CHÍNH PHỦ
-----
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------
|
Số: 150/TTr-CP
|
Hà Nội, ngày 15
tháng 11 năm 2006
|
TỜ TRÌNH
VỀ KẾT QUẢ ĐÀM PHÁN
GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VÀ PHÊ CHUẨN NGHỊ ĐỊNH THƯ GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH
THÀNH LẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Kính gửi: Chủ tịch nước
Sau gần 12 năm đàm phán, ngày 07 tháng 11 năm
2006 vừa qua, tại Phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào WTO.
Căn cứ Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế năm 2005, Chính phủ trình Chủ tịch nước kết quả đàm phán gia nhập
WTO và kiến nghị phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO như
sau:
Phần 1
WTO
VÀ TIẾN TRÌNH ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ
WTO
WTO là tổ chức thương mại quy mô toàn cầu, hiện
có 149 Thành viên, được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 1995. Tiền thân của
tổ chức này là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), được 23 quốc
gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao lưu thương mại giữa các quốc gia
thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi nước thành viên.
Trong lịch sử gần 50 năm của mình, GATT đã tổ
chức được 8 vòng đàm phán đa phương về thương mại. Vòng thứ 8, thường được gọi
là Vòng đàm phán Uruguay, diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994, đã hoàn tất quá
trình cải tổ GATT để lập ra một định chế thương mại toàn cầu mới có tên là Tổ
chức Thương mại thế giới, gọi tắt là WTO.
GATT chỉ là một hiệp định thương mại đa
phương, không phải là một tổ chức. Trong khi đó, WTO là một tổ chức hoàn chỉnh,
bao gồm các cơ quan có thẩm quyền như Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng, các Uỷ
ban chức năng và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Giúp việc cho các cơ quan này
là Ban Thư ký với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng thư ký. Trụ sở WTO đặt tại
Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ. Các Thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông
qua phái đoàn đại diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại
Hội nghị Bộ trưởng (họp ít nhất 2 năm một lần) hoặc tại các cuộc họp của Đại hội
đồng (cấp đại sứ, họp thường xuyên tại Giơ-ne-vơ). Mỗi thành viên có một phiếu
biểu quyết, không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp.
WTO có những chức năng cơ bản sau đây:
- Quản lý, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thực thi các hiệp định của WTO. Trước khi WTO được thành lập, chỉ tồn
tại duy nhất một hiệp định đa phương là GATT và hiệp định này chỉ điều chỉnh
thương mại hàng hoá. WTO, ngược lại, có cả một hệ thống hiệp định đa phương (bắt
buộc) và hiệp định nhiều bên (không bắt buộc) với phạm vi điều chỉnh được mở rộng
sang cả các lĩnh vực khác như thương mại dịch vụ, các biện pháp về đầu tư liên
quan đến thương mại và các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ.
- Thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua các
cuộc đàm phán đa phương về tự do hoá thương mại. Năm 2001, vòng đàm phán đầu
tiên của WTO được phát động với tên gọi là Nghị trình Phát triển Đô-ha, hay
Vòng Đô-ha. Vòng đàm phán này cho tới nay vẫn chưa kết thúc.
- Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các
Thành viên theo các quy tắc, trình tự, thủ tục do WTO quy định. Đây là bước
phát triển mới so với GATT, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo đảm
tuân thủ các luật lệ của WTO cũng như sự bình đẳng giữa các thành viên.
- Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang
phát triển thông qua các chương trình tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực; hợp tác với
các tổ chức quốc tế khác.
Các nguyên tắc cơ bản của WTO là:
- Không phân biệt đối xử: là nguyên tắc quan
trọng nhất của WTO, thể hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối
xử quốc gia (NT). Đối xử MFN quy định một thành viên phải đối xử bình đẳng với
tất cả các thành viên khác. Đối xử NT quy định phải dành cho hàng hoá, dịch vụ
và doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử bình đẳng như dành cho hàng hoá, dịch vụ
và doanh nghiệp trong nước. WTO cho phép có ngoại lệ về đối xử MFN và NT nhưng
phải theo đúng quy định của WTO.
- Thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng
hoá và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia: bao gồm cắt
giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp phi thuế, xử lý các hành vi gây lệch
lạc thương mại như trợ cấp, phá giá .v.v..
- Minh bạch hoá: bao gồm minh bạch về chính
sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Minh bạch về chính sách yêu cầu mọi
quy định có liên quan đến thương mại của một thành viên phải được công bố công
khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống nhất trên toàn
lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội thoả đáng cho các bên có liên quan được
góp ý trong quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường yêu cầu các
Thành viên nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra các cam kết
rõ ràng về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các doanh nghiệp có thể dự báo
và hoạch định chiến lược kinh doanh.
Hệ thống văn kiện pháp lý của WTO bao gồm:
1. Hiệp định thành lập WTO, thường gọi tắt là
Hiệp định WTO;
2. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT), chuyên điều chỉnh thương mại hàng hoá;
3. Các hiệp định phụ trợ
cho GATT (như Hiệp định Nông nghiệp, Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với
thương mại, Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, Hiệp định
về xác định trị giá hải quan v..v.);
4. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
(GATS), chuyên điều chỉnh thương mại dịch vụ;
5. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs);
6. Thoả thuận về quy tắc và thủ tục giải quyết
tranh chấp;
7. Cơ chế rà soát chính sách thương mại;
8. Các hiệp định thương mại nhiều bên (Hiệp định
về mua bán máy bay dân dụng, Hiệp định về mua sắm chính phủ).
Các văn kiện từ 1 đến 7 được gọi là các văn
kiện đa phương, mang tính bắt buộc, các thành viên phải cam kết tuân thủ theo
nguyên tắc “chấp nhận cả gói”. Với các hiệp định nhiều bên không mang tính bắt
buộc, các thành viên được khuyến khích tham gia trên cơ sở tự nguyện. Tuy
nhiên, các thành viên mới gia nhập từ năm 1995 đều phải tham gia các hiệp định
này, chí ít là cũng phải đàm phán và đưa ra cam kết nào đó.
II. ĐÀM PHÁN GIA NHẬP
WTO
Để gia nhập nhiều tổ chức quốc tế, bên xin
gia nhập chỉ cần chấp nhận Hiến chương, Điều lệ hay các văn kiện pháp lý của tổ
chức đó là đủ. WTO không làm theo cách này mà yêu cầu các nước và vùng lãnh thổ
xin gia nhập phải đàm phán với mọi thành viên có quan tâm. Trong thời gian qua,
cùng đàm phán gia nhập như Việt Nam còn có khoảng 30 nước nữa, một nửa trong số
đó là các nền kinh tế chuyển đổi.
Đàm phán gia nhập WTO bao gồm 4 giai đoạn:
1. Giai đoạn làm rõ chính sách: kèm theo đơn
xin gia nhập, nước xin gia nhập phải đệ trình Bị vong lục mô tả hiện trạng
chính sách thương mại. Một Ban công tác sẽ được thành lập, bao gồm các thành
viên quan tâm đàm phán với nước xin gia nhập. Nước xin gia nhập có nghĩa vụ trả
lời bằng văn bản các câu hỏi của các thành viên Ban công tác để làm rõ chính
sách kinh tế - thương mại. Các câu hỏi và trả lời này sẽ là dữ liệu để Ban thư
ký tổng hợp xây dựng Báo cáo của Ban công tác sau này.
2. Giai đoạn đàm phán: Đàm phán thực chất chỉ
bắt đầu sau khi đã có bước tiến đáng kể trong việc làm rõ chính sách, bao gồm
đàm phán đa phương và đàm phán song phương. Đàm phán đa phương là đàm phán với
cả Ban công tác về việc tuân thủ các hiệp định đa phương của WTO, theo đó, nước
xin gia nhập phải đưa ra các cam kết về việc thực thi các hiệp định,
lộ trình điều chỉnh pháp luật và hình thành các cơ chế, định chế cần thiết cho
việc thực thi cam kết. Đàm phán song phương là đàm phán về mở cửa thị trường
hàng hoá và dịch vụ với từng thành viên quan tâm, nhằm giải quyết các quyền lợi
thương mại riêng. Khi kết thúc đàm phán song phương, các thoả thuận riêng sẽ được
tổng hợp lại theo nguyên tắc “chỉ lấy cam kết tốt nhất” và mọi thành viên WTO đều
được hưởng các cam kết “tốt nhất” này theo nguyên tắc MFN.
3. Giai đoạn hoàn tất văn kiện gia nhập:
Trên cơ sở kết quả đàm phán đa phương và song phương, Ban công tác sẽ tổng hợp
và hoàn tất bộ văn kiện gia nhập, bao gồm các tài liệu chính (i) Báo cáo của
Ban công tác; (ii) Biểu cam kết về mở cửa thị trường hàng hoá; (iii) Biểu cam kết
về mở cửa thị trường dịch vụ; và (iv) dự thảo Nghị định thư gia nhập. Sau khi
thông qua các văn kiện này, Ban công tác hoàn thành nhiệm vụ của mình.
4. Giai đoạn phê chuẩn: bộ văn kiện
gia nhập sẽ được trình lên Hội nghị Bộ trưởng hoặc Đại hội đồng thông qua. Theo
quy định của Hiệp định WTO, Hội nghị Bộ trưởng và Đại hội đồng sẽ thông qua văn
kiện gia nhập khi có ít nhất là 2/3 số thành viên tán thành. Tuy nhiên, trên thực
tế, các nước chỉ có thể gia nhập khi không có bất cứ thành viên nào phản đối.
Sau khi bộ văn kiện được thông qua, nước xin gia nhập sẽ tiến hành thủ tục phê
chuẩn trong nước. 30 ngày sau khi Ban Thư ký WTO nhận được thông báo của nước
xin gia nhập về việc đã hoàn tất thủ tục phê chuẩn, nước đó mới chính thức trở
thành thành viên của WTO[1].
Phương thức “gia nhập bằng đàm phán” đặt
nước xin gia nhập vào thế bất lợi bởi vì:
- Đàm phán gia nhập
là đàm phán một chiều. Mọi thành viên đều có quyền đòi hỏi trong khi nước xin
gia nhập không có quyền đó, chỉ hoặc là chấp nhận, hoặc là kiên trì thuyết phục
các thành viên giảm bớt yêu cầu. Kiểu đàm phán này dẫn đến 2 hệ quả. Một là,
quá trình đàm phán thường bị kéo dài. Hai là, nước xin gia nhập nhiều khi phải
chấp nhận những yêu cầu vượt ra ngoài chuẩn mực của WTO, thường được gọi là yêu
cầu (hoặc cam kết) WTO cộng. Tổng hoà các cam kết WTO cộng đã tạo ra một kiểu
phân biệt đối xử ngay trong lòng WTO mà nhiều người gọi là “hệ thống tiêu chuẩn
kép”.
- Đàm phán một chiều còn làm nảy sinh
xu thế ép nước gia nhập sau phải cam kết ít nhất là bằng, trong nhiều trường hợp
là sâu và rộng hơn nước gia nhập trước. Tiêu chuẩn gia nhập, vì vậy, được nâng
dần.
- Trong một số trường hợp, đàm phán có
thể bị ảnh hưởng bởi các toan tính chính trị hoặc phi thương mại khác khiến nước
xin gia nhập rất khó định hướng hoặc xử lý.
Đàm phán gia nhập và các hệ quả của
nó, như đã trình bày trên, là một thực tế mà mọi nước xin gia nhập đều
phải chấp nhận, kể cả những quốc gia được coi là chậm phát triển, lẽ ra phải được
hưởng sự đối xử đặc biệt và khác biệt theo quy định của WTO.
Đàm phán gia nhập của Việt Nam, bên cạnh
những khó khăn và bất lợi chung như đã trình bày trên, còn chịu ảnh hưởng của một
số yếu tố bất lợi khác sau đây:
- Ta đàm phán khi
đã có Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA). Trong BTA, ta đã có những
cam kết có ý nghĩa về mở cửa thị trường, đặc biệt là dịch vụ. Theo nguyên tắc
MFN, khi ta vào WTO, mọi thành viên WTO sẽ được hưởng các cam kết trong BTA. Vì
lý do đó, trong đàm phán song phương, các thành viên đều yêu cầu ta phải lấy
BTA làm khởi điểm để đàm phán. Trên thực tế, ta chỉ có thể gia nhập WTO khi chấp
nhận cam kết ở mức BTA cộng, không thể bằng BTA và càng không thể thấp
hơn BTA.
- Ta đàm phán vào thời điểm đang diễn
ra Vòng Đô-ha. Các ý tưởng mới về tự do hoá thương mại, các yêu cầu sâu hơn về
mở cửa thị trường, vì vậy, đều được đặt lên bàn đàm phán. Trong khi đó, thế “mặc
cả” của ta lại yếu hơn một số nước khác bởi thị trường của ta tuy có tiềm năng
nhưng trên thực tế vẫn còn khá nhỏ. Một nhượng bộ nào đó đối với ta có thể là rất
lớn nhưng với đối tác có thể là chưa đủ.
- Các cam kết WTO cộng có thể đã làm một
số thành viên gia nhập trước ta gặp khó khăn trong việc thực thi cam kết. Xuất
phát từ đây, để “chắc ăn”, một số thành viên không chỉ yêu cầu ta đưa ra cam kết
mà còn muốn thấy cam kết đó đã được thực thi trên thực tế, từ trước ngày ta vào
WTO.
Với toàn bộ những yếu tố bất lợi trên,
ta đã phải rất cố gắng mới tiệm cận được sự cân đối giữa yêu cầu của các đối
tác và khả năng mở cửa thị trường thực tế của ta.
III. MỐI LIÊN
HỆ GIỮA WTO VỚI TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định
nhiệm vụ "Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc
tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế".
Đại hội lần thứ IX và lần thứ X khẳng định chủ trương "Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững".
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
trong những năm đổi mới vừa qua, nước ta đã đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Theo đó, đã mở rộng mạnh mẽ quan hệ kinh tế song phương và đa phương;
phát triển quan hệ đầu tư với nhiều nước và vùng lãnh thổ; bình thường hóa quan
hệ với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); gia nhập Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN - Trung Quốc, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Hàn Quốc và đang cùng
ASEAN đàm phán khu vực mậu dịch tự do với một số quốc gia khác như Úc, Niu
Dilân, Ấn Độ, Liên minh châu Âu, v..v; tham gia sáng lập diễn đàn Á - Âu
(ASEM); gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Nước
ta cũng đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế và Hiệp định về mở cửa thị trường
với Liên minh châu Âu (EU) và Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA)
theo chuẩn mực của WTO.
Thực tiễn những năm qua chỉ rõ: trên
cơ sở những thành tựu của công cuộc đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, việc mở cửa thị trường và hội nhập khu vực đã mang lại
những kết quả rất đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, kinh tế tăng
trưởng với tốc độ cao, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp nước ta
được cải thiện đáng kể. Có thể nói tiến trình hợp tác song phương và hội nhập
khu vực như trên là bước chuẩn bị quan trọng để nền kinh tế nước ta có thể hội
nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới đang được toàn cầu hóa một cách sâu sắc.
Vì vậy, việc nộp đơn và sau đó là đàm phán để gia nhập WTO là bước đi tiếp theo
khách quan của cả tiến trình đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. WTO
chỉ là một trong những điểm đến của quá trình đổi mới lâu dài, liên tục, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ta chủ động gia
nhập WTO vì nhận thấy các quy định cơ bản của tổ chức này là cùng chiều với
công cuộc đổi mới của ta và việc gia nhập WTO có thể giúp ta phát triển nhanh,
có hiệu quả và bền vững hơn.
IV. SỰ CẦN
THIẾT, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO
Gia nhập WTO là tham gia sâu hơn vào
tiến trình toàn cầu hoá kinh tế. Tiến trình này có những mặt thuận. Nó giúp các
nước tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Tăng trưởng kinh tế, vì vậy, trở
nên ổn định và bền vững hơn. Sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ và phúc lợi
chung của toàn xã hội được nâng cao nhờ nguồn lực được phân bổ một cách có hiệu
quả hơn. Quá trình này cũng tạo ra cơ hội rất lớn cho các nước đang phát triển
đẩy mạnh công nghiệp hoá và tham gia có hiệu quả hơn vào phân công lao động quốc
tế. Tuy nhiên, bên cạnh mặt thuận, toàn cầu hoá kinh tế cũng có những mặt nghịch.
Trước hết, toàn cầu hoá có khả năng dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng tăng của các
nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, vào các thành tố có độ ổn định kém
của kinh tế toàn cầu như luồng vốn đầu tư và thị trường tài chính. Bên cạnh đó,
toàn cầu hoá tuy có khả năng làm tổng sản phẩm xã hội tăng lên nhưng cũng tiềm ẩn
khả năng làm gia tăng hơn nữa khoảng cách phát triển giữa nước giàu với nước
nghèo cũng như giữa các vùng và các tầng lớp xã hội trong phạm vi quốc gia. Cuối
cùng, tự do hoá thương mại, nội dung đầu tiên và cốt lõi của toàn cầu hoá kinh
tế, thường có ảnh hưởng tiêu cực tới một bộ phận của sản xuất trong nước, gây
ra những vấn đề kinh tế và xã hội phức tạp.
Vì những mặt thuận, thế giới có GATT,
WTO và Nghị trình Phát triển Đô-ha. Vì những mặt nghịch, thế giới có biểu tình
chống toàn cầu hoá, có thất bại của hội nghị Xi-át-tơn và hội nghị Can-cun. Tuy
nhiên, bất chấp các dích dắc, tiến trình toàn cầu hoá kinh tế vẫn tiến về phía
trước theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu bởi lợi ích của toàn cầu hoá kinh tế là
rất khó phủ nhận.
Chúng ta nhận thức được thực tiễn đó
khi làm đơn và sau đó là đàm phán để gia nhập WTO.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới và từng
bước chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, nền kinh tế nước
ta có những thay đổi rất tích cực. Đã hình thành một bước quan trọng thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN; tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức
cao; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng lực cạnh tranh được nâng cao một
bước; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực; thị trường xuất khẩu được mở rộng,
kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng liên tục và đạt xấp xỉ 40 tỷ USD trong năm
2006; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt trên 55 tỷ USD và tăng cao trong năm
2006. Việc làm được tạo ra ngày càng nhiều, công cuộc xóa đói giảm nghèo thu được
những thành tựu quan trọng.
Gia nhập WTO, ta sẽ có cơ hội lớn để
duy trì và nâng cao các thành tựu đó bởi vì:
- Gia nhập WTO sẽ là một tín hiệu rất
mạnh về quyết tâm đổi mới của ta, qua đó góp phần thúc đẩy đầu tư trong nước và
thu hút đầu tư nước ngoài, tạo thêm năng lực sản xuất mới và đi đôi với đó là
năng lực xuất khẩu mới. Đây là cơ hội có ý nghĩa nhất khi ta là thành viên WTO
và là yếu tố thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động,
thúc đẩy tập trung kinh tế với tốc độ cao (tính đến năm 2006, đầu tư nước ngoài
chiếm đến 37% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 55% tổng kim ngạch xuất khẩu
và 15,5% GDP, thu hút 1 triệu lao động làm việc trực tiếp). Ngoài ra, gia nhập
WTO và việc thực hiện yêu cầu minh bạch hóa, công khai hóa trong việc tiếp cận
mọi cơ chế quản lý và chính sách quản lý cũng là điều kiện tạo ra môi trường
công khai, bình đẳng, là tiền đề của của chống tham nhũng và là điều kiện để
phát huy vai trò giám sát của nhân dân.
- Gia nhập WTO,
hàng hoá và dịch vụ của ta sẽ được hưởng sự đối xử bình đẳng khi tiếp cận thị
trường của tất cả các thành viên WTO, chí ít là cũng bình đẳng theo các chuẩn mực
của WTO. Hạn ngạch dệt may sẽ được xoá bỏ, ngành dệt may sẽ có cơ hội để phát
triển. Với một số mặt hàng khác mà các thành viên WTO đang duy trì hạn ngạch
thuế quan, ta sẽ có cơ hội tham gia vào quá trình phân bổ hạn ngạch khi trở
thành thành viên của tổ chức này.
- Gia nhập WTO, ta sẽ có cơ hội
sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để đấu tranh bình đẳng với các đối
tác thương mại lớn, hạn chế được việc sử dụng các biện pháp phân biệt đối xử,
trái quy định của WTO đối với hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu của ta.
- Cuối cùng, gia nhập WTO, ta sẽ có cơ
hội nâng cao vai trò và vị thế của mình trên trường quốc tế, tham gia bình đẳng
vào việc hoạch định các định chế thương mại toàn cầu và nâng dần khả năng bảo vệ
quyền lợi thương mại của ta, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường
lối đối ngoại theo nguyên tắc “Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển”.
Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, việc gia
nhập WTO cũng đặt ra một số thách thức to lớn. Đó là:
- Môi trường kinh doanh
sẽ trở nên cạnh tranh hơn, gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất
là những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước.
