HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
*******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số:
102-CP
|
Hà
Nội, ngày 06 tháng 07 năm 1963
|
NGHỊ ĐỊNH
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HÒA
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Để bảo vệ chủ quyền và tính
chất độc lập về tiền tệ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bảo vệ tài sản của
Nhà nước, đồng thời góp phần phát triển những quan hệ về kinh tế, chính trị và
văn hóa với nước ngoài.
Theo đề nghị của ông Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa.
Căn cứ nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong Hội nghị thường vụ của Hội đồng
Chính phủ ngày 13-3-1963.
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. – Nay ban hành điều lệ quản lý ngoại hối của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa kèm theo nghị định này.
Điều 2. - Điều lệ này bắt đầu thi hành kể từ ngày
01-8-1963. Những quy định trước đây về quản lý ngoại hối đều bãi bỏ.
Điều 3. – Ông Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa chịu trách nhiệm giải thích và quy định chi tiết về việc
thi hành điều lệ này.
|
K.T.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phạm Hùng
|
ĐIỀU LỆ
QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Chương 1:
ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 1. - Mọi
việc xuất nhập khẩu, mua bán, cất giữ và sử dụng ngoại hối đều phải theo đúng
những điều quy định trong bản điều lệ này.
Điều 2.
- Ngoại hối nói trong điều lệ này bao gồm:
- Các loại tiền của nước ngoài.
- Các phương tiện để trả và các
loại phiếu có giá trị ngoại tệ.
- Các loại kim khí quý,
đá quý, ngọc trai, khi xuất khẩu cũng như khi nhập khẩu.
Điều 3. – Trong
việc quản lý ngoại hối, cần phân biệt người “không cư trú” và người “cư trú”.
Người “không cư trú” (về phương
diện quản lý ngoại hối) là:
a) Những người Việt Nam thường
xuyên sống ở nước ngoài trên một năm.
b) Những người nước ngoài trong
các cơ quan đại diện của nước ngoài đặt tại nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng
như những người trong gia đình họ không thuộc quốc tịch Việt Nam, những cán bộ,
học sinh do nước ngoài cử đến nước Việt Nam dân chủ cộng hòa để công tác hay học
tập, không kể thời gian bao nhiêu.
c) Những người nước ngoài không
thuộc điều b) lưu trú tại nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa quá một năm.
d) Những người nước ngoài không
lưu trú tại nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Người “cư trú” (về phương diện
quản lý ngoại hối) là:
a) Những người nước ngoài thường
xuyên sống tại nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên một năm.
b) Những tổ chức kinh doanh của
những cá nhân hay Công ty nước ngoài tại nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, không
kể thời gian bao nhiêu.
c) Những người Việt Nam trong
các cơ quan đại diện của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại nước ngoài và những
cán bộ, học sinh do Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cử ra nước ngoài
công tác hay học tập, không kể thời gian bao nhiêu.
d) Những người không thuộc loại
“không cư trú” quy định ở trên.
Điều 4. – Khi
cần xét định một cá nhân hay tổ chức là người “cư trú” hay “không cư trú”. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ cùng Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính và
Bộ Công an xét và quyết định.
Chương 2:
QUẢN LÝ VIỆC XUẤT NHẬP,
MUA BÁN, CẤT GIỮ NGOẠI HỐI
Điều 5. - Mọi
người từ nước ngoài vào nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có thể mang theo ngoại hối,
số lượng không hạn chế, khi đến biên giới, hải cảng hoặc sân bay đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, phải khai trình số ngoại hối mang theo với cơ
quan có trách nhiệm kiểm soát ở các nơi đó và xin cấp giấy phép mang ngoại hối.
Điều 6. - Những
cá nhân hay tổ chức ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nhận được ngoại hối từ nước
ngoài gửi đến không qua Ngân hàng nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, phải
khai trình số ngoại hối nhận được với Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được.
Điều 7. -
Cấm mọi hình thức cất giữ, mua bán, chuyển nhượng ngoại hối ở trong nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, trừ trường hợp được Ngân hàng Nhà nước nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa cho phép.
Điều 8. - Những
cá nhân hay tổ chức đã được đổi ngoại hối, nếu chi tiêu không hết, phải đổi lại
số ngoại hối còn lại cho Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
trong thời hạn do Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định.
Điều 9. -
Việc cất giữ các loại ngoại tệ để làm kỷ niệm phải được Ngân hàng Nhà nước nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa cho phép.
Điều 10. - Cấm
người “cư trú” xuất khẩu ngoại hối ra ngoài nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bất
cứ bằng phương pháp hay hình thức nào, trừ khi được Ngân hàng nhân dân nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa cho phép.
Người “không cư trú” đã được
phép đem ngoại hối vào nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mà chi tiêu không hết, được
tái xuất số ngoại hối còn lại, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa.
Điều 11. - Tiền
Việt Nam trong trường hợp xuất nhập khẩu cũng xem như ngoại hối. Tiền Việt Nam
và các phương tiện để trả, các loại phiếu ghi bằng tiền Việt Nam, đều cấm xuất
ra khỏi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa hoặc nhập từ nước ngoài vào nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa trừ khi được Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa cho phép.
Chương 3:
THANH TOÁN MẬU DỊCH VÀ
PHI MẬU DỊCH, TỶ GIÁ – TÀI KHOẢN KHÔNG CƯ TRÚ
Điều 12. - Mọi
khoản thanh toán về mậu dịch và phi mậu dịch với nước ngoài đều phải thực hiện
qua ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, theo đúng tỷ giá do Ngân
hàng Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng hòa công bố và những quy định về thủ tục
của Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Điều 13. - Trừ
trường hợp có sự quy định riêng của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
những cá nhân và tổ chức được phép xuất khẩu hàng hóa phải bảo đảm thu ngoại hối
về và bán lại cho Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng hòa toàn bộ số
ngoại hối thu được trong thời hạn do Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa quy định.
