QUỐC HỘI
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Nghị quyết số: 140/2024/QH15
|
Hà Nội, ngày 29
tháng 6 năm 2024
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ
VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 43/2022/QH15 NGÀY 11/01/2022 CỦA QUỐC HỘI VỀ CHÍNH
SÁCH TÀI KHÓA, TIỀN TỆ HỖ TRỢ CHƯƠNG TRÌNH PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI VÀ TĂNG CƯỜNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ MỘT
SỐ DỰ ÁN QUAN TRỌNG QUỐC GIA
QUỐC HỘI
Căn cứ Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân số 87/2015/QH15;
Căn cứ Nghị quyết số 90/2023/QH15 ngày 08/6/2023 của Quốc hội về
Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2024; Nghị quyết số 94/2023/QH15 ngày 22/6/2023 của Quốc hội về
thành lập Đoàn giám sát chuyên đề “Việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về
chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế -
xã hội và các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia đến hết
năm 2023”;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 616/BC-ĐGS ngày 13/5/2024
của Đoàn giám sát của Quốc hội về kết quả giám sát “Việc thực hiện Nghị quyết số
43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về
chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế -
xã hội và các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia đến hết
năm 2023”; ý kiến của đại biểu Quốc hội và Báo cáo số 899/BC-UBTVQH15 ngày 28/6/2024
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Nghị quyết
giám sát chuyên đề “Việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15
ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương
trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và các nghị quyết của Quốc hội về một
số dự án quan trọng quốc gia đến hết năm 2023
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Đánh giá kết quả thực
hiện
Quốc hội cơ bản tán thành nội dung Báo cáo số 616/BC-ĐGS
ngày 13/5/2024 của Đoàn giám sát về kết quả giám sát thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về
chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế
- xã hội (sau đây gọi là Nghị quyết số 43/2022/QH15)
và các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia đến hết năm
2023 với những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân chủ yếu sau
đây:
1. Việc thực hiện Nghị quyết
số 43/2022/QH15
1.1. Kết quả đạt được
Nghị quyết số 43/2022/QH15
được ban hành và tổ chức thực hiện trong bối cảnh đặc biệt, khi dịch COVID-19
đang diễn ra và gây tác động rất tiêu cực đến đời sống người dân, kinh tế đối mặt
với nhiều khó khăn, tăng trưởng giảm thấp, sản xuất kinh doanh thu hẹp, an sinh
xã hội, việc làm, sinh kế của người lao động bị ảnh hưởng nặng nề.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc chủ động, kịp
thời của Quốc hội, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ, ngành, địa phương và sự tham gia tích cực của Nhân dân, cộng đồng doanh
nghiệp, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15
đã được tiến hành hết sức khẩn trương trong phạm vi cả nước, đạt được nhiều kết
quả tích cực, góp phần quan trọng thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách
của Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong phòng, chống dịch COVID-19, từng bước kiểm
soát và kết thúc dịch COVID-19, đưa đời sống xã hội trở lại trạng thái bình thường,
thúc đẩy nền kinh tế vượt qua khó khăn, phục hồi và tăng trưởng, an sinh xã hội
được bảo đảm; an ninh quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Hầu hết
chính sách, biện pháp được ban hành tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 là kịp thời, đáp ứng yêu cầu trước
tình hình cấp bách, được Nhân dân đồng thuận và tích cực hưởng ứng.
Qua 02 năm thực hiện, nhiều mục tiêu, chỉ tiêu đặt
ra trong Nghị quyết số 43/2022/QH15 cơ bản
hoàn thành. Tăng trưởng GDP năm 2022 đạt 8,12%, là mức tăng trưởng cao nhất
trong giai đoạn 2011 - 2022; năm 2023 đạt 5,05% là mức khá cao trong điều kiện
thế giới và trong nước đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới. Giữ vững ổn
định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; lạm phát được
kiềm chế, lãi suất, tỷ giá được điều hành phù hợp, ổn định; bội chi ngân sách,
nợ công trong phạm vi Quốc hội cho phép và thấp hơn so với mức dự kiến. Kết quả
phát triển kinh tế - xã hội đạt được trong 02 năm 2022 và 2023 tạo cơ sở quan
trọng để tiếp tục phấn đấu hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội
mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đặt ra cho giai đoạn 2021 - 2025.
