bên lại cùng nhau thỏa thuận để định kỳ trả
tiền, số tiền trả mỗi lần, rồi làm các thủ tục như trên đối với Ngân hàng.
- Trường hợp chưa đến ngày điều
chỉnh, mà một đơn vị không muốn dùng lối thanh toán theo kế hoạch nữa thì phải
có sự thỏa thuận của đơn vị đối phương. Lúc đó đơn vị mua mới có quyền rút giấy
ủy nhiệm chi đã giao trước cho Ngân hàng.
b – Trường hợp hai bên mua và
bán căn cứ vào hợp đồng, đều thực hiện việc trả tiền, giao hàng qua lại lẫn
nhau một cách thường xuyên (tức là mỗi đơn vị đều có mua – cũng có bán cho
nhau), nhưng luôn luôn có một bên giao hàng nhiều hơn, thì cũng có thể dùng
hình thức thanh toán theo định kỳ trả tiền và định kỳ điều chỉnh như trường hợp
nói trên.
Hai bên giao hàng và nhận hàng
đều có kế hoạch nhất định xây dựng trên thực tế tình hình giao dịch thường
xuyên với nhau. Mỗi kỳ trả tiền đều căn cứ vào số chênh lệch kế hoạch mua nhiều
hơn bán mà lập giấy ủy nhiệm chi để thanh toán dần các số chênh lệch.
Trong mỗi kỳ điều chỉnh đơn vị
mua nhiều hơn bán lập các giấy ủy nhiệm chi giao trước cho Ngân hàng. Đến ngày
trả tiền Ngân hàng sẽ căn cứ vào giấy ủy nhiệm chi, trích tài khoản đơn vị mua
nhiều hơn bán chuyển trả vào tài khoản cho đơn vị bán nhiều hơn mua.
Đến ngày điều chỉnh, hai bên sẽ
đối chiếu số hàng và số tiền thực tế đã giao dịch với nhau trong kỳ điều chỉnh
và nhờ Ngân hàng thanh toán số chênh lệch thực tế.
D. – THANH TOÁN THEO GIẤY ỦY NHIỆM
THU
1) Thanh toán theo giấy ủy nhiệm thu hiện nay chủ yếu áp
dụng cho các đơn vị để thanh toán các khoản về cung ứng lao vụ như tiền điện,
nước, điện thoại, điện tín, thuê nhà v.v… đã có điều lệ cung ứng quy định sẵn
hay đã có thỏa thuận trước bằng hợp đồng giữa tổ chức cung ứng lao vụ và đơn vị
nợ.
Theo thể thức này, đơn vị bên Có
(đơn vị cung ứng) lập giấy ủy nhiệm thu theo hóa đơn cung ứng lao vụ cho Ngân
hàng thu hộ, bên Nợ không cần phải có sự chấp nhận gửi đến Ngân hàng.
2) Đơn vị bên Có gửi giấy ủy nhiệm thu làm 4 liên (có
kèm theo hóa đơn hay không là tùy theo sự thỏa thuận của đôi bên) tới Ngân hàng
để nhờ thu hộ. Đồng thời gửi hóa đơn cho đơn vị Nợ để biết. Sau 5 ngày kể từ
khi Ngân hàng nhận được giấy ủy nhiệm thu, Ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản
đơn vị Nợ trả cho đơn vị Có.
3) Nếu số dư tài khoản đơn vị bên Nợ không đảm bảo trả
chuyển khoản mà trong lúc đó còn nhiều món nợ phải thanh toán Ngân hàng không
thanh toán theo trật tự ưu tiên bắt buộc và chờ bao giờ tài khoản của đơn vị
bên Nợ có tiền mới thanh toán.
4) Trường hợp đơn vị bên Nợ phát hiện ra việc đòi tiền
tính sai, mà tài khoản đã trích tiền trả cho đơn vị Có rồi, đơn vị Nợ cử người
đến đơn vị Có đòi thanh toán lại. Nếu thấy đúng là tính sai, đơn vị bên Có phát
hành sét trả lại ngay số tiền tính sai, hoặc có thể để trừ số tiền đó vào kỳ
đòi tiền sau, nếu đơn vị Nợ đồng ý.