- Sức ép về
chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực có thể sẽ lớn hơn và gấp gáp hơn.
Quá trình này tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội.
Thách thức ở đây là đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường tính
năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng
cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn, tạo dựng
được môi trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra
hợp lý hơn, với chi phí thấp hơn và do đó, hiệu quả hơn.
- Các quy định
toàn diện của WTO sẽ đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung và
hoàn thiện thể chế. Trước hết là phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh
tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng. Sau đó, phải
liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để phát huy mọi nguồn lực trong nước,
thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh,
những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của hội nhập kinh tế quốc tế.
- Yêu cầu cao về minh bạch hoá và công
khai hoá của WTO sẽ đặt ra thách thức lớn cho nền hành chính quốc gia. Nền hành
chính quốc gia sẽ phải thay đổi theo hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu
quả hơn. Đó phải là một nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi công dân
và doanh nghiệp, lấy công dân và doanh nghiệp làm trọng tâm phục vụ, khắc phục
toàn bộ các biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một
nền hành chính như vậy, sẽ không thể tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh
tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại.
- Để tận dụng được các cơ hội do việc
gia nhập WTO đem lại, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội
ngũ cán bộ quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, cơ sở và một đội ngũ
doanh nhân đủ mạnh. Đội ngũ những người hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại và hội
nhập kinh tế quốc tế phải được tăng cường. Đây cũng là một thách thức to lớn đối
với ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền
kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị phù
hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục.
Tóm lại, gia nhập WTO và hội nhập sâu
hơn vào kinh tế toàn cầu sẽ đem lại cả cơ hội lẫn thách thức nhưng để mở rộng
thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, trên tinh thần chủ
động nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức, ta đã quyết định đàm phán để gia nhập
WTO.
V. CÁC NGUYÊN
TẮC CHỈ ĐẠO ĐÀM PHÁN
Nhận thức được cơ hội và thách thức của
việc gia nhập WTO cũng như thuận lợi và khó khăn của quá trình đàm phán, ngay từ
những ngày đầu bước vào đàm phán thực chất, Chính phủ đã chỉ đạo Đoàn đàm phán
quán triệt những phương châm sau đây:
1. Thực hiện nhất quán chủ trương
"chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội
chủ nghĩa".
2. Chấp thuận các quy định chung đối với
các thành viên WTO song cần tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát
triển có trình độ thấp và đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường ở mức tối đa về
mức độ cam kết cũng như thời hạn thực hiện. Đồng thời, cố gắng tận dụng vị thế
mới của nước ta trên trường quốc tế có được nhờ thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
3. Tranh thủ thời
gian sớm gia nhập WTO vì lợi ích của ta song với những bước đi vững chắc, gắn kết
quá trình đàm phán với sự chuẩn bị ở trong nước về luật pháp, cơ chế chính sách
và nhất là sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước và nâng cao khả năng cạnh tranh. Tránh
đột biến về thu ngân sách; cố gắng duy trì mức độ bảo hộ thích hợp, với thời hạn
hợp lý đối với một số ngành hàng hết sức cần thiết, có ý nghĩa chiến lược và nhạy
cảm về mặt xã hội.
4. Thực hiện nhất quán chính sách đa dạng
hóa, đa phương hóa; kết hợp hài hòa các nghĩa vụ và quyền lợi của ta trong tiến
trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Những nguyên tắc này là cơ sở để hình
thành phương pháp đàm phán vững chắc. Trên bàn đàm phán, ta thực hiện phương
châm kiên trì, kiên quyết nhưng cũng rất thực tế và linh hoạt. Nhờ vậy, trong
thời gian chưa tới 3 năm kể từ khi bước vào đàm phán thực chất, ta đã kết thúc
được toàn diện đàm phán với kết quả, theo đánh giá của Chính phủ, là tương đối
phù hợp với trình độ phát triển của ta.
VI. TÓM TẮT
TIẾN TRÌNH ĐÀM PHÁN CỦA VIỆT NAM
Tháng 7 năm 1994, Việt Nam được công
nhận là quan sát viên của GATT. Trong ngày làm việc đầu tiên của mình, 04 tháng
01 năm 1995, WTO tiếp nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam. Ngày 31 tháng 01 năm
1995, Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO được thành lập.
Thời gian đầu, đàm phán tiến triển rất
khó khăn vì mức độ “mở” của nền kinh tế còn thấp, bảo hộ còn cao, cơ chế quản
lý còn chịu nhiều ảnh hưởng của thời bao cấp, phức tạp, cồng kềnh, nhiều chỗ
không tương thích với chuẩn mực của WTO. Quá trình minh bạch hoá chính sách, vì
vậy, bị kéo dài; đàm phán song phương chậm đi vào thực chất. Bên cạnh đó, ta
còn có khó khăn về nguồn lực, thiếu chuyên gia về đàm phán thương mại trong khi
các vấn đề WTO lại là những vấn đề mới, phức tạp. Đàm phán chỉ thực sự được đẩy
mạnh trong 3 năm cuối, khi ta đã có sự chuyển biến mạnh về nhận thức của xã hội
đối với hội nhập kinh tế quốc tế căn cứ trên các thành tựu phát triển kinh tế-xã
hội, khi đội ngũ đàm phán dần được kiện toàn, năng lực xây dựng pháp luật được
nâng cao.
1. Đàm phán đa phương:
Phiên họp đầu tiên của Ban công tác được
tổ chức vào tháng 7/1998. Tới Phiên 7 (tháng 12/2003), Ban công tác ghi nhận Việt
Nam đã hoàn thành cơ bản quá trình minh bạch hoá và thống nhất giao Ban Thư ký
dự thảo tài liệu Những yếu tố cơ bản của Báo cáo của Ban công tác. Phiên
9 (tháng 12 năm 2004) đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình đàm phán đa
phương. Tại phiên này, ta chính thức cam kết sẽ tuân thủ về cơ bản toàn bộ các
hiệp định của WTO ngay từ thời điểm gia nhập và đồng ý đẩy nhanh tiến độ xây dựng
pháp luật để thực thi các cam kết. Trên cơ sở đó, Ban công tác bắt đầu xem xét Dự
thảo ban đầu của Báo cáo gia nhập.
Trong 2 năm 2005 và 2006, trên cơ sở
các cam kết mang tính xây dựng của ta và được sự hỗ trợ của kết quả đàm phán
song phương, Ban công tác đã tiến hành thêm 4 phiên họp chính thức và một số
phiên không chính thức để hoàn tất Báo cáo gia nhập. Tới Phiên 13 (9 - 13
tháng 10 năm 2006), ta và các đối tác thoả thuận được các chi tiết cuối cùng của
bản Báo cáo. Tại Phiên 14 (26 tháng 10 năm 2006), phiên cuối cùng, Ban công tác
đã thông qua toàn bộ các văn kiện gia nhập của Việt Nam để trình lên Đại hội đồng
WTO xem xét.
Trong quá trình đàm phán đa phương, ta
đã phải trả lời 3516 câu hỏi của các đối tác. Hàng nghìn trang tài liệu đã được
đệ trình lên Ban công tác để làm rõ về chính sách thương mại của Việt
Nam.
2. Đàm phán song
phương:
Tháng 01 năm 2002, ta gửi các Bản
chào ban đầu về hàng hoá và dịch vụ tới các Thành viên có yêu cầu đàm phán
song phương. Bản chào này thiếu sức thuyết phục vì khi đó ta chưa thừa nhận
nguyên tắc phải dành BTA cho tất cả các thành viên WTO. Bản chào thứ hai và thứ
ba sau đó, do vẫn giữ nguyên cách tiếp cận, cũng không thành công trong việc
đưa đàm phán đi vào thực chất.
Tháng 4 năm 2004, ta đưa ra bản chào
thứ tư (Bản chào 4) với những cam kết đột phá. Về thuế, ta đồng ý ràng buộc mức
trần cho gần như toàn bộ biểu thuế. Về dịch vụ, ta tuân thủ hoàn toàn nguyên tắc
ngang bằng với BTA và đưa ra một số cam kết mới so với BTA. Bản chào 4 đã tạo
được sự quan tâm của các đối tác. Đàm phán ngay lập tức đi vào thực chất và có
tiến triển rất tích cực. Trên cơ sở đó, ta quyết định không gửi bản chào chung
nữa mà chuyển sang xây dựng các bản chào riêng để tiếp cận yêu cầu cụ thể của từng
đối tác.
Công tác vận động đàm phán được đẩy mạnh
trên tất cả các diễn đàn đa phương (ASEAN, APEC, ASEM v.v...) và trong các cuộc
tiếp xúc song phương của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Tháng 10 năm 2004, nhân Hội
nghị Thượng đỉnh ASEM tại Hà Nội, ta đã tạo được bước đột phá bằng việc kết
thúc đàm phán song phương với EU. Sau đó, nhân chuyến thăm Mỹ La-tinh của Chủ tịch
nước, ta kết thúc thêm với 3 nước là Bra-xin, Ac-hen-ti-na và Chi-lê. Cũng
trong tháng 10 năm 2004, ta có phiên đàm phán đầu tiên và thực chất với Hoa Kỳ
tại Washington.
Năm 2005 là năm bản lề của đàm phán
song phương. Các cuộc đàm phán song phương phần lớn được chuyển về thủ đô để
tăng tính hiệu quả. Nhờ chiến lược đúng đắn này, ta lần lượt kết thúc đàm phán
với nhiều đối tác lớn như Hàn Quốc, Nhật Bản, Canađa, Trung Quốc, Thụy Sỹ,
Nauy, Ấn Độ, Đài Loan. Tổng cộng đến cuối năm 2005, ta kết thúc được đàm phán
song phương với 20 đối tác và đạt tiến bộ rất quan trọng trong đàm phán song
phương với Hoa Kỳ. Sang đầu năm 2006, ta kết thúc đàm phán với Niu Dilân, ngay
sau đó là Úc và các nước Mỹ La-tinh còn lại.
Ngày 13 tháng 5 năm 2006, tại phiên
đàm phán thứ 13 tại Washington, ta đạt được thoả thuận song phương với đối tác
cuối cùng là Hoa Kỳ.
Tổng cộng, chúng ta đã phải đàm phán với
28 Thành viên WTO. Số phiên đàm phán song phương lên tới hơn 200 cuộc. Các nước
Bun-ga-ri và Ki-rơ-gi-xtan có yêu cầu đàm phán nhưng sau đó rút yêu cầu. Cộng
hoà Séc và Cộng hoà Slô-va-kia ngừng đàm phán giữa chừng do gia nhập EU.
3. Đàm phán về nông
nghiệp:
Đàm phán về nông nghiệp thuộc đàm phán
đa phương nhưng do tính chất quan trọng của nó nên xin được tách ra để báo cáo
riêng. Nhìn chung, đây là mảng đàm phán rất khó khăn vì quy định của WTO tương
đối lỏng lẻo. Ta rất muốn tận dụng sự lỏng lẻo này để đạt kết quả có lợi cho ta
nhưng nhiều thành viên của WTO lại là cường quốc xuất khẩu nông sản nên đưa ra
đòi hỏi rất cao, nhiều khi ngược hẳn với quy định của WTO. Ta sẽ không thể gia
nhập nếu không giải quyết được sự mất cân đối này, nhất là khi nông nghiệp cũng
là lĩnh vực nhạy cảm đối với ta.
Đàm phán đa phương về nông nghiệp tập
trung xem xét các chương trình hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu nông sản.
Ta đã phải thống kê tất cả các chương trình trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong
nước để trình ra Ban công tác. Trong 8 phiên đầu, đàm phán đa phương về nông
nghiệp tiến triển hết sức chậm chạp bởi ta không chấp nhận bãi bỏ trợ cấp xuất
khẩu nông sản trong khi tất cả các nước mới gia nhập, kể cả các nước chậm phát
triển, đều cam kết xoá bỏ hình thức trợ cấp này ngay từ khi gia nhập. Tới Phiên
9 (tháng 12 năm 2004), với chủ trương tạo đột phá trong đàm phán, ta đồng ý cam
kết bãi bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu nông sản. Đàm phán đa phương về nông
nghiệp coi như kết thúc về cơ bản bởi thời gian sau này chỉ là làm rõ và chi tiết
hoá các chương trình hỗ trợ trong nước mà thôi.
4. Công tác xây dựng
pháp luật phục vụ đàm phán:
Theo quy định của Hiệp định WTO, Ban
công tác yêu cầu ta, như tất cả các nước xin gia nhập khác, phải đưa ra Chương
trình xây dựng pháp luật để thực hiện các cam kết gia nhập WTO.
Chương trình xây dựng pháp luật của Việt
Nam được trình ra Ban công tác lần đầu tiên vào tháng 6 năm 2000. Tại các phiên
đàm phán đa phương tiếp theo, Chương trình này thường xuyên được cập nhật hai nội
dung: (i) bổ sung các cam kết mới phù hợp với tiến trình đàm phán; và (ii)
thông tin về tiến độ ban hành các văn bản pháp luật. Chương trình được xây dựng
dựa trên các tiêu chí chủ yếu sau:
- Tính khả thi: tức là phải phù hợp với
điều kiện lập pháp của Việt Nam và Chương trình xây dựng pháp luật dài hạn và
hàng năm của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các chương trình, kế hoạch
ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ.
- Tính đồng bộ: Chương trình được xây
dựng trên cơ sở rà soát pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, được tiến
hành từ năm 2000. Mục tiêu chính của Chương trình là thiết lập hành lang pháp
lý đồng bộ cho hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập, không vì thực hiện
các nghĩa vụ thành viên WTO mà bỏ qua tính đồng bộ của Chương trình.
- Tính tương đồng: lộ trình và nội
dung của Chương trình phù hợp với lộ trình và nội dung đàm phán, hỗ trợ tối đa
cho tiến trình đàm phán.
Tháng 3 năm 2004, đoàn Quốc hội Việt
Nam do Chủ tịch Quốc hội dẫn đầu đã đến thăm trụ sở WTO tại Giơ-ne-vơ và cam kết
tập trung xây dựng pháp luật để hỗ trợ kết thúc đàm phán. Đến cuối năm 2004, ta
quyết định đẩy nhanh tiến độ xây dựng pháp luật để hoàn thành toàn bộ Chương
trình trong năm 2005-2006. Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội ra Nghị quyết số
42/2005/QH11 về việc điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005,
trong đó ưu tiên đẩy nhanh tiến độ ban hành văn bản phục vụ tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế và đàm phán gia nhập WTO. Nhờ có nỗ lực này, đến Phiên 12
(7/2006), 25 trong số 26 văn bản cam kết trong Chương trình đã được ban hành,
chỉ còn lại Bộ luật Thi hành án dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua tại kỳ họp
cuối năm 2006.
Việc hoàn thành Chương trình xây dựng
pháp luật đồ sộ là kết quả của sự chỉ đạo sát sao của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
sự ủng hộ tích cực và hoạt động khẩn trương của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội
và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Chính phủ với các cơ quan của Quốc hội,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tất cả các thành viên
của Ban công tác đều đánh giá cao công tác xây dựng pháp luật của ta và coi đây
là một trong những yếu tố quyết định cho việc Việt Nam sớm gia nhập WTO.
Phần 2
GIẢI
TRÌNH KẾT QUẢ ĐÀM PHÁN
Bộ văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam,
được Ban Công tác thông qua vào ngày 26 tháng 10 năm 2006 và Đại hội đồng WTO
thông qua vào ngày 07 tháng 11 năm 2006, bao gồm các tài liệu sau:
Nghị định thư về việc gia nhập WTO của
Việt Nam;
Quyết định của Đại hội đồng về việc
gia nhập WTO của Việt Nam;
Báo cáo của Ban công tác về việc gia
nhập của Việt Nam;
Biểu cam kết về thương mại hàng hóa
(bao gồm cam kết về thuế nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan và trợ cấp nông nghiệp);
Biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch
vụ.
Các văn kiện này thể hiện toàn bộ các
cam kết WTO của Việt Nam, như được trình bày dưới đây.
I. CÁC CAM KẾT
ĐA PHƯƠNG
Cam kết đa phương là cam kết chung,
mang tính nguyên tắc, về việc thực hiện các quy định của WTO. Theo hướng đó,
cam kết đa phương lẽ ra chỉ là các cam kết về việc tuân thủ các hiệp định của
WTO, hoặc các cam kết về sửa đổi quy định, chính sách cho phù hợp với quy định
của WTO. Tuy nhiên, do đàm phán gia nhập WTO là đàm phán một chiều, các nước mới
gia nhập WTO thường phải chấp nhận thêm một số cam kết đặc thù, tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh đàm phán, đối tác đàm phán hoặc điều kiện cụ thể của từng nước xin
gia nhập.
Tài liệu thể hiện các cam kết đa
phương là Báo cáo gia nhập. Báo cáo này do Ban Thư ký tổng hợp, dựa trên
các bản trả lời câu hỏi, các chương trình hành động và các bản thông báo về chế
độ, chính sách mà nước xin gia nhập gửi cho Ban công tác. Báo cáo bao gồm các
đoạn văn có đánh số, sắp xếp theo từng đề mục theo mẫu chung của WTO. Dưới đây,
xin giải trình từng mục cụ thể trong Báo cáo gia nhập của ta.
1. Giới thiệu
chung và tuyên bố ban đầu:
Mục này thể hiện một số nguyên tắc
chung, không có cam kết. Ở phần này, ta khẳng định quyết tâm hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam nhưng cũng yêu cầu các nước linh hoạt trong quá trình đàm
phán bởi ta là nước đang phát triển ở trình độ thấp. Ở phần này, ta không nêu
Việt Nam là nền kinh tế chuyển đổi bởi một số Hiệp định của WTO quy định thời
gian quá độ dành cho các nền kinh tế chuyển đổi ngắn hơn thời gian quá độ dành
cho các nước đang phát triển.
2. Chính sách
tài chính - tiền tệ, ngoại hối và thanh toán:
Chính sách ngoại hối và các biện pháp
liên quan đến thanh toán quốc tế là nội dung quan trọng của đàm phán gia nhập.
Lý do là một nước có thể dùng biện pháp hạn chế ngoại hối hoặc hạn chế thanh
toán quốc tế để làm giảm, thậm chí là vô hiệu hóa các cam kết về mở cửa thị trường.
Do WTO không có nhiều quy định liên quan trực tiếp đến nội dung này nên các
Thành viên thường lấy các quy định của IMF làm chuẩn mực.
Việt Nam, như tất cả các nước mới gia
nhập khác, cam kết tuân thủ các quy định có liên quan của WTO và IMF về chính
sách tài chính, tiền tệ, ngoại hối và thanh toán; không áp dụng các biện pháp hạn
chế giao dịch vãng lai trái với quy định của WTO và IMF.
3. Chính sách
đầu tư:
Do WTO chỉ có các quy định về chính
sách đầu tư liên quan đến thương mại, không điều chỉnh đầu tư nói chung nên
trong mục này, ta chỉ làm rõ chế độ, chính sách, không đưa ra cam kết.
4. Các doanh
nghiệp do nhà nước sở hữu hoặc kiểm soát, hoặc được hưởng đặc quyền hoặc độc
quyền:
WTO không hạn chế hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước (DNNN), chỉ yêu cầu DNNN phải hoạt động theo tiêu chí thương mại
để bảo đảm môi trường kinh doanh bình đẳng. Tuy nhiên, vấn đề DNNN được nhiều
thành viên quan tâm bởi xuất phát điểm của ta là nền kinh tế chuyển đổi từ kinh
tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, Nhà nước vẫn còn tham gia rất
sâu vào các hoạt động kinh tế. Tới nay, tuy đã tiến hành sắp xếp lại nhưng số
lượng doanh nghiệp nhà nước vẫn còn khá nhiều, trong nhiều lĩnh vực chiếm thị
phần chi phối. Vốn của doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn
của các doanh nghiệp, mức tín dụng dành cho doanh nghiệp nhà nước cao. Nhiều
thành viên e ngại ta sẽ thông qua doanh nghiệp nhà nước để can thiệp vào thị
trường, gây lệch lạc thương mại, từ đó làm giảm, thậm chí vô hiệu hoá cam kết về
mở cửa thị trường. Vì vậy, bên cạnh cam kết về doanh nghiệp được hưởng độc quyền
hoặc đặc quyền theo quy định chung của WTO, các thành viên yêu cầu ta cam kết
thêm về doanh nghiệp nhà nước.