Một số chính sách đi vào cuộc sống, phát huy hiệu
quả kịp thời như: chính sách tín dụng qua hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội,
hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng,
miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế, phí, lệ phí, tiền sử dụng đất đã góp phần
hỗ trợ người dân, người lao động, doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, vượt qua
khó khăn, duy trì và phục hồi sản xuất kinh doanh; các cơ chế đặc thù đã tăng
cường tính chủ động, sáng tạo của các Bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa
phương, rút ngắn thời gian thực hiện, thúc đẩy tiến độ giải ngân vốn đầu tư
công, phát huy hiệu quả dự án đầu tư.
1.2. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả tích cực, việc tổ chức thực
hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 còn một số
tồn tại, hạn chế sau đây:
a) Công tác chuẩn bị đầu tư một số dự án chậm, chưa
bảo đảm tính sẵn sàng để thực hiện, giải ngân vốn; danh mục dự án trình Quốc hội
không sát thực tế, phải điều chỉnh nhiều so với dự kiến khi trình Quốc hội ban
hành Nghị quyết; việc hoàn thiện thủ tục đầu tư, phân bổ vốn còn chậm, ảnh hưởng
đến tiến độ triển khai thực hiện và giảm hiệu quả sử dụng nguồn vốn của Chương
trình;
b) Tiến độ thực hiện và giải ngân vốn nhiều dự án đầu
tư không bảo đảm thời hạn quy định trong 02 năm 2022 và 2023, đặc biệt, các dự
án đầu tư trong lĩnh vực y tế, công nghệ thông tin tiến độ rất chậm nên Chính
phủ đã kiến nghị và được Quốc hội cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải
ngân các dự án sử dụng vốn của Chương trình tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV;
c) Một số chính sách thực hiện không đạt kế hoạch,
mục tiêu đề ra như: chính sách hỗ trợ lãi suất 2%/năm thông qua hệ thống các
ngân hàng thương mại chỉ đạt khoảng 3,05% kế hoạch; chính sách hỗ trợ tiền thuê
nhà cho người lao động đạt 56% kế hoạch, phải điều chuyển để thực hiện chính
sách khác; chính sách sử dụng Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam chưa thực
hiện giải ngân được như dự kiến; Quỹ Hỗ trợ phát triển du lịch đã được tăng vốn
điều lệ nhưng chưa được sử dụng hiệu quả;
d) Chính sách hỗ trợ người dân, người lao động tại
một số địa phương triển khai còn chậm, lúng túng. Việc mua sắm, cung ứng thuốc,
vắc - xin, trang thiết bị y tế cho nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở y
tế gặp nhiều khó khăn, có thời điểm bị gián đoạn, ảnh hưởng đến chất lượng
khám, chữa bệnh. Đầu tư cho y tế chủ yếu tập trung xây dựng hạ tầng, trạm y tế,
chưa bảo đảm về trang thiết bị và đào tạo, nâng cao năng lực của cán bộ, nhân
viên y tế để phát huy hiệu quả chăm sóc sức khỏe Nhân dân.
1.3. Nguyên nhân của tồn tại,
hạn chế
1.3.1. Nguyên nhân khách quan
a) Trong điều kiện phải thực hiện mục tiêu kép, vừa
bảo đảm an toàn và kiểm soát tốt dịch bệnh, vừa phục hồi kinh tế, ổn định kinh
tế vĩ mô; tình hình dịch COVID-19 biến động nhanh, phức tạp, khó lường, Nghị
quyết được xây dựng và ban hành rất khẩn trương trong thời gian ngắn nên công
tác dự báo khó bảo đảm tính chính xác;
b) Một số chính sách hỗ trợ lần đầu được xây dựng
và triển khai chưa có tiền lệ, yêu cầu phải triển khai thực hiện hết sức khẩn
trương, sớm đưa nguồn lực đến đúng đối tượng, tránh thất thoát, tiêu cực trong
khi việc hướng dẫn ban hành chính sách, tổ chức thực hiện phải theo quy định
trong điều kiện bình thường, dẫn đến chậm trong ban hành chính sách, phải điều
chỉnh trong quá trình thực hiện và kết quả giải ngân thấp so với yêu cầu đặt
ra;
c) Các chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương
trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội có quy mô lớn, triển khai trên phạm
vi toàn quốc, bao hàm nhiều chính sách với đối tượng thụ hưởng đa dạng, trong
khi cơ sở dữ liệu để quản lý chưa hoàn thiện;
d) Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
còn gặp nhiều khó khăn, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn thấp. Một số doanh
nghiệp thuộc đối tượng hỗ trợ nhưng có tâm lý e ngại công tác thanh tra, kiểm
tra, tăng chi phí, phát sinh thủ tục trong quá trình thụ hưởng chính sách.