E. – THANH TOÁN THEO LỐI NHỜ THU
NHẬN TRẢ CÙNG MỘT ĐỊA PHƯƠNG
Hình thức thanh toán theo lối
nhờ thu nhận trả cùng một địa phương áp dụng cho hai đơn vị mua và bán cùng ở
một địa phương có hợp đồng giao dịch hàng hóa thường xuyên và tín nhiệm nhau.
Đối với đơn vị bán hàng
Sau khi giao hàng cho đơn vị mua
theo đúng các điều kiện trong hợp đồng, đơn vị bán phải gửi tới Ngân hàng phục
vụ mình các giấy tờ sau đây:
- Giấy nhờ thu hộ 3 liên.
- Hóa đơn hàng hóa chú ý phải
ghi rõ số và ngày hợp đồng.
- Giấy vận tải (trường hợp đơn
vị mua trực tiếp đến nhận tại chỗ thì đơn vị bán phải ký ngay vào hóa đơn,
không phải đưa giấy vận tải).
- Giấy chứng minh về phẩm chất
hàng hóa nếu cần.
Thời hạn gửi giấy đến Ngân hàng
chậm nhất là ba ngày phải gửi tới Ngân hàng kể từ ngày gửi hàng cho đơn vị mua.
Nếu quá hạn, Ngân hàng không cho vay thanh toán.
Đối với đơn vị mua
Sau khi nhận được giấy báo của
Ngân hàng, sau hai ngày lao động tính từ ngày Ngân hàng báo, đơn vị mua hàng
phải chấp nhận giấy tờ.
Sau hai ngày nếu không có ý kiến
gì hoặc nếu không trả lời thì coi như là đã chấp nhận toàn bộ. Nhưng đối với
trường hợp đơn vị mua trực tiếp cử người đến kiểm nhận hàng tại chỗ, thì không
có vấn đề từ chối và cũng không có thời gian chấp nhận.
Sau hai ngày chấp nhận giấy tờ,
đơn vị mua có một thời gian chuẩn bị trả tiền là hai ngày. Trong thời hạn ấy
phải trả tiền, nếu hết thời hạn đơn vị mua không trả tiền thì Ngân hàng sẽ tự
động trích tài khoản để chuyển trả đơn vị bán.
Trường hợp tài khoản hết tiền
hoặc không đủ tiền để trả, Ngân hàng sẽ xử lý theo trật tự ưu tiên trước sau
như đã quy định trong chỉ thị số 168-KH ngày 07-05-1958 quy định.
Nếu đơn vị mua sau khi kiểm
nghiệm hàng thấy sai không đúng quy cách đã định, hai đơn vị mua bán sẽ trực
tiếp gặp nhau thương lượng giải quyết.
MỘT SỐ
ĐIỂM CẦN CHÚ Ý
1) Một đơn vị cơ quan xí nghiệp chỉ được phép mở tài
khoản thanh toán tại một đơn vị Ngân hàng. Nếu trong một địa phương hay thành
phố mà có hai đơn vị Ngân hàng (ví dụ ở Hà Nội có Sở Doanh nghiệp, Ngân hàng
trung ương và Ngân hàng Hà Nội) thì đơn vị cơ quan xí nghiệp đó cũng chỉ được
phép giao dịch với một đơn vị Ngân hàng, tùy ý đơn vị lựa chọn.
2) Thủ tục phí: Tất cả các xí nghiệp, cơ quan, bộ
đội và hợp tác xã thanh toán giao dịch với nhau thông qua hai Ngân hàng địa
phương khác nhau hoặc thông qua một đơn vị Ngân hàng để thanh toán theo lối nhờ
thu nhận trả, đều phải chịu thủ tục phí.
