NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
14-TT/KTKH
|
Hà
Nội, ngày 02 tháng 06 năm 1962
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC ÁP DỤNG KỶ LUẬT THANH TOÁN ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG HỢP VI
PHẠM HÌNH THỨC THANH TOÁN NHỜ THU NHẬN TRẢ
Hình thức nhờ thu nhận trả, một
hình thức thanh toán tiến bộ, phù hợp với quan hệ giao dịch xã hội chủ nghĩa của
các ngành kinh tế, ngày càng được nhiều tổ chức kinh tế áp dụng một cách rộng
rãi.
Tuy nhiên, hiện nay, trong quá
trình thi hành, các tổ chức kinh tế áp dụng còn nhiều thiếu sót, nhất là việc
thiếu tôn trọng kỷ luật trả. Tình trạng nợ nần dây dưa trong hình thức
nhờ thu nhận trả rất nặng nề do đó, gây nhiều khó khăn cho công tác thanh toán
tiền hàng cũng như gây ảnh hưởng không tốt đến chu chuyển kinh tế của các tổ chức
kinh tế, gây trở ngại đến chế độ hạch toán kinh tế của các tổ chức trong nền
kinh tế quốc dân.
Việc tôn trọng kỷ luật trả là điều
kiện quan trọng của sự tuần hoàn theo kế hoạch của vốn và củng cố chế độ hạch
toán kinh tế của các xí nghiệp. Vì vậy, các tổ chức kinh tế trong việc giao dịch
hàng hóa với nhau, nhất thiết phải chấp hành đúng đắn và triệt để kỷ luật thanh
toán. Về phía Ngân hàng không phải chỉ đơn thuần ghi chép, phản ảnh tình trạng
vi phạm kỷ luật trả, mà chủ yếu nhất là phải giúp đỡ, giải thích để họ chấp
hành đúng, đi đôi với việc tác động một cách tích cực để đảm bảo sự tôn trọng kỷ
luật trả một cách nghiêm chỉnh. Nguyên tắc thứ 4 và thứ 5 trong Nghị định số
4-CP của Chính phủ ngày 07-03-1960 đã quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của
Ngân hàng trong việc áp dụng kỷ luật trả.
Từ cuối năm 1961, một số Ngân
hàng địa phương đã bước dần áp dụng, nhưng chưa được triệt để. Đồng thời áp dụng
lợi suất phạt lại không thống nhất, nói chung lại thấp hơn lợi suất cho vay
luân chuyển và dự trữ hàng hóa, nên việc thanh toán tiền hàng còn bị dây dưa để
quá thời hạn…
Để đảm bảo phục vụ tốt hơn nữa đối
với các tổ chức kinh tế, để đảm bảo thực hiện tốt chức năng trung tâm thanh
toán của Ngân hàng, nhằm đấu tranh hạn chế, tiến tới chấm dứt tình trạng vi phạm
thể lệ và kỷ luật thanh toán do Nhà nước đã quy định, Ngân hàng trung ương thấy
cần thiết nhắc lại một số điểm quy định về kỷ luật thanh toán trong hình thức
thanh toán nhờ thu nhận trả như sau:
Đối với bên
mua:
Khi giấy nhờ thu đến hạn trả,
đơn vị mua phải đảm bảo chi trả kịp thời đúng hạn, hoặc tuyên bố kịp thời lý do
từ chối chấp nhận bằng hình thức viết gửi đến Ngân hàng bên mua.
Hết thời hạn chấp nhận đã quy định,
bất kể là trường hợp chấp nhận có tuyên bố hay trường hợp chấp nhận không tuyên
bố, nếu đơn vị mua không có ý kiến gì gửi đến Ngân hàng bên mua thì Ngân hàng
bên mua coi như đơn vị mua hoàn toàn chấp nhận và sẽ thi hành đúng theo thể lệ
thanh toán đã quy định.
Trong trường hợp từ chối chấp nhận,
Ngân hàng trung ương lưu ý 3 vấn đề quan trọng:
1. Ngân
hàng bên mua chỉ được công nhận các lý do từ chối chính đáng, hợp lệ xuất phát
từ sự đối chiếu đúng đắn các điều khoản trong giấy đòi nợ các điều khoản đã ký
kết trong hợp đồng kinh tế hoặc các đơn đặt hàng.