1.3.2. Nguyên nhân chủ quan
a) Công tác dự báo, tổng hợp, rà soát, đề xuất danh
mục, mức vốn một số dự án đầu tư sử dụng vốn của Chương trình phục hồi và phát
triển kinh tế - xã hội chưa bám sát thực tiễn, dẫn đến phải điều chỉnh nhiều và
chậm trong triển khai thực hiện các dự án;
b) Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn chậm,
văn bản hướng dẫn cụ thể một số chính sách có quy định chưa rõ, chưa thống nhất
dẫn đến chậm tiến độ, tỷ lệ giải ngân thấp, có chính sách chưa đạt mục tiêu đề
ra, ảnh hưởng đến kết quả chung;
c) Một số Bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa
phương chưa sát sao, quyết liệt trong chỉ đạo triển khai thực hiện các chính
sách; chưa thực sự chủ động tiếp cận, đồng hành, hướng dẫn đối tượng thụ hưởng;
công tác tuyên truyền phổ biến và triển khai một số chính sách còn lúng túng;
d) Tình trạng đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách
nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ dẫn đến
giải quyết công việc chậm, chưa hiệu quả.
1.4. Trách nhiệm của các cơ
quan
Kết quả tích cực nêu trên là do sự quyết liệt trong
công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; nỗ lực, quyết
tâm của các Bộ, ngành, cơ quan trung ương, địa phương trong công tác triển khai
thực hiện chính sách và sự tham gia, hưởng ứng tích cực của toàn thể Nhân dân,
cộng đồng doanh nghiệp.
Đối với một số tồn tại, hạn chế, trách nhiệm thuộc
về các tổ chức, cá nhân, người đứng đầu các cơ quan có liên quan trong công tác
tham mưu, đề xuất ban hành chính sách và tổ chức thực hiện chính sách quy định
tại Nghị quyết số 43/2022/QH15, cụ thể như
sau:
a) Chính phủ, một số Bộ, cơ quan có trách nhiệm
trong tham mưu đề xuất một số chính sách, quy mô chính sách chưa sát với thực
tiễn như: chính sách hỗ trợ lãi suất 2% qua hệ thống ngân hàng thương mại, sử dụng
Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam, hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động,
tăng vốn điều lệ cho Quỹ Hỗ trợ phát triển du lịch nhưng chưa được sử dụng hiệu
quả;
b) Các Bộ: Y tế, Lao động, Thương binh và Xã hội,
các địa phương chịu trách nhiệm trong công tác tham mưu cho Chính phủ trong đề
xuất danh mục và mức vốn dự kiến bố trí cho một số dự án trình Quốc hội chưa
sát với thực tiễn, thiếu tính khả thi, quá trình thực hiện phải rà soát, đề xuất
lại danh mục, dẫn đến mất nhiều thời gian hoàn thiện thủ tục đầu tư và chậm
phân bổ vốn của Chương trình; một số dự án thuộc lĩnh vực lao động, thương binh
và xã hội phải rút khỏi Chương trình;
c) Các Bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa phương
là cơ quan chủ quản, chủ đầu tư các dự án chịu trách nhiệm trong việc chuẩn bị
đầu tư chưa tốt, lựa chọn, đề xuất, đăng ký các dự án chưa bảo đảm tính sẵn
sàng, khả năng hấp thụ vốn không cao; chậm thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư,
chậm giao vốn, chậm triển khai thi công các dự án.
