BỘ
THƯƠNG MẠI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
2989/TM-QLCL
|
Hà
Nội, ngày 01 tháng 8 năm 2002
|
TỜ TRÌNH CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC BAN HÀNH NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH CHI TIẾT
THI HÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG HÀNG HÓA LƯU THÔNG TRONG NƯỚC VÀ
HÀNG HÓA XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Thực hiện chương trình xây dựng pháp
luật năm 2002 của Chính phủ, nhằm quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại và
Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa năm 1999, Bộ Thương mại đã được giao chủ trì soạn
thảo Nghị định về quản lý chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu.
Bộ Thương mại xin kính trình Thủ
tướng Chính phủ dự thảo Nghị định và xin giải trình như sau:
I- VỀ SỰ CẦN
THIẾT BAN HÀNH NGHỊ ĐỊNH
Luật Thương mại có hiệu lực từ ngày
01/01/1998 đã có quy định về nhiệm vụ quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hóa
lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (Khoản 6 Điều 245 và Điều
246).
Năm 1999, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
đã ban hành Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa nêu ra nhiều chế định cụ thể, song
còn tồn tại một số vấn đề sau cần được sửa đổi, bổ sung:
1- Việc bắt buộc áp dụng
Tiêu chuẩn Việt Nam và Tiêu chuẩn ngành chưa thật phù hợp trong hoàn cảnh
hiện nay, khi nước ta đã chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Hiện nay trên Thế giới đang diễn ra
hai quá trình:
Một mặt chất lượng hàng hóa tuỳ thuộc
vào nhu cầu của thị trường biến đổi không ngừng; dưới tác động của những tiến
bộ khoa học công nghệ, chất lượng hàng hóa càng thay đổi nhanh chóng. Việc định
ra và đòi hỏi áp dụng một cách cứng nhắc bộ Tiêu chuẩn Quốc gia và Tiêu chuẩn
ngành không còn phù hợp.
Mặt khác, các nước lại có khuynh
hướng đề ra nhiều Tiêu chuẩn về an toàn, vệ sinh môi trường, bản quyền, tài sản
trí tuệ... cho phù hợp với đòi hỏi của cuộc sống, đồng thời cũng nhằm tạo ra
các rào cản trá hình nhằm bảo hộ sản xuất trong nước.
Nước ta đang trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, do đó cũng cần làm theo hướng này.
2- Thiếu các quy định
về chất lượng và loại hình hoạt động dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa.
Hoạt động dịch vụ chứng nhận chất
lượng hàng hóa bao gồm việc chứng nhận chất lượng mẫu hàng; chứng nhận chất
lượng, số lượng và các yếu tố liên quan đến chất lượng lô hàng; chứng nhận
phương pháp quản lý bảo đảm chất lượng của hàng hóa như ISO 9000, TQM, HACCP,
GMP,... (gọi chung là chứng nhận chất lượng).
Chính phủ đã ban hành Nghị định số
20/NĐ-CP ngày 12/4/1999 về kinh doanh dịch vụ giám định hàng hóa. Tuy nhiên,
phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 20/1999/NĐ-CP chỉ bao gồm việc quản lý hành
chính hoạt động kinh doanh giám định chứng nhận số lượng, chất lượng và các yếu
tố khác có liên quan của lô hàng, song chưa nêu các quy định để quản lý năng
lực và chất lượng hoạt động của dịch vụ giám định về số lượng và chất lượng
hàng hóa; các quy định quản lý các hoạt động dịch vụ chứng nhận phương pháp
quản lý chất lượng hàng hóa. Ngoài ra, cần có pháp luật điều chỉnh việc công
nhận các tổ chức chứng nhận nước ngoài và thừa nhận kết quả chứng nhận của nhau
theo các Hiệp định về công nhân và thừa nhận lẫn nhau của WTO, APEC......
3- Chưa phân định rõ
ràng chức năng quản lý Nhà nước đối với chất lượng hàng hóa lưu thông trong
nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Điều 245 và 246 Luật Thương mại quy
định Bộ Thương mại chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc quản lý Nhà nước về
thương mại, trong đó có nội dung quản lý chất lượng hàng hóa lưu thông trong
nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa lại quy
định Bộ Khoa học - Cộng nghệ và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thống nhất quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hóa. Sự trùng chéo này gây ra
không ít trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của thương nhân, làm cho
hiệu quả quản lý nhà nước không đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Hơn nữa, công tác thanh tra, kiểm
tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật về chất lượng hàng hóa lưu thông trong
nước cũng chưa được phân định cụ thể, từ đó dẫn đến tình trạng một loại hàng
hóa phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát của nhiều lực lượng khác nhau, gây cản trở
cho lưu thông hàng hóa và hoạt động của thương nhân. Do đó, Chính phủ cần có
quy định cụ thể về chất lượng quản lý Nhà nước đối với hàng hóa lưu thông trong
nước cũng như xuất khẩu, nhập khẩu.
4- Việt Nam đã gia
nhập ASEAN, ký Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ và đang đàm phán gia nhập WTO.
Pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về chất lượng hàng hóa lưu thông
trong nước và xuất nhập khẩu nói riêng cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với các nguyên tắc và quy định của các cam kết song phương và đa phương.
Từ những lý do trên, để hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật về quản lý chất lượng hàng hóa của nước ta cần có Nghị định quy
định chi tiết về quản lý chất lượng hàng hóa theo Luật Thương mại và Pháp luật
Chất lượng hàng hóa.
