TỔNG
CỤC LÂM NGHIỆP-BỘ NỘI THƯƠNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
02-TT-LB
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 06 năm 1964
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHỈ THỊ 17-TTG NGÀY 24-02-1964 CỦA THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC PHÂN CÔNG GIỮA HAI NGÀNH NỘI THƯƠNG VÀ LÂM NGHIỆP TRONG VIỆC
PHÂN PHỐI GỖ VÀ CÁC HÀNG LÂM SẢN KHÁC
Hội nghị thường vụ Hội đồng
Chính phủ ngày 05-02-1964 và Chỉ thị số 17-TTg ngày 24-02-1964 của Thủ tướng
Chính phủ đã quy định nội dung phân công giữa hai ngành nội thương và lâm nghiệp
về việc phân phối gỗ và các hàng lâm sản khác.
Bộ và Tổng cục đã nghiên cứu chỉ
thị trên thấy rằng: quyết định của thường vụ Hội đồng Chính phủ là phân ranh giới
nhiệm vụ cung cấp giữa khu vực nhu cầu Nhà nước, nhu cầu tập thể và nhân dân về
gỗ và các loại hàng lâm sản khác, làm cho mỗi ngành đi sâu vào chức năng nhiệm
vụ của mình nhằm phục vụ đầy đủ kịp thời cho nhu cầu Nhà nước, nhu cầu tập thể
và nhân dân một cách toàn diện hơn.
Trên cơ sở phân công của Nhà nước
và sự nhận định của Bộ Nội thương và Tổng cục Lâm nghiệp, căn cứ vào tình hình
thực tế và chiều theo đề nghị của Cục Vật liệu Kiến thiết, Cục Khai thác vận
chuyển phân phối lâm sản, Bộ Nội thương và Tổng cục Lâm nghiệp thống nhất những
vấn đề cụ thể sau đây để các cấp thuộc hai ngành tiến hành việc bàn giao.
I. PHÂN ĐỊNH CHỨC NĂNG, NHIỆM
VỤ GIỮA HAI NGÀNH
a) Chức năng và nhiệm vụ:
Căn cứ vào chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ, Bộ và Tổng cục cụ thể hoá nhiệm vụ của từng ngành đối với việc phân
phối gỗ và các loại hàng lâm sản khác như sau:
- Tổng cục Lâm nghiệp đảm nhiệm
việc phân phối gỗ, tre, nứa, củi, than cho tất cả các nhu cầu có kế hoạch của
các xí nghiệp quốc doanh (kể cả công tư hợp doanh), cơ quan Nhà nước và cung cấp
gỗ và lâm sản cho ngành nội thương phân phối theo chức năng và đối tượng thương
nghiệp;
- Bộ Nội thương đảm nhiệm việc
phân phối gỗ, tre, nứa, củi, than cho nhu cầu thị trường bao gồm nhu cầu của hợp
tác xã, nhu cầu của nhân dân và các nhu cầu sửa chữa lẻ tẻ ngoài kế hoạch của
các xí nghiệp quốc doanh (kể cả công tư hợp doanh) và cơ quan Nhà nước. Riêng mặt
hàng lá cọ. Bộ Nội thương đảm nhiệm việc cung cấp cho cả các nhu cầu cơ quan
Nhà nước, nhu cầu tập thể và nhân dân vì tổng số lá cọ ở Phú Thọ chiếm tới 90%
do Nội thương thu mua. Do đó, việc vận chuyển, phân phối lá cọ cũng như hàng
hoá ngoài sử dụng, cung cấp của lâm nghiệp đều do ngành nội thương phụ trách.
b) Xây dựng và chỉ đạo thực hiện
kế hoạch.
Căn cứ vào nhiệm vụ đã được phân
công và kế hoạch đã được Nhà nước phê chuẩn, mọi ngành đều phải xây dựng kế hoạch
cụ thể của ngành mình và chỉ đạo thực hiện kế hoạch đó. Hàng năm, hàng quý và
hàng tháng, Bộ Nội thương báo cho Tổng cục Lâm nghiệp biết số lượng nhu cầu của
từng tỉnh để tiện việc chuẩn bị phân phối, điều động hàng hoá.