2. Về thực hiện các nghị quyết
của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia
2.1. Kết quả đạt được
a) Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã khẩn trương
ban hành các văn bản triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về chủ
trương đầu tư các dự án quan trọng quốc gia, giao nhiệm vụ cụ thể cho các cơ
quan triển khai thực hiện dự án, đề ra các mốc tiến độ, triển khai các cơ chế đặc
thù theo yêu cầu. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo nhà nước các
công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải để
giải quyết, tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện, đặc biệt
trong công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thủ tục cấp
mỏ vật liệu đất đắp, cát đắp nền cho các dự án. Tiến độ chuẩn bị đầu tư, triển
khai thực hiện một số dự án mặc dù còn chậm so với yêu cầu của Chính phủ nhưng
đã được rút ngắn đáng kể so với thực tế triển khai các dự án trước đây;
b) Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, cơ quan
trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố quan tâm, chỉ đạo quyết liệt
triển khai thực hiện các dự án quan trọng quốc gia. Nhiều địa phương có sự vào
cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị trong quá trình triển khai thực hiện công
tác tuyên truyền, vận động và nhận được sự ủng hộ của người dân trong công tác
giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; kịp thời giải quyết các
khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ dự án, phát huy tính chủ động, huy động
hiệu quả nguồn lực trong quản lý đầu tư xây dựng. Các dự án thành phần phân cấp
cho địa phương làm cơ quan chủ quản cơ bản đáp ứng yêu cầu về tiến độ và bảo đảm
bố trí vốn ngân sách địa phương theo cam kết;
c) Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan liên quan nỗ lực
khắc phục khó khăn, hoàn thành đưa vào khai thác 635 km đường bộ cao tốc, nâng
tổng số chiều dài đường cao tốc cả nước lên trên 2.000 km, tạo động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, giảm ùn tắc,
tai nạn giao thông, tiết kiệm thời gian di chuyển, chi phí xã hội, đáp ứng được
mong muốn của người dân và doanh nghiệp.
2.2. Tồn tại, hạn chế
a) Tiến độ hoàn thành một số dự án còn chậm so với
yêu cầu tại nghị quyết của Quốc hội, một số dự án dự kiến tăng tổng mức đầu tư,
dẫn đến khả năng phải điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án. Một số dự án được
phân chia thành các dự án thành phần do các địa phương làm cơ quan chủ quản vận
hành độc lập nên khó khăn trong việc phối hợp cân đối, điều hòa tổng mức đầu tư
giữa các dự án thành phần;
b) Công tác dự báo, chuẩn bị đầu tư một số dự án còn
hạn chế, chưa lường hết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực
hiện, chưa bảo đảm tầm nhìn dài hạn, dẫn đến phải điều chỉnh trong quá trình thực
hiện; một số dự án mới hoàn thành đưa vào khai thác trong thời gian ngắn đã phải
đề xuất đầu tư mở rộng;
c) Công tác lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự
toán của một số dự án còn bất cập; công tác nghiệm thu, thanh toán, quản lý chi
phí đầu tư, chất lượng công trình còn hạn chế. Công tác giải phóng mặt bằng, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, bảo đảm nguồn vật liệu đắp nền đường của một số dự
án còn nhiều khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến tiến độ thi công công trình;
d) Một số dự án hoàn thành đưa vào vận hành, khai
thác nhưng chưa được đầu tư đồng bộ trạm dừng nghỉ, hệ thống giao thông thông
minh (ITS) gây khó khăn cho các đối tượng tham gia giao thông và tiềm ẩn nguy
cơ tai nạn giao thông; việc chưa tổ chức thu phí dẫn đến vướng mắc trong công
tác quản lý, khai thác, bảo trì công trình;
đ) Một số nhà thầu chưa kịp thời hoàn trả đường
công vụ và hoàn thiện các tuyến đường gom dân sinh, hầm chui, gia cố taluy gây ảnh
hưởng đến đời sống của người dân, dẫn đến khiếu kiện.