Mỗi lần nhờ Ngân hàng thanh
toán, bất kỳ hình thức nào và không phân biệt số tiền nhờ thanh toán lớn hay
nhỏ ngoài tiền bưu phí đều phải trả cho Ngân hàng 300 đồng về thủ tục phí.
Riêng đối với các chuyển tiền
phí hàng hóa (điều chuyển vốn v.v…) thì thủ tục phí phải trả theo thể lệ chuyện
tiền đã quy định.
Các mẫu giấy tờ giao dịch về
thanh toán đều có in sẵn Ngân hàng sẽ nhượng lại theo giá thành giấy in cho các
đơn vị, để các cơ quan, xí nghiệp có thể chuẩn bị trước khi đến Ngân hàng giao
dịch thanh toán.
3) Căn cứ vào khả năng phục vụ của bộ máy Ngân hàng quốc
gia hiện nay, việc thanh toán giữa hai địa phương tạm thời chỉ do đơn vị Chi
nhánh Ngân hàng tỉnh, thành phố, khu tự trị phục vụ. Về sau, một khi có điều
kiện, Ngân hàng quốc gia sẽ mở rộng công tác phục vụ thanh toán đến tận đơn vị
chi điếm hay phòng doanh nghiêp, sẽ có thông tri sau.
Tạm thời, đối với các công ty
Mậu dịch, cần chuyển tiền về các huyện để thu mua nông lâm thổ sản, nếu nơi đó
có tổ chức Chi điểm Ngân hàng, có thể xin trích tài khoản ở Chi nhánh Ngân hàng
chuyển về Chi điếm Ngân hàng (là một đơn vị kế toán độc lập) mở tài khoản đặc
biệt ở đây để sử dụng riêng trong việc thu mua. Nếu nơi địch đến thu mua, có tổ
chức Phòng doanh nghiệp Ngân hàng, công ty Mậu dịch có thể xin trích tài khoản
của mình ở Chi nhánh Ngân hàng tỉnh chuyển ra một tài khoản dùng riêng cho việc
thu mua. Tổ chức kinh tế hoặc người đại diện sẽ xin rút tiền dần ở Phòng doanh
nghiệp trong phạm vi số tiền đã trích để riêng ở Chi nhánh Ngân hàng tỉnh, theo
lệnh chi bộ của Chi nhánh.
4) Cửa hàng Mậu dịch phải thường xuyên nộp tiền bán hàng
vào các Chi điếm hay Phòng doanh nghiệp Ngân hàng, không có quyền tự động xin
rút ra, số tiền đó sẽ được chuyển về nộp vào tài khoản của Công ty Mậu dịch
tỉnh, nhằm mục đích thống nhất quản lý việc sử dụng vốn của các Công ty đồng thời
đúng với thể lệ quản lý tiền mặt hiện hành.
5) Bản thông tư này áp dụng cho tất cả các cơ quan đơn
vị bộ đội xí nghiệp quốc doanh và Hợp tác xã.
Tuy nhiên để thích ứng với những
đặc điểm hoạt động của các cơ quan quân sự và đơn vị bộ đội, cũng như của các
đơn vị kiến thiết cơ bản trực thuộc quản lý của Ngân hàng kiến thiết, Ngân hàng
quốc gia Việt Nam sẽ cùng với các đơn vị chủ quản nghiên cứu quy định một số
điểm chi tiết riêng về để áp dụng cho các đơn vị đó.
6) Thông tư này có tính chất tạm thời. Trong quá trình
áp dụng, nếu có những điểm chi tiết không được thích hợp hoặc nếu do tình hình
kinh tế phát triển mà đòi hỏi cần có những điểm bổ sung cần thiết, Ngân hàng
quốc gia sẽ có thông tư bổ sung để tạo thêm thuận lợi trong mọi giao dịch thanh
toán.
|
TỔNG
GIÁM ĐỐC NGÂN HÀNG
QUỐC GIA VIỆT NAM
Lê Viết Lượng
|