II- NGUYÊN TẮC
SOẠN THẢO NGHỊ ĐỊNH
Việc soạn thảo Nghị định quy định chi
tiết thi hành Luật Thương mại tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau:
1- Tuân theo các quy định của Luật
Thương mại phù hợp với việc làm rõ thêm các quy định của Pháp lệnh Chất lượng
hàng hóa năm 1999.
2- Điều chỉnh các quy định pháp luật
hiện hành cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường cũng như thông lệ
quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, lưu thông
hàng hóa trong nước và quốc tế, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3- Làm rõ những nội dung liên quan
đến công tác quản lý nhà nước về dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa lưu
thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
4- Phân định rõ chức năng quản lý Nhà
nước giữa các cơ quan có liên quan đối với chất lượng hàng hóa lưu thông trong
nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
III- BỐ CỤC CỦA
NGHỊ ĐỊNH
Nghị định bao gồm 5 Chương và 19
Điều, được trình bày cụ thể như sau:
- Chương I “Những quy định chung” (5
điều) bao gồm những nội dung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan đến chất lượng hàng hóa lưu thông trong
nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Chương II “Những quy định cụ thể về
quản lý chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu” (8 điều) bao gồm các nội dung về quy định áp dụng “Tiêu chuẩn kỹ thuật”;
“Các quy định kỹ thuật hoặc quy định có liên quan” đến chất lượng; công bố chất
lượng hàng hóa; chứng nhận chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước; chất lượng
hàng hóa nhập khẩu để tiêu thụ tại thị trường Việt Nam; chất lượng hàng hóa của
Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài; tổ chức thực hiện dịch vụ chứng nhận chất
lượng hàng hóa; quyền và nghĩa vụ của tổ chức thực hiện dịch vụ chứng nhận chất
lượng hàng hóa; thanh tra, kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật về chất
lượng hàng hóa.
- Chương III “Quản lý Nhà nước về
chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu” (2
điều), bao gồm nội dung Quản lý Nhà nước, cơ quan Quản lý Nhà nước.
- Chương IV “Khen thưởng và xử lý vi
phạm” (2 điều)
- Chương V “Điều khoản thi hành” (2
điều).
IV- MỘT SỐ NỘI
DUNG CHÍNH CỦA NGHỊ ĐỊNH
1- Phạm vi điều
chỉnh của Nghị định là quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về quản lý
chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Đối tượng áp dụng bao gồm hàng hóa
lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; các tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa và tổ chức thực hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa.
2- Nghị định quy
định vấn đề áp dụng các Tiêu chuẩn kỹ thuật; các Quy định kỹ thuật hoặc quy
định có liên quan đến chất lượng theo hướng: Các thương nhân có quyền tự lựa
chọn Tiêu chuẩn kỹ thuật để áp dụng cho hàng hóa của mình, trừ Quy định kỹ
thuật và các quy định có liên quan đến chất lượng mà pháp luật bắt buộc áp dụng
(gọi là Quy định kỹ thuật). Các Quy định kỹ thuật được giới hạn trong “hành
lang an toàn”, tức là nhằm bảo đảm an toàn, sức khoẻ con người; an toàn cho vật
nuôi, cây trồng và môi trường; chống gian lận thương mại; giữ gìn an ninh quốc
gia và giá trị văn hoá truyền thống.
Quy định như trong dự thảo Nghị định
vừa tạo điều kiện cho thương nhân phát huy tính năng động và tự chủ của mình,
vừa bảo đảm sự quản lý của Nhà nước ở mức độ hợp lý.
3- Nghị định làm rõ
hoạt động chứng nhận chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước bao gồm: chứng
nhận chất lượng của mẫu hàng; chứng nhận chất lượng, số lượng và các yếu
tố liên quan đến chất lượng của lô hàng; chứng nhận phương pháp quản lý bảo đảm
chất lượng của hàng hóa.
Nghị định đưa ra quy định: hàng hóa
có liên quan đến “hành lang an toàn” phải được kiểm tra nhà nước về chất lượng
trước khi đưa ra lưu thông trong nước; nếu đã được chứng nhận phù hợp chất
lượng và phù hợp với phương pháp quản lý chất lượng như ISO 9000, TQM, HACCP,
GMP,... thì được miễn kiểm tra nhà nước về chất lượng, trừ các trường hợp hàng
hóa nghi vấn có dấu hiệu vi phạm pháp luật về chất lượng. Quy định này là một
bước cải cách trong lĩnh vực chất lượng, tạo điều kiện cho sự lưu thông hàng
hóa, đồng thời chuyển từ phương thức quản lý thụ động, chỉ chú ý kiểm tra chất
lượng hàng hóa tại đầu ra của sản xuất hoặc thanh tra, kiểm tra chất lượng hàng
hóa tràn lan trên thị trường sang phương thức khuyến khích thương nhân áp dụng
các phương pháp quản lý bảo đảm chất lượng hàng hóa như ISO 9000, TQM, HACCP,
GMP,... và quản lý các tổ chức thực hiện dịch vụ kỹ thuật chứng nhận chất lượng.
Kiểm tra nhà nước về chất lượng chỉ
thực hiện đối với các yếu tố gây ảnh hưởng đến an toàn, sức khoẻ con người; gây
mất an toàn vật nuôi, cây trồng và môi trường; gian lận thương mại; ảnh hưởng
đến an ninh quốc gia và giá trị văn hóa truyền thống. Quy định này nhằm khắc
phục tình trạng hiện nay, khi việc kiểm tra Nhà nước theo danh mục hàng hóa gây
khó khăn và tạo ra chi phí quá lớn đối với cả thương nhân và cơ quan kiểm tra.