2.3. Nguyên nhân của tồn tại,
hạn chế
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
a) Dịch COVID-19 kéo dài gần 02 năm đã ảnh hưởng lớn,
làm chậm tiến độ thi công. Xung đột địa chính trị trên thế giới làm giá nhiên,
nguyên vật liệu tăng cao ngoài dự báo;
b) Các dự án trải dài theo tuyến, đi qua các khu vực
có điều kiện địa hình, địa chất khó khăn, thời tiết phức tạp ảnh hưởng lớn đến
việc tổ chức và quản lý trong quá trình thi công;
c) Một số dự án thành phần đầu tư theo phương thức
đối tác công tư thuộc Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc Bắc - Nam
phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 không lựa chọn được nhà đầu tư đã phải báo cáo
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép chuyển đổi sang hình thức đầu tư
công, dẫn đến kéo dài thời gian thực hiện;
d) Một số quy định pháp luật còn bất cập, chưa đồng
bộ, dẫn đến khó khăn khi áp dụng. Công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư là việc khó, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi, sinh
kế của người dân, doanh nghiệp; chưa có quy định về chính sách bồi thường tại
các khu vực giáp ranh thuộc địa giới hành chính hai tỉnh của hai dự án thành phần
vận hành độc lập trong cùng một dự án.
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
a) Công tác chuẩn bị đầu tư một số dự án còn bị động,
chất lượng chưa cao, chưa sát thực tế, còn tình trạng thiếu sót trong công tác
lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán và thi công của một số chủ đầu tư,
đơn vị tư vấn, nhà thầu;
b) Việc áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù trong thời
gian đầu còn lúng túng, hướng dẫn của các Bộ, ngành còn chưa kịp thời hoặc có
cách hiểu khác nhau gây khó khăn khi triển khai như thủ tục cấp mỏ trực tiếp
cho nhà thầu, thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng;
c) Một số cơ quan triển khai chưa quyết liệt, còn
tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Năng lực của Ban quản lý dự án tại một
số địa phương được giao làm cơ quan chủ quản chưa đồng đều, có địa phương làm
chưa tốt ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng của các dự án thành phần;
d) Việc triển khai khối lượng lớn các dự án trong
cùng một khoảng thời gian gây khó khăn trong huy động các nguồn lực, ảnh hưởng
đến tiến độ của một số dự án. Công tác điều tra, khảo sát mỏ vật liệu chuẩn bị
nguồn vật liệu xây dựng, bãi đổ thải tại một số dự án còn bị động, thiếu tính
khả thi, chưa phù hợp với thực tế; việc cấp phép mỏ, quản lý, khai thác tài
nguyên tại một số địa phương còn chậm, bất cập;
đ) Một số địa phương chưa quyết tâm, chủ động, nên
tiến độ triển khai chưa đáp ứng kế hoạch đề ra; việc di dời hạ tầng kỹ thuật nhất
là đường điện cao thế do tính chất đặc thù chuyên ngành điện lực và phải bảo đảm
an toàn trong truyền tải của lưới điện quốc gia nên tiến độ chậm;
e) Một số quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức, đơn giá
không phù hợp, chậm được sửa đổi; việc công bố giá vật liệu tại một số địa
phương còn chậm, chưa phù hợp với thực tế thị trường; chưa có hướng dẫn phương
pháp xác định giá vật liệu tại mỏ khi thực hiện cấp mỏ trực tiếp cho nhà thầu
theo cơ chế đặc thù.
