TRỌNG
TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
33-TT/NN/CT
|
Hà
Nội, ngày 15 tháng 2 năm 1989
|
THÔNG TƯ
SỐ 33-TN/NN/CT NGÀY 15/2/1989 HƯỚNG DẪN VỀ KÝ KẾT
VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KINH TẾ BÁN VẬT TƯ, MUA NÔNG SẢN
Nhằm thực hiện Nghị quyết của Bộ
Chính trị số 10-NQ/TƯ ngày 5/4/1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Trọng
tài kinh tế Nhà nước ra Thông tư hướng dẫn về ký kết và thực hiện hợp đồng kinh
tế bán vật tư, mua nông sản như sau:
I- VỀ CHỦ THỂ
HỢP ĐỒNG KINH TẾ
So với các quy định trước đây của
Nhà nước về chủ thể hợp đồng kinh tế, Nghị quyết 10-NQ/TƯ đã cho phép mở rộng
các chủ thể hợp đồng kinh tế đến các hộ kinh tế tư nhân, các hộ gia đình xã viên,
do đó, chủ thể hợp đồng kinh tế mà Thông tư này hướng dẫn là:
1. Về phía tổ chức kinh tế quốc
doanh:
a) Các tổ chức kinh tế được Nhà
nước giao nhiệm vụ kinh doanh lương thực, nông sản, lâm sản, thuỷ sản.
b) Các tổ chức dịch vụ như tưới
tiêu làm đất, cung ứng vật tư, giống, công cụ máy móc, sửa chữa cơ khí, xay
xát, bảo hiểm cây trồng vật nuôi.
2. Về phía người sản xuất:
a) Các hợp tác xã, tập đoàn sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và nghề muối.
b) Các hợp tác xã mua bán xã.
c) Các hộ gia đình xã viên, hộ
kinh tế tư nhân sản xuất ra những nông sản phẩm với số lượng lớn và các hộ được
phép làm đại lý mua nông sản có thể ký hợp đồng kinh tế trực tiếp với các tổ chức
kinh tế quốc doanh. Các hộ còn lại nói chung nếu có sản phẩm hàng hoá bán cho
Nhà nước thì nên thông qua hợp tác xã nông nghiệp hoặc hợp tác xã mua bán. Các
hợp đồng ký với tư nhân phải được Uỷ ban nhân dân xã xác thực (quy định này chỉ
áp dụng tạm thời trong lúc chưa có quy định của Luật dân sự).
II- VỀ NỘI
DUNG, PHƯƠNG THỨC KÝ KẾT, THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KINH TẾ
1. Về ký kết hợp đồng để xây dựng
kế hoạch:
Để thực hiện những quy định của
Nghị quyết số 10-NQ/TƯ: "Các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất chủ động xây
dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở quy hoạch vùng, các chính sách
khuyến khích sản xuất của Nhà nước, các hợp đồng kinh tế ký kết với các đơn vị
kinh tế quốc doanh và các tổ chức kinh tế khác nhu cầu thị trường và khả năng sản
xuất của mình; kế hoạch do đại hội xã viên quy định. Nhà nước thông qua hệ thống
các chính sách đòn bẩy kinh tế và pháp luật để quản lý, không giao chỉ tiêu
pháp lệnh trực tiếp..."
Các đơn vị kinh tế cơ sở cần thiết
thực hiện:
a) Phải coi hợp đồng kinh tế là
một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng và là công cụ pháp lý của Nhà nước để
quản lý kinh tế tập thể, cá thể trong nông nghiệp. Thông qua hợp đồng kinh tế
mà hướng các thành phần kinh tế vào việc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch của Nhà nước.