Cam kết của ta trong lĩnh vực này
tương tự như cam kết của Trung Quốc. Theo đó, các doanh nghiệp nhà nước sẽ hoàn
toàn hoạt động theo tiêu chí thương mại, Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay
gián tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và không coi mua sắm của
doanh nghiệp nhà nước là mua sắm chính phủ. Tuy nhiên, ngôn ngữ cam kết của ta
chặt chẽ hơn. Trước hết, khái niệm doanh nghiệp nhà nước chỉ bao gồm các doanh
nghiệp do nhà nước sở hữu hoặc kiểm soát, không bao gồm tất cả các "doanh
nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước" như trong Báo cáo gia nhập của Trung Quốc
(tức là diện cam kết của ta hẹp hơn). Sau đó, Nhà nước với tư cách là một cổ
đông hoặc thành viên góp vốn được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của doanh
nghiệp như các cổ đông hoặc thành viên góp vốn khác.
Cam kết này là hoàn toàn phù hợp với
chủ trương đổi mới hoạt động và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước của ta. Vì vậy,
về cơ bản, ta sẽ không phải điều chỉnh Luật Doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện
cam kết này.
5. Tư nhân
hoá và cổ phần hoá:
Đây là đề mục phải có trong Báo cáo
gia nhập. Với các nước mới gia nhập khác, mục này được gọi là "tư nhân
hóa" nhưng do hoàn cảnh đặc thù của ta nên Ban công tác đã chấp nhận bổ
sung thêm cụm từ "cổ phần hóa", mặc dù đây là khái niệm không có
trong tiếng Anh phổ thông.
Cam kết của ta tại mục này chỉ mang
tính minh bạch hoá. Theo đó, ta đồng ý sẽ có báo cáo thường niên cho WTO về tiến
độ cổ phần hóa chừng nào ta còn duy trì chương trình này.
6. Chính sách giá:
Ta cam kết thực thi việc quản lý giá
phù hợp với các quy định của WTO và sẽ bảo đảm tính minh bạch trong kiểm soát
giá thông qua việc đăng tải các văn bản pháp luật trên Công báo. Ta cũng cam kết
sẽ bãi bỏ chế độ "hai giá" (trên thực tế, chế độ này đã được bãi bỏ từ
năm 2005).
7. Chính sách cạnh tranh:
Do WTO không điều chỉnh chính sách cạnh
tranh nên tại mục này ta chỉ làm rõ chính sách, không đưa ra cam kết.
8. Khuôn khổ xây dựng
và thực thi chính sách:
Cũng như các nước mới gia nhập khác,
ta đưa ra 3 cam kết tại mục này. Một là, ta sẽ phê chuẩn văn kiện gia nhập theo
quy định của pháp luật Việt Nam. Hai là, mọi văn bản quy phạm pháp luật, nếu
được sửa đổi hoặc bổ sung, sẽ vẫn tuân thủ các quy định của WTO. Ba là, các cơ quan
tư pháp (cơ quan xét xử) sẽ giữ tư cách độc lập, khách quan khi xem xét các vụ
kiện các quyết định hành chính thuộc các lĩnh vực mà WTO điều chỉnh.
9. Quyền kinh doanh
(quyền xuất khẩu và nhập khẩu):
Đây là vấn đề được nhiều thành viên của
Ban công tác quan tâm bởi ta đang có sự phân biệt đối xử về quyền xuất nhập khẩu
giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp 100% vốn trong nước.
Do đây là lĩnh vực ta đã có cam kết chính thức với Hoa Kỳ trong BTA nên tuân thủ
quy định của WTO, ta đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền
xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa như doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam kể từ khi
gia nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước ta vẫn bảo
lưu chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước mới chỉ định mới được nhập khẩu (như xăng
dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo, tạp chí) và một số mặt hàng nhạy
cảm khác ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như gạo và dược phẩm).
Như các nước, ta cũng đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không
có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền
xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất
nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được
tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh
doanh, như đã được chỉ ra trong Báo cáo gia nhập, sẽ không ảnh hưởng đến quyền
của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc
biệt là đối với các sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo, tạp chí.
v.v...
Cam kết trên có một điểm mới mà hệ thống
pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể, đó là việc đăng ký quyền xuất nhập khẩu
cho các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam. Vì
vậy, sau khi cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn bộ văn kiện gia nhập, Chính phủ sẽ
căn cứ vào phê chuẩn nay để ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể.
10. Thuế nhập khẩu,
các loại thuế và các khoản thu khác:
Thuế suất thuế nhập khẩu là đối tượng
của đàm phán song phương. Vì vậy, tại mục này, ta chỉ cam kết sẽ áp dụng thuế
nhập khẩu trên cơ sở MFN cho tất cả các thành viên có quan hệ WTO với Việt Nam
(trừ những trường hợp ngoại lệ được WTO cho phép). Ngoài thuế nhập khẩu, ta sẽ
không áp dụng các khoản phụ thu đối với hàng nhập khẩu (phụ thu nhập khẩu trên
thực tế đã được bãi bỏ).
11. Hạn ngạch thuế
quan (HNTQ):
Cam kết cụ thể về HNTQ (mức hạn ngạch,
mức thuế v.v...) được thể hiện ở Biểu cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa. Tại
mục này, ta chỉ cam kết sẽ áp dụng, phân bổ và quản lý HNTQ một cách minh bạch,
không phân biệt đối xử và tuân thủ theo đúng các quy định của WTO.
12. Miễn giảm thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu:
Việc miễn, giảm thuế xuất khẩu và thuế
nhập khẩu, nếu dựa trên thành tích xuất khẩu hoặc tỷ lệ nội địa hóa, sẽ bị coi
là trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO. Vì vậy, để tuân thủ các quy định của
WTO, ta cam kết sẽ miễn, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trên cơ sở MFN và
sẽ không gắn việc miễn, giảm thuế với các yêu cầu về xuất khẩu hay nội địa hóa.
Một số ưu đãi đầu tư dưới dạng miễn, giảm thuế nhập khẩu, vì vậy, sẽ không được
áp dụng nữa. Tuy nhiên, với các dự án đã được hưởng ưu đãi loại này từ trước
khi ta vào WTO, ta sẽ có một khoảng thời gian là 5 năm để bãi bỏ hẳn (xin xem
thêm phần trợ cấp phi nông nghiệp).
13. Phí và lệ phí áp
dụng với dịch vụ được cung ứng:
Ta cam kết sẽ áp dụng các loại phí và
lệ phí theo quy định của WTO, cụ thể là mức phí sẽ phản ánh đúng chi phí của dịch
vụ được cung ứng. Việc qui định phí và lệ phí sẽ không vì mục đích bảo hộ hoặc
thu ngân sách. Hiện nay qui định về thu phí trong lĩnh vực hải quan chưa hoàn
toàn đúng với nguyên tắc nêu trên nên sẽ phải điều chỉnh lại khi ta vào WTO.
14. Thuế nội địa:
Nhìn chung, hệ thống thuế trong nước của
ta đã tương đối phù hợp với các quy định của WTO. Riêng thuế tiêu thụ đặc biệt
đối với rượu và bia chưa hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc đối xử quốc gia (NT).
Đàm phán vấn đề này căng thẳng đến phút chót. Cuối cùng, các thành viên WTO
đồng ý chấp nhận thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để ta điều chỉnh lại thuế
tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định của WTO (chưa từng
có tiền lệ như vậy trong đàm phán gia nhập WTO kể từ sau năm 1995). Hướng sửa đổi
là, đối với rượu chưng cất trên 20 độ cồn, ta sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối
hoặc một mức thuế phần trăm thống nhất; đối với bia, ta sẽ chỉ áp dụng 1 mức
thuế phần trăm.
15. Biện pháp hạn chế
định lượng đối với hàng nhập khẩu (bao gồm cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu,
giấy phép nhập khẩu):
Ta đồng ý cho nhập
khẩu xe máy phân khối lớn không muộn hơn ngày 31 tháng 5 năm 2007. Tuy
nhiên, ta bảo lưu quyền áp dụng các biện pháp như quy định độ tuổi người sử dụng
và đưa ra chế độ cấp bằng lái đặc biệt. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng
ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, sẽ chỉ có một
doanh nghiệp được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập
khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là cao. Với ô tô cũ, ta
cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm nhưng bảo lưu quyền
áp dụng thuế nhập khẩu cao và các biện pháp quản lý kỹ thuật chặt chẽ. Ta khẳng
định biện pháp cấm nhập khẩu thiết bị và phần mềm mã hóa thuộc diện bí mật
nhà nước không ảnh hưởng tới các sản phẩm thương mại thông thường phục vụ
tiêu dùng đại chúng. Việc áp dụng các biện pháp kiểm soát nhập khẩu sản phẩm và
phần mềm mã hóa, nếu có, cũng sẽ tuân thủ các quy định của WTO. Ta không chấp
nhận bãi bỏ biện pháp cấm nhập khẩu một số mặt hàng tiêu dùng đã qua sử dụng.
Về cấp phép nhập khẩu, ta cam kết sẽ
chuyển việc quản lý nhập khẩu mặt hàng đường từ “giấy phép tùy ý” sang hạn ngạch
thuế quan. Ta bảo lưu quyền cấp phép nhập khẩu văn hoá phẩm, chủ yếu để kiểm
duyệt nội dung, nhưng bảo đảm cơ chế cấp phép nhằm mục đích kiểm duyệt này sẽ
tuân thủ theo các quy định về minh bạch hoá của WTO.
16. Xác định
trị giá tính thuế hải quan (trị giá tính thuế nhập khẩu):
Ta cam kết tuân thủ Hiệp định về xác định trị
giá tính thuế hải quan của WTO ngay từ khi gia nhập. Cụ thể, ta sẽ không áp dụng
giá tính thuế tối thiểu (trên thực tế đã được bãi bỏ) và sẽ tuân thủ hoàn toàn các
qui định của WTO về nguyên tắc và trình tự xác định trị giá tính thuế nhập khẩu.
Ta đã cam kết sửa đổi một số văn bản về xác định trị giá tính thuế chưa hoàn
toàn phù hợp với WTO.
17. Quy tắc xuất xứ:
Ta cam kết tuân thủ Hiệp định về quy tắc
xuất xứ của WTO từ thời điểm gia nhập. Trên thực tế, ta không duy trì các quy định
về xuất xứ vi phạm quy định của Hiệp định này.
18. Thủ tục hải quan
khác và giám định trước khi giao hàng:
Ta cam kết nếu có áp dụng việc giám định
trước khi giao hàng tại cảng đi thì sẽ tuân thủ Hiệp định về kiểm tra trước khi
giao hàng cũng như các Hiệp định có liên quan khác của WTO. Trên thực tế, thủ tục
hải quan của ta không vi phạm quy định này của WTO và Nhà nước cũng không yêu cầu
các doanh nghiệp phải sử dụng dịch vụ giám định trước khi giao hàng tại cảng
đi.
19. Chống bán phá
giá, chống trợ cấp và các biện pháp tự vệ:
Ta cam kết tuân
thủ các Hiệp định có liên quan của WTO khi áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá, chống trợ cấp và tự vệ. Ta cũng sẽ thông báo cho WTO các quy định của ta về
chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
Tại mục này, như Trung Quốc, ta đã phải
chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Đây là nội dung đàm phán
thuộc loại căng thẳng nhất đối với các nền kinh tế chuyển đổi. Khi gia nhập
WTO, Trung Quốc đã phải chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 15
năm. Kết quả mà ta đàm phán được là 12 năm (không muộn hơn 31 tháng 12 năm
2018). Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với thành viên
WTO nào đó là kinh tế Việt Nam đã hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường
thì thành viên WTO đó sẽ ngừng áp dụng chế độ "phi thị trường" đối với
ta.
Chế độ "phi thị trường" nói
trên chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Các thành viên WTO
không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù (khác với cơ chế chung trong WTO) đối
với hàng xuất khẩu của ta, dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường. So với
Trung Quốc, cam kết về kinh tế phi thị trường của ta đỡ bất lợi hơn bởi Trung
Quốc bị WTO áp đặt cơ chế tự vệ đặc thù đối với mọi sản phẩm xuất khẩu trong
vòng 12 năm[2].
20. Các quy định về
xuất khẩu, bao gồm thuế xuất khẩu, phí và lệ phí, thuế nội địa đối
với hàng xuất khẩu và hạn chế xuất khẩu:
WTO không có quy định điều chỉnh về
thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, một số thành viên, đặc biệt là các nước đã phát triển
như Mỹ, EU, Ca-na-đa, Úc yêu cầu Việt Nam phải cắt giảm thuế xuất khẩu đối với
một số mặt hàng và cam kết ràng buộc cả biểu thuế xuất khẩu (không mở rộng phạm
vi mặt hàng và không tăng thuế so với danh mục của biểu thuế hiện tại của Việt
nam). Một số nước đang phát triển cho rằng thuế xuất khẩu không thuộc phạm vi
điều chỉnh của WTO và không tán thành các yêu cầu nêu trên. Đây cũng là vấn đề
đang được đàm phán và chưa được giải quyết trong vòng đàm phán Đô ha. Vì vậy, đến
tận phiên đàm phán cuối cùng ta mới đạt được thoả thuận với các thành viên.
Theo đó, ta
cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu cho các loại phế liệu kim loại đen và kim loại mầu
nhưng không phải ràng buộc toàn bộ biểu thuế xuất khẩu và cũng không xem việc
giảm thuế xuất khẩu là một phần của cân bằng nhân nhượng trong đàm phán gia nhập
WTO. Ngoài ra, ta
chấp nhận áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu, phí và lệ phí cũng như thuế
nội địa đối với hàng xuất khẩu theo đúng Hiệp định GATT của WTO.
21. Chính
sách công nghiệp, bao gồm cả chính sách trợ cấp:
Ta đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ
cấp bị cấm theo quy định của WTO (trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa)[3]. Tuy nhiên, với các
ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO,
ta bảo lưu được thời gian quá độ là 5 năm (trừ đối với ngành dệt may). Ta đã phải
rất cố gắng để đạt được bảo lưu này.
Ta không cam kết gì về trợ cấp đối với
doanh nghiệp nhà nước. Trợ cấp cho DNNN sẽ được áp dụng theo các nguyên tắc
chung của WTO. Khác với ta, để gia nhập WTO, Trung Quốc (và một số nền kinh tế
chuyển đổi khác) đã phải đưa ra các cam kết khá ngặt nghèo về trợ cấp cho DNNN.
Mặc dù đàm phán được thời gian chuyển
đổi khá dài nhưng trong tương lai gần, để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh,
cũng phải tính tới việc điều chỉnh dần chính sách trợ cấp để tiến tới loại bỏ
hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu đối với hàng phi nông sản. Ta đã đi được những bước
đi đầu tiên theo hướng này. Luật Đầu tư năm 2005 đã bãi bỏ các loại trợ cấp xuất
khẩu bị WTO cấm. Chính phủ cũng đã chuyển Quỹ Hỗ trợ phát triển thành Ngân hàng
Phát triển, điều chỉnh lại mục tiêu và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu, chuyển
các loại trợ cấp bị WTO cấm sang các hình thức khác phổ dụng hơn trên thế giới
và được WTO thừa nhận.
22. Hàng rào kỹ thuật
đối với thương mại, tiêu chuẩn và chứng nhận hợp chuẩn:
WTO yêu cầu các nước mới gia nhập phải
cam kết thực thi toàn bộ các nghĩa vụ của Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với
thương mại (Hiệp định TBT) kể từ khi gia nhập. Trong quá trình đàm phán, ta đã
đệ trình Chương trình hành động thực hiện Hiệp định TBT và đã được các thành
viên chấp nhận. Để triển khai Chương trình, Quốc hội đã ban hành Luật về Tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (tháng 6/2006). Chính phủ cũng đã xây dựng Chương
trình hành động của Chính phủ, thành lập Ban liên ngành về TBT và mạng lưới TBT
ở 12 Bộ, ngành và 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để thực hiện chức
năng minh bạch hóa và nghĩa vụ thông báo.
Ta đã cam kết tuân thủ đầy đủ các quy
định của Hiệp định TBT. Tuy nhiên, đối với một số nội dung mà pháp luật trong
nước chưa quy định chi tiết, Chính phủ cần làm rõ khi ban hành các văn bản hướng
dẫn thực hiện Luật về Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006.
23. Các biện
pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật:
Hiệp định về Các biện pháp vệ sinh
an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (Hiệp định SPS) là một trong những
hiệp định quan trọng nhất của WTO. Vì vậy, các nước đàm phán gia
nhập WTO, kể cả các nước đang phát triển, đều được yêu cầu phải thực thi toàn bộ
các nghĩa vụ của Hiệp định này kể từ khi gia nhập. Trong quá trình đàm phán, ta
đã đệ trình Chương trình hành động thực hiện Hiệp định SPS. Ban đầu, ta đề nghị
thời gian chuyển đổi từ 3 đến 5 năm để thực hiện một số nghĩa vụ của Hiệp định
nhưng không được các Thành viên chấp nhận (vì ta đã cam kết thực hiện các nghĩa
vụ này trong BTA). Trên thực tế, hệ thống pháp luật và các biện pháp SPS mà ta
đang áp dụng cũng không có gì trái Hiệp định SPS. Vì vậy, ta đã cam kết tuân thủ
toàn bộ Hiệp định SPS kể từ khi gia nhập.
Việc thực hiện Hiệp định SPS có những
điểm lợi cho ta. Hiện tại, phần lớn các quy định, tiêu chuẩn và biện pháp vệ sinh an
toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật của ta là thấp hơn chuẩn mực chung của
quốc tế (đây là một trong những lý do khiến hàng nông thủy sản xuất khẩu của ta
khó chen chân vào thị trường các nước phát triển). Việc áp dụng sớm Hiệp định
SPS sẽ góp phần nâng cao khả năng quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch
động thực vật trong nước, qua đó bảo vệ người tiêu dùng và góp phần nâng cao chất
lượng và năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu.
Ta đã thành công trong việc thuyết phục
các thành viên đưa các cam kết về sản phẩm biến đổi gien (GMO) ra
khỏi Báo cáo gia nhập. Tuy nhiên, trong quan hệ song phương, ta đồng ý sẽ tham
vấn với một số thành viên khi đưa ra các quy định cho sản phẩm GMO.
Ta cũng cam kết sẽ áp dụng các quy
định về hạn sử dụng của nguyên liệu thực phẩm và phụ gia thực phẩm
theo các nguyên tắc chung của Hiệp định SPS.
24. Các biện pháp đầu
tư liên quan đến thương mại (TRIMs):
Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên
quan đến thương mại của WTO (Hiệp định TRIMs) không quy định cụ thể thế nào là
một biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại mà chỉ đưa ra một Danh mục minh họa
một số biện pháp đầu tư không phù hợp với nghĩa vụ dành đối xử quốc gia
nêu tại Điều III và nghĩa vụ loại bỏ hạn chế về định lượng
nêu tại Điều XI của Hiệp định GATT. Theo đó, tất cả các biện
pháp được mô tả trong Danh mục minh họa, cho dù được áp dụng như là điều kiện để
thành lập, mở rộng doanh nghiệp hay là điều kiện để doanh nghiệp đó được hưởng
ưu đãi đầu tư, đều không được phép áp dụng. Các biện pháp chính được mô tả
trong Danh mục bao gồm: yêu cầu thực hiện nội địa hóa, yêu cầu đầu tư phải gắn
với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, yêu cầu cân đối ngoại tệ, cân đối
xuất-nhập khẩu hoặc yêu cầu hạn chế xuất khẩu.
Đối với Việt Nam, các nghĩa vụ theo Hiệp
định TRIMs không phải là điều mới mẻ. Trong BTA ký với Hoa Kỳ, Việt Nam về cơ bản
đã cam kết thực hiện đầy đủ các quy định như của Hiệp định TRIMs. Luật Đầu tư
năm 2005, có hiệu lực từ 1/7/2006, đã nội luật hóa đầy đủ các cam kết của Việt
Nam trong BTA. Theo đó, đã loại bỏ toàn bộ các biện pháp bị coi là vi phạm Hiệp
định TRIMs của WTO. Do đó, trong đàm phán gia nhập WTO, ta đồng ý cam kết thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ quy định tại Hiệp định TRIMs từ thời điểm gia nhập.
Cam kết này góp phần cải thiện môi trường
đầu tư và tăng khả năng thu hút đầu tư trong một số ngành. Tuy nhiên, để duy
trì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao
giá trị gia tăng và phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, cũng cần nghiên cứu
áp dụng một số biện pháp mới thay thế cho các biện pháp trước đây theo nguyên tắc
bảo đảm mục tiêu phát triển nhưng vẫn phù hợp với quy định của WTO. Chính phủ
đang nghiên cứu áp dụng một số biện pháp như vậy, trong đó có việc thay tiêu
chí xuất khẩu (để được hưởng ưu đãi) bằng các tiêu chí khác (về sử dụng lao động,
về địa bàn đầu tư ..); khuyến khích các dự án đầu tư phát triển công nghiệp phụ
trợ, khuyến khích đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và vùng nguyên liệu tập
trung, nhất là ở các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn để hỗ trợ
nguyên liệu cho các dự án nuôi trồng, chế biến các sản phẩm nông, lâm nghiệp
v.v.