Tỷ trọng phân phối hàng hoá giữa
nhu cầu Nhà nước tập thể và nhân dân là cơ sở lập kế hoạch của đôi bên. Nhưng
hiện nay về tre, nứa, củi than, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước chưa chỉ đạo tỷ trọng
cụ thể về gỗ cho sản xuất nông, ngư cụ, vận tải, quan tài, đồ mộc cũng chưa
phân chia tỷ trọng khu vực quốc doanh, công tư hợp doanh với khu vực hợp tác xã
sản xuất. Bởi vậy, hai ngành đều có nhiệm vụ phân phối với Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước xác định tỷ trọng giữa khu vực Nhà nước và nhân dân, giữa khu vực
hợp tác xã sản xuất với khu vực sản xuất quốc doanh nhằm thực hiện tốt kế hoạch
1964, tiến tới hoàn chỉnh kế hoạch 1965.
Trong khi chờ đợi sự chỉ đạo tỷ
trọng chính thức của trung ương, cơ quan lâm nghiệp và nội thương các cấp phải
phối hợp với các ngành có liên quan dưới sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính
địa phương xác định tỷ trọng tạm thời cho địa phương mình làm cơ sở xây dựng kế
hoạch của đôi bên.
c) Ký kết và thực hiện hợp đồng
kinh tế.
Để thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch
của Nhà nước, đảm bảo cung cấp cho các nhu cầu của Nhà nước, tập thể và nhân
dân, căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước đã công bố, Tổng
cục Lâm nghiệp ký kết hợp đồng nguyên tắc với Bộ Nội thương về tổng số lượng mặt
hàng lâm sản thuộc khu vực lưu thông thương nghiệp toàn niên.
Tổng cục Lâm nghiệp ký hợp đồng
nguyên tắc với Ủy ban hành chính tỉnh, thành về số lượng mặt hàng theo chỉ tiêu
kế hoạch của Nhà nước duyệt cho địa phương về các nhu cầu do lâm nghiệp phụ
trách cung cấp. Bộ Nội thương ký hợp đồng nguyên tắc với Ủy ban hành chính tỉnh,
thành phố về số lượng mặt hàng theo chỉ tiêu kế hoạch cho các nhu cầu mà ngành
nội thương phụ trách.
Hai bên giao nhiệm vụ cho các cấp
trực thuộc ngành mình để ký hợp đồng cụ thể và có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc
thực hiện hợp đồng, đảm bảo thực hiện tốt các hợp đồng nguyên tắc của Bộ và Tổng
cục đã ký.
II. VẤN ĐỀ GIAO NHẬN VÀ GIÁ CẢ
THANH TOÁN
a) Về giao nhận
1. Lâm nghiệp có nhiệm vụ vận
chuyển từ thượng nguồn về giao tới một hoặc hai bến chính của mỗi tỉnh. Nội
thương có nhiệm vụ vận chuyển từ thị trường chính về các thị trường phụ theo chức
năng lưu thông của mình.
Để tránh những trường hợp phải vận
chuyển vòng quanh hoặc ngược chiều làm tăng phí tổn lưu thông không cần thiết,
hai bên căn cứ vào tình hình cụ thể của từng địa phương mà giải quyết cho hợp
lý như: trên đường vận chuyển từ thượng nguồn về mỗi tỉnh, lâm nghiệp cần kết hợp
trên tuyến đường đi thuận chiều giao cho nội thương tại một số thị trường lẻ,
nhưng số lượng không quá lẻ tẻ, để thuận tiện cho đóng cốn, vận chuyển bè mảng
(gỗ phải từ 100m3, tre 5.000 cây, nứa 10.000 cây, củi 100 sít-te trở
lên). Kế hoạch phân phối lẻ tẻ đó nội thương phải báo trước cho lâm nghiệp và
chuẩn bị bãi bến, phương tiện để nhận.
2. Đối với các tỉnh miền núi,
trung du và khu 4 thì tuỳ theo tình hình sản xuất của lâm nghiệp, nhu cầu thị
trường của nội thương từng thời kỳ mà quy định giao nhận với nhau tại địa điểm
thuận lợi cho nội thương, nhưng cũng không để lâm nghiệp phải vận chuyển ngược
chiều.