Do đó, đi đôi với việc Nhà nước không giao chỉ tiêu pháp lệnh trực tiếp thì phải
tăng cường hệ thống hợp đồng kinh tế tương ứng, coi hợp đồng là một trong những
biện pháp kinh tế chủ yếu - một biện pháp trao đổi sản phẩm có tổ chức của nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa.
b) Hợp đồng kinh tế được ký kết
không phải căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh mà dựa trên quy hoạch và định
hướng kế hoạch của Nhà nước và quyền tự chủ của đơn vị kinh tế cơ sở, căn cứ
vào nhu cầu thị trường, khả năng sản xuất, kinh doanh của mình, các tổ chức
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể tiến hành ký kết các hợp đồng kinh tế. Dựa
trên cơ sở ký kết các hợp đồng kinh tế, các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất xây
dựng kế hoạch của mình và trình ra đại hội xã viên quyết định. Các tổ chức kinh
tế quốc doanh dựa trên kết quả của ký kết các hợp đồng kinh tế với người sản xuất
mà tập hợp lại xây dựng kế hoạch của ngành hàng từ dưới lên và trình ra Nhà nước
để cân đối kế hoạch. Do vậy, việc ký kết hợp đồng phải đi trước một bước để làm
căn cứ xây dựng kế hoạch, gắn với kế hoạch, với thị trường.
c) Việc ký kết hợp đồng kinh tế
không phụ thuộc theo năm kế hoạch mà phải bảo đảm thời vụ sản xuất. Tuỳ theo đặc
điểm của mỗi cây trồng, vật nuôi, các bên có thể ký kết hợp đồng kinh tế theo từng
vụ, từng năm hoặc ký hợp đồng kinh tế nhiều năm nhằm đẩy mạnh sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
2. Về nội dung hợp đồng kinh tế:
Nội dung hợp đồng kinh tế phải
tuân theo đúng chế độ hợp đồng kinh tế quy định, bao gồm các khoản chủ yếu như
số lượng, chất lượng, giá cả, thời gian, địa điểm, phương thức giao nhận,
phương thức thanh toán, trách nhiệm vật chất... Các bên cần tuân theo trình tự
mà pháp luật đã quy định để ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế. Nhưng
trong lĩnh vực quan hệ hợp đồng kinh tế trao đổi sản phẩm giữa Nhà nước và nông
dân, các đơn vị kinh tế cơ sở cần nắm vững các nội dung của Nghị quyết 10-NQ/TƯ
đã quy định như:
a) Hợp đồng kinh tế được ký kết
phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, trên cơ sở chính sách liên minh công nông của
Đảng. Các chủ thể Hội đồng kinh tế trong các tổ chức kinh tế quốc doanh, cũng
như các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế gia đình xã viên đều
bình đẳng trước pháp luật trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.
b) Về giá cả các bên ký kết hợp
đồng kinh tế phải dựa trên nguyên tắc thuận mua, vừa bán. Trong trường hợp các
bên có thể mua vật tư, bán nông sản theo tỷ giá và quy định của Nhà nước thì
cũng phải được người sản xuất chấp nhận, thoả thuận, chống tình trạng ép cấp,
ép giá.
c) Nhà nước đưa vào hợp đồng
kinh tế các loại như phân bón hoá học, các dịch vụ tưới tiêu, làm đất... để trao
đổi lấy sản phẩm trên cơ sở tỷ giá của Nhà nước quy định. Tuỳ tình hình cụ thể
từng nơi, các tổ chức kinh tế quốc doanh có thể đưa vào hợp đồng kinh tế những
mặt hàng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống của người sản xuất do các
bên tự thoả thuận.
3. Về phương thức hợp đồng:
Các bên có thể hợp đồng theo
phương thức:
a) Phương thức đầu tư ứng trước
để sản xuất và thu mua lương thực, nông sản sau theo quy định của Nhà nước và
được các bên thoả thuận (các loại phân hoá học theo tỷ giá của Nhà nước).
b) Bán vật tư theo giá kinh
doanh lấy tiền mua lương thực và nông sản theo giá thoả thuận.
c) Đổi ngay vật tư lấy lương thực
và nông sản theo tỷ giá của Nhà nước quy định được nông dân chấp nhận. Trong
quan hệ hợp đồng dịch vụ về tưới tiêu, làm đất các bên có thể áp dụng phương thức
thanh toán bằng sản phẩm hoặc bằng tiền tuỳ theo quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương. Tuỳ theo đặc điểm của từng loại sản
phẩm trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp mà chọn phương thức
hợp đồng tương ứng nhằm phát triển sản xuất, lưu thông, phân phối nắm cho được
hàng hoá vào tay Nhà nước.