25. Khu thương mại tự
do và đặc khu kinh tế:
Việc vận hành các "đặc khu kinh tế"
(như khu chế xuất, khu kinh tế mở, khu kinh tế cửa khẩu, khu thương mại tự do,
khu công nghiệp, khu công nghệ cao v.v.) với các chế độ thương mại riêng, trong
một số trường hợp, có thể dẫn đến việc vi phạm các quy định của WTO và làm mất
đi tính thống nhất về chính sách thương mại của một nước.
Chính vì vậy, ta cam kết các quy định
và chính sách áp dụng cho các "đặc khu kinh tế" sẽ tuân thủ đúng các
quy định của WTO và các cam kết của ta về trợ cấp bị cấm, thuế nội địa, các biện
pháp đầu tư liên quan đến thương mại và các quy định khác. Thí dụ, các doanh
nghiệp sẽ không cần phải đáp ứng các điều kiện về xuất khẩu hay tỷ lệ nội địa
hóa khi đầu tư vào các khu này; hàng hóa khi nhập vào và xuất ra khỏi các khu
này sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định (về thuế, về thủ tục hải quan v.v.)
theo đúng các quy định của WTO và cam kết của ta.
Luật Đầu tư năm 2005, có hiệu lực từ
01 tháng 7 năm 2006, đã điều chỉnh chính sách phù hợp với cam kết này của ta.
26. Mua sắm chính phủ
và mua bán máy bay dân dụng:
Hiệp định Mua sắm chính phủ và Hiệp định
Mua bán máy bay dân dụng là các Hiệp định nhiều bên, các Thành viên WTO không bắt
buộc phải tham gia. Vì vậy, tại mục này, ta không đưa ra bất kỳ cam kết nào về
việc gia nhập hai Hiệp định. Ta cũng không chấp nhận tham gia hoặc trở thành
quan sát viên của Ủy ban về Mua sắm chính phủ mặc dù sức ép rất lớn và một số
Thành viên gia nhập trước ta đã phải chấp nhận.
27. Quá cảnh:
Tự do quá cảnh là một trong những yêu
cầu của WTO. Luật Thương mại ban hành năm 2005 không có quy định nào về quá cảnh
trái với quy định của WTO. Vì vậy, ta cam kết sẽ tuân thủ các quy định của WTO
về quá cảnh ngay từ thời điểm gia nhập.
28. Nông nghiệp:
Hiệp định Nông nghiệp của WTO điều chỉnh
3 nội dung chính:
- Về mở cửa thị trường,
đặc biệt là về thuế nhập khẩu và hạn ngạch thuế quan: WTO quy định các
thành viên phải ràng buộc mức trần đối với tất cả các dòng thuế nông sản và
chuyển từ các biện pháp hạn chế định lượng (như cấm, hạn ngạch) sang sử dụng
thuế nhập khẩu (thuế hóa) hoặc hạn ngạch thuế quan.
-
Về chính sách hỗ trợ trong nước đối với nông nghiệp:
WTO cho phép áp dụng các hình thức hỗ trợ nhằm mục đích khuyến nông, xóa đói giảm
nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng v.v.. (thuật ngữ của WTO là hỗ trợ "hộp
xanh", hỗ trợ "chương trình phát triển") nhưng yêu cầu phải cam
kết cắt giảm đối với các loại hỗ trợ trong nước khác gây lệch lạc thương mại
(thuật ngữ của WTO là hỗ trợ "hộp hổ phách") nếu như các loại hỗ trợ
đó vượt quá một mức nào đó (gọi là mức tối thiểu - de minimis). Với các
nước đang phát triển, mức tối thiểu này là 10% giá trị sản lượng nông nghiệp.
- Về trợ cấp xuất khẩu
nông sản:
Hiệp định Nông nghiệp không cấm và cũng không quy định phải bãi bỏ trợ cấp xuất
khẩu nông sản. Tới cuối năm 2005, trong khuôn khổ Vòng Đô-ha, các thành viên
WTO mới đạt được thỏa thuận về việc cắt giảm, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn trợ cấp
xuất khẩu nông sản vào năm 2013. Tuy nhiên, các thành viên mới gia nhập WTO,
bao gồm cả Trung Quốc và Campuchia, đều đã phải cam kết bãi bỏ ngay trợ cấp xuất
khẩu nông sản từ khi gia nhập.
Tương tự như các nước mới gia nhập
khác, ta cam kết sẽ không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm
gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO
dành cho các nước đang phát triển trong lĩnh vực này.
Các cam kết về mở cửa thị trường xin
được trình bày trong phần nói về thuế nhập khẩu và hạn ngạch thuế quan.
29. Ngư nghiệp và dệt
may:
Về ngư nghiệp, ta không đưa ra
bất kỳ cam kết nào mà chỉ cung cấp một số thông tin để làm rõ chính sách hiện
hành. Về dệt may, ta đã đấu tranh để xóa toàn bộ phần nói về dệt may
trong Báo cáo của Ban công tác, tức là Hoa Kỳ và các thành viên khác sẽ không
được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với ta khi ta vào WTO. Ngoài ra, Hoa Kỳ
và các thành viên khác của WTO cũng sẽ không được áp dụng biện pháp tự vệ đặc
biệt đối với hàng dệt may của ta như họ đã làm với Trung Quốc (kéo dài 7
năm sau khi Trung Quốc gia nhập WTO). Tuy nhiên, theo thỏa thuận riêng với Hoa
Kỳ, trong vòng 1 năm kể từ khi gia nhập WTO, nếu có bằng chứng về việc ta vẫn
duy trì trợ cấp bị WTO cấm (đối với dệt may), Hoa Kỳ sẽ dành cho ta 60 ngày để
tham vấn. Nếu tham vấn không giải quyết được vấn đề, hai bên sẽ đưa vụ việc ra
trọng tài trong khuôn khổ WTO để phân xử. Trọng tài sẽ có 120 ngày để phân xử.
Nếu trọng tài phán quyết là ta vi phạm cam kết, Hoa Kỳ sẽ có quyền tái áp dụng
hạn ngạch trong thời gian tối đa là 1 năm.
30. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ:
Các quy định về bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ trong khuôn khổ WTO được thể hiện trong Hiệp định về các khía cạnh liên
quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs).
Tương tự như thương mại hàng hóa và
thương mại dịch vụ, Hiệp định TRIPs cũng quy định 2 hai nguyên tắc cơ bản trong
việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và nguyên tắc
đối xử tối huệ quốc (MFN). Hiệp định đề ra các tiêu chuẩn tối thiểu đối với việc
bảo hộ tất cả các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm: quyền tác giả và
các quyền liên quan đến quyền tác giả, sáng chế, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, chỉ dẫn địa lý, quyền chống
cạnh tranh không lành mạnh.
Các chuẩn mực về bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ của Hiệp định TRIPs cũng được quy định trong một số điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã tham gia như BTA, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (năm
1883, sửa đổi lần cuối năm 1979), Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học
và nghệ thuật (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 26/10/2004), Công ước Giơ-ne-vơ
bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép không được phép bản ghi
âm của họ (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 6/7/2005), Công ước Bơ-rúc-xen liên
quan đến việc phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (có
hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 12 tháng 01 năm 2006).
Hiệp định TRIPs quy định nhiều nghĩa vụ
đối với việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Do ta đã thực hiện BTA với nhiều
chuẩn mực tương đương Hiệp định TRIPs và đã tham gia nhiều điều ước quốc tế
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, hệ thống pháp luật trong nước về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ cũng đã tương đối phù hợp với các quy định tương ứng của Hiệp định
TRIPs nên việc ta gia nhập WTO và tuân thủ theo Hiệp định TRIPs về cơ bản không
làm phát sinh nghĩa vụ mới. Nghĩa vụ lớn nhất của ta là bảo đảm thực thi một
cách có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ. Theo hướng đó, ta đưa ra cam kết như
sau:
- Tuân thủ đầy đủ tất cả các quy định
của Hiệp định TRIPs kể từ khi gia nhập WTO;
- Ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn
thi hành các quy định về tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong đó quy định
rõ hành vi giả mạo nhãn hiệu, xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền
tác giả ở quy mô thương mại bị coi là hành vi phạm tội; quy định thẩm quyền thu
giữ và tiêu hủy các sản phẩm xâm phạm cũng như nguyên vật liệu, phương tiện được
sử dụng chủ yếu để sản xuất ra sản phẩm xâm phạm cho các cơ quan thực thi quyền
sở hữu trí tuệ theo thủ tục hình sự , ,.
- Khi ban hành Nghị định hướng dẫn Bộ
Luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (Điều 25 và Điều 32)
sẽ quy định thu hẹp các ngoại lệ về quyền tác giả và các quyền liên quan theo
quy định tại Công ước Berne và Hiệp định TRIPs (ta đã thực hiện việc này khi
ban hành Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 quy định chi tiết về hướng
dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác
giả và quyền liên quan).
- Thực hiện Điều 26 và
Điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 bằng cách áp dụng trực tiếp Điều
11bis của Công ước Berne (quy định của ta về việc tổ chức phát sóng không phải
xin phép nhưng phải trả tiền trong các chương trình phát sóng có tài trợ, quảng
cáo hoặc thu tiền dưới bất cứ hình thức nào là không hoàn toàn tuân thủ Hiệp định
TRIPs và Công ước Berne). Điều 11bis Công ước Berne quy định
tổ chức phát sóng khi sử dụng tác phẩm đã công bố để thực hiện chương trình
phát sóng không phải xin phép nhưng phải đảm bảo quyền nhân thân và trả tiền
cho chủ thể quyền. Tuy nhiên, Điều 26 và Điều 33 của Luật
Sở hữu trí tuệ năm 2005 lại quy định các tổ chức phát sóng sử dụng “các tác
phẩm đã được công bố” và “bản ghi âm, ghi hình” để thực hiện chương trình phát
sóng không phải xin phép, chỉ phải trả tiền nhuận bút hoặc thù lao trong trường
hợp có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào cho chủ sở hữu
quyền tác giả, quyền liên quan. Như vậy, quy định tại Điều 26 và
Điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 không phù hợp với Công ước Berne.
- Ban hành trước thời điểm gia nhập
văn bản quy phạm pháp luật quy định các cơ quan Chính phủ chỉ sử dụng phần mềm
máy tính hợp pháp và không vi phạm quyền tác giả của những phần mềm này, quy định
việc mua và quản lý các phần mềm này; ban hành văn bản quy phạm pháp luật để
quy định các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình chỉ được cung cấp cho khách hàng.
Liên quan đến chương trình truyền hình, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Nghị định
100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 ta đã quy định các tổ chức phát sóng phải bảo đảm
quyền tác giả và quyền liên quan theo quy định của pháp luật.
31. Các chính sách ảnh
hưởng đến thương mại dịch vụ:
Trong mục này, bên cạnh việc làm rõ
các chính sách tác động đến thương mại dịch vụ, ta đưa ra một số cam kết để làm
rõ, hoặc bổ sung thêm cho Biểu cam kết dịch vụ. Những cam kết đáng chú ý là:
- Việc cấp phép cung ứng dịch vụ viễn
thông sẽ được thực hiện theo các tiêu chí khách quan, minh bạch. Các doanh nghiệp
không phải DNNN được tham gia cung ứng dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng
mạng và được tham gia liên doanh với nước ngoài theo các quy định trong Biểu
cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ. Ngoài ra, trước khi gia nhập, Việt Nam sẽ
bãi bỏ chế độ phân bổ lưu lượng thoại quốc tế cho các doanh nghiệp, dù việc phân
bổ này là thực hiện theo thỏa thuận tự nguyện của các nhà cung ứng dịch vụ viễn
thông.
- Không quá 3 tháng sau ngày Nghị định
thư gia nhập WTO được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phê chuẩn, Chính phủ sẽ
ban hành Nghị định hướng dẫn việc cấp phép cung ứng dịch vụ chuyển phát nhanh.
Trong thời gian từ nay đến đó, việc cấp phép cung ứng dịch vụ chuyển phát nhanh
sẽ được thực hiện theo các tiêu chí minh bạch đề cập tại đoạn 508 của Báo cáo
gia nhập. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cung ứng dịch vụ chuyển
phát nhanh có quyền sở hữu và vận hành các phương tiện đường bộ phục vụ cho việc
cung ứng dịch vụ của họ.
- Các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại
Việt Nam, phù hợp với Biểu cam kết về thương mại dịch vụ, sẽ được dành đối xử
quốc gia trong các vấn đề có liên quan đến thiết lập hiện diện thương mại. Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài được hoạt động cho vay trên cơ sở vốn của ngân hàng
mẹ. Các quy định áp dụng cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài, bao gồm cả các quy
định về vốn tối thiểu, sẽ được thực hiện theo thông lệ được thừa nhận chung
trên thế giới. Việt Nam không cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài được mở thêm
điểm giao dịch ngoài trụ sở của chi nhánh nhưng sẽ không hạn chế số lượng chi
nhánh của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Máy rút tiền tự động (ATM) không
chịu sự điều chỉnh của quy định hạn chế mở thêm "điểm giao dịch ngoài trụ
sở chính". Ngân hàng nước ngoài sẽ được hưởng đối xử MFN và đối xử NT
trong việc lắp đặt và vận hành máy ATM.
- Việt Nam sẽ thực hiện theo các cam kết
trong Biểu cam kết về dịch vụ và các cam kết có liên quan trong Báo cáo của Ban
Công tác, nếu như các quy định về điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động
cho doanh nghiệp bảo hiểm và chứng khoán đang áp dụng có nội dung không phù hợp
với các cam kết này. Việt Nam sẽ ban hành các quy định đối với chi nhánh bảo hiểm
phi nhân thọ (chi nhánh trực tiếp) để thực hiện các cam kết (sau 5 năm) phù hợp
với các chuẩn mực được quốc tế công nhận trong lĩnh vực bảo hiểm và các nguyên
tắc của Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế (IAIS), để đảm bảo sự phát
triển bền vững của thị trường bảo hiểm Việt Nam và lợi ích của người mua bảo hiểm.
- Điều 52 và Điều 104 của
Luật Doanh nghiệp quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt động
của công ty TNHH và công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại
diện cho ít nhất là 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Các đối tác rất quan ngại
quy định này vì nó có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên
doanh. Vì vậy, tại các đoạn 503 và 504 của Báo cáo, ta đồng ý cho phép các bên
tham gia liên doanh được tự thoả thuận về các vấn đề này trong Điều lệ công ty
và sẽ bảo đảm hiệu lực pháp lý cho cam kết này trong quá trình phê chuẩn Nghị định
thư gia nhập.
- Tại các đoạn 507, 508 của Báo cáo
gia nhập, ta đưa ra các cam kết về minh bạch hóa tất cả các quy định có liên
quan hoặc ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ, bao gồm cả các quy định về cấp phép
(nếu có). Các cơ quan quản lý Nhà nước là độc lập với các nhà cung ứng dịch vụ
mà họ quản lý và sẽ không chịu trách nhiệm về hoạt động của các nhà cung ứng
này.
32. Minh bạch hóa:
Minh bạch hóa là một trong những
nguyên tắc chủ đạo của WTO, được nêu rõ và nhấn mạnh tại nhiều hiệp định khác
nhau. Do đây là nghĩa vụ quan trọng nên trong phần Minh bạch hóa của Báo cáo, ta
cam kết tuân thủ toàn bộ các quy định về minh bạch hóa của WTO. Ngoài ra, ta
cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ công bố công khai dự thảo của các văn bản
quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực điều chỉnh của WTO do Quốc hội, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến các tổ chức, cá nhân có liên
quan. Thời hạn dành cho việc góp ý tối thiểu là 60 ngày. Ta cũng cam kết sẽ
đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp chí hoặc trang tin điện từ
(websites) của các Bộ, ngành.
Thời hạn góp ý tối thiểu nêu trên là
đi xa hơn quy định của WTO nhưng do phù hợp với chủ trương cải cách hành chính
của ta nên tại phiên đàm phán cuối cùng, ta đã đồng ý cam kết. Sau khi Nghị định
thư gia nhập WTO được phê chuẩn, Chính phủ sẽ căn cứ vào phê chuẩn này để quy định
trình tự, thủ tục cụ thể.
33. Nghĩa vụ thông
báo và các hiệp định thương mại:
Ta cam kết tuân thủ các quy định của
WTO về nghĩa vụ thông báo các thông tin cần thiết cho WTO (chủ yếu liên quan chế
độ, chính sách), bao gồm cả việc thông báo về các hiệp định thương mại có liên
quan.
II. Cam kẾt song phương vỀ hàng hóa
1. Giới thiệu
chung về nội dung đàm phán:
Các thành viên WTO thường yêu cầu nước
xin gia nhập phải cam kết: (i) ràng buộc mức trần cho tất cả các dòng thuế
trong biểu thuế nhập khẩu của mình; (ii) chỉ dùng thuế nhập khẩu làm công cụ để
bảo hộ; và (iii) tại cửa khẩu, ngoài thuế nhập khẩu, không sử dụng phí, lệ phí
và các khoản thu khác nhằm mục đích thu ngân sách. Tiếp theo là yêu cầu phải giảm
thuế, nhất là các mặt hàng đang có thuế suất áp dụng cao. Ngoài ra, họ còn yêu
cầu các nước xin gia nhập tham gia vào các hiệp định tự do hoá theo ngành để cắt
giảm toàn bộ thuế áp dụng cho ngành đó xuống mức 0% (như Hiệp định công nghệ
thông tin, Hiệp định về thiết bị máy bay dân dụng, thiết bị y tế) hoặc hài hoà
thuế suất ở mức thấp (như Hiệp định hoá chất, Hiệp định hàng dệt may).
Trong đàm phán thuế nhập khẩu với Việt
Nam, các thành viên đưa ra yêu cầu rất cao. Nếu theo các yêu cầu này, tuyệt đại
đa số các dòng thuế sẽ phải giảm xuống 0-5%, chỉ một số ít mặt hàng được duy
trì mức 10%-20%. Thời gian để thực hiện giảm thuế thường không quá 3 năm, tuyệt
đại đa số các trường hợp là phải giảm ngay từ khi gia nhập. Những mặt hàng được
các Thành viên đặc biệt quan tâm là nông sản (như thịt, sữa, đường, lá thuốc
lá) và các nhóm hàng thuộc các hiệp định tự do hóa theo ngành (như rượu, bia, sản
phẩm công nghệ thông tin, hoá chất, dệt may, thiết bị máy bay dân dụng, thiết bị
xây dựng, giấy, cá ..).
Nguyên tắc cơ bản của ta trong đàm
phán thuế nhập khẩu là: không gây biến động lớn đối với sản xuất trong nước, bảo
hộ có chọn lọc, có thời hạn và xem xét việc giảm thuế trong bối cảnh đã có các
cam kết cắt giảm thuế cho các nước ASEAN (theo CEPT/AFTA) và cho các nước như
Trung Quốc, Hàn Quốc .. (theo khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do). Ngoài ra, cần
nỗ lực duy trì mức độ bảo hộ nhất định đối với một số mặt hàng trọng yếu, có ý
nghĩa cơ bản đối với nền kinh tế, những mặt hàng nhạy cảm đối với sản xuất
trong nước.
2. Mức cam kết
chung:
Ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn
bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện
hành 17,4% xuống còn 13,4%, thực hiện dần trong vòng 5-7 năm. Mức thuế bình
quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9%, thực hiện
trong khoảng 5 năm. Với hàng công nghiệp, mức bình quân giảm từ 16,8% xuống
12,6%, thực hiện chủ yếu trong vòng từ 5 đến 7 năm (xin tham khảo Biểu tóm tắt
số 1 kèm theo Tờ trình).
3. Mức cam kết
cụ thể:
Trong phạm vi của Tờ trình, sẽ rất khó
đi vào phân tích từng dòng thuế cụ thể. Các phân tích dưới đây, vì vậy, cũng mới
chỉ tập trung vào mức bình quân chung của một số nhóm hàng lớn.
Có khoảng hơn 1/3 số dòng của biểu thuế
sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng
yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây
dựng, ôtô, xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức
giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế
tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Thuế nhập khẩu thịt lợn, thịt bò
và phụ phẩm cũng phải cắt giảm ở mức tương đối lớn. Ta đạt được mức thuế trần
cao hơn mức đang áp dụng đối với các nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hoá chất,
phương tiện vận tải (xin tham khảo thêm Biểu tóm tắt số 2 kèm theo Tờ trình).
Như tất cả các nước mới gia nhập khác,
ta cũng cam kết tham gia một số hiệp định tự do hoá theo ngành. Những ngành mà
ta cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và
thiết bị y tế. Những ngành mà ta tham gia một phần là thiết bị máy bay, hoá chất
và thiết bị xây dựng. Thời gian để giảm thuế là từ 3-5 năm.
Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền
áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Riêng muối là mặt hàng
WTO không coi là nông sản, do vậy thường không được áp dụng công cụ hạn ngạch
thuế quan nhưng ta kiên quyết giữ để bảo vệ lợi ích của diêm dân. Đối với 4 mặt
hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức thuế MFN hiện hành (trứng
40%, đường thô 25%, đường tinh 40-50%, thuốc lá lá 30%, muối ăn 30%). Mức thuế
ngoài hạn ngạch cao hơn rất nhiều.
III. CAM KẾT
VỀ MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ:
Tài liệu kèm theo Tờ trình sẽ giải
thích nội dung, cấu trúc của Biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ (xin gọi
tắt là Biểu cam kết dịch vụ), đồng thời làm rõ các phương thức cung cấp dịch vụ
cũng như phương thức cam kết về dịch vụ tại WTO. Tại đây, xin giải trình về nội
dung cam kết.
Về diện cam kết, trong BTA với Hoa Kỳ,
ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành là 65. Cam kết này mặc
nhiên được áp dụng cho các thành viên WTO theo nguyên tắc MFN. Trong đàm phán
WTO, ta cam kết 11 ngành, tính theo phân ngành là khoảng 110 trên tổng số 155
phân ngành theo phân loại của WTO. Về mức độ cam kết, Biểu cam kết dịch vụ đi
xa hơn BTA nhưng không nhiều. Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những
ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch v.v.., ta đều giữ được mức độ
cam kết gần như BTA. Riêng với viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, ta có một
số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với
định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này.
So với Trung Quốc, diện cam kết của ta
rộng hơn một ít (Trung Quốc cam kết 10 ngành và 99 phân ngành). Về mức độ
cam kết, có dịch vụ ta tiến hơn nhưng cũng có nhiều dịch vụ, trong đó có những
dịch vụ nhạy cảm, ta cam kết dưới mức của Trung Quốc. Vì vậy, xét về tổng thể
là tương đương. Đây là nỗ lực rất lớn của ta bởi ta gia nhập sau Trung Quốc 5
năm. Theo lệ thường của WTO, những nước gia nhập sau đều bị ép cam kết cao hơn
mức mà các thành viên đã đạt được với những nước đã gia nhập trước đó.
Nội dung cam kết cụ thể như sau:
1. Phần Cam kết
chung (còn gọi là Cam kết nền):
Phần này về cơ bản giống như BTA. Trước
hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi
nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể (những ngành
như vậy không nhiều). Ta cũng bảo lưu những ưu đãi đã dành cho các nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài trước khi Việt Nam gia nhập WTO để đảm bảo rằng hoạt động
kinh doanh của họ không bị ảnh hưởng bởi các cam kết trong Biểu cam kết dịch vụ.
Ngoài ra, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các
doanh nghiệp Việt Nam nhưng mức mua cổ phần trong từng ngành phải phù hợp với mức
độ cam kết của ngành đó trong Biểu cam kết dịch vụ (thí dụ, nếu ngành A ta chỉ
cho phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài thì tỷ lệ mua cổ phần của nước
ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam thuộc ngành đó cũng không được quá 51%).
Riêng ngân hàng, ta chỉ cho phép nước ngoài được mua tối đa 30% cổ phần.
Ta cho phép công ty nước ngoài đưa cán
bộ quản lý và các chuyên gia có trình độ cao vào làm việc tại Việt Nam theo
thông lệ của WTO nhưng tối thiểu 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người
Việt Nam. Ngoài ra, để được phép vào Việt Nam làm việc, ngoài việc tuân thủ các
quy định hiện hành của Việt Nam về thủ tục xuất nhập cảnh và lưu trú, cán bộ quản
lý mà công ty nước ngoài đưa vào phải đáp ứng được các tiêu chí được quy định rất
rõ tại phần Cam kết chung.
Một điểm khác với BTA là ta đồng ý cam
kết với đối tượng nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng (CSS) nhưng chỉ đối với dịch
vụ máy tính và dịch vụ tư vấn kỹ thuật. Nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng là
thể nhân nước ngoài sang Việt Nam cung cấp dịch vụ theo hợp đồng ký kết với tổ
chức, cá nhân Việt Nam. Hình thức cung cấp dịch vụ này hiện khá phổ biến ở nước
ta nhưng để bảo đảm sự chủ động cho ta trong việc ban hành các quy định về quản
lý, Biểu cam kết đưa ra những điều kiện rất chặt chẽ. Có ít nước mới gia nhập bảo
lưu được các điều kiện như vậy.
Ta bảo lưu được phạm vi trợ cấp tương
đối rộng, trong đó có trợ cấp để tạo công ăn việc làm cho đồng bào thiểu số, trợ
cấp vì mục tiêu nghiên cứu và phát triển, trợ cấp cho các doanh nghiệp cổ phần
hoá, v..v. Bảo lưu này rộng hơn nhiều so với cam kết của Trung Quốc khi gia nhập
WTO.
2. Phần Cam kết
cụ thể:
Phần này đưa ra cam kết cho 11 ngành dịch
vụ bao gồm: các dịch vụ kinh doanh, dịch vụ thông tin, xây dựng, phân phối,
giáo dục, dịch vụ môi trường, dịch vụ tài chính, y tế, du lịch, văn hoá giải
trí và dịch vụ vận tải. Trong từng ngành lại chia tiếp thành phân ngành và tiểu
ngành (xin tham khảo tài liệu giải thích kèm theo Tờ trình).
a. Dịch vụ kinh
doanh:
Theo phân loại của GATS, ngành dịch vụ
này được chia thành 46 phân ngành. Ta cam kết 26 phân ngành.
Dịch vụ pháp lý
Ta cam kết toàn bộ các dịch vụ được
phân loại vào dịch vụ pháp lý, ngoại trừ: (i) tham gia tố tụng với tư cách là
người bào chữa hoặc người đại diện cho khách hàng của mình trước tòa án; và
(ii) các dịch vụ về giấy tờ và chứng thực pháp lý trong phạm vi luật Việt Nam.
Tổ chức luật sư nước ngoài được hiện diện tại Việt Nam dưới các hình thức chi
nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài, công ty luật nước ngoài tại Việt Nam và hợp
danh giữa tổ chức luật sư nước ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam. Hiện diện
thương mại của tổ chức luật sư nước ngoài được tư vấn pháp luật Việt Nam nếu có
luật sư tư vấn tốt nghiệp đại học luật của Việt Nam và đáp ứng được các điều kiện
áp dụng cho các luật sư hành nghề của Việt Nam. Ta đồng ý dành đối xử quốc gia
cho hiện diện thương mại của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam.
Dịch vụ kế toán, kiểm
toán, dịch vụ thuế
Đối với dịch vụ kế toán, kiểm toán, ta
cho phép các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp dịch vụ qua biên giới
cho các tổ chức, cá nhân ở Việt Nam. Ngoài ra, các nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài được tự do lựa chọn hình thức hiện diện (trừ hình thức chi nhánh), phù hợp
với các quy định trong nước và được đối xử bình đẳng như các nhà cung cấp dịch
vụ Việt Nam. Đối với dịch vụ thuế, mức độ cam kết chặt hơn. Trong vòng 1 năm
sau khi gia nhập, việc cấp phép sẽ được thực hiện trên cơ sở xét duyệt theo từng
trường hợp. Cũng trong thời gian này, các công ty có vốn nước ngoài đã được cấp
phép cung cấp dịch vụ thuế cũng chỉ được cung cấp dịch vụ cho các công ty có vốn
nước ngoài và các dự án có sự tài trợ của nước ngoài tại Việt Nam.
Các cam kết này phù hợp với quy định
hiện hành và thực tế phát triển của thị trường các dịch vụ này trong nước hiện
nay. Để bảo đảm công tác quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực này, trong thời gian
tới sẽ tiếp tục ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán, kiểm toán, xây dựng
hệ thống chuẩn mực đầy đủ, góp phần tăng cường tính minh bạch, công khai và
lành mạnh của hệ thống tài chính kế toán của Việt Nam. Ngoài ra, sẽ tiếp tục
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với dịch vụ thuế.
Dịch vụ kiến trúc, dịch
vụ tư vấn kỹ thuật, dịch vụ quy hoạch đô thị và kiến trúc cảnh quan đô thị
Cam kết đối với những dịch vụ này thấp
hơn hiện trạng của ta. Đối với dịch vụ kiến trúc và dịch vụ tư vấn kỹ thuật, ta
cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được tự do lựa chọn hình thức hiện diện
(trừ hình thức chi nhánh) ngay khi ta vào WTO. Tuy nhiên, ta không cho các
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp Việt Nam
trong vòng 2 năm kể từ khi gia nhập WTO và bảo lưu quyền của Chính phủ Việt Nam
trong việc quyết định cấp phép cho các hoạt động liên quan đến khảo sát địa chất,
địa hình công trình v.v… Mức độ cam kết như vậy là tương đương với BTA. Với dịch
vụ quy hoạch đô thị và kiến trúc cảnh quan đô thị, ta không cho nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài tiếp cận một số địa bàn nhạy cảm ở Việt Nam và yêu cầu bằng cấp,
chứng chỉ hành nghề của kiến trúc sư chịu trách nhiệm trong các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải do Chính phủ Việt Nam cấp hay công nhận.
Dịch vụ máy tính
Ta cho phép các nhà cung cấp dịch vụ
nước ngoài được tự do lựa chọn hình thức hiện diện, kể cả hình thức chi nhánh để
cung cấp dịch vụ tại Việt Nam. Tuy nhiên, họ chỉ được thành lập chi nhánh 3 năm
sau khi Việt Nam gia nhập WTO với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người thường
trú tại Việt Nam. Ngoài ra, ta cũng duy trì hạn chế đối với các công ty 100% vốn
nước ngoài khi yêu cầu họ chỉ được cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Dịch vụ quảng cáo
Ta chỉ cho phép nhà cung cấp dịch vụ
nước ngoài được hiện diện ở Việt Nam dưới hình thức liên doanh. Việc quảng cáo
thuốc lá là không được phép. Đối với rượu, họ có thể quảng cáo nếu quy định hiện
hành của ta cũng cho phép các doanh nghiệp Việt Nam làm như vậy. Đây là điểm
khác so với BTA. Như BTA, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sẽ được thành lập
liên doanh 51% vốn nước ngoài kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Kể từ ngày
1/1/2009, hạn chế về vốn góp của nước ngoài trong liên doanh sẽ được xóa bỏ.
Dịch vụ nghiên cứu
phát triển, dịch vụ nghiên cứu thị trường, dịch vụ tư vấn quản lý
Đối với dịch vụ nghiên cứu phát triển,
ta chỉ cam kết cho lĩnh vực khoa học tự nhiên và không duy trì bất kỳ hạn chế
nào. Đối với dịch vụ nghiên cứu thị trường, ta không cho phép nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài tiến hành các hoạt động trưng cầu dân ý. Hình thức 100% vốn nước
ngoài được cho phép từ ngày 1/1/2009. Đối với dịch vụ tư vấn quản lý, ta cho
phép nước ngoài mở chi nhánh sau 3 năm kể từ khi gia nhập WTO với điều kiện trưởng
chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam.
Dịch vụ liên quan đến
tư vấn quản lý
Dịch vụ này bao gồm 2 tiểu ngành là dịch
vụ quản lý dự án và dịch vụ trọng tài và hoà giải. Đối với dịch vụ quản lý dự
án, ta cho phép các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thành lập liên doanh hay hợp
đồng hợp tác kinh doanh trong vòng 1 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Sau
đó, họ được cung cấp dịch vụ mà không phải chịu bất kỳ hạn chế nào khác (trừ
các quy định trong phần cam kết chung). Đối với dịch vụ trọng tài và hoà giải,
ta chỉ cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tham gia hòa giải các tranh chấp
thương mại. Tuy nhiên, 3 năm sau khi ta gia nhập WTO họ mới được cung cấp dịch
vụ này. Ngoài ra, với cả 2 tiểu ngành, ta đều cho phép hiện diện dưới hình thức
chi nhánh 3 năm sau khi ta vào WTO với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người
thường trú tại Việt Nam.
Tác động đối với dịch vụ quản lý dự án
sẽ không lớn bởi lẽ ta đã và đang cho phép các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
kinh doanh tại Việt Nam. Với dịch vụ trọng tài và hoà giải, ta cần bổ sung thêm
các quy định về quản lý. Ta yêu cầu thời gian chuyển đổi 3 năm là vì vậy.
Dịch vụ phân tích và
kiểm định kỹ thuật
Ta không đưa ra cam kết đối với dịch vụ
kiểm định và đăng kiểm phương tiện vận tải. Theo quy định của GATS, ta không có
nghĩa vụ phải mở cửa các dịch vụ được cung cấp để thực thi thẩm quyền của Chính
phủ. Tuy nhiên, nếu ta cho phép các doanh nghiệp trong nước được tham gia
cung cấp các dịch vụ này thì sau một thời gian chuyển đổi, ta sẽ cho phép nước
ngoài được tham gia. Cam kết này là hoàn toàn phù hợp với chính sách hiện hành.
Dịch vụ liên quan đến
nông nghiệp, săn bắn và lâm nghiệp, dịch vụ thú y
Đối với dịch vụ liên quan đến nông
nghiệp, săn bắn và lâm nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành
lập liên doanh 51% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, họ không được cung cấp một số dịch
vụ nhạy cảm như đánh giá và khai thác rừng tự nhiên, săn bắn, đánh bẫy động vật
quý hiếm hoang dã, chụp ảnh hàng không, quản lý quỹ gien cây trồng, vật nuôi
v.v.. Ngoài ra, họ cũng không được phép tiếp cận một số địa bàn nhạy cảm tại Việt
Nam. Đối với dịch vụ thú y, ta chỉ cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vào
Việt Nam với tư cách cá nhân sau khi đã được cơ quan phụ trách về thú y của ta
chấp thuận.
Dịch vụ liên quan đến
khai thác mỏ, dịch vụ liên quan tư vấn khoa học kỹ thuật
Theo cách phân loại mới nhất trong
Vòng đàm phán Đô-ha, các dịch vụ này được đưa vào nhóm dịch vụ hỗ trợ khai thác
dầu khí. Trong BTA ta không cam kết các dịch vụ này nhưng do đây là trọng tâm của
Vòng Đô-ha nên hầu hết các đối tác đàm phán chủ chốt đều yêu cầu ta cam kết. Cuối
cùng, ta đồng ý cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty
100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để cung ứng các dịch vụ hỗ trợ
cho khai thác dầu khí. Tuy nhiên, ta vẫn giữ quyền quản lý các hoạt động trên
biển, thềm lục địa và quyền chỉ định công ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Ta
cũng bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các doanh nghiệp Việt
Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và các vật phẩm cho dàn
khoan xa bờ v.v. . Đặc biệt, các thành viên WTO đã chấp nhận tất cả các công ty
vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Đây là cam kết tốt, tạo điều kiện cho ta kiểm soát các công
ty vào Việt Nam trong tương lai (hiện nay ta không có chế độ đăng ký này).
Cam kết sẽ có những tác động tích cực
nhất định. Với mức mở cửa theo lộ trình hợp lý sẽ khuyến khích các công ty kỹ
thuật dầu khí nước ngoài vào Việt Nam đầu tư và mở rộng kinh doanh nhưng không ảnh
hưởng nhiều đến các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thông qua các hình thức
liên doanh và hợp tác kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam có thể học hỏi kinh
nghiệm từ các đối tác nước ngoài và mở rộng khả năng cung cấp dịch vụ của mình.
Tuy nhiên, để hoạt động kinh doanh các dịch vụ này diễn ra hiệu quả tại Việt
Nam, ta sẽ phải bổ sung, ban hành một số quy định pháp luật liên quan theo hướng
phù hợp với cam kết đưa ra trong Biểu cam kết dịch vụ.
Dịch vụ liên quan đến
sản xuất, dịch vụ sửa chữa thiết bị
Đối với dịch vụ liên quan đến sản xuất,
sau 3 năm kể từ khi gia nhập WTO, ta cho phép thành lập liên doanh 50% vốn nước
ngoài. Sau đó 5 năm, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập công
ty 100% vốn. Đối với dịch vụ sửa chữa thiết bị, ta loại trừ khỏi phạm vi cam kết
dịch vụ sửa chữa tàu biển và các phương tiện vận tải khác (sửa chữa máy bay có
cam kết riêng). Tuy nhiên, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được thành lập liên
doanh 49% vốn nước ngoài kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Sau 3 năm kể từ khi
gia nhập WTO, họ được nâng tỷ lệ vốn góp trong liên doanh lên 51% và được thành
lập công ty 100% vốn nước ngoài sau đó 2 năm.
b. Dịch vụ thông tin:
Dịch vụ chuyển phát
nhanh
Dịch vụ chuyển phát nhanh là dịch vụ mới
nhưng phát triển rất nhanh tại Việt Nam trong thời gian qua. Ta đã cho phép nhiều
công ty chuyển phát hàng đầu thế giới như DHL, UPS, TNT, Fedex v.v… tham gia
cung cấp dịch vụ trên thị trường Việt nam. Có công ty đã được ta cho phép thành
lập liên doanh với đa số vốn và nắm quyền kiểm soát. Dịch vụ này ta không cam kết
trong BTA.
Trong đàm phán gia nhập WTO, ta
đồng ý cho phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài ngay khi gia nhập và
cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài 5 năm sau khi gia nhập. Ngoài
ra, để tạo điều kiện cho Bưu chính Việt nam phát triển ổn định sau khi tách khỏi
lĩnh vực viễn thông, ta đã bảo lưu một mảng dịch vụ chuyển phát nhanh dành
riêng cho Bưu chính Việt nam kinh doanh. Ta cũng cam kết không phân biệt đối xử
giữa các dịch vụ chuyển phát nhanh và các nhà cung cấp dịch vụ chuyển phát
nhanh, kể cả Bưu chính Việt nam, đối với các loại hình dịch vụ chuyển phát
nhanh đã cho phép cạnh tranh.
Như vậy, cam kết mở cửa thị trường dịch
vụ chuyển phát nhanh đã chính thức hoá thực tế mở cửa thị trường cho đầu tư nước
ngoài và đưa ra lộ trình phù hợp tiến tới xoá bỏ hoàn toàn hạn chế vốn nước
ngoài. Các công ty hàng đầu nước ngoài, thực chất chỉ có một vài tập đoàn đa quốc
gia, với truyền thống và năng lực kỹ thuật vượt trội sẽ tiếp tục chiếm ưu thế ở
thị trường chuyển phát nhanh quốc tế và mảng thị trường chất lượng cao. Khách
hàng chính của họ vẫn là các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Các công ty Việt Nam vẫn có cơ hội phát triển ở thị trường chuyển phát trong nước
và mảng thị trường chất lượng trung bình, khách hàng đại chúng.
Dịch vụ viễn thông
Thị trường dịch vụ viễn thông đã phát
triển khá năng động trong thời gian qua với sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế. Nhiều doanh nghiệp viễn thông mới đã tham gia đầy đủ thị trường dịch vụ
viễn thông và đang nhanh chóng khẳng định chỗ đứng trên thị trường. Tốc độ tăng
trưởng cao được duy trì liên tục qua nhiều năm. Mạng lưới được mở rộng nhanh
chóng và hiện đại hoá theo kịp trình độ các nước trong khu vực. Các doanh nghiệp
cũng ngày càng quen hơn với văn hoá cạnh tranh và ngày càng chú trọng đổi mới tổ
chức sản xuất-kinh doanh để nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ. Thực tế,
giá cước dịch vụ tuy còn cao nhưng đã liên tục giảm, các loại hình dịch vụ ngày
càng đa dạng.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia
thị trường dịch vụ viễn thông với hơn 1 tỷ USD dưới hình thức hợp đồng hợp tác
kinh doanh (BCC) từ rất sớm. Hiệp định BTA với Hoa Kỳ có hiệu lực năm 2001 đã
đưa ra lộ trình cho phép các nhà đầu tư Hoa Kỳ tham gia thị trường dịch vụ viễn
thông theo hình thực liên doanh từ năm 2001. Mức cam kết mở cửa thị trường dịch
vụ viễn thông trong BTA là tương đương mức cam kết gia nhập WTO của Trung Quốc.
Hiệp định tiếp cận thị trường Việt nam - EU có hiệu lực từ đầu năm 2005 cũng đã
cho phép các nhà đầu tư EU tham gia thị trường dịch vụ viễn thông như các nhà đầu
tư Hoa Kỳ.
Môi trường pháp lý chuyên ngành về viễn
thông và Internet đã tương đối hoàn chỉnh với Pháp lệnh Bưu chính viễn thông và
các Nghị định hướng dẫn. Các văn bản này về cơ bản đã phù hợp với những nguyên
tắc và nghĩa vụ cơ bản chung của một nước thành viên WTO. Quy định về đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông hiện tuân theo các quy định chung của
pháp luật về đầu tư nước ngoài.