2. Ngân
hàng bên mua chỉ được công nhận các giấy báo lý do từ chối chấp nhận hợp lệ của
đơn vị mua gửi đến Ngân hàng trong phạm vi thời hạn chấp nhận như thể lệ thanh
toán đã quy định. Mọi giấy báo từ chối chấp nhận dù hợp lệ nhưng gửi đến Ngân
hàng quá thời hạn chấp nhận đã được quy định, cũng đều không được Ngân hàng
công nhận để giải quyết.
3. Nếu đại
biểu của đơn vị mua đã đến trực tiếp nhận hàng và đã ký trên hoá đơn hoặc đơn vị
mua đã sử dụng hàng hoá rồi (dù chỉ một phần) thì đơn vị mua không được quyền từ
chối chấp nhận nữa, mà phải thanh toán ngay tiền hàng cho đơn vị bán.
Hết hạn trả, nếu đơn vị mua
không chi trả kịp thời hoặc không có giấy báo từ chối chấp nhận hợp lệ đúng thời
hạn chấp nhận thì bắt buộc phải bồi thường tài chính cho đơn vị bán một số tiền
bằng 5%00(năm phần vạn) tổng số tiền của giấy nhờ thu cho mỗi ngày
chậm trả. Đơn vị bán được hưởng số tiền bồi thường này (điều khoản quy định lợi
suất phạt này đã được quy định trong thông tư số 168-KH ngày 07-05-1957 của
Ngân hàng Nhà nước Trung ương để giải thích Nghị định số 144-TTg ngày
09-04-1957 của Thủ tướng Chính phủ và không bị các quy định hiện hành trong Nghị
định số 04-CP ngày 07-03-1960 về thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt của Hội
đồng Chính phủ hủy bỏ, nên vẫn có giá trị pháp lý buộc các tổ chức kinh tế phải
thi hành).
Đối với bên
bán:
Trong trường hợp bên bán mắc nợ
Ngân hàng về cho vay giấy tờ thanh toán trên đường đi đến hạn trả nợ Ngân hàng
nhưng do chưa nhận được tiền hàng của đơn vị mua trả, nên không đủ phương tiện
tiền tệ để trả nợ vay Ngân hàng.
Ngân hàng bên bán cần phân biệt
2 trường hợp:
1. Nếu
Ngân hàng bên bán chưa nhận được giấy báo về lý do chậm trả của Ngân hàng bên
mua thì Ngân hàng bên bán sẽ chờ cho đến khi nhận được giấy báo lý do chậm trả
của đơn vị mua (thông qua Ngân hàng bên mua) mới tiến hành thu hồi nợ vay thanh
toán.
2. Nếu
Ngân hàng bên bán đã nhận được giấy báo lý do chậm trả của đơn vị mua (thông
qua Ngân hàng bên mua) thì Ngân hàng bên bán sẽ tự động trích tài khoản thanh
toán của đơn vị bán để thu hồi nợ. Nếu tài khoản thanh toán của đơn vị bán
không đủ tiền để trả nợ thì Ngân hàng sẽ chuyển sang Nợ quá hạn và thi hành lợi
suất phạt đối với Nợ quá hạn về cho vay thanh toán giấy tờ trên đường đi là 3‰
(ba phần nghìn) một tháng.
Trong trường hợp này, các Ngân
hàng địa phương cần giải thích cho các đơn vị Bán rõ:
- Nếu có việc từ chối chấp nhận
của đơn vị mua không hợp lệ (như trên đã giải thích) hoặc do đơn vị mua chậm trả
vì thiếu tiền, làm cho đơn vị bán không có tiền trả nợ vay thanh toán của Ngân
hàng và bị Ngân hàng chuyển qua Nợ quá hạn thì đơn vị bán đã được hưởng số tiền
bồi thường tài chính của đơn vị mua về những ngày chậm trả và sẽ dùng một phần
số tiền bồi thường này để bù đắp phạt nợ quá hạn cho Ngân hàng.
- Còn nếu do lỗi đơn vị bán gây
ra nên đơn vị mua không trả hoặc chậm trả thì tất nhiên việc phạt nợ quá hạn đối
với đơn vị bán là chính đáng.