Đối với những đơn vị sản xuất tập
thể và những gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với cách mạng, neo
đơn, có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, các tổ chức kinh tế quốc doanh cần thực hiện
phương thức ứng trước vật tư, thu sản phẩm sau, hoặc cho vay vốn với lãi suất hợp
lý để giúp các đơn vị và hộ này có điều kiện bảo đảm sản xuất.
4. Với quyền tự chủ quản lý, các
hợp tác xã, tập đoàn sản xuất có thể ký hợp đồng liên doanh, liên kết kinh tế
giữa các thành phần kinh tế dưới nhiều hình thức nhằm phát triển sản xuất, mở rộng
giao lưu hàng hoá. Việc ký kết hợp đồng kinh tế này phải dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và theo đúng pháp luật của Nhà nước.
5. Trong việc thực hiện hợp đồng
kinh tế các tổ chức kinh tế quốc doanh có nghĩa vụ cung ứng vật tư, dịch vụ đến
tận tay người sản xuất đúng số lượng, chất lượng, thời vụ, giá cả, tiền mặt,
phương thức thanh toán mà hợp đồng đã quy định. Đồng thời có nghĩa vụ tổ chức
thu mua, tiếp nhận tốt các sản phẩm do người sản xuất bán cho Nhà nước. Về phía
người sản xuất có nghĩa vụ bán sản phẩm cho Nhà nước theo đúng số lượng, chất
lượng, giá cả mà hợp đồng kinh tế đã quy định.
Khi hợp đồng kinh tế hết hiệu lực,
các bên có nghĩa vụ thanh lý hợp đồng kinh tế, lập biên bản thanh lý xác nhận
những kết quả thực hiện, giải quyết những tồn tại hoặc kiến nghị tới cơ quan có
thẩm quyền giải quyết những vấn đề mà các bên không giải quyết được.
III- XỬ LÝ
CÁC TRANH CHẤP VÀ VI PHẠM HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Khi xẩy ra các tranh chấp và vi
phạm hợp đồng kinh tế, các bên phải chủ động gặp nhau bàn bạc, thương lượng giải
quyết. Nếu không giải quyết được bằng thương lượng thì bên bị vi phạm khiếu nại
đến cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền xét xử theo pháp luật hiện hành.
Trong quá trình giải quyết tranh
chấp, nếu tổ chức kinh tế tập thể không bán đủ sản phẩm cho Nhà nước tương ứng
với khối lượng vật tư đã được cung ứng mà không có lý do chính đáng thì phải chịu
trách nhiệm phạt vật chất và phải giao đủ số sản phẩm theo hợp đồng kinh tế đã
ký cho tổ chức kinh tế quốc doanh. Nếu do bị thiên tai mất mùa thì tổ chức kinh
tế tập thể có trách nhiệm bán bù vào vụ sau, năm sau, hoặc phải thanh toán số vật
tư còn nợ theo giá kinh doanh của Nhà nước vào thời điểm mà các bên thanh lý. Gặp
trường hợp cá biệt mà tổ chức kinh tế tập thể không thanh lý được thì cơ quan
Trọng tài kinh tế có thẩm quyền phải làm việc với Uỷ ban nhân dân huyện để thống
nhất biện pháp xử lý.
- Nếu tổ chức kinh doanh tập thể
đem sản phẩm bán ra ngoài, không bán đủ cho tổ chức kinh tế quốc doanh theo hợp
đồng kinh tế đã ký thì phải chịu phạt vật chất và bồi thường thiệt hại như pháp
luật đã quy định.
- Nếu tổ chức kinh tế Nhà nước
không cung ứng vật tư đúng số lượng, chất lượng, thời vụ, giá cả, phương thức
giao nhận, phương thức thanh toán theo hợp đồng kinh tế đã ký mà không có lý do
khách quan chính đáng thì phải chịu phạt và bồi thường thiệt hại cho người sản
xuất theo pháp luật quy định.