Điều 14. - Người
“không cư trú” có thể mở tài khoản “không cư trú” tại Ngân hàng Nhà nước nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tài khoản này có thể mở bằng ngoại
tệ hoặc bằng tiền Việt Nam theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
Chương 4:
QUẢN LÝ VIỆC XUẤT NHẬP
KIM KHÍ QUÝ, ĐÁ QUÝ VÀ NGỌC TRAI
Điều 15. - Cấm
xuất nhập khẩu kim khí quý, đá quý và ngọc trai, bất cứ dưới hình thức nào, trừ
khi được Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho phép.
Mọi người từ nước ngoài vào nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa có thể mang theo kim khí quý, đá quý và ngọc trai, dưới
các hình thức, số lượng không hạn chế, nhưng phải khai trình theo quy định ở điều
5 của điều lệ này.
Điều 16. - Người
“không cư trú” khi ra khỏi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được mang theo số kim
khí quý, đá quý và ngọc trai đã đem theo và khai trình lúc vào nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
Người “cư trú” đi ra nước ngoài
một thời gian rồi trở lại, có thể được mang theo một số tư trang bằng kim khí
quý, đá quý, ngọc trai, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, với điều kiện khi trở vào, phải mang theo đầy đủ số tư tramg đó,
như đã khai trình lúc xuất cảnh.
Điều 17. - Việc
cất giữ, mua bán, lưu hành kim khí quý, đá quý và ngọc trai trên lãnh thổ nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa do thể lệ riêng quy định.
Chương 5:
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ CÁC
TÀI SẢN KHÁC
Điều 18. - Người
“cư trú” thuộc quốc tịch Việt Nam có trách nhiệm khai báo cho Ngân hàng Nhà nước
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa những tài sản để ở nước ngoài, không phân biệt
nguồn gốc do đâu mà có.
Người “cư trú” (kể cả Việt Nam
và ngoại kiều) có trách nhiệm khai báo cho Ngân hàng Nhà nước nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa những tài sản giữ hộ cho người “không cư trú” tại nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
Điều 19. - Người
“cư trú” không được nhường bán, đổi chác, cầm cố với người “không cư trú” hoặc
mua của người “không cư trú” những tài sản ở trong nước hay ở nước ngoài, trừ
khi được Ngân hàng Nhà nước hoặc cơ quan có trách nhiệm của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa cho phép.
Điều 20. - Người
“cư trú” không được đài thọ các khoản chi tiêu cho người “không cư trú” trong
thời gian họ ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trừ trường hợp được Ngân hàng
Nhà nước nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho phép.
Chương 6:
VIỆC KIỂM SOÁT, XỬ PHẠT,
KHEN THƯỞNG
Điều 21. – Cơ
quan Hải quan chịu trách nhiệm thi hành việc kiểm soát ngoại hối và tiền Việt
Nam xuất nhập khẩu, theo những thủ tục đã quy định trong điều lệ hải quan của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong phạm vi kiểm soát của hải quan. Tại những
nơi không có hải quan, việc kiểm soát do công an phụ trách.
Điều 22. -
Những cá nhân hay tổ chức vi phạm điều lệ này, tùy theo tội nặng, nhẹ, sẽ bị xử
phạt theo những hình thức sau đây:
a) Đối với những vụ phạm pháp lần
đầu hoặc giá trị tang vật không nhiều: tịch thu một phần hay toàn bộ số tang vật
phạm pháp.
b) Đối với những vụ phạm pháp
giá trị tang vật lớn và những vụ tái phạm: tịch thu một phần hay toàn bộ số
tang vật phạm pháp và những dụng cụ cất giấu số tang vật đó, đồng thời phạt tiền
tối đa bằng gấp ba lần tổng giá trị số tang vật phạm pháp.
Trường hợp phạm pháp nghiêm trọng,
can phạm có thể bị truy tố trước Tòa án nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa.
Điều 23. - Việc
xử lý những vụ phạm pháp về quản lý ngoại hối quy định như sau:
a) Đối với những vụ phạm pháp bắt
được trong nội địa nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Ngân hàng Nhà nước nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa phụ trách xử lý:
- Trưởng Chi điếm Ngân hàng Nhà
nước xử lý những vụ phạm pháp trị giá tang vật từ 100 đồng trở xuống.
- Trưởng Chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước xử lý những vụ phạm pháp trị giá tang vật từ 101 đồng trở lên.
b) Đối với những vụ phạm pháp bắt
được tại các cửa khẩu của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cơ quan Hải quan phụ
trách xử lý sau khi thống nhất ý kiến với Ngân hàng cung cấp, và theo những thủ
tục đã quy định trong điều lệ hải quan của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Điều 24. – Sau
khi bị xử lý, người phạm pháp có quyền khiếu nại lên cấp trên của cấp đã xử lý.
Trong khi chờ đợi giải quyết, những tang vật và dụng cụ cất giấu cần được giữ tại
cơ quan xử lý.
Đối với những vụ phạm pháp do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa xử lý, ông Tổng giám đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền quyết định cuối cùng.
Điều 25.
- Những cá nhân hay tổ chức có công tố giác, giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm
trong việc tìm ra những vụ phạm pháp, có thể được khen thưởng theo chế độ hiện
hành của Nhà nước, tùy theo tính chất từng vụ.