Đối với Ngân
hàng:
Ngân hàng với chức năng trung
tâm thanh toán, có tác động rất lớn đến việc đảm bảo chi trả được kịp thời và
chính xác. Vì vậy đối với bản thân Ngân hàng cũng phải chịu kỷ luật phạt trong
các trường hợp bản thân Ngân hàng gây nên các vi phạm về thủ tục thanh toán,
làm cho công tác thanh toán bị chậm trễ, nhầm lẫn, sai sót. Nghị định số 04-CP
của Hội đồng Chính phủ và các thông tư số 81-KH ngày 14-03-1960 và thông tư số
63-KT-CĐ ngày 22-08-1960 của Ngân hàng Nhà nước Trung ương đã quy định rõ trách
nhiệm của Ngân hàng trong việc thanh toán. Để cụ thể hóa hơn nữa các quy định
trên, giúp cho các địa phương thống nhất thi hành, Ngân hàng Nhà nước Trung
ương thống nhất quy định như sau:
Ngân hàng gây nên mọi chậm trễ,
sai lầm trong thanh toán thì cũng bồi thường tài chính cho bên bị thiệt hại,
tính theo lợi suất 2‰ (hai phần nghìn) một tháng trên số tiền chậm trả. Số tiền
bồi thường này sẽ ghi vào Lỗ Lãi của đơn vị Ngân hàng đó.
Còn đối với cá nhân cán bộ công
nhân viên Ngân hàng nào gây nên sự chậm trả trên thì phải chịu kỷ luật theo hai
hình thức:
a) Chịu kỷ luật hành chính (cảnh
cáo, khiển trách, thay đổi công tác, v.v…). Trong thời gian đầu chấp hành thông
tư này hình thức kỷ luật hành chính được coi là biện pháp chủ yếu để giáo dục
tinh thần trách nhiệm và nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhằm cố gắng hạn
chế các sai lầm đến mức tối thiểu, đảm bảo tốt công tác thanh toán, phục vụ đắc
lực hơn nữa các ngành kinh tế quốc dân.
b) Ngoài ra, tùy theo các trường
hợp cụ thể, cán bộ nhân viên gây nên sự chậm trả đó, cũng có thể phải chịu phạt
bằng tiền theo một tỷ lệ nào đó trên tổng số tiền Ngân hàng phải bồi thường. Tỷ
lệ phạt đó cao hay thấp tùy theo Hội đồng xử lý tại các Ngân hàng địa phương
quyết định trên cơ sở cân nhắc tính chất vi phạm, mức độ tác hại của sự vi phạm,
hoàn cảnh khách quan, v.v.. mà thi hành kỷ luật phạt thích đáng. Tùy theo các
trường hợp cụ thể, Trưởng kế toán, Trưởng chi nhánh nghiệp vụ hay Trưởng Chi Điếm
và các cá nhân khác có liên quan (các thanh toán viên, văn thư, liên lạc, cán bộ
tín dụng…) cũng phải liên đới chịu trách nhiệm và cũng phải phạt bằng tiền theo
tỷ lệ do Hội đồng xử lý quy định.
Việc xử lý phạt tiền, các Hội đồng
xử lý địa phương được quyết định phạt tối đa tới mức 30đ.
Trường hợp cần thiết phạt nặng
hơn phải đề nghị Ngân hàng trung ương quyết định.
Số tiền phạt sẽ được trừ dần vào
lương hàng tháng của cán bộ nhân viên bị phạt, nhưng mỗi tháng số tiền trừ vào
lương đối đa không quá 10đ (mười đồng) để khỏi ảnh hưởng đến sinh hoạt của cán
bộ.
Thời gian quy định hoàn thành việc
xử lý này không được quá 20 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại của đơn vị
bị thiệt hại.
Để đảm bảo tốt sản xuất sự tôn
trọng kỷ luật trả nhằm đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt ngày
càng kịp thời, chính xác, Ngân hàng Nhà nước trung ương cần lưu ý các Chi
nhánh, các Chi điếm một số biện pháp quan trọng:
1. Cần
tổ chức theo dõi kỳ hạn trả một cách sít sao để nắm vững thời hạn trả của từng
giấy nhờ thu.