Theo tinh thần đó, Nghị định quy định danh mục các chỉ tiêu chất lượng và yêu
cầu kỹ thuật tương ứng với từng loại hàng hóa cần thiết phải kiểm tra Nhà nước
và giao Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan quy định cụ
thể. Điều này có nghĩa là, việc kiểm tra nhà nước chỉ thực hiện đối với các yếu
tố chất lượng thuộc “hành lang an toàn” mà thôi.
4- Về chất lượng
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Nghị định quy định hàng hóa nhập khẩu
nếu đã được tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài (đã được cơ quan Quản lý Nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận) chứng nhận phù hợp chất lượng và phù
hợp phương pháp quản lý bảo đảm chất lượng thì được miễn kiểm tra Nhà nước về
chất lượng khi nhập khẩu. Quy định như vậy tạo điều kiện cho lưu thông hàng hóa
quốc tế nhưng vẫn bảo đảm sự quản lý đối với chất lượng hàng hóa khi nhập khẩu.
Theo Nghị định việc quản lý chất lượng hàng hóa nhập khẩu chuyển từ trực tiếp
đối với hàng hóa sang quản lý việc tổ chức thực hiện chứng nhận chất lượng nước
ngoài. Tuy nhiên, trong trường hợp nghi vấn hàng hóa có dấu hiệu vi phạm pháp
luật về chất lượng thì cần kiểm tra trực tiếp.
Ngoài ra, dự thảo cũng giao Bộ Thương
mại chủ trì, phối hợp với một số Bộ, ngành liên quan quy định trình tự, thủ tục
đánh giá công nhận tổ chức chứng nhận chất lượng nước ngoài và sau đó Bộ Thương
mại sẽ thực hiện việc công bố tổ chức này. Quy định như dự thảo là phù hợp với
luật pháp và thông lệ quốc tế, cụ thể là các Hiệp định của WTO, APEC... về thừa
nhận công nhận lẫn nhau (MRA).
Nhằm tạo điều kiện cho thương nhân
xuất khẩu chủ động lựa chọn mức chất lượng đối với hàng hóa xuất khẩu của mình,
Nghị định quy định chất lượng hàng hóa sẽ do các bên trong hợp đồng mua bán
hàng hóa thoả thuận nhưng không trái với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết và tham gia.
5- Về tổ chức thực
hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa
Nước ta hiện nay có trình độ phát
triển khoa học, công nghệ kém hơn so với mức trung bình của thế giới, đồng thời
việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật cho hoạt động chứng nhận chất
lượng còn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, nhằm tận dụng tối đa các cơ sở vật chất,
thiết bị và năng lực kỹ thuật chuyên môn hiện có, phát huy tiềm lực của mọi tổ
chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong hoạt động chứng nhận chất
lượng, Nghị định quy định ngoài các thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định
hàng hóa, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa, các
tổ chức sự nghiệp kỹ thuật thuộc các cơ quan quản lý nhà nước thuộc các Bộ,
Ngành cũng được thực hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa.
Tuy nhiên, đối với các hoạt động
chứng nhận chất lượng hàng hóa thuộc hành lang an toàn (an toàn sức khoẻ con
người; an toàn vật nuôi, cây trồng và môi trường; chống lận thương mại; giữ gìn
an ninh Quốc gia và giá trị văn hóa truyền thống), thì chỉ một số tổ chức đáp
ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn nhất định được cơ quan Quản lý Nhà nước có
thẩm quyền công nhận và công bố mới được làm dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng
hóa.
6- Về hoạt động
thanh tra, kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật về chất lượng hàng hóa.
Hiện nay có nhiều cơ quan được tham
gia thanh tra, kiểm tra, kiểm soát về chất lượng. Điều đó gây không ít khó khăn
cho hoạt động của thương nhân đồng thời làm giảm hiệu quả quản lý Nhà nước.
Nghị định quy định: Đối với hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu do Bộ Thương mại chủ trì thực hiện chức năng thanh tra, kiểm
tra và các Bộ, Ngành khác phối hợp trong phạm vi chức năng, thẩm quyền của
mình. Đối với hàng hóa xuất nhập khẩu trong địa bàn hoạt động của Hải quan thì
do lực lượng Hải quan chủ trì, Bộ Thương mại và các Bộ, Ngành khác phối hợp
thực hiện. Quy định như vậy phù hợp với Luật Thương mại, Luật Hải quan, đồng
thời phù hợp với khả năng, chức năng và các cơ quan. Luật pháp và thông lệ quốc
tế cũng tương tự như vậy.
V- VỀ CÁC Ý
KIẾN THAM GIA GÓP Ý VÀO DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH VÀ TỜ TRÌNH CHÍNH PHỦ CỦA CÁC BỘ,
NGÀNH
Bộ Thương mại đã gửi công văn số
0966/TM-PC ngày 19/3/2002 xin ý kiến góp ý dự thảo tờ trình và Nghị định và đã
nhận được ý kiến tham gia của hầu hết các Bộ, ngành: Thủy sản, Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, Công nghiệp, Hải quan, Y tế, Khoa học - Công nghệ và Môi
trường, Tư pháp. Bộ Thương mại xin được báo cáo như sau:
1- Về các ý kiến
chung:
- Hầu hết các Bộ ngành nhất trí với
việc ban hành Nghị định này và nhất trí với hầu hết nội dung và bố cục của các
chương trong dự thảo Nghị định và dự thảo tờ trình.