2.4. Trách nhiệm của các cơ
quan
a) Các cơ quan chủ quản, cơ quan có thẩm quyền tổ
chức thực hiện dự án có trách nhiệm trong việc chưa quyết liệt, chưa sâu sát,
chưa kịp thời phối hợp để tháo gỡ các vướng mắc phát sinh, dẫn đến một số dự án
chưa đáp ứng yêu cầu về tiến độ;
b) Các chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, cơ quan liên
quan chịu trách nhiệm trong việc lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, Báo cáo
nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật và dự toán có một số nội dung chưa phù hợp,
chưa chuẩn xác, chưa dự báo được các vấn đề phát sinh; sơ bộ tổng mức đầu tư, tổng
mức đầu tư một số dự án thành phần phải điều chỉnh; khảo sát mỏ vật liệu xây dựng
tại một số dự án còn chưa phù hợp với thực tế, chưa lường trước được khó khăn
khi khai thác;
c) Các địa phương chịu trách nhiệm trong việc chậm
bàn giao mặt bằng, quản lý giá vật liệu xây dựng, chậm cấp phép khai thác
khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường. Các chủ đầu tư, nhà thầu thi
công, các cơ quan liên quan chịu trách nhiệm trong việc triển khai, thực hiện một
số dự án chậm, chưa đáp ứng tiến độ.
Điều 2. Các nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế và nâng cao hiệu
quả trong thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15
và các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia, Quốc hội
yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương quán
triệt các bài học kinh nghiệm, khẩn trương triển khai những kiến nghị được nêu
trong Báo cáo số 616/BC-ĐGS ngày 13/5/2024 của Đoàn giám sát, đồng thời tập
trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp sau đây:
1. Việc thực hiện Nghị quyết
số 43/2022/QH15
a) Chính phủ tập trung chỉ đạo các Bộ, ngành, địa
phương khẩn trương rà soát, có giải pháp giải quyết các kiến nghị, khó khăn, vướng
mắc liên quan đến thực hiện các dự án đầu tư; khẩn trương thực hiện điều chuyển
vốn từ dự án có tỷ lệ giải ngân thấp sang dự án có khả năng giải ngân để đẩy
nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án đầu tư sử dụng vốn Chương trình
phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đến ngày 31/12/2024 hoàn
thành giải ngân vốn của Chương trình theo yêu cầu tại Nghị quyết số 110/2023/QH15 ngày 29/11/2023 của Quốc hội. Trường
hợp không thể hoàn thành việc giải ngân theo kế hoạch, Chính phủ làm rõ trách
nhiệm của các cơ quan có liên quan, chủ đầu tư, chủ quản dự án, báo cáo Quốc hội
tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV xem xét, quyết định việc cho phép kéo dài thời
gian thực hiện và giải ngân sang năm 2025 và không tiếp tục thực hiện các dự án
chưa giải ngân;
b) Chính phủ chỉ đạo Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành, địa phương đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Chương trình để đầu
tư, xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống y tế cơ sở, y tế dự
phòng, trung tâm kiểm soát bệnh tật; rà soát, bảo đảm tính đồng bộ giữa đầu tư
các cơ sở y tế, trạm y tế xã, phường và đầu tư trang thiết bị, nâng cao năng lực
cán bộ, nhân viên y tế để phát huy hiệu quả nguồn vốn đầu tư, nâng cao năng lực
khám chữa bệnh, y tế dự phòng, y tế cơ sở và hiệu quả chăm sóc sức khỏe cho
Nhân dân;
c) Chính phủ chỉ đạo các Bộ, cơ quan liên quan đánh
giá tổng thể về kết quả triển khai chính sách tín dụng ưu đãi qua Ngân hàng
Chính sách xã hội của Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội để kiến
nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước;
d) Chính phủ chỉ đạo tổng kết việc thực hiện các
chính sách đặc thù trong Nghị quyết số 43/2022/QH15
để rút ra những cách làm hiệu quả, sáng tạo trong tổ chức thực hiện hoặc đề xuất
việc luật hóa những nội dung đã thực hiện có hiệu quả để sửa đổi, bổ sung quy định
của pháp luật có liên quan;
đ) Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương
rút kinh nghiệm trong việc đề xuất các chính sách, bảo đảm khả năng giải ngân,
đáp ứng các nguyên tắc, tiêu chí đề ra để bảo đảm chính sách phát huy hiệu quả,
hiệu lực kịp thời, tránh lãng phí nguồn lực. Rà soát quy định pháp luật liên
quan đến công tác đánh giá tác động chính sách để có giải pháp nâng cao năng lực
phân tích, dự báo, đánh giá kỹ tác động chính sách của các Bộ, ngành, địa
phương trong việc hoạch định chính sách phát triển, bảo đảm cơ sở khoa học, thực
tiễn và tính khả thi trong thực hiện;
e) Các địa phương tiếp tục chủ động, bám sát chủ
trương của Đảng, các chính sách, pháp luật của Quốc hội, Chính phủ về các nhiệm
vụ, giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, gắn kết chặt chẽ với Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 của tỉnh, thành phố; tiếp
tục quan tâm rà soát, có giải pháp quyết liệt, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc của các doanh nghiệp, tổ chức, hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh, thành phố để
thúc đẩy tăng trưởng, phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho người
lao động, góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
2. Về tăng cường hiệu lực, hiệu
quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia
2.1. Về hoàn thiện chính
sách, pháp luật
Chính phủ tập trung chỉ đạo rà soát các hạn chế, bất
cập trong các chính sách, pháp luật liên quan để sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất
cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung như sau:
a) Rà soát các cơ chế, chính sách áp dụng cho các dự
án, trên cơ sở đó đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan.
Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách về thu phí các tuyến đường bộ cao tốc
do Nhà nước đầu tư. Rà soát, hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo phương thức đối
tác công tư;
b) Rà soát, hoàn thiện các quy định về giải phóng mặt
bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, bổ sung quy định về chính sách bồi thường
tại các khu vực giáp ranh thuộc địa giới hành chính hai tỉnh của hai dự án
thành phần vận hành độc lập trong cùng một dự án. Khẩn trương điều chỉnh, bổ
sung các định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá đã được ban hành nhưng chưa phù hợp
hoặc còn thiếu nhằm bảo đảm phù hợp với thực tế;
c) Sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về điện
lực, pháp luật về viễn thông để khắc phục những vướng mắc trong thực hiện di dời
công trình hạ tầng kỹ thuật có tính chất đặc thù, phức tạp như đường điện cao
thế, cáp viễn thông;
d) Hoàn thiện pháp luật về lâm nghiệp theo hướng
đơn giản hóa trình tự, thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng rừng. Sửa đổi, bổ
sung quy định của pháp luật về trồng trọt theo hướng đơn giản hóa thủ tục về việc
sử dụng tầng đất mặt của đất chuyên trồng lúa nước đối với các công trình trên
đất được chuyển đổi từ đất chuyên trồng lúa nước;
đ) Tăng cường phân cấp, phân quyền trong quản lý hoạt
động khoáng sản, phân nhóm các loại khoáng sản theo hướng tách riêng nhóm
khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, khoáng sản làm vật liệu san lấp
để có quy định riêng về khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng, đặc biệt đối
với nhóm vật liệu san lấp và điều phối vật liệu tận dụng giữa các dự án nhằm
đơn giản hoá trình tự, thủ tục; có giải pháp tháo gỡ tổng thể các khó khăn, vướng
mắc liên quan đến việc triển khai các dự án chồng lấn với khu vực quy hoạch
khoáng sản.