3. Việc giao nhận phải chính xác
và dứt khoát, nói chung là giao nhận ở trên bờ, trường hợp nào do Bộ Nội thương
đề nghị thì có thể giao nhận dưới nước mà phải đảm bảo đánh giá đúng số lượng
và chất lượng hàng hoá (hai bên thoả thuận cùng ký nhận rồi mới lập phiếu thanh
toán). Phí tổn bốc dỡ để giao từ nước lên bờ do lâm nghiệp chịu, nội thương có
trách nhiệm cùng với lâm nghiệp tổ chức huy động nhân công, phương tiện để bốc
dỡ giao nhận được nhanh chóng.
b) Giá cả thanh toán.
1. Giá cả
Ngành lâm nghiệp giao hàng cho nội
thương tạm thời tính theo giá cung cấp như tinh thần công văn số 50-UB-VG ngày
09-01-1964 của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước đã quy định: giao nhận hàng cho tỉnh
nào thì tính theo giá cung cấp tỉnh đó.
Về giá cả bán ra thuộc hệ thống
nội thương theo từng đối tượng sẽ do ngành nội thương quy định. Khoản chênh lệch
giữa giá cung cấp với giá lẻ của nội thương, sau khi đã trừ các khoản phí thuế,
lãi theo kế hoạch, ngành nội thương có trách nhiệm nộp vào ngân sách Nhà nước.
Năm 1963 lâm nghiệp giao hàng
cho nội thương tính theo hai giá cung cấp và lẻ trừ lùi phí, thuế, lãi thành
giá cao. Năm nay theo tinh thần công văn số 50-UB-VG ngày 09-01-1964 của Uỷ ban
Kế hoạch Nhà nước thì lâm nghiệp bắt đầu từ ngày 01-01-1964 giao hàng cho nội
thương chỉ tính một giá cung cấp. Những việc thi hành chưa thống nhất trong quý
I-1964 hai bên giao nhận hàng vẫn còn tính hai giá, đến quý II-1964 hai bên
giao nhận hàng mới bắt đầu tính theo một giá cung cấp. Với tình hình thực tế đó
liên Bộ thống nhất là không đặt thành vấn đề thanh toán lại, mà bắt đầu từ quý
II năm 1964 trở đi ngành lâm nghiệp giao hàng cho nội thương tính thống nhất một
giá cung cấp (theo công văn số 50-UB-VG ngày 09-01-1964 của Uỷ ban Kế hoạch Nhà
nước). Trường hợp nào có đơn vị chưa thanh toán dứt khoát cho nhau thì tiến
hành thanh toán theo tinh thần trên. Như vậy là trong quý I -1964 ngành lâm
nghiệp có trách nhiệm nộp khoản chênh lệch cho ngân sách Nhà nước từ quý
II-1964 và quý III-1964 trở đi ngành nội thương có trách nhiệm nộp khoản chênh
lệch cho ngân sách Nhà nước.
2. Thanh toán tiền mua hàng
Từ nay sau khi hàng hoá được
giao nhận đúng thủ tục, phải tiến hành thanh toán theo phương thức nhờ thu nhận
trả qua Ngân hàng. Ngành nội thương phải chủ động nắm được nguồn hàng vận dụng
lưu thông thương nghiệp của mình, điều hoà cung cấp hàng hoá khi cần thiết và
thu nộp tốt khoản chênh lệch cho Nhà nước, ngành lâm nghiệp giao hàng cho nội
thương qua Công ty vật liệu kiến thiết tỉnh, hàng giao cho công ty tỉnh nào sẽ
thanh toán ngay với công ty tỉnh đó.
III. BỐ TRÍ TỔ CHỨC CỦA HAI
NGÀNH
Để bảo đảm thực hiện chức năng
nhiệm vụ của mỗi ngành được Thủ tướng Chính phủ phân công, hai bên đều nghiên cứu
hệ thống tổ chức của mình cho hợp lý và thích ứng với chức năng:
1. Đảm bảo thực hiện tinh thần
Chỉ thị 17-TTg ngày 24-02-1964 của Thủ tướng Chính phủ.