- Ý kiến vướng mắc lớn nhất là việc
cùng một lúc hai Bộ được giao nhiệm vụ dự thảo hai Nghị định: Bộ Thương mại dự
thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Thương mại về quản lý chất lượng hàng
hóa theo quy định của Điều 245, 246 Luật Thương mại; Bộ Khoa học - Cộng nghệ và
Môi trường dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh chất lượng hàng hóa
theo quy định Điều 24 Pháp lệnh chất lượng hàng hóa. (Luật Thương mại và Pháp
lệnh chất lượng quy định hai Bộ đều có chức năng chủ trì giúp Chính phủ thống
nhất quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hóa).
Về việc này, Bộ Thương mại xin có ý
kiến như sau: Chất lượng hàng hóa hình thành trong suốt quá trình từ sản xuất
tới lưu thông, song người quyết định là người mua do đó nên bảo đảm sự thống
nhất về cơ chế chính sách quản lý chất lượng hàng hóa xuyên suốt từ sản xuất
đến lưu thông và tiêu dùng, không nên cắt khúc. Trong hoàn cảnh hiện nay nếu
lấy yếu tố thị trường làm cơ sở để xây dựng cơ chế chính sách và phương thức
quản lý chất lượng nhằm bảo đảm sự lưu thông và tăng cường khả năng cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam, đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ hàng nhập khẩu,
bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng; lợi ích chính đáng của tổ chức,
cá nhân sản xuất kinh doanh trong nước.
Vì vậy Bộ Thương mại đề nghị chỉ nên
biên soạn một Nghị định vừa căn cứ Luật Thương mại vừa căn cứ Pháp lệnh Chất
lượng hàng hóa. Về mặt tổ chức cũng cần có sự sắp xếp lại cho phù hợp.
- Bộ Thương mại cần được giao nhiệm
vụ chủ trì giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hóa
lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu với sự tham gia phối hợp
của các Bộ, ngành liên quan.
2- Về các ý kiến cụ
thể, chi tiết của các Bộ, ngành đề nghị làm rõ và điều chỉnh sửa đổi hoặc bổ
sung, Bộ Thương mại xin được báo cáo như sau:
- Điều 6: Làm rõ khái niệm “Tiêu
chuẩn” và “Quy định kỹ thuật” để xác định đúng yêu cầu quản lý;
- Khoản 1 Điều 7: quy định “Mọi hàng
hóa lưu thông trong nước, xuất khẩu, nhập khẩu để tiêu thụ tại Việt Nam đều phải công bố chất lượng”;
- Khoản 3 Điều 7: bổ sung thêm nội
dung “Thông báo cho cơ quan quản lý Nhà nước” sau khi công bố chất lượng trên
nhãn hàng hóa theo quy định pháp luật về ghi nhãn hàng hóa; các loại hàng hóa
không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về ghi nhãn thì tổ chức, cá nhân
kinh doanh phải sử dụng phương thức công bố chất lượng bằng nhãn treo hoặc tờ
rời tại nơi bán hàng;
- Khoản 3 Điều 8: bổ sung việc xây
dựng thủ tục, Quy trình kỹ thuật, phương pháp kiểm tra và chứng nhận chất lượng
đối với tổ chức hoạt động dịch vụ chứng nhận;
- Khoản 2 Điều 9: bổ sung thêm vấn đề
“Kiểm tra Nhà nước đối với hàng vật tư nguyên liệu nhập khẩu để gia công hàng
hóa cho nước ngoài tại Việt Nam, tạm nhập tái xuất hoặc quá cảnh nếu nghi vấn
có chứa đựng các yếu tố không an toàn cho môi trường”;
- Điểm b Khoản 1 Điều 11: bổ sung quy
định “Phòng thí nghiệm của các Viện nghiên cứu và các trường Đại học được tham
gia làm tổ chức chứng nhận chất lượng nếu đủ điều kiện”;
- Khoản 3 Điều 11: bổ sung “Cơ sở để
xem xét tổ chức đủ điều kiện thực hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng là sự đề
xuất của các Bộ, Ngành trực tiếp quản lý”;
- Khoản 4 Điều 12: điều chỉnh “Tổ
chức thực hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng chịu trách nhiệm trước khách hàng
và cả trước pháp luật khi chứng nhận chất lượng hàng hóa không đúng”;
- Khoản 3 Điều 13: điều chỉnh loại bỏ
nội dung “Không lấy không mẫu hàng hóa”;
- Khoản 1 Điều 18: bổ sung “Các quy
định trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ”;
Tuy nhiên có một số ý kiến chúng tôi
thấy khó chấp thuận như:
- Ý kiến đề nghị bổ sung Khoản 1 và 3
Điều 7 “Các hàng hóa liên quan đến an toàn thì việc công bố chất lượng phải
được cơ quan quản lý Nhà nước xác nhận”; “Các cơ sở kinh doanh phải công bố
tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa với cơ quan quản lý chất lượng hàng hóa”. Bộ
Thương mại cho rằng, cách làm này sẽ tạo ra cơ chế hành chính nặng nề, hơn nữa
việc chất lượng đã được nêu công khai trên nhãn hàng hóa, không cần thêm thủ
tục khác.