Trong đàm phán gia nhập WTO, dịch vụ
viễn thông đã chịu sức ép mở cửa rất lớn, đặc biệt từ phía các thành viên chủ
chốt của WTO như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc .. . Dựa trên triển vọng kết quả
Vòng đàm phán Đô-ha và mức cam kết của các nước mới gia nhập WTO như
Căm-pu-chia, Gioóc-đa-ni, Ả-rập Xê-út, v.v. các nước đã yêu cầu Việt Nam cam kết
lộ trình xoá bỏ mọi hạn chế về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Mức
cam kết của Việt Nam trong BTA được các nước coi là mức khởi điểm để đàm phán.
Đàm phán dịch vụ viễn thông đã được thực
hiện theo quan điểm chỉ đạo như sau:
Hạn chế tối đa nhân nhượng trong lĩnh
vực thiết lập mạng, giữ nguyên mức cam kết đối với các dịch vụ có gắn với hạ tầng
mạng như trong BTA nhằm giữ quyền kiểm soát mạng viễn thông và qua đó có khả
năng kiểm soát lợi ích quốc gia, đảm bảo an ninh thông tin liên lạc;
Đối tác nước ngoài không cung cấp dịch
vụ vệ tinh trực tiếp đến khách hàng đại chúng trên lãnh thổ Việt Nam nhằm giảm
tối đa rủi ro thông tin vệ tinh qua biên giới bị lạm dụng;
Có thể có một số linh hoạt trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ không có mạng lưới;
Đưa ra các nhân nhượng về dịch vụ viễn
thông trong gói cam kết tổng thể kết thúc đàm phán song phương, giảm tối đa việc
phải nhân nhượng về viễn thông và các dịch vụ nhạy cảm khác.
Cam kết gia nhập WTO về dịch vụ viễn
thông đã bám sát các nguyên tắc chỉ đạo trên:
Cung cấp dịch vụ viễn
thông có hạ tầng mạng: ta không có nhân nhượng thêm so với mức cam kết
trong BTA với Hoa Kỳ. Trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông cơ bản, bên nước ngoài
chỉ được phép đầu tư dưới hình thức liên doanh với nhà khai thác Việt Nam đã được
cấp phép, vốn góp tối đa là 49% vốn pháp định của liên doanh.
Cung cấp dịch vụ viễn
thông không có hạ tầng mạng: trong 3 năm đầu sau khi gia nhập WTO bên
nước ngoài chỉ được phép đầu tư dưới hình thức liên doanh với nhà khai thác Việt
nam đã được cấp phép, vốn góp tối đa là 51% vốn pháp định của liên doanh. 3 năm
sau khi gia nhập bên nước ngoài mới được phép tự do lựa chọn đối tác khi thành
lập liên doanh và được phép nâng mức vốn góp lên mức 65%.
Riêng đối với dịch vụ mạng riêng ảo
(VPN) và dịch vụ viễn thông gia tăng giá trị (trừ dịch vụ truy nhập Internet -
IAS) mà Hoa Kỳ và EU có mối quan tâm đặc biệt, được cung cấp trên hạ tầng mạng
do Việt Nam kiểm soát, ta có nhân nhượng ở mức: được tự do lựa chọn đối tác
liên doanh ngay sau khi gia nhập và với dịch vụ mạng riêng ảo (VPN), được phép
tham gia vốn tối đa ở mức 70% vốn pháp định của liên doanh.
Cung cấp dịch vụ viễn
thông qua biên giới: ta cam kết 3 năm sau khi gia nhập sẽ cho phép các công
ty đa quốc gia hoạt động tại Việt nam, nếu thoả mãn điều kiện cấp phép, được sử
dụng trực tiếp dịch vụ vệ tinh của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Ta cũng
cam kết cho phép bên nước ngoài được kết nối dung lượng cáp quang biển (dung lượng
toàn chủ) của các tuyến cáp quang biển mà Việt nam là thành viên với các trạm cập
bờ của Việt nam và bán dung lượng truyền dẫn này cho các nhà cung cấp dịch vụ
viễn thông quốc tế có hạ tầng mạng được cấp phép tại Việt Nam như VNPT,
Viettel, VP Telecom). 4 năm sau khi gia nhập, bên nước ngoài được phép bán dung
lượng nêu trên cho các nhà cung cấp dịch vụ mạng riêng ảo và dịch vụ kết nối
Internet (IXP) quốc tế được cấp phép (như FPT, VNPT, Viettel, VP Telecom).
So với Trung Quốc, ta không cho phép
nhà đầu tư nước ngoài được tự do lựa chọn đối tác liên doanh đối với dịch vụ có
gắn với hạ tầng mạng. Đây là hạn chế rất quan trọng, qua hạn chế này ta loại trừ
sự khống chế của doanh nghiệp nước ngoài đối với các dịch vụ này. Tuy xét tổng
thể mức cam kết gia nhập WTO của Việt Nam có cao hơn so với mức cam kết gia nhập
WTO của Trung Quốc năm 2001 nhưng thấp hơn nhiều mức cam kết của các nước gia
nhập WTO sau Trung Quốc. Việt Nam đã có một số nhân nhượng phù hợp về mở cửa thị
trường viễn thông theo yêu cầu của các thành viên WTO trong lĩnh vực cung cấp dịch
vụ viễn thông không có hạ tầng mạng và trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ qua biên
giới (dịch vụ viễn thông quốc tế) để đổi lấy việc bảo lưu hạn chế “nước ngoài
phải liên doanh với đối tác Việt nam đã được cấp phép và bảo lưu hạn chế “mức vốn
góp nước ngoài tối đa là 49% trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản
có hạ tầng mạng”. Những nhân nhượng về dịch vụ vệ tinh và dịch vụ cáp quang biển
cung cấp qua biên giới chỉ cho phép phía nước ngoài được phép sở hữu toàn phần
dung lượng thuộc hệ thống truyền dẫn không nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam
vẫn bảo lưu được quyền kiểm soát Nhà nước đối với hạ tầng mạng viễn thông trên
lãnh thổ Việt Nam và qua đó giữ được quyền kiểm soát nhất định đối với thị trường
dịch vụ và an ninh thông tin. Việt Nam chưa cho phép thành lập công ty 100% vốn
nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Các công ty nước ngoài vẫn phải hợp tác với
các công ty trong nước để cung cấp dịch vụ.
Dịch vụ nghe nhìn
Trong đàm phán gia nhập WTO, ta phải đối
diện với hai luồng quan điểm trái ngược. Hoa Kỳ và một số đối tác có thế mạnh về
dịch vụ nghe nhìn muốn ta cam kết tự do dịch vụ này trong khi EU đề nghị ta
không đưa vào cam kết. Cuối cùng, ta đưa ra cam kết về dịch vụ nghe nhìn nhưng
chỉ ở mức tương đương BTA. Yêu cầu kiểm duyệt được nhấn mạnh trong tất cả các dịch
vụ sản xuất, phân phối và chiếu phim.
Cam kết này nhìn chung không ảnh hưởng
nhiều đến thị trường dịch vụ nghe nhìn tại Việt Nam. Thực tế cho thấy sự sôi động
của thị trường nghe nhìn 5 năm qua không phải là do thực thi BTA mà do những
nguyên nhân từ sự quản lý của ta. Cam kết về dịch vụ nghe nhìn trong WTO sẽ
không gây ra biến động cho thị trường dịch vụ nghe nhìn. Tuy nhiên, về mặt pháp
luật, ta vẫn cần bảo đảm cho các quy định hiện hành phù hợp với cam kết đã đưa
ra trong Biểu cam kết. Vì vậy, sẽ phải rà soát lại các quy định, kể cả Luật Điện
ảnh để điều chỉnh một số nội dung khác với cam kết đã đưa ra, nếu có.
c. Dịch vụ xây dựng
Mức độ cam kết được giữ như BTA nhưng
bổ sung thêm nội dung về chi nhánh. Cụ thể, sau 3 năm kể từ khi gia nhập WTO,
ta cho phép thành lập chi nhánh với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người
thường trú tại Việt Nam. Nhìn chung, cam kết đối với dịch vụ xây dựng là phù hợp
với hiện trạng tại Việt Nam.
d. Dịch vụ phân phối
Cam kết trong dịch vụ này về cơ bản giữ
được như BTA và chặt so với các nước mới gia nhập. Trước hết, thời điểm cho
phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là như BTA (1/1/2009). Thứ hai,
tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm,
sách, báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước
ngoài (Trung Quốc chỉ bảo lưu được thuốc lá và muối). Nhiều sản phẩm nhạy cảm
như sắt thép, phân bón, ximăng .. ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. Quan trọng
nhất, ta hạn chế khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (mở từ điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường
hợp cụ thể). Trung Quốc không bảo lưu hạn chế này.
Mức cam kết trên thấp hơn hiện trạng của
ta. Trên thực tế, ta đã cho phép một số tập đoàn phân phối lớn thành lập siêu
thị 100% vốn nước ngoài và mở hàng loạt các siêu thị tại các tỉnh, thành phố ở
Việt Nam. Tuy nhiên, với việc giữ được hạn chế về mở điểm bán lẻ, Biểu cam kết
dịch vụ đã giữ được cho ta một công cụ kiểm soát. Ta nên tận dụng công cụ này để
hỗ trợ cho các nhà phân phối trong nước. Về mặt này, Chính phủ đã xây dựng và
ban hành các Nghị định liên quan.
e. Dịch vụ giáo dục
Phạm vi cam kết rộng hơn so với BTA
nhưng vẫn thấp hơn hiện trạng của ta và hoàn toàn phù hợp với chủ trương xã hội
hoá giáo dục hiện nay. Ta cam kết dịch vụ giáo dục phổ thông cơ sở nhưng chỉ đối
với phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ (phương thức 2), tức là cho phép người
Việt Nam được ra nước ngoài học tập, kể cả ở bậc phổ thông. Cam kết này không ảnh
hưởng đến dịch vụ giáo dục phổ thông của Việt Nam. Các cơ sở đào tạo có vốn nước
ngoài mà ta cho phép hiện diện tại Việt Nam trong Biểu cam kết dịch vụ (giáo dục
đại học, giáo dục cho người lớn, dạy nghề v.v.) phải tuân thủ các yêu cầu đối với
giáo viên nước ngoài, chương trình đào tạo phải được Bộ Giáo dục và Đào tạo của
Việt Nam phê chuẩn.
Các hạn chế mà hiện nay ta không duy
trì trên thực tế được đưa vào Biểu cam kết để bảo đảm chủ động cho ta. Sau này,
ta có sử dụng các công cụ đó hay không là quyền của ta.
f. Dịch vụ môi trường
Ta không cam kết dịch vụ này trong
BTA. Trong đàm phán gia nhập WTO, ta đưa ra cam kết đối với các dịch vụ xử lý
nước thải, xử lý rác thải, làm sạch khí thải, xử lý tiếng ồn và đánh giá tác động
của môi trường. Đối với những dịch vụ này, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
được phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài trong vòng 4 năm kể từ khi
gia nhập WTO. Sau thời gian này, họ được quyền tự do lựa chọn hình thức pháp
nhân (trừ chi nhánh) để cung cấp dịch vụ tại Việt Nam. Tuy nhiên, họ phải chịu
một số quy định mà ta đã bảo lưu trong Biểu cam kết dịch vụ như dành độc quyền
và đặc quyền cho các nhà khai thác tư nhân của Việt Nam đối với các dịch vụ
cung cấp để thực thi thẩm quyền của Chính phủ, không được thu gom rác thải trực
tiếp từ các hộ gia đình, không được tiếp cận một số khu vực nhạy cảm ở Việt
Nam.
Các cam kết đưa ra tại dịch vụ môi trường
là phù hợp với chủ trương và chính sách hiện hành của ta. Các cam kết này không
quá chặt chẽ, vừa tạo sức hấp dẫn cho đầu tư nước ngoài, vừa tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp Việt Nam vươn lên khi ta mở cửa thị trường.
g. Dịch vụ tài chính
Dịch vụ bảo hiểm
Đây là dịch vụ mà các Thành viên WTO
quan tâm và yêu cầu cao về mức độ mở cửa thị trường cho các công ty bảo hiểm nước
ngoài, đặc biệt là yêu cầu cho phép thành lập chi nhánh trực tiếp. Tuy nhiên, mức
cam kết của ta đạt được trong Biểu cam kết là chặt chẽ, thấp hơn so với mức cam
kết của một số nước mới gia nhập WTO gần đây. Cụ thể, ta cho phép nhà cung cấp
dịch vụ bảo hiểm ở nước ngoài cung cấp qua biên giới một số loại hình dịch vụ bảo
hiểm như bảo hiểm cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài
làm việc tại Việt Nam, tái bảo hiểm, bảo hiểm đối với vận tải quốc tế, v.v..
Ngoài ra, các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài được thành lập công ty bảo
hiểm 100% vốn nước ngoài ngay khi ta gia nhập WTO. Họ cũng được quyền cung cấp
các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc kể từ ngày 1/1/2008 và thành lập chi nhánh bảo hiểm
phi nhân thọ sau 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO.
Về tổng thể, mức cam kết như trên là
tương đương với BTA. Điểm khác duy nhất là ta mở thêm cho chi nhánh bảo hiểm
phi nhân thọ, trên cơ sở cân nhắc khả năng quản lý, giám sát, mức độ ảnh hưởng
đối với nền kinh tế và đặc biệt là yêu cầu đảm bảo quyền lợi của người mua bảo
hiểm. Cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm trong nước thời gian tới có thể sẽ
sôi động hơn. Trên thực tế thị trường bảo hiểm đã được mở cửa cho các công ty bảo
hiểm 100% vốn nước ngoài từ năm 1999. Nhiều công ty bảo hiểm lớn trên thế giới
đã có mặt tại thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên, để kiện toàn hơn nữa khuôn
khổ pháp lý điều chỉnh lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm, trong thời gian tới Chính phủ
sẽ tiến hành rà soát, điều chỉnh một số quy định trong nước để thực thi cam kết
gia nhập WTO và đặc biệt là đẩy mạnh công tác quản lý giám sát của Nhà nước đối
với hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo các nguyên tắc và chuẩn mực quản lý bảo
hiểm quốc tế.
Dịch vụ ngân hàng
Đàm phán dịch vụ ngân hàng khá gay go,
quyết liệt do đây là lĩnh vực nhạy cảm đối với ta trong khi các thành viên rất
quan tâm. Dù phải chịu sức ép khá lớn từ các thành viên nhưng ta đã đạt được
cam kết hợp lý, cân bằng và phù hợp với chủ trương của Chính phủ. Ta đã giữ được
những hạn chế quan trọng quy định trong BTA như không cho phép chi nhánh ngân
hàng nước ngoài mở điểm giao dịch ngoài trụ sở chi nhánh, hạn chế các tổ chức
tín dụng nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại quốc doanh cổ phần
hoá, chưa tự do hoá các giao dịch vốn, v.v… Ta bổ sung thêm một số hạn chế quan
trọng để tăng thêm hiệu quả quản lý Nhà nước đối với thị trường ngân hàng khi
ta gia nhập WTO. Các hạn chế đáng chú ý là: đưa ra yêu cầu về tổng tài sản của
các tổ chức tín dụng nước ngoài muốn kinh doanh tại Việt Nam, không cho phép
các tổ chức, cá nhân nước ngoài mua quá 30% tổng số cổ phần của các ngân hàng
thương mại, trừ khi pháp luật Việt Nam có quy định khác hoặc được sự chấp thuận
của cơ quan có thẩm quyền.
Ta có nới lỏng một số hạn chế nhưng đều
phù hợp với thực trạng của ngành và chủ trương của Chính phủ. Chẳng hạn như cho
phép các ngân hàng nước ngoài thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài từ 1
tháng 4 năm 2007 (sớm hơn BTA khoảng 3 năm), đẩy nhanh lộ trình cho phép các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài được huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam tại Việt
Nam. Thực ra, các quy định này đã được ta cho phép thông qua các văn bản pháp
luật mới được ban hành gần đây.
So với Trung Quốc và một số nước mới
gia nhập WTO gần đây, cam kết về dịch vụ ngân hàng của ta chặt chẽ hơn. Với mức
cam kết như vậy, mức độ ảnh hưởng đối với ngành ngân hàng của Việt Nam sẽ không
quá lớn. Khác với kinh doanh chứng khoán, kinh doanh ngân hàng ở ta đã hình
thành từ lâu và tất cả các ngân hàng đều đã có kinh nghiệm cạnh tranh, kể cả cạnh
tranh với ngân hàng nước ngoài. Năng lực giám sát và quản lý cũng đã có nhiều
tiến bộ, nhiều chuẩn mực quốc tế đã được áp dụng. Ta lại giữ được hạn chế về mức
mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài nên tuy sức ép cạnh tranh có thể sẽ tăng
thêm, nhất là trong lĩnh vực bán lẻ, nhưng không có lý do để lo ngại về một sự
“đổ vỡ” hoặc “thôn tính” trong lĩnh vực ngân hàng.
Dịch vụ chứng khoán
Đây là ngành dịch vụ mới bắt đầu hình
thành ở Việt Nam nhưng được nhiều thành viên WTO, nhất là các Thành viên có hệ
thống tài chính phát triển, quan tâm và đặt yêu cầu cao về mở cửa thị trường.
Cam kết của ta trong BTA trước đây về dịch vụ chứng khoán là chưa đáng kể và
chưa bao quát hết các yếu tố của thị trường dịch vụ chứng khoán do vào thời điểm
đó thị trường chứng khoán chưa được hình thành. Trong đàm phán gia nhập WTO, ta
đã đồng ý cho phép các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán cung cấp qua biên giới
một số dịch vụ liên quan đến chứng khoán như thông tin tài chính, tư vấn tài
chính, các dịch vụ trung gian và hỗ trợ kinh doanh chứng khoán v.v… Ngoài ra,
ta cũng cho phép thành lập liên doanh 49% vốn nước ngoài ngay từ khi gia nhập
WTO. Sau đó 5 năm, ta cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài và chi
nhánh để cung cấp dịch vụ chứng khoán đối với một số loại hình dịch vụ như quản
lý tài sản, thanh toán, tư vấn liên quan đến chứng khoán, trao đổi thông tin
tài chính.
Nhìn chung, các cam kết về dịch vụ chứng
khoán là phù hợp với Luật chứng khoán mới được ban hành và định hướng phát triển
của ngành này. Để thực thi hiệu quả các cam kết đã đưa ra, trong thời gian tới
Chính phủ sẽ tiếp tục xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán
trong đó đặc biệt chú trọng đến các nội dung hướng dẫn cụ thể việc tham gia của
bên nước ngoài như thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi
nhánh.
h) Dịch vụ y tế
Mức độ cam kết như BTA, chỉ khác điểm
duy nhất là ta giảm mức vốn yêu cầu để thành lập cơ sở điều trị chuyên khoa từ
1 triệu USD xuống còn 200.000 USD. Các yêu cầu về vốn tối thiểu đã được ta bãi
bỏ trên thực tế nên việc điều chỉnh nói trên không gây ảnh hưởng gì. Tuy nhiên,
nếu ta cần đến công cụ này, ta vẫn có thể sử dụng lại.
i. Dịch vụ du lịch
Đàm phán rất khó khăn nhưng về tổng thể
ta đã giữ được như BTA. Đối với dịch vụ khách sạn-nhà hàng, trong vòng 8 năm kể
từ khi gia nhập, ta yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, nếu muốn cung
cấp dịch vụ, phải đầu tư xây dựng, nâng cấp, cải tạo hoặc mua lại khách sạn.
Quy định này nhằm khuyến khích các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bỏ vốn đầu
tư để nâng cấp hệ thống khách sạn của ta. Đối với dịch vụ lữ hành-điều hành
tour du lịch, ta cho phép thành lập liên doanh không hạn chế vốn góp nước
ngoài. Tuy nhiên, ta không cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài.
Ngoài ra, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài không được phép cung cấp dịch vụ
đưa khách ra nước ngoài (outbound) và dịch vụ lữ hành nội địa (domestic). Họ chỉ
được cung cấp dịch vụ lữ hành nội địa như là một phần của các dịch vụ đưa khách
vào Việt Nam. Cam kết như vậy về du lịch là chặt và hoàn toàn phù hợp với luật
pháp hiện hành của ta.
j. Dịch vụ văn hoá,
giải trí
Dịch vụ này không cam kết trong BTA.