2. Tổ chức của ngành lâm nghiệp
phải đảm bảo thực hiện nhiệm vụ khai thác, vận chuyển, phân phối cho khu vực
kinh tế quốc doanh.
3. Tổ chức của ngành nội thương
phải đảm bảo quản lý được hàng và tiền, chủ động được việc điều hoà phân phối
hàng hoá và phục vụ cho nhu cầu của tập thể và nhân dân.
IV. TIẾN HÀNH CÔNG TÁC BÀN
GIAO GIỮA HAI NGÀNH
Trên tinh thần nhiệm vụ và việc
phân công của hai ngành đã được xác định, công tác bàn giao về tổ chức và chức
năng phải được tiến hành một cách cụ thể để mỗi bên có thể làm tròn trách nhiệm
của mình.
A. PHƯƠNG CHÂM BÀN GIAO.
1. Vận dụng thích hợp với tình
hình thực tiễn của từng địa phương mà thực hiện đúng tinh thần Chỉ thị 17-TTg của
Thủ tướng Chính phủ, tổ chức gọn nhẹ, đảm bảo được nhiệm vụ của Nhà nước giao.
2. Công tác bàn giao phải đảm bảo
thực hiện tốt kế hoạch năm 1964 của Nhà nước.
3. Công tác bàn giao phải tiến
hành khẩn trương, chu đáo và dứt khoát, có lãnh đạo chặt chẽ từ trung ương đến
địa phương.
B. NGUYÊN TẮC BÀN GIAO.
1. Giao nhiệm vụ đến đâu thì
giao tổ chức và cán bộ đến đó. Nếu thiếu thì xin Ủy ban hành chính địa phương
điều chỉnh, cuối cùng chưa đủ sẽ điều hoà cán bộ trong ngành về.
2. Giao nhiệm vụ tổ chức đồng thời
giao các phương tiện hoạt động khác, trên cơ sở sẵn có mà sử dụng, không được
vì bàn giao mà tăng kinh phí về xây dựng cơ bản, mua sắm v.v… và nhất thiết
không được vì bàn giao mà ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch của hai ngành.
3. Đảm bảo việc thanh toán, giao
nhận rõ ràng, chính xác, chống tham ô lãng phí trong khi bàn giao, tiện cho việc
kiểm tra về sau.
C. NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ THỂ.
1. Về nhiệm vụ.
Ở trung ương: Bộ Nội thương giao
lại cho Tổng cục Lâm nghiệp nhiệm vụ cung cấp gỗ, tre, nứa, củi, than cho khu vực
quốc doanh (kể cả công tư hợp doanh) ở 9 tỉnh đồng bằng.
Tổng cục Lâm nghiệp giao lại cho
Bộ Nội thương toàn bộ nhiệm vụ lưu thông thương nghiệp các mặt hàng nói trên ở
một số tỉnh miền núi hiện nay ngành lâm nghiệp còn đảm nhiệm.
Ở địa phương: Các cơ sở của lâm
nghiệp và nội thương cũng căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ đã nói trên để phối hợp
mà bàn giao với nhau.
2. Về tổ chức, cán bộ, phương tiện
hoạt động.
Ở các tỉnh đồng bằng hiện nay
ngành nội thương đang làm cả nhiệm vụ cung cấp, sau khi giao lại nhiệm vụ cho
ngành lâm nghiệp sẽ tách một phần cán bộ, công nhân viên kèm theo các phương tiện
cần thiết trên cơ sở thực tế và thoả thuận của hai bên.
Ở các tỉnh mà ngành lâm nghiệp
còn đang đảm nhiệm việc bán lẻ cũng tiến hành bàn giao sang cho ngành nội
thương theo như tinh thần nói trên.
3. Kế hoạch và tài liệu.
Tất cả các chỉ tiêu kế hoạch, về
phần cung cấp vật tư kỹ thuật và lưu thông thương nghiệp năm 1964 Nhà nước đã
duyệt thì hai bên tiến hành kiểm điểm lại việc thực hiện từ đầu năm đến nay,
còn lại bao nhiêu hai bên căn cứ vào nhiệm vụ nói trên mà bàn giao cho nhau và
mỗi bên có trách nhiệm tiếp tục thực hiện tốt các kế hoạch đó.