2.2. Về các giải pháp tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc
a) Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chủ quản rà soát,
tổng hợp báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định đối với: các dự án dự kiến
phải điều chỉnh chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật (Dự án đầu tư xây
dựng đường bộ cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1, Dự án đầu tư xây dựng Cảng
hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1); nghiên cứu đầu tư hoàn chỉnh nút
giao Tân Vạn, cầu Bình Gởi thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 3 - thành
phố Hồ Chí Minh; xem xét đầu tư đường cất hạ cánh số 2, san lấp toàn bộ mặt bằng
(thuộc giai đoạn 2) của Dự án đầu tư xây dựng Cảng Hàng không quốc tế Long
Thành; nghiên cứu sử dụng khối lượng đất chưa sử dụng của giai đoạn 2 từ khu vực
quy hoạch nhà ga T3 Cảng hàng không quốc tế Long Thành để phục vụ nhu cầu đất đắp
nền cho Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1;
nghiên cứu cơ chế giao cho các cơ quan đầu mối của các dự án rà soát, điều hòa,
cân đối và thống nhất điều chỉnh tăng hoặc giảm tổng mức đầu tư giữa các dự án
thành phần của dự án đó, bảo đảm không vượt sơ bộ tổng mức đầu tư của toàn bộ dự
án đã được Quốc hội quyết định;
b) Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương, tổ
chức, cơ quan liên quan nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và khẩn trương có
giải pháp đồng bộ để khắc phục những tồn tại, hạn chế; đôn đốc, chỉ đạo các cơ
quan chủ quản, chủ đầu tư tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc, phối hợp
chặt chẽ với các địa phương để bảo đảm đủ nguồn cung khai thác vật liệu xây dựng;
đẩy nhanh tiến độ di dời các đường điện cao thế, cáp viễn thông; hướng dẫn việc
xác định giá vật liệu xây dựng thông thường tại mỏ khi giao cho các nhà thầu
khai thác theo các cơ chế đặc thù; khẩn trương ban hành quy chuẩn, định mức sử
dụng cát biển làm vật liệu đắp nền đường; ban hành giá vật liệu xây dựng kịp thời,
phù hợp với thực tế thị trường; quan tâm ứng dụng công nghệ mới, vật liệu mới
thân thiện với môi trường trong thực hiện dự án, giảm tối đa những tác động
tiêu cực tới môi trường sinh thái, đời sống người dân tại khu vực có dự án đi
qua;
c) Chính phủ chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải, các cơ
quan liên quan phối hợp với các địa phương được giao làm cơ quan chủ quản, cơ
quan có thẩm quyền khẩn trương triển khai đầu tư hoàn thiện các trạm dừng nghỉ,
hệ thống giám sát, điều hành giao thông nhằm đáp ứng yêu cầu khai thác đồng bộ
khi các dự án cao tốc đưa vào khai thác; khẩn trương rà soát, hoàn thiện hệ thống
kết cấu hạ tầng giao thông và phương án tổ chức giao thông để nâng cao an toàn
khai thác trên các tuyến đường cao tốc đầu tư theo quy mô phân kỳ 2 làn xe và 4
làn xe (không có làn dừng xe khẩn cấp liên tục); xây dựng kế hoạch nâng cấp mở
rộng các dự án đã và đang đầu tư theo quy mô phân kỳ (2 làn xe, 4 làn xe) bảo đảm
phù hợp với nhu cầu vận tải theo từng thời kỳ và tầm nhìn dài hạn;
d) Các địa phương khẩn trương đẩy nhanh tiến độ giải
phóng mặt bằng, xây dựng các khu tái định cư; tăng cường kiểm tra, rà soát và xử
lý nghiêm các hành vi vi phạm; giải quyết kịp thời các trường hợp khiếu nại, tố
cáo bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quan tâm đến công tác giải quyết
việc làm, tạo sinh kế cho người dân trong diện phải thu hồi đất;
đ) Các địa phương tiếp tục chỉ đạo các cơ quan chức
năng phối hợp với các chủ đầu tư, nhà thầu thỏa thuận với các chủ sở hữu về giá
chuyển nhượng, thuê đất khu vực mỏ vật liệu, bảo đảm phù hợp với mặt bằng giá bồi
thường do Nhà nước quy định, không để xảy ra tình trạng đầu cơ, nâng giá, ép
giá; xử lý nghiêm các trường hợp cố tình nâng giá, ép giá, đầu cơ đất khu vực mỏ
vật liệu;
e) Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán, giám sát, kịp thời phòng chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, ngăn chặn
vi phạm trong triển khai thực hiện các dự án, nhất là các vấn đề liên quan đến
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; khai thác, cung cấp nguyên vật liệu;
đấu thầu, chỉ định thầu;
g) Tích cực tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện
tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; tăng cường
đoàn kết, phát huy dân chủ, quan tâm bảo đảm lợi ích chính đáng của Nhân dân đi
đôi với nâng cao ý thức trách nhiệm, tạo sự đồng thuận cao của Nhân dân.
Điều 3. Điều khoản thi hành
1. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình triển khai thực hiện Nghị
quyết này.
2. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận,
Kiểm toán nhà nước, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát, kiểm
toán việc thực hiện Nghị quyết này.
Nghị quyết này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, Kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2024.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Trần Thanh Mẫn
|