- Nếu tổ chức kinh tế Nhà nước
không cung ứng vật tư đến tận tay người sản xuất theo hợp đồng kinh tế đã ký mà
lại đem vật tư sử dụng tuỳ tiện thì ngoài việc phải bị phạt và bồi thương thiệt
hại theo pháp luật về hợp đồng kinh tế, còn bị truy cứu trách nhiệm hành chính
hay hình sự tuỳ theo mức độ vi phạm.
- Về thẩm quyền giải quyết các vụ
tranh chấp, vi phạm hợp đồng kinh tế vẫn theo các quy định hiện hành của Nhà nước.
IV- VỀ TRÁCH
NHIỆM CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KINH TẾ
a) Các tổ chức kinh doanh ngành
hàng nếu được Nhà nước giao quản lý quỹ vật tư để hợp đồng kinh tế nắm sản phẩm
thì phải bảo đảm cung ứng phục vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho các tổ chức
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và các hộ gia đình xã viên.
Các tổ chức ngành hàng từ Trung
ương, tỉnh, huyện phải tổ chức ký kết các hợp đồng kinh tế trên nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi nhằm bảo đảm quyền hạch toán độc lập của mỗi thành viên và
phát huy tác dụng, hỗ trợ lẫn nhau giữa các đơn vị trong hệ thống công ty, tạo
điều kiện cho các công ty ngành hàng ký kết và thực hiện nghiêm túc các hợp đồng
kinh tế với người sản xuất.
b) Để ký kết và thực hiện tốt
các hợp đồng kinh tế với các tổ chức kinh tế quốc doanh, dưới sự chỉ đạo của Uỷ
ban nhân dân huyện, xã, ban quản lý hợp tác xã, tập đoàn sản xuất có nhiệm vụ tổ
chức ký kết và thực hiện tốt các hợp đồng khoán trong nội bộ hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất, nhằm phân phối tốt vật tư đến tận tay người sản xuất và thu gom
các sản phẩm để bán cho các tổ chức kinh tế quốc doanh theo hợp đồng kinh tế đã
ký, đồng thời tổ chức tốt hợp đồng đấu thầu nhằm phát triển sản xuất và nâng mức
thu nhập của xã viên.
c) Uỷ ban nhân dân huyện có
trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc ký kết và thực hiện hợp đồng
kinh tế giữa các đơn vị cung ứng, vận chuyển, thu mua sản phẩm với cơ sở sản xuất
trên địa bàn huyện.
Để giúp Uỷ ban nhân dân huyện
làm được nhiệm vụ đó, sự cần thiết phải củng cố, kiện toàn Trọng tài kinh tế cấp
huyện có đủ số lượng và chất lượng hoạt động để hướng dẫn việc ký kết, đôn đốc,
kiểm tra việc thực hiện và xử lý các vụ tranh chấp và vi phạm hợp đồng kinh tế.
Trên đây là những điều hướng dẫn
thi hành Nghị quyết 10-NQ/TƯ của Bộ Chính trị và các Quyết định của Hội đồng Bộ
trưởng trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế bán vật tư, mua nông sản giữa Nhà nước
và nông dân, đề nghị các ngành, các cấp trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết
10-NQ/TƯ cần quan tâm phổ biến Thông tư này đến các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất
và các đơn vị kinh tế quốc doanh được giao nhiệm vụ ký kết và thực hiện hợp đồng
kinh tế bán vật tư, mua nông sản.
Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ ngày ban hành, thay thế Thông tư số 4-TT/NN ngày 13-10-1986 của Trọng
tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế hai chiều.
Yêu cầu các đồng chí Chủ tịch Trọng
tài kinh tế các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương nghiên cứu kỹ
Thông tư này để quán triệt và thi hành.
Trong quá trình thực hiện nếu vướng
mắc, đề nghị các ngành, các cấp phản ánh về Trọng tài kinh tế Nhà nước để
nghiên cứu giải quyết.