Những hợp đồng kinh tế cụ thể
bên cùng tiến hành bàn giao cho nhau và thông báo cho các đơn vị có liên quan đến
hợp đồng đó biết để tiện cho việc giao dịch về sau.
4. Kho tàng và bãi bến.
Kho tàng và bãi bến là phương tiện
cần thiết để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh. Khi bàn giao nhiệm vụ ở mỗi địa
phương thì căn cứ vào tình hình thực tế mà giải quyết thoả đáng cho việc hoạt động
của hai ngành được thuận lợi.
5. Hàng hoá và vốn.
a) Hàng hoá: Do đặc điểm hàng
hoá dự trữ tồn kho của ngành nội thương hiện nay về các mặt hàng gỗ, tre, nứa,
than hiện có là một phần để cung cấp cho khu vực quốc doanh và công tư hợp
doanh, một phần để bán cho khu vực tập thể và nhân dân. Vì vậy, khi tiến hành
bàn giao theo nhiệm vụ trên ở 9 tỉnh đồng bằng, các Công ty Vật liệu kiến thiết
ngành nội thương phải kiểm kê và trị giá hàng tồn kho của mình để xác định số tồn
kho phải bàn giao cho ngành lâm nghiệp. Cách xác định tồn kho bàn giao này là
căn cứ vào kế hoạch cung cấp vật tư và lưu thông thương nghiệp của mỗi địa
phương và dựa vào thực tế tồn kho đã kiểm kê mà tính tồn kho phải bàn giao.
Nhưng cần chú ý là hàng hoá tồn kho còn lại của các Công ty Vật liệu kiến thiết
ngành nội thương phải đảm bảo đủ mức dự trữ cần thiết phục vụ tốt cho kế hoạch
lưu chuyển hàng hoá của phần lưu thông thương nghiệp.
Ngược lại ngành lâm nghiệp bàn
giao hàng hoá tồn kho cho ngành nội thương ở một số tỉnh miền núi về phần lưu
thông thương nghiệp cũng tính theo tinh thần trên.
Khi tiến hành bàn giao, nếu có
hàng hoá kém, mất phẩm chất của bên nào thì bên đó phải thành lập hội đồng dưới
sự chủ trì của Ủy ban hành chính tỉnh, xác định phẩm chất và giá cả trước khi
bàn giao và nếu có hàng hoá ứ đọng cũng phải xác định rõ trước khi bàn giao.
Ngoài ra có thể còn một số hàng
hoá đang đi trên đường của một số công ty ngành nội thương đã ký nhận ở đầu nguồn
do lâm nghiệp vận chuyển và chưa thanh toán tiền thì coi số hàng hoá đó là của
lâm nghiệp giao cho nội thương để làm nhiệm vụ lưu thông thương nghiệp và
thương nghiệp sẽ thanh toán tiền sau khi giao nhận xong.
b) Vốn lưu động:
Vốn Nhà nước cấp cho ngành nội
thương để dự trữ hàng hoá (cả cung cấp vật tư và lưu thông thương nghiệp) là
30% trên cơ sở xác định tồn kho bình quân cả năm. Do đó không thể căn cứ vào tồn
kho bàn giao xác định ở một thời gian để bàn giao vốn Nhà nước cấp được, mặt
khác vòng quay vốn hàng hoá để phục vụ cho hai đối tượng cung cấp vật tư và lưu
thông thương nghiệp nhanh chậm cũng khác nhau, nên việc bàn giao vốn phải tiến
hành:
- Nơi nào từ đầu năm đã xây dựng
được kế hoạch vốn dự trữ hàng hoá riêng từng khâu (cung cấp vật tư và lưu thông
thương nghiệp) thì căn cứ vào kế hoạch vốn đó mà bàn giao cho nhau.
- Nơi nào không có kế hoạch vốn
riêng từng khâu thì căn cứ vào hai yếu tố: kế hoạch lưu chuyển hàng hoá và kế
hoạch vòng quay vốn hàng hoá của các mặt hàng trên mà xác định số vốn Nhà nước
cấp để bàn giao cho nhau trên nguyên tắc đảm bảo hoạt động bình thường của
ngành nội thương sau khi bàn giao.