- Ý kiến “Nhà nước nên quy định phí
dịch vụ chứng nhận chất lượng”. Bộ Thương mại nhận thấy chưa có cơ sở thực tế
để quy định phí dịch vụ chứng nhận chất lượng, vả lại vấn đề phí đã được Chính
phủ có văn bản quy định chung.
- Ý kiến “Đối với hàng hóa lưu thông
trong nước hoặc hàng hóa nhập khẩu đã có chứng nhận chất lượng của cơ quan có
thẩm quyền được Việt Nam công nhận vẫn phải được kiểm tra Nhà nước về chất
lượng vì các nước trên thế giới vẫn kiểm tra hoặc kiểm tra giảm mà không loại
bỏ hoàn toàn”. Bộ Thương mại đã ghép yêu cầu này vào nội dung “Kiểm tra Nhà
nước về chất lượng khi nghi vấn hàng hóa có dấu hiệu vi phạm pháp luật về chất
lượng” tại khoản 3 Điều 8 và khoản 3 Điều 9.
- Ý kiến không chấp nhận việc quy
định tại Khoản 4 Điều 12 “Cơ quan dịch vụ kiểm tra chứng nhận chất lượng bị
phạt hợp đồng khi chứng nhận chất lượng hàng hóa không đúng”. Theo Bộ Thương
mại, các tổ chức dịch vụ chứng nhận chất lượng phải chịu trách nhiệm về hành vi
của mình trước thương nhân theo cam kết trong hợp đồng dịch vụ chứng nhận hoặc
chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi cố tình làm sai.
Trên đây là giải trình về việc ban
hành Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về quản lý chất lượng
hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Bộ Thương mại
xin kính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định./.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI
Vũ Khoan
|
CHÍNH
PHỦ
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Số:
/2002/NĐ-CP
|
Hà
Nội, ngày tháng
năm 2002
|
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI VỀ
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG HÀNG HÓA LƯU THÔNG TRONG NƯỚC VÀ HÀNG HÓA XUẤT KHẨU, NHẬP
KHẨU
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày
25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Thương mại ngày 10 tháng 5 năm 1997;
Căn cứ Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa ngày 24 tháng 12 năm 1999;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại,
NGHỊ ĐỊNH
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi
điều chỉnh
Nghị định này quy định chi tiết thi
hành Luật Thương mại về quản lý chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Điều 2. Đối tượng
áp dụng
Nghị định này áp dụng đối với:
1- Hàng hóa lưu thông trong nước và
hàng hóa Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài, hàng hóa nhập khẩu để tiêu thụ tại
Việt Nam.
2- Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa và tổ chức thực hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa lưu thông trong
nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Điều 3. Trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa đối với chất lượng hàng hóa
Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa
tại thị trường trong nước, xuất khẩu hàng hóa, nhập khẩu hàng hóa để tiêu thụ
tại Việt Nam phải chịu trách nhiệm về chất lượng của hàng hóa do mình kinh
doanh theo quy định của pháp luật về chất lượng hàng hóa hoặc có liên quan đến
chất lượng hàng hóa.
Điều 4. Trách
nhiệm của tổ chức thực hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa
Tổ chức thực hiện dịch vụ chứng nhận chất
lượng hàng hóa phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động chứng
nhận chất lượng hàng hóa do mình thực hiện.
Điều 5. Trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ quản lý chất lượng hàng hóa
Tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ quản lý
chất lượng hàng hóa phải thực hiện đúng nhiệm vụ của mình và chịu trách nhiệm
về hành vi vi phạm của mình theo quy định của pháp luật.
Chương 2:
NHỮNG QUY ĐỊNH CỤ THỂ
VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG HÀNG HÓA LƯU THÔNG TRONG NƯỚC VÀ HÀNG HÓA XUẤT KHẨU, NHẬP
KHẨU
Điều 6. áp dụng
tiêu chuẩn kỹ thuật, Quy định kỹ thuật và các quy định khác có liên quan
1- Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa có quyền tự lựa chọn “Tiêu chuẩn kỹ thuật” để áp dụng cho hàng hóa của
mình, trừ các “Quy định kỹ thuật và các quy định khác có liên quan đến chất
lượng” mà pháp luật quy định bắt buộc áp dụng.
2- Các Tiêu chuẩn kỹ thuật nêu tại
Khoản 1 Điều này là các tài liệu kỹ thuật bao gồm:
- Các Tiêu chuẩn yêu cầu kỹ thuật về
chất lượng như: Các chỉ tiêu chất lượng; các yêu cầu kỹ thuật và mức chất lượng
của hàng hóa.
- Các tiêu chuẩn yêu cầu kỹ thuật
liên quan đến chất lượng như: bao gói; ghi nhãn; vận chuyển; bảo quản; quy
trình công nghệ; phương pháp quản lý đảm bảo chất lượng hàng hóa; phương pháp
thử nghiệm; và các vấn đề khác liên quan đến chất lượng hàng hóa.
3- Các Quy định kỹ thuật và các Quy
định khác liên quan đến chất lượng mà pháp luật quy định bắt buộc áp dụng nêu
tại Khoản 1 Điều này là các văn bản “Quy định pháp luật” bắt buộc áp dụng đối
với một số Tiêu chuẩn kỹ thuật, hoặc một số các yêu cầu kỹ thuật về chất lượng
và liên quan đến chất lượng hoặc các quy chế, quy trình, quy phạm nhằm đảm bảo
an toàn, sức khoẻ cho con người; an toàn cho vật nuôi, cây trồng và môi trường;
chống gian lận thương mại; giữ gìn an ninh Quốc gia và giá trị văn hóa truyền
thống.
4- Nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa và dịch vụ thực hiện hành vi vi phạm các Quy định kỹ thuật
và các Quy định có liên quan đến chất lượng mà “Pháp luật Quy định” bắt buộc áp
dụng nêu tại Khoản 3 Điều này.
Điều 7. Công bố
chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
1- Mọi hàng hóa lưu thông trong nước,
xuất khẩu và nhập khẩu để tiêu thụ tại Việt Nam đều phải được công bố chất
lượng. Đối với hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài, việc công bố chất
lượng hàng hóa tuỳ thuộc vào thoả thuận của các bên trong hợp đồng mua bán hàng
hóa và tuân thủ quy định của các Điều ước Quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia.
2- Nội dung thông tin về chất lượng
hàng hóa phải công bố bao gồm các chỉ tiêu chất lượng: các yêu cầu kỹ thuật về
chất lượng và mức chất lượng; các quy định kỹ thuật khác và các quy định liên
quan đến chất lượng.
3- Phương thức công bố các thông tin
về chất lượng của hàng hóa được thực hiện ghi trên nhãn hàng hóa theo quy định
của pháp luật về ghi nhãn hàng hóa và thông báo cho cơ quan quản lý Nhà nước.
Trường hợp hàng hóa không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về ghi nhãn
hàng hóa, tổ chức và cá nhân kinh doanh phải sử dụng phương thức nhãn treo hoặc
nhãn tờ rời tại nơi bán hàng để bảo đảm việc công bố chất lượng hàng hóa.
4- Tổ chức, cá nhân kinh doanh phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung thông tin về chất lượng hàng
hóa mà mình công bố.
Điều 8. Chứng
nhận chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước
1- Chứng nhận chất lượng hàng hóa lưu
thông trong nước bao gồm việc chứng nhận chất lượng của mẫu hàng; chứng nhận
chất lượng, số lượng và các yếu tố liên quan đến chất lượng của lô hàng; chứng
nhận phương pháp quản lý bảo đảm chất lượng của hàng hóa (gọi chung là chứng
nhận chất lượng hàng hóa).
2- Việc đề nghị được cấp chứng nhận
chất lượng hàng hóa do tổ chức, cá nhân kinh doanh tự quyết định, trừ trường
hợp hàng hóa mà pháp luật bắt buộc phải chứng nhận chất lượng hàng hóa.
3- Đối với hàng hóa có chứa đựng các
yếu tố phải kiểm tra nhà nước về chất lượng khi lưu thông trong nước, nếu đã
được tổ chức thực hiện dịch vụ kỹ thuật đã được cơ quan quản lý Nhà nước có
thẩm quyền công nhận thực hiện chứng nhận phù hợp chất lượng và phù hợp phương
pháp quản lý bảo đảm chất lượng thì hàng hóa đó được miễn kiểm tra nhà nước về
chất lượng, trừ trường hợp hàng hóa có dấu hiệu vi phạm pháp luật về chất lượng.
Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với
Bộ Khoa học - Cộng nghệ và Môi trường, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Thủy sản, Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành có liên
quan khác quy định thủ tục, quy trình kỹ thuật, phương pháp kiểm tra và chứng
nhận chất lượng hàng hóa theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 14 Nghị định;
quy định nội dung cụ thể về chất lượng của hàng hóa nêu tại Khoản 3 Điều 6 cần
thiết phải kiểm tra Nhà nước như: Danh mục các chỉ tiêu chất lượng; các yêu cầu
kỹ thuật về chất lượng và mức chất lượng; các yêu cầu kỹ thuật khác và các quy
định có liên quan tương ứng với từng loại hàng hóa.
4- Phí chứng nhận chất lượng do tổ
chức thực hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa thoả thuận với tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hóa.
Điều 9. chất
lượng hàng hóa nhập khẩu để tiêu thụ tại Việt Nam
1- Hàng hóa nhập khẩu để tiêu thụ tại
Việt Nam phải tuân thủ các quy định về chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước.
2- Đối với hàng hóa là vật tư nguyên
liệu nhập khẩu để gia công hàng hóa tại Việt Nam cho nước ngoài, hàng hóa tạm
nhập tái xuất và hàng hóa quá cảnh, việc kiểm tra Nhà nước về chất lượng chỉ
được áp dụng trong trường hợp bị nghi vấn hàng hóa này có chứa các yếu tố làm
ảnh hưởng đến sự an toàn, sức khoẻ con người; vật nuôi, cây trồng và môi
trường; an ninh Quốc gia trong quá trình nhập khẩu, tạm nhập tái xuất hoặc quá
cảnh.
3- Hàng hóa nhập khẩu đã được tổ chức
có thẩm quyền của nước ngoài mà tổ chức đó đã được cơ quan Quản lý Nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam công nhận thực hiện chứng nhận phù hợp chất lượng và
phù hợp phương pháp quản lý đảm bảo chất lượng theo đúng luật pháp mà Việt Nam
đã ký kết hoặc tham gia thì được miễn kiểm tra nhà nước về chất lượng khi nhập
khẩu, trừ trường hợp hàng hóa có dấu hiệu vi phạm về chất lượng.