2. Phải
phối hợp thật chặt chẽ giữa thanh toán và tín dụng để đôn đốc các đơn vị mua trả
đúng hạn. Trong các trường hợp cần thiết, thanh toán viên phải cung cấp kịp thời
cho tín dụng tình hình nợ đến hạn, nợ quá hạn, nợ dây dưa, tình hình từ chối chấp
nhận của các đơn vị trả, đồng thời phải có biện pháp thống nhất để giải quyết một
cách khẩn trương và tích cực.
3.
Trong mọi trường hợp đến hạn trả, Ngân hàng bên mua phải kiên quyết đôn đốc đơn
vị mua chi trả đúng hạn, hoặc tuyên bố lý do từ chối chấp nhận đúng hạn, hoặc
tuyên bố lý do từ chối chấp nhận đúng hạn. Khi nhận được các giấy báo từ chối
chấp nhận Ngân hàng bên mua phải kiểm tra tính chất hợp lệ của lý do từ chối chấp
nhận. Trong tất cả mọi trường hợp chậm trả, Ngân hàng bên mua nhất thiết phải
báo rõ lý do chậm trả cho Ngân hàng bên bán biết.
4. Ngân
hàng phải phối hợp chặt chẽ với Bưu điện, nắm vững thời hạn luân chuyển giấy tờ
qua bưu điện, đồng thời có tổ chức chu đáo để dễ truy cứu trách nhiệm khi có vấn
đề khiếu nại vi phạm xẩy ra (ví dụ như lưu các bì chậm trễ trên cơ sở đối chiếu
nhật ấn của Bưu cục đến với nhật ấn của Bưu cục đi, v.v…).
5. Cần củng
cố tổ chức giao dịch của Ngân hàng cho nhanh, chính xác đồng thời thường xuyên
nâng cao tinh thần trách nhiệm và trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên để đảm
bảo tốt công tác thanh toán.
6. Trong
việc mua bán hàng hóa giữa các đơn vị hành chính sự nghiệp với các tổ chức kinh
tế, do tình hình thực tế của ta hiện nay, phần lớn các giấy Nhờ thu tiền hàng của
các tổ chức kinh tế đòi nợ các đơn vị hành chính, sự nghiệp đều bị quá hạn và
nhiều khoản nợ lại không có khả năng trả vì không được Tài chính cấp phát kinh
phí.
Vì vậy, những món Nhờ thu hiện
nay còn bị đọng lại chưa trả được thì yêu cầu các Ngân hàng địa phương tích cực
đôn đốc các đơn vị hành chính sự nghiệp mắc nợ mau chóng xin Tài chính duyệt cấp
phát kinh phí để trả cho đơn vị Bán. Đồng thời hướng dẫn các đơn vị Bán cũng
như các đơn vị hành chính sự nghiệp nên sử dụng các hình thức thanh toán khác
thích hợp hơn (như trong cùng một địa phương nên dùng ủy nhiệm chi và séc, khác
địa phương nên dùng chuyển tiền, thư tín dụng).
Thông tư này được thi hành cho
những giấy nhờ thu gửi đến Ngân hàng từ ngày 10-07-1962 trở đi.
Còn những giấy nhờ thu gửi đến
Ngân hàng từ ngày 09-07-1962 trở về trước thì Ngân hàng cần tích cực đảm bảo việc
thanh toán được nhanh chóng, chưa áp dụng theo tinh thần thông tư này.
Yêu cầu các Chi nhánh Ngân hàng
các tỉnh, thành phố, khu tự trị Thái Mèo phổ biến rộng rãi những điểm quy định
trên, về kỷ luật thanh toán trong việc áp dụng hình thức Nhờ thu nhận trả cho
cán bộ nhân viên Ngân hàng (đặc biệt là các thanh toán viên) các tổ chức kinh tế,
các đơn vị hành chính sự nghiệp biết để đẩy mạnh hơn nữa công tác thanh toán
không dùng tiền mặt và do đó, củng cố thêm một bước vai trò trung tâm thanh
toán của Ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân.
|
Q.
TỔNG GIÁM ĐỐC
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Tạ Hoàng Cơ
|