Trong WTO, ta chỉ cam kết dịch vụ giải trí (bao gồm nhà hát, nhạc sống và xiếc)
và dịch vụ trò chơi điện tử với mức độ cam kết rất chặt chẽ. Nước ngoài chỉ được
góp tối đa là 49% vốn trong liên doanh. Đặc biệt, ta không cam kết gì về cung cấp
qua biên giới để bảo đảm cho Nhà nước quyền chủ động trong việc đưa ra các quy
định về quan lý dịch vụ giải trí trên mạng Internet.
k. Dịch vụ vận tải
Dịch vụ vận tải biển
và hỗ trợ vận tải biển
Ta chỉ cho phép các nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hoá qua biên giới, không cam kết
về vận chuyển hành khách qua biên giới. Tuy nhiên, họ sẽ được cung cấp đầy đủ
các dịch vụ này thông qua hình thức hiện diện thương mại. Cụ thể, họ được phép
thành lập liên doanh 49% vốn nước ngoài sau 2 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập
WTO để cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hóa và hành khách. Liên doanh được khai
thác đội tàu mang cờ quốc tịch Việt Nam, ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá,
hành khách cho các khách hàng trong và ngoài nước trên cơ sở tuân thủ quy định
trong nước và không phân biệt đối xử.
Trong trường hợp một số hãng tàu nước
ngoài muốn cung cấp một số hoạt động trên bờ để phục vụ cho hàng hoá do chính hãng
tàu vận chuyển thì họ được phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài kể từ
ngày ta vào WTO để thực hiện các hoạt động đó. Do các hoạt động này phần nào
trùng lặp với hoạt động đại lý tàu biển và đại lý vận tải đường biển, một ngành
nhạy cảm đối với ta nên ta đã đưa ra những hạn chế rất chặt trong Biểu cam kết.
Nguyên tắc là hãng tàu sẽ được thực hiện thêm một số hoạt động trên bờ nhưng chỉ
để phục vụ cho hãng của mình và cũng chỉ được làm đầy đủ các hoạt động sau 5
năm.
Ta cam kết thêm một số dịch vụ hỗ trợ
vận tải biển như dịch vụ xếp dỡ côngtenơ, dịch vụ thông quan, dịch vụ bãi
côngtennơ. Đối với các dịch vụ này, ta yêu cầu nước ngoài phải liên doanh trong
thời gian từ 5 đến 7 năm. Có những dịch vụ ta không cho phép hiện diện dưới
hình thức 100% vốn.
Các cam kết của ta về dịch vụ vận tải
biển và hỗ trợ vận tải biển như vậy là khá chặt chẽ, nhiều chỗ thấp hơn hiện
hành. Thời hạn chuyển đổi 5-7 năm là đủ dài để các doanh nghiệp trong nước tự
điều chỉnh và vươn lên để đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài.
Dịch vụ vận tải đường
bộ
Ta không cam kết về cung cấp dịch vụ vận
tải hàng hoá và hành khách qua biên giới. Ta cho phép thành lập liên doanh 49%
vốn nước ngoài hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để cung cấp dịch vụ vận tải
hàng hoá và hành khách tại Việt Nam. Sau 3 năm kể từ khi gia nhập, ta cho phép
thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài để vận tải hàng hóa nhưng trên cơ sở
"kiểm tra nhu cầu kinh tế" (nói một cách khác là "theo từng trường
hợp cụ thể"). Hạn chế này cho phép ta quyết định việc cấp phép phụ thuộc
vào sự phát triển của thị trường trong nước. Đồng thời, để bảo đảm việc làm cho
đội ngũ lái xe và không gây xáo trộn về thị trường lao động trong ngành, ta yêu
cầu 100% lái xe của các liên doanh phải là công dân Việt Nam.
Dịch vụ vận tải đường
thuỷ nội địa, đường sắt và hàng không
Tương tự như dịch vụ vận tải đường bộ,
ta chưa cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp dịch vụ vận chuyển
hàng hoá và hành khách qua biên giới. Với dịch vụ vận tải đường thuỷ, ta cho
phép thành lập liên doanh 49% vốn nước ngoài kể từ khi gia nhập WTO. Với dịch vụ
vận tải đường sắt, ta cho phép thành lập liên doanh 49% vốn nước ngoài nhưng chỉ
được vận tải hàng hoá.
Theo quy định của WTO, các hoạt động vận
chuyển hàng hoá và hành khách theo đường hàng không không thuộc phạm vi điều chỉnh
của WTO. Các dịch vụ phụ trợ cho vận tải đường hàng không thuộc phạm vi điều chỉnh
của WTO gồm: dịch vụ bán và tiếp thị sản phẩm hàng không, dịch vụ đặt giữ chỗ bằng
máy tính và dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng máy bay. Đối với dịch vụ bán và tiếp
thị sản phẩm hàng không, dịch vụ đặt giữ chỗ bằng máy tính, ta cam kết theo thực
tế hiện hành. Đối với dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng máy bay, ta cho phép thành
lập liên doanh 51% vốn nước ngoài kể từ khi gia nhập WTO. Sau 5 năm kể từ khi
gia nhập WTO, ta cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài.
3. Danh mục miễn trừ tối huệ quốc:
Ta bảo lưu ngoại lệ MFN (có thể phân
biệt đối xử) trong một số lĩnh vực. Thứ nhất là các Hiệp định bảo hộ đầu tư
song phương (BIT) mà ta đã ký với các nước. Theo biện pháp bảo lưu này, ta có
quyền không dành những ưu đãi theo một số Hiệp định đầu tư song phương cho toàn
bộ các Thành viên WTO. Trong các nước mới gia nhập gần đây, chỉ có Việt Nam giữ
được bảo lưu này.
Thứ hai là dịch vụ nghe nhìn. Theo biện
pháp bảo lưu này, ta có quyền phân biệt đối xử giữa các Thành viên WTO trong
các hoạt động như sản xuất, phát hành, chiếu các chương trình truyền hình, phim
truyện v.v… Biện pháp bảo lưu này giúp ta dành những ưu đãi nhất định cho các
Thành viên WTO đã ký với ta các hiệp định về hợp tác văn hoá.
Cuối cùng là dịch vụ vận tải biển. Ta
bảo lưu sự phân biệt đối xử trong các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh
của các công ty con của các hãng tàu nước ngoài được quy định theo các Hiệp định
song phương mà Việt Nam ký với các nước; tuy nhiên, biện pháp này chỉ được duy
trì không quá 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. Ngoài ra, ta cũng bảo lưu một số ưu
đãi dành cho Singapore theo Hiệp định vận tải ký giữa hai nước; thời hạn bảo
lưu không quá 10 năm kể từ khi gia nhập WTO.
Phần 3
ĐÁNH
GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO
Phần này đưa ra những đánh giá tổng thể
về tác động của việc gia nhập WTO đối với nước ta. Một số đánh giá như vậy đã
được trình bày tại mục IV của Phần thứ nhất (về sự cần thiết, cơ hội và thách
thức của việc gia nhập WTO). Ngoài ra, trong một số đoạn giải trình về cam kết
đa phương và cam kết dịch vụ cũng đã báo cáo sơ bộ về tác động của cam kết đối
với lĩnh vực có liên quan.
1. Về chính trị và an
ninh quốc gia:
WTO tôn trọng thể chế chính trị và an ninh quốc
gia của các thành viên, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. WTO cũng tôn trọng nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi và những nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật quốc tế.
Các quy định của WTO không trái với quy định của Hiến pháp nước ta. Việc gia nhập
WTO, như đã trình bày, là phù hợp với lợi ích quốc gia và đường lối đối ngoại của
ta. Vì vậy, việc gia nhập WTO không ảnh hưởng đến thể chế chính trị của ta.
WTO cho phép các thành viên được duy trì bất
kỳ biện pháp nào để bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy,
việc gia nhập WTO và tuân thủ các quy định của tổ chức này sẽ không gây tác động
trực tiếp đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Tuy vậy, việc mở cửa
thị trường kèm theo việc cho phép di chuyển thể nhân, trong chừng mực nhất định,
đòi hỏi chúng ta phải nâng cao năng lực quản lý để có thể phát hiện, ngăn chặn
những phần tử chống đối lợi dụng thâm nhập vào nước ta. Việc mở cửa dịch vụ
nghe nhìn, dịch vụ môi trường, v..v cũng đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo
vệ an ninh thông tin và bảo vệ phong tục, văn hóa và lối sống của dân tộc. Tuy
vậy, với những thành tựu của 20 năm đổi mới, chúng ta hoàn toàn có khả năng kiểm
soát được các rủi ro này.
Gia nhập WTO sẽ ảnh hưởng đến sự chủ động
trong việc ban hành và thực thi các chính sách, quy định có liên quan đến
thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, các khía cạnh thương mại của đầu tư và
quyền sở hữu trí tuệ. Với những vấn đề mà WTO đã có quy định hoặc ta đã có cam
kết, ta sẽ phải tuân thủ một cách nghiêm túc, không thể tùy ý về nội dung chính
sách và thời gian ban hành chính sách nữa. Tuy nhiên, đây là điều mà ta đã biết
và chấp thuận. Ta không coi đó là can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
2. Tác động của các
cam kết đa phương:
Các cam kết đa phương chủ yếu ảnh hưởng tới
chính sách kinh tế vĩ mô. Qua phần giải trình, có thể thấy đa số các cam kết
này là phù hợp với luật pháp và đường lối đổi mới của ta nên sẽ không gây ra
tác động lớn. Tại đây, xin báo cáo thêm như sau:
2.1- Các cam kết về minh bạch hóa, như đã
trình bày, có thể sẽ là thách thức không nhỏ đối với các cơ quan quản lý nhà nước
nhưng nếu thực hiện được, sẽ mang lại lợi ích to lớn cho dân và cho các doanh nghiệp,
góp phần thúc đẩy đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài.
2.2- Các cam kết về doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) là cùng chiều với ý đồ đổi mới DNNN của ta và vì vậy, sẽ góp phần thúc đẩy
tiến trình đổi mới, sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả DNNN, tạo ra sân chơi ngày
càng bình đẳng hơn cho các thành phần kinh tế. Một số DNNN đã quen với sự trợ
giúp của Nhà nước (về đất đai, vốn, tín dụng .. ) có thể sẽ gặp khó khăn trong
thời gian đầu, thậm chí phải phá sản hoặc giải thể nhưng đó là khó khăn tất yếu
mà mọi DNNN phải vượt qua. Thách thức này, suy cho cùng, cũng là thách thức của
tiến trình đổi mới. Nếu ta không gia nhập WTO thì thách thức này cũng vẫn đến.
2.3- Việc bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp
nội địa hóa chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới một số doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đánh
giá mức độ ảnh hưởng, cần xem xét các khía cạnh như đối tượng và quy mô được hưởng
trợ cấp, hiệu quả thực tế của trợ cấp, mối quan hệ giữa trợ cấp với nâng cao hiệu
quả, sức cạnh tranh và khả năng của Nhà nước trong việc chuyển đổi từ trợ cấp
thuộc diện phải bãi bỏ sang các hình thức trợ cấp khác được WTO cho
phép.
Trước hết, với ngân sách còn hạn chế như hiện
nay (và trong nhiều năm tới), lượng trợ cấp thực tế là rất khiêm tốn. Chế độ
thưởng theo kim ngạch xuất khẩu được áp dụng từ 1998 nhưng mãi tới 2004, tổng
tiền thưởng mới đạt 29,4 tỷ đồng, tương đương gần 2 triệu USD. Số doanh nghiệp
được thưởng là 349. Thật khó để nói rằng hàng vạn doanh nghiệp xuất khẩu của
ta, với kim ngạch xuất khẩu xấp xỉ 40 tỷ USD/năm, lại gặp khó khăn nghiêm trọng
khi Nhà nước bãi bỏ hình thức trợ cấp này.
Có ý kiến cho rằng bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu
nông sản sẽ khiến nông dân gặp khó khăn nhưng từ trước tới nay người nông dân
ít được tiếp cận trực tiếp trợ cấp xuất khẩu. Đối tượng được hưởng trợ cấp xuất
khẩu tuyệt đại đa số là các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp, khi được trợ cấp,
đã có ý thức nâng giá mua sản phẩm cho dân nhưng mức nâng không nhiều và không
phải doanh nghiệp nào cũng làm như vậy.
Hiệu quả của trợ cấp
xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa cho tới nay là không rõ ràng. Số liệu cho thấy
trong những năm gần đây trợ cấp xuất khẩu giảm khá mạnh nhưng kim ngạch xuất khẩu
vẫn tăng đều ở mức cao. Riêng trợ cấp nội địa hóa, hiệu quả không được như mong
muốn. Vì
vậy, từ năm 2003, ta đã quyết định giảm dần quy mô và tiến tới xóa bỏ hai hình
thức trợ cấp này, nhất là trợ cấp xuất khẩu. Cam kết ta đưa ra, do đó, sẽ
không gây tác động lớn.
Để hỗ trợ cho nông
nghiệp, ta vẫn có thể sử dụng các biện pháp thuộc "hộp xanh", “chương
trình phát triển” và "hộp hổ phách". Đối với “hộp xanh” và “chương
trình phát triển”, ta tiếp tục được hỗ trợ không giới hạn. Như đã trình bày, ta
cũng được quyền duy trì các loại hỗ trợ "hộp hổ phách" ở mức “de
minimis” như các nước đang phát triển khác trong WTO, tức là không quá 10%
giá trị sản lượng nông nghiệp. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm được một khoản
hỗ trợ “hộp hổ phách” nữa có mức trần là 3.961,5 tỷ đồng/năm, ngang bằng với mức
Tổng hỗ trợ gộp (AMS) của giai đoạn cơ sở 1999-2001 (nghĩa là không phải cắt giảm
trong khi các thành viên có nghĩa vụ phải cắt giảm hỗ trợ thuộc “hộp hổ
phách”). Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách ta cũng chưa đủ sức để hỗ
trợ cho nông nghiệp ở mức cam kết này vì thực tế các năm vừa qua mức hỗ trợ của
ta chỉ dao động quanh 3% giá trị sản lượng nông nghiệp.
Trong quá trình tìm giải pháp để nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh, trợ cấp là con dao hai lưỡi. Nếu không khéo xử
lý về cường độ và thời gian áp dụng, trợ cấp có thể gây tâm lý trông đợi và sức
ỳ to lớn, chưa kể những lệch lạc theo kiểu “lách luật để hưởng trợ cấp” mà một
số nghiên cứu đã chỉ ra. Kết quả điều tra của dự án Nâng cao năng lực cạnh
tranh Việt Nam (VNCI, 2005) cho thấy hạ tầng và nguồn nhân lực là những yếu tố
quan trọng nhất tác động đến quyết định đầu tư của doanh nhân. Ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp chỉ đứng hàng thứ 7 trong tổng số 14 yếu tố ảnh hưởng tới quyết
định đầu tư.
Cuối cùng, gia nhập WTO, ta chỉ bãi bỏ
trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa, các loại trợ cấp "hộp
vàng", "hộp hổ phách”, “hộp xanh" vẫn được duy trì và ta hoàn
toàn có thể chuyển số tiền trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa trước đây
sang phát triển thủy lợi, kiện toàn giao thông nông thôn, nâng cao chất lượng
giống, phát triển công nghệ sau thu hoạch, xây dựng các kho lạnh cho hàng thủy
sản và kho đệm để dự trữ lúa, cà phê cho bà con nông dân v..v. Tóm lại, các
hình thức trợ cấp là rất đa dạng và đại đa số là được phép theo quy định của
WTO. Vấn đề là chọn loại nào, hỗ trợ cho "gốc" (mang tính bền vững)
hay cho "ngọn" (mang tính tình thế), áp dụng cho đối tượng nào, mức độ
là bao nhiêu và trong thời gian bao lâu để vừa thúc đẩy được sản xuất nhưng
cũng nâng cao được hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Các cam
kết về trợ cấp của ta trong đàm phán gia nhập WTO đã được xây dựng trên quan điểm
đó và hoàn toàn không bỏ qua quyền lợi của nông dân.
3. Tác động của
việc giảm thuế nhập khẩu và mở cửa thị trường dịch vụ:
3.1- Tác động của giảm
thuế nhập khẩu đối với nông nghiệp và công nghiệp:
Việc giảm thuế nhập khẩu sẽ khiến một
số ngành sản xuất của ta phải chịu sự cạnh tranh lớn hơn. Tuy nhiên, cũng cần
chú ý tới một số yếu tố sau đây:
Một là, việc giảm
thuế trong khuôn khổ WTO cần được xem xét trong tổng thể của việc giảm thuế cho
hàng hóa của các nước ASEAN và Trung Quốc trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN và ASEAN - Trung Quốc (đã đàm phán xong) và khu vực mậu dịch tự do giữa
ASEAN với các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, v..v (đang trong quá trình đàm
phán). Trên thực tế, mức giảm thuế theo cam kết gia nhập WTO là không sâu và rộng
như mức giảm thuế mà ta đã cam kết (và trên thực tế đã thực hiện) với các nước
ASEAN và Trung Quốc trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do với các nước này.
Hai là, thực tiễn
cho thấy việc cắt giảm thuế rộng và sâu trong khuôn khổ ASEAN (một trong số các
đối tác nhập khẩu chính của ta) đã không gây ra biến động quá lớn.
Ba là, kim ngạch
nhập khẩu thực tế chịu ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế theo cam kết WTO chỉ
chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm.
Bốn là, do thuế suất
của thành phẩm có mức giảm lớn hơn mức giảm của sản phẩm trung gian (nguyên vật
liệu và linh kiện đầu vào) ta thu hẹp được mức bảo hộ thực tế trong một số
ngành mà hiện nay đang được bảo hộ quá mức cần thiết. Nhìn chung, mức độ bảo hộ
theo kết quả đàm phán tuy có giảm nhưng là giảm hợp lý, bảo đảm mức độ bảo hộ
tương đối đồng đều giữa các ngành, qua đó góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Sản xuất, trong đó có sản xuất hàng xuất
khẩu, cũng sẽ được lợi bởi tiếp cận được các yếu tố đầu vào với chi phí rẻ.
Riêng đối với nông nghiệp, áp lực
cạnh tranh là lớn do sản xuất nông nghiệp của ta vẫn là nền sản xuất nhỏ, phân
tán, năng suất và chất lượng thấp trong khi bình quân đất nông nghiệp theo đầu
người quá ít, giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 héc-ta canh tác trung bình ở
mức 30 triệu đồng/ha. Để xử lý tình hình này, phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, trong đó có cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, từng bước
chuyển mạnh phần lớn lao động sang làm công nghiệp và dịch vụ, mở rộng thị trường
xuất khẩu lao động đi đôi với việc tăng cường đầu tư và hỗ trợ cho nông nghiệp
và nông dân bằng những biện pháp phù hợp với quy định của WTO (như đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng thuỷ lợi, giao thông nông thôn, hỗ trợ nông dân đầu tư các
cơ sở bảo quản, phơi sấy; đầu tư cho các loại giống có năng suất cao, chất lượng
tốt để cung cấp cho nông dân với giá ưu đãi, phát triển hệ thống khuyến nông;
giảm bớt sự đóng góp của nông dân đi đôi với việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa cho nông dân, v..v). Trong báo cáo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khóa XI và trong bài viết đăng trên các phương tiện thông tin đại
chúng ngày 8/11/2006 sau khi Việt Nam được kết nạp vào WTO, Thủ tướng Chính phủ
đã đề cập đến chủ trương và các giải pháp này. Tới đây sẽ phải xây dựng thành
cơ chế và chính sách cụ thể.
Tóm lại, khi hàng rào bảo hộ bị thu hẹp,
sản xuất trong nước sẽ phải đối diện với mức độ cạnh tranh lớn hơn từ bên
ngoài. Không loại trừ khả năng sẽ có biến động ở một số ngành, nhất là những
ngành mà tính linh hoạt trong chuyển đổi không cao. Dù đây chủ yếu sẽ là biến động
cục bộ nhưng vẫn đòi hỏi ta phải khẩn trương hoàn thiện các công cụ về tự vệ được
WTO cho phép, hoàn thiện cơ chế thông tin và cảnh báo để chủ động hơn trong việc
đối phó với các biến động trên thị trường thế giới và trong nước, đặc biệt là đối
với các mặt hàng cơ bản/nhạy cảm với nền kinh tế như nông sản, sắt thép .. .
Nhiều ý kiến đề nghị Chính phủ phải
nhanh chóng xây dựng các hàng rào kỹ thuật để bảo hộ cho sản xuất trong nước.
Việc xây dựng các hàng rào như vậy cho hàng nhập khẩu không khó. Cái khó là ở
chỗ tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng cho hàng nhập khẩu thế nào thì cũng phải áp dụng
cho hàng sản xuất trong nước như thế (nguyên tắc đối xử quốc gia). Với trình độ
phát triển như hiện nay, ta sẽ rất khó đưa ra các tiêu chuẩn cao cho hàng sản
xuất trong nước. Tuy nhiên, Chính phủ sẽ nghiên cứu vấn đề này một cách thấu
đáo và sẽ nỗ lực tìm kiếm các công cụ bảo hộ chính đáng, được WTO thừa nhận, để
hỗ trợ cho các ngành sản xuất còn non trẻ của ta.