4- Bộ Thương mại chủ trì phối hợp với
Bộ Khoa học - Cộng nghệ và Môi trường, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Thủy sản, Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành có liên
quan khác quy định điều kiện, thủ tục, quy trình đánh giá, công nhận tổ chức
chứng nhận chất lượng của nước ngoài; đồng thời tổ chức thực hiện xét duyệt và
công bố tổ chức chứng nhận của nước ngoài được Việt Nam công nhận trên cơ sở đề
xuất của các Bộ chuyên ngành hoặc điều ước Quốc tế có liên quan.
5- Hàng hóa nhập khẩu để lưu thông
trong nước vi phạm quy định pháp luật bị xử lý theo Pháp luật của Việt Nam và các điều ước Quốc tế, các thoả thuận song phương, đa phương mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Điều 10. Chất
lượng hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài
1- Chất lượng hàng hóa xuất khẩu từ
Việt Nam ra nước ngoài do các bên thoả thuận nhưng không được trái với các Điều
ước Quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
2- Hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài bị trả về phải tuân thủ các quy định của pháp luật về chất
lượng hàng hóa lưu thông trong nước.
Điều 11. Tổ chức
thực hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa hoạt động tại Việt Nam
1- Tổ chức thực hiện dịch vụ chứng
nhận chất lượng hàng hóa hoạt động tại Việt Nam bao gồm:
a/ Thương nhân kinh doanh dịch vụ
giám định và các doanh nghiệp khác kinh doanh dịch vụ chứng nhận chất lượng
hàng hóa;
b/ Các tổ chức sự nghiệp kỹ thuật gồm
phòng thử nghiệm, phòng kỹ thuật; Trung tâm thử nghiệm, Trung tâm kỹ thuật
thuộc các cơ quan quản lý Nhà nước, các Viện nghiên cứu, các trường Đại học
thuộc các Bộ, Ngành trực tiếp quản lý.
2- Đối với việc chứng nhận chất lượng
hàng hóa mà pháp luật bắt buộc thực hiện nhằm bảo đảm an toàn, sức khoẻ con
người; an toàn cho vật nuôi, cây trồng và môi trường; chống gian lận thương
mại; giữ gìn an ninh quốc gia và giá trị văn hóa truyền thống, tổ chức thực
hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa nêu tại khoản 1 Điều này chỉ được
thực hiện hoạt động chứng nhận khi có đủ các điều kiện sau:
a/ Có cơ sở vật chất, thiết bị kỹ
thuật và đội ngũ cán bộ đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với chuyên
ngành chứng nhận chất lượng hàng hóa;
b/ Được cơ quan có thẩm quyền công
nhận, cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện thực hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng
những hàng hóa nói trên.
3- Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp
với Bộ Khoa học - Cộng nghệ và Môi trường, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Thủy sản, Bộ Xây dựng và các Bộ ngành có liên
quan khác quy định cụ thể điều kiện, thủ tục, quy trình đánh giá; đồng thời tổ
chức xem xét đánh giá và cấp giấy chứng nhận cho các tổ chức đủ điều kiện thực
hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa nêu tại Khoản 2 Điều này trên cơ sở
đề xuất của các Bộ, Ngành trực tiếp quản lý tổ chức đó.
Bộ Thương mại thực hiện việc công bố
với quốc tế các tổ chức đủ điều kiện thực hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng
hàng hóa nêu tại Khoản 2 Điều này.
Điều 12. Quyền
và nghĩa vụ của tổ chức thực hiện dịch vụ chứng nhận chất lượng hàng hóa
1- Tuân thủ các quy định của pháp
luật về chuyên môn kỹ thuật và các quy định khác có liên quan.
2- Bảo đảm tính độc lập, khách quan,
kịp thời, chính xác trong hoạt động chứng nhận chất lượng hàng hóa.
3- Nhận phí chứng nhận chất lượng
theo quy định tại Khoản 4 Điều 8 Nghị định này.
4- Chịu trách nhiệm trước khách hàng,
trước pháp luật về kết quả chứng nhận chất lượng hàng hóa do mình thực hiện,
phải hoàn trả phí và bị phạt vi phạm hợp đồng khi chứng nhận chất lượng hàng
hóa không đúng.
5- Chịu trách nhiệm trước pháp luật
trong trường hợp cố ý chứng nhận sai nhằm mục đích gian lận thương mại.
6- Thực hiện báo cáo định kỳ và đột
xuất về Bộ Thương mại tình hình hoạt động chứng nhận chất lượng theo quy định.
7- Chấp hành nghiêm túc các quyết
định thanh tra hoặc kiểm tra Nhà nước mà pháp luật quy định.
Điều 13. Thanh
tra, kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật về chất lượng hàng hóa lưu
thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu
1- Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp
với các Bộ ngành có liên quan thực hiện thanh tra, kiểm tra, kiểm soát việc
chấp hành pháp luật về chất lượng đối với hàng hóa lưu thông trong nước, hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
2- Công tác kiểm tra, kiểm soát việc
chấp hành pháp luật về chất lượng đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong
địa bàn hoạt động của Hải quan do Tổng cục Hải quan chủ trì, phối hợp với Bộ
Thương mại và các Bộ, ngành khác thực hiện.
3- Cơ quan thực hiện tác nghiệp kỹ
thuật phục vụ công tác thanh tra hoặc kiểm tra Nhà nước việc chấp hành Quy định
pháp luật về chất lượng hàng hóa là các cơ quan sự nghiệp kỹ thuật trực thuộc
các Bộ, Ngành đã được công nhận đủ điều kiện thực hiện chứng nhận chất lượng
hàng hóa quy định tại điểm b Khoản 1, Khoản 3 Điều 11 và được Bộ Thương mại
thống nhất với các Bộ, Ngành quản lý chỉ định.