- Nội thương căn cứ vào tài sản
lưu động đã bàn giao mà chuyển giao cho lâm nghiệp cả vốn tự có (đã xác định
trên) và vốn vay ngân hàng để lâm nghiệp quản lý và trả cho ngân hàng. Ngược lại
ngành lâm nghiệp bàn giao cho ngành nội thương cũng áp dụng theo tinh thần
trên.
- Các loại tài sản lưu động khác
thuộc vốn phi hàng hoá nếu bàn giao được thì giao nhận vốn bằng 100% giá trị
còn lại trên sổ sách của những tài sản đó.
- Công nợ của ngành nào, ngành
đó chịu trách nhiệm, thanh toán lấy không phải bàn giao. Riêng nợ tạm ứng cho
cán bộ, công nhân viên, khi bàn giao cán bộ đến đâu thì giao nợ đến đó.
c) Vốn cố định.
Nếu có bàn giao tài sản cố định
thì bàn giao vốn cố định theo giá trị nguyên thuỷ trừ khoản đã khấu hao (tức
không trị giá lại) và phải bàn giao cho nhau vốn sửa chữa lớn nếu còn.
Nói chung về việc bàn giao vốn
phải đảm bảo hai nguyên tắc:
- Đảm bảo vốn hoạt động thuận lợi
cho hai ngành tránh việc chiếm dụng vốn của nhau.
- Đảm bảo việc thanh toán được
rõ ràng về vốn Nhà nước cấp cho cả hai bên.
V. BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH BÀN
GIAO
Việc bàn giao giữa hai ngành sẽ
có nhiều khó khăn phức tạp. Do đó Bộ và Tổng cục nhận thấy cần phải có sự lãnh
đạo chặt chẽ của Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố và các Sở, Ty Lâm nghiệp,
Thương nghiệp và các Công ty, Trạm Lâm sản và Công ty Vật liệu kiến thiết phải
chuẩn bị chu đáo về nhận thức làm cho cán bộ, công nhân viên quán triệt tinh thần
chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và những phương châm nguyên tắc của Bộ và Tổng
cục đã đề ra mà khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành tốt việc bàn giao.
Để thực hiện tốt công tác này, ở
trung ương Bộ và Tổng cục giao trách nhiệm cho Cục Vật liệu kiến thiết (Bộ Nội
thương) và Cục Khai thác vận chuyển phân phối lâm sản (Tổng cục Lâm nghiệp) phối
hợp với nhau thành lập ban chỉ đạo bàn giao, hướng dẫn các địa phương tiến
hành, đồng thời uỷ nhiệm cho hai ông Cục trưởng Cục Vật liệu kiến thiết và Cục
trưởng Cục Khai thác vận chuyển phân phối lâm sản ký kết văn bản bàn giao với
nhau, báo cáo kết quả về Bộ và Tổng cục.
Ở địa phương, Bộ và Tổng cục
giao trách nhiệm cho Ủy ban hành chính khu, tỉnh và thành phố lãnh đạo và trực
tiếp chủ trì việc bàn giao có sự tham gia của tài chính và ngân hàng.
Biên bản bàn giao phải cụ thể,
rõ ràng, quy định ranh giới giao trách nhiệm cho mỗi ngành có Ủy ban hành chính
khu, tỉnh hoặc thành phố xét duyệt và báo cáo về Bộ và Tổng cục.
VI. THỜI GIAN BÀN GIAO
Việc bàn giao phải tiến hành khẩn
trương kể từ ngày 01-7-1964 mỗi ngành bắt đầu hoạt động theo chức năng và nhiệm
vụ đã quy định.
Tiếp được thông tư này, đề nghị Ủy
ban hành chính, các Sở, Ty Thương nghiệp, Lâm nghiệp lãnh đạo các Công ty Lâm sản
và Vật liệu kiến thiết chấp hành với tinh thần khẩn trương và chu đáo.
K.T. TỔNG CỤC
TRƯỞNG
TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP
TỔNG CỤC PHÓ
Nguyễn Mạnh Hồng
|
K.T. BỘ TRƯỞNG
BỘ NỘI THƯƠNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Văn Đào
|