3.2- Tác động của giảm
thuế nhập khẩu đối với thu ngân sách:
Việc giảm thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến giảm
thu ngân sách từ thuế nhập khẩu nhưng sẽ không có đột biến lớn bởi mấy lý do. Một
là, tổng thu từ thuế nhập khẩu hiện nay chỉ chiếm khoảng 9% tổng thu ngân
sách (25 ngàn tỷ trên 280 ngàn tỷ). Hai là, số lượng các mặt hàng giảm
thuế chỉ chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm. Việc giảm thuế lại được
thực hiện theo lộ trình bình quân là 5 năm nên theo ước tính sơ bộ, thu từ thuế
nhập khẩu sẽ chỉ giảm khoảng trên dưới 2 ngàn tỷ/năm, tức là chưa đầy 1% tổng
thu ngân sách. Ba là, việc gia nhập WTO với những cơ hội có được, sản xuất
– kinh doanh sẽ phát triển, xuất nhập khẩu cũng sẽ tăng lên, những nguồn thu mới
sẽ được tạo ra và do đó quy mô của ngân sách sẽ tăng theo sự tăng trưởng kinh tế
với mức tăng có thể bù lại, thậm chí vượt mức giảm thu.
Tóm lại, việc cắt giảm thuế nhập khẩu
theo các cam kết gia nhập WTO (cũng như việc tham gia các khu vưc mậu dịch tự
do) sẽ ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách nhà nước nhưng có lý do để tin rằng
tác động tổng thể đến thu ngân sách sẽ diễn biến theo chiều hướng tích cực.
Tuy nhiên, sẽ có sự biến động về nguồn thu và cơ cấu thu ngân sách. Số thu từ
khu vực kinh tế trong nước, nhất là các doanh nghiệp nhà nuớc (DNNN), có thể sẽ
giảm tương đối so với số thu từ các đối tượng khác. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, những thay đổi của thị trường và việc cải cách hệ thống chính sách thuế
trong điều kiện hội nhập cũng sẽ làm thay đổi cơ cấu nguồn thu (giữa các địa
phương, các khu vực kinh tế, giữa các lĩnh vực hoạt động khác nhau và giữa các
sắc thuế khác nhau, v..v.).
3.3- Tác động của việc
mở cửa thị trường dịch vụ:
Cam kết về dịch vụ của ta về cơ bản là
tương đương với BTA và phù hợp với hiện trạng trong nước nên sẽ không gây ra
tác động lớn. Những ngành phải chịu sức ép nhiều nhất có lẽ là kinh doanh
chứng khoán, ngân hàng, phân phối và hỗ trợ vận tải biển. Tuy nhiên, như đã
phân tích khi giải trình cam kết tại các ngành này, chúng ta có một thời gian
chuyển đổi để chuẩn bị và cũng có một số công cụ để kiểm soát. Nếu có sự chuẩn
bị tốt và vận dụng linh hoạt các công cụ mà ta bảo lưu được trong Biểu cam kết
dịch vụ, tác động của việc mở cửa thị trường là có thể kiểm soát được.
Chính phủ cũng nhận thức được rằng, việc
bảo lưu được một số hạn chế về mở cửa thị trường trong các ngành như bán lẻ và
ngân hàng không có nghĩa là sẽ cứng nhắc lạm dụng các hạn chế đó bởi tương tự
như khi giảm thuế nhập khẩu, nhiều ngành sản xuất trong nước sẽ được lợi vì có
thể tiếp cận nguyên vật liệu đầu vào với chi phí rẻ, việc mở cửa thị trường dịch
vụ cũng mang lại lợi ích tương tự, thậm chí lớn hơn, nhất là khi dịch vụ đó là
dịch vụ cơ bản, có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế (như ngân hàng, bảo hiểm,
viễn thông, giao thông vận tải..). Cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ sẽ làm chi
phí sản xuất và chi phí giao dịch nói chung giảm, giúp các ngành sản xuất trong
nước nâng cao khả năng cạnh tranh. Theo hướng đó, Chính phủ chủ trương nhìn nhận
một cách cân đối về thách thức và tác động của việc mở cửa thị trường trong cả
lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ. Thách thức của doanh nghiệp này, ngành này có thể
là cơ hội của doanh nghiệp khác, ngành khác và ngược lại. Theo hướng đó, sẽ
không lạm dụng hạn chế bảo lưu được trong một số ngành để tránh tình trạng ỷ lại,
chậm đổi mới và nâng cao sức cạnh tranh trong các ngành đó.
4. Về xuất nhập
khẩu hàng hóa:
Thị trường xuất khẩu được mở rộng, kim
ngạch xuất khẩu sẽ tăng nhưng dự kiến sẽ không có đột phá lớn trong ngắn hạn,
vì những lý do sau đây:
Một là, khác với
các cuộc đàm phán song phương khác, đàm phán gia nhập WTO không dẫn đến việc
các thành viên WTO giảm thuế riêng cho ta, ta chỉ được hưởng mức thuế mà các
thành viên này đã hoặc sẽ cắt giảm theo lộ trình của họ.
Hai là, ta sẽ được
tiếp cận thị trường của 149 thành viên WTO khác trên cơ sở đối xử tối huệ quốc
(MFN) nhưng trên thực tế, trừ dệt may và một số mặt hàng mà các thành viên WTO
áp dụng hạn ngạch và chỉ phân bổ hạn ngạch cho nhau, với tất cả các bạn hàng
quan trọng nhất, ta đều đã được hưởng đối xử MFN nên việc có được MFN trên cả
149 thị trường sẽ không mang lại đột phá lớn.
Ba là, dù điều kiện
bên ngoài thuận lợi, xuất khẩu vẫn không thể “tăng vọt” nếu không có đầu tư
nâng cao năng lực sản xuất và khắc phục những hạn chế mang tính cơ cấu. Gia nhập
WTO là gửi ra bên ngoài một tín hiệu rất mạnh về quyết tâm đổi mới của ta. Đầu
tư trong nước và nước ngoài nhiều khả năng sẽ tăng lên và tăng nhanh, qua đó tạo
ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới. Đây là cơ hội rõ nhất mà việc
gia nhập WTO tạo ra và được nhiều tổ chức quốc tế cũng như giới doanh nghiệp thừa
nhận. Tuy nhiên, hiệu quả sẽ đến sau một thời gian chứ chưa thể thấy rõ ngay
trong một, hai năm đầu sau khi ta vào WTO.
Ngành có lợi rõ rệt nhất sẽ là ngành dệt
may bởi hạn ngạch sẽ được xóa bỏ trên thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên, do dệt may
là vấn đề nhạy cảm tại Hoa Kỳ nên không loại trừ khả năng các nhà sản xuất Hoa
Kỳ sẽ tìm mọi cách để thúc ép Chính phủ Hoa Kỳ ngăn cản hàng dệt may của ta.
Hơn nữa, các biện pháp hạn chế mà Hoa Kỳ đang áp dụng cho hàng dệt may Trung Quốc
sẽ được dỡ bỏ vào năm 2008. Khi đó, ngành dệt may của ta có thể sẽ phải đối diện
với sự cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường Hoa Kỳ. Theo hướng đó, dự kiến
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sẽ tăng nhưng không tăng đột biến và sẽ chựng
lại, thậm chí giảm vào những năm sau năm 2008 nếu như ta không có biện pháp để
nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh.
Gia nhập WTO cũng không mang lại kết
quả là các thành viên WTO sẽ giảm “rào cản kỹ thuật” cho hàng hóa xuất khẩu của
ta. Những hàng rào được WTO cho phép, hay chí ít là không cấm, sẽ vẫn tồn tại.
Các vụ kiện chống bán phá giá sẽ vẫn xảy ra. Nói chung, trên phương diện này,
hoàn toàn không có sự khác biệt giữa trước và sau khi gia nhập WTO. Điều khác
biệt duy nhất là từ nay, ta sẽ có khả năng kiện ra WTO nếu như có cơ sở để cho
rằng biện pháp nào đó áp dụng cho hàng hóa xuất khẩu của ta là vi phạm quy định
của WTO.
Kim ngạch nhập khẩu sẽ tăng do đầu tư nước
ngoài tăng, chủ thể được quyền kinh doanh nhập khẩu ngày càng trở nên đa dạng
hơn. Tuy nhiên, sẽ không có đột biến và cũng không thể có đột biến bởi việc giảm
thuế của ta, như đã trình bày, là theo lộ trình và không phải tất cả các mặt
hàng đều phải giảm thuế. Với chế độ tỷ giá được điều hành linh hoạt và chế độ
quản lý vay thương mại được thực hiện chặt chẽ như hiện nay, cũng sẽ rất khó
“chi tiêu” cho nhập khẩu nhiều hơn “thu nhập” từ xuất khẩu.
Tóm lại, xuất nhập khẩu sẽ chịu tác động
của việc gia nhập WTO nhưng những tác động đó sẽ là tác động tích cực và nhiều
khả năng sẽ bộc lộ trong trung hạn (sau từ 3 đến 5 năm).
6. Về tác động
xã hội:
Về tác động xã hội, trong đó có việc
làm, dự kiến sẽ không có biến động lớn. Tuy nhiên, ngân sách cũng cần có các
khoản dự phòng cho vấn đề này để chủ động xử lý kịp thời các biến động tiêu cực,
nếu có, trong quá trình thực hiện các cam kết gia nhập WTO nói chung và cam kết
về giảm thuế nói riêng. Như đã trình bày, các biến động này, nếu có, sẽ chủ yếu
mang tính ngắn hạn bởi với việc mở cửa thị trường, thúc đẩy nâng cao sức cạnh
tranh và thu hút đầu tư nước ngoài, ta sẽ có cơ hội tạo ra nhiều công ăn, việc
làm mới.
Gia nhập WTO là tiến thêm một bước
trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Yếu
tố thị trường sẽ tác động đến lối sống và nhiều hành xử xã hội khác nhưng tác động
đó lớn đến đâu và theo hướng nào còn tùy vào nhiều yếu tố khác, trong đó có
công tác giáo dục công dân và điều hành vĩ mô của ta.
Phần 4
PHÊ
CHUẨN NGHỊ ĐỊNH THƯ GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH WTO VÀ CÁC KIẾN NGHỊ CÓ LIÊN QUAN
I. SỰ CẦN THIẾT
PHÊ CHUẨN NGHỊ ĐỊNH THƯ GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH WTO:
Theo Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế năm 2005 (Luật Điều ước 2005), Nghị định thư gia nhập Hiệp định
WTO (xin gọi tắt là Nghị định thư gia nhập) là điều ước nhân danh Nhà nước và
do đó “phải được phê chuẩn” theo khoản 2 Điều 31. Tuy nhiên, Luật Điều ước 2005
không rõ ràng về cơ quan nào (Chủ tịch nước hay Quốc hội) phê chuẩn Nghị định
thư gia nhập, chỉ quy định (Điều 32) là Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế
theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn lại là các trường hợp Chủ tịch nước phê chuẩn
(ngoại trừ điều ước quốc tế do chính Chủ tịch nước ký phải được Quốc hội phê
chuẩn). Như vậy, có thể hiểu quy định này là thông thường thì Chủ tịch nước phê
chuẩn điều ước quốc tế, tuy nhiên khi có “sự cần thiết” hay “lý do chính đáng”
thì Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội phê chuẩn. Thực tiễn thi hành quy định của
pháp luật về phê chuẩn điều ước quốc tế cũng đi theo hướng này, rất ít điều ước
quốc tế được Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội phê chuẩn. Trong lĩnh vực thương mại,
Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa kỳ là hiệp định thương mại duy nhất của Việt
Nam được Quốc hội phê chuẩn.
Đối với việc gia nhập WTO của Việt
Nam, có nhiều lý do chính đáng và sự cần thiết phải có sự phê chuẩn của Quốc hội
(Luật Điều ước 2005 yêu cầu nêu rõ các lý do này).
Trước hết, xét về ý
nghĩa, tầm quan trọng và phạm vi điều chỉnh của Nghị định thư gia nhập thì Quốc
hội - cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân - cần là cơ quan đưa ra quyết định
chấp nhận hiệu lực pháp lý của điều ước quốc tế này.
Hai là, kết quả rà
soát pháp luật của Chính phủ cho thấy có những quy định của Nghị định thư gia
nhập là chưa phù hợp hoặc chưa được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Ba là, do tính phức
tạp và tổng hợp của Nghị định thư gia nhập (có thể coi như là tập hợp của nhiều
điều ước quốc tế thông thường) nên Nghị định thư gia nhập cần được xem xét,
phân tích và đánh giá ở mức độ chi tiết và thận trọng.
Bốn là, xét các yếu
tố trên, nhất là yếu tố thứ hai, trong nhiều tuyên bố của Việt Nam tại đàm phán
gia nhập WTO có đề cập tới việc Quốc hội Việt Nam phê chuẩn việc gia nhập WTO
(chẳng hạn như đoạn 119 của Báo cáo gia nhập). Do đó, nếu Chủ tịch nước phê chuẩn
thì sẽ không hoàn toàn phù hợp với các tuyên bố của Việt Nam trong đàm phán gia
nhập WTO.
Xuất phát từ các lý do trên, Chính phủ
trình Chủ tịch nước xem xét đề nghị Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập.
II. VỀ VIỆC BẢO
LƯU VÀ THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM TRONG WTO
Luật Điều ước 2005 quy định về bảo lưu
và cách thức thực hiện các điều ước quốc tế, được áp dụng cả cho cam kết gia nhập
WTO. Kinh nghiệm của các nước gia nhập WTO trong thời gian gần đây cho thấy các
nước này không đưa ra bảo lưu thực hiện nội dung của Nghị định thư gia nhập
WTO. Các nước có thể có những tuyên bố nào đó nhưng không làm ảnh hưởng tới những
nội dung cam kết của mình trong WTO. Trong bối cảnh đó, Việt Nam không nên bảo
lưu việc thực hiện bất kỳ cam kết nào của mình được nêu trong Nghị định thư gia
nhập, nhưng khi phê chuẩn Quốc hội hoàn toàn có thể đưa ra những tuyên bố thể
hiện quan điểm của Quốc hội Việt Nam đối với việc gia nhập WTO, hay yêu cầu các
cơ quan, tổ chức liên quan trong nước thực hiện những công việc cụ thể. Cách
làm này đã được Quốc hội sử dụng khi phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ.
Theo quy định của Luật Điều ước 2005
và cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, khi phê chuẩn Nghị định thư gia nhập,
Quốc hội quyết định các nội dung nào của Nghị định thư gia nhập có thể được áp
dụng trực tiếp (khi “đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện”) và các nội dung nào cần
kèm theo điều chỉnh pháp luật (chuyển hoá vào pháp luật trong nước)[4]. Tại thời điểm kết
thúc đàm phán gia nhập, Chính phủ đã chỉ đạo rà soát pháp luật nhanh để đánh
giá mức độ tương thích của pháp luật với các cam kết WTO. Kết quả rà soát pháp
luật cho thấy về cơ bản pháp luật hiện hành của Việt Nam đã phù hợp với các cam
kết WTO. Tuy nhiên, để thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả các cam kết, cũng có
một số văn bản ở tầm Quốc hội cần có sự điều chỉnh, dù không nhiều.
Do nội dung cụ thể của các cam kết của
ta khi gia nhập Hiệp định WTO, Chính phủ xin đề nghị Quốc hội quyết định cả
hai phương thức: áp dụng trực tiếp các quy định, cam kết WTO và điều chỉnh
pháp luật để chuyển hoá một số cam kết. Sở dĩ phải áp dụng cả hai phương thức
vì sẽ không khả thi trong điều kiện lập pháp hiện nay của Việt Nam nếu quyết định
chuyển hoá toàn bộ các quy định của Nghị định thư gia nhập. Đồng thời, cũng
không thể quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ các quy định của Nghị định thư
gia nhập vì nhiều quy định là kết quả đàm phán và khó có thể nói là đã đủ rõ
hay chi tiết để thực hiện.
III. ĐỀ XUẤT
VỀ VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐỂ THỰC THI CAM KẾT WTO:
Kiến nghị Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội
ban hành một Nghị quyết phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO tại kỳ họp thứ 10
Quốc hội khoá XI vào tháng 11 năm 2006.
Đi kèm Nghị quyết
này là hai Phụ lục. Phụ lục 1 đề cập đến các nội dung áp dụng trực tiếp cam kết
của Việt Nam liên quan đến 6 văn bản luật. Phụ lục 2 nêu danh mục các văn bản
quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung theo lộ trình mà ta đã đàm phán được, liên quan đến 6 văn bản luật và 1 Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội. Đồng thời, tại Nghị quyết này, Quốc hội quyết định áp dụng trực tiếp
các cam kết khác của Việt Nam với WTO được quy định đã đủ rõ, chi tiết trong
Nghị định thư, các Phụ lục và Báo cáo gia nhập đính kèm Nghị định thư.
Để bảo đảm việc thực hiện các cam kết
WTO trong trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác, Nghị quyết này cũng
khẳng định lại nguyên tắc ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế.
Việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy
phạm pháp luật dưới luật (Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định và Chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản của các Bộ, ngành và địa phương) để
thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả các cam kết gia nhâp WTO của Việt Nam sẽ được
thực hiện theo lộ trình cam kết sau khi Chủ tịch nước ký lệnh công bố Nghị quyết
của Quốc hội.
Chính phủ xin trình kèm theo đây:
Dự thảo Tờ trình Quốc hội của Chủ tịch
nước về việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức
thương mại thế giới của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội phê
chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới của
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Dự thảo các Phụ lục của Nghị quyết của
Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại
thế giới của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm Phụ lục 1 (Nội dung áp
dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam) và Phụ lục 2 (Các văn bản quy phạm
pháp luật được sửa đổi, bổ sung theo lộ trình cam kết).
Trên đây là Tờ trình của Chính phủ
trình Chủ tịch nước kết quả đàm phán gia nhập WTO và kiến nghị việc phê chuẩn
Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO. Xin trình Chủ tịch nước xem
xét./.
Nơi nhận:
-
Chủ tịch nước;
- Thủ tướng, các PTT Chính phủ;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Ủy ban Đối ngoại Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật Quốc hội;
- Các Bộ: Thương mại, Tư pháp, Ngoại giao;
- VPCP: BTCN, các PCN, các Vụ: KTTH,
V.III, XDPL, TH;
- Lưu: Văn thư, QHQT .
|
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
|
DANH
MỤC TÀI LIỆU
KÈM
THEO TỜ TRÌNH CHỦ TỊCH NƯỚC VỀ KẾT QUẢ ĐÀM PHÁN GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI VÀ PHÊ CHUẨN NGHỊ ĐỊNH THƯ GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH THÀNH LẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI
THẾ GIỚI
1. Bản dịch tiếng Việt của:
- Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ
chức thương mại thế giới;Báo cáo của Ban Công tác về việc gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới của Việt Nam;Biểu cam kết về thương mại hàng hóa (bao gồm
cam kết về thuế nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan và trợ cấp nông nghiệp);Biểu cam
kết cụ thể về thương mại dịch vụ.
2. Biểu 1: Diễn giải mức thuế bình
quân cam kết.
3. Biểu 2: Tổng hợp cam kết cắt giảm
thuế nhập khẩu trong đàm phán gia nhập WTO đối với một số nhóm hàng quan trọng.
4. Tài liệu giải thích tóm tắt các quy
định của WTO về trợ cấp.
5. Tài liệu giải thích Biểu cam kết
cụ thể về thương mại dịch vụ.
6. Dự thảo Tờ trình Quốc
hội của Chủ tịch nước về việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành
lập Tổ chức thương mại thế giới của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
7. Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội phê
chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới của
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
8. Dự thảo các Phụ lục của Nghị quyết
của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức
thương mại thế giới của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm Phụ lục 1
(Nội dung áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam) và Phụ lục 2 (Các văn bản
quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung theo lộ trình cam kết).
[1] Vì chậm hoàn tất thủ
tục phê chuẩn nên Tông-ga tuy được kết nạp trước ta nhưng nhiều khả năng sẽ trở
thành Thành viên chính thức sau ta. Tính theo thứ tự kết nạp, ta đứng thứ 151
nhưng có thể sẽ là Thành viên chính thức thứ 150. Báo chí nước ngoài hay nhầm lẫn
giữa 151 với 150 là vì lý do này.
[2] Khi ký BTA với Hoa Kỳ,
ta đã chấp nhận cơ chế tự vệ đặc thù này nhưng trong đàm phán gia nhập WTO, ta
đã xoá được cơ chế này. Hoa Kỳ và các Thành viên WTO, khi áp dụng biện pháp tự
vệ đối với hàng hóa xuất khẩu của ta, phải tuân thủ theo đúng quy định của WTO.
[3] Xin xem Tài liệu giải
thích tóm tắt các quy định của WTO về trợ cấp kèm theo Tờ trình
[4] Điều 6.3, Luật Điều ước
2005