Các hoạt động tác nghiệp kỹ thuật của
tổ chức được chỉ định phục vụ công tác thanh tra hoặc kiểm tra Nhà nước việc
chấp hành Quy định pháp luật về chất lượng hàng hóa phải tuân thủ đúng quy định
pháp luật về hoạt động chứng nhận chất lượng.
4- Cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm
soát không được thu phí thử nghiệm, giám định, chứng nhận chất lượng trong quá
trình thanh tra, kiểm tra, kiểm soát. Chi phí hoạt động thanh tra, kiểm tra,
kiểm soát về chất lượng hàng hóa do ngân sách Nhà nước cấp.
5- Trong trường hợp bị xử lý do vi
phạm pháp luật về chất lượng hàng hóa, tổ chức, cá nhân vi phạm phải hoàn trả
vào ngân sách nhà nước chi phí mua mẫu hàng hóa, phí thử nghiệm, giám định,
chứng nhận chất lượng hàng hóa.
Chương 3:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
CHẤT LƯỢNG HÀNG HÓA LƯU THÔNG TRONG NƯỚC VÀ HÀNG HÓA XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU
Điều 14. Nội
dung quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu
1- Xây dựng chính sách, quy hoạch, kế
hoạch nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất và lưu thông trong
nước, hàng hóa xuất khẩu; bảo đảm và kiểm soát chặt chẽ chất lượng hàng hóa
nhập khẩu để tiêu thụ tại Việt Nam.
2- Xây dựng, ban hành hoặc quyết định
áp dụng các quy định pháp luật để phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước về chất
lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, cụ thể
sau đây:
a/ Quy định áp dụng các tiêu chuẩn kỹ
thuật; các quy định kỹ thuật hoặc quy định liên quan đến chất lượng nhằm bảo
đảm an toàn, sức khoẻ con người; an toàn cho vật nuôi, cây trồng và môi trường;
chống gian lận thương mại; giữ gìn an ninh quốc gia và giá trị văn hóa truyền
thống;
b/ Quy định thủ tục, Quy trình kỹ
thuật, phương pháp và chứng nhận chất lượng hàng hóa;
c/ Quy định về bao gói, ghi nhãn, vận
chuyển, bảo quản hàng hóa;
d/ Quy định về việc áp dụng các
phương pháp quản lý bảo đảm chất lượng hàng hóa lưu thông;
đ/ Quy định áp dụng tiêu chuẩn chất
lượng của nước ngoài và quốc tế đối với hàng hóa lưu thông trong nước và hàng
hóa xuất khẩu, n;
e/ Quy định việc công nhận thừa nhận
lẫn nhau về v chất lượng;
g/ Quy định về hàng hóa chất lượng
cao và hình thức khen thưởng.
h/ Quy định các yếu tố về hàng giả và
phương pháp xác định hàng giả.
i/ Các quy định khác.
3- Phổ biến, tuyên truyền chính sách,
pháp luật về chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu.
4- Quản lý nhà nước đối với hoạt động
chứng nhận chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu.
5- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết
các khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về chất lượng hàng
hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
6- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ chuyên môn về chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu.
Điều 15. Cơ quan
quản lý nhà nước đối với chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu
1- Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu.
2- Bộ Thương mại chịu trách nhiệm
trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học - Cộng nghệ và Môi trường, Bộ
Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Thủy sản, Bộ
Xây dựng và các Bộ, ngành có liên quan thực hiện các nội dung quản lý Nhà nước
về chất lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
quy định tại Điều 14 Nghị định.
3- Uỷ ban nhân dân các Tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về chất lượng hàng
hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong phạm vi địa bàn
mình quản lý theo phân cấp của Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Thương mại và các
Bộ, Ngành liên quan.
Chương 4:
KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ
VI PHẠM
Điều 16. Khen
thưởng
Tổ chức, cá nhân có thành tích trong
hoạt động về chất lượng hàng hóa được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Điều 17. Xử lý
vi phạm
1- Hành vi vi phạm pháp luật về chất
lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu:
a/ Không công bố chất lượng hàng hóa
theo quy định của pháp luật.
b/ Kinh doanh hàng hóa có chất lượng
thực tế thấp hơn so với chất lượng đã được công bố;
c/ Kinh doanh hàng hóa có chứa đựng
các yếu tố về chất lượng vi phạm các quy định về an toàn, sức khoẻ con người;
an toàn cho vật nuôi, cây trồng và môi trường: an ninh quốc gia và giá trị văn
hóa truyền thống;
d/ Cố ý chứng nhận sai về chất lượng
hàng hóa nhằm gian lận thương mại;
đ/ Các hành vi gian lận thương mại
khác về chất lượng hàng hóa;
2- Hành vi vi phạm pháp luật về chất
lượng hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, tuỳ theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Chương 5:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 18. Hiệu
lực thi hành
1- Nghị định này có hiệu lực thi hành
sau 30 ngày kể từ ngày ký. Các quy định trước đây trái với Nghị định này đều
bãi bỏ.
2- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương
chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Điều 19. Hướng
dẫn thi hành
Bộ Thương mại chịu trách nhiệm chủ
trì, phối hợp với Bộ Khoa học - Cộng nghệ và Môi trường và các Bộ, ngành có
liên quan tổ chức thực hiện và hướng dẫn thi hành Nghị định này./.
|
T.M
CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Phan Văn Khải
|