BỘ
NỘI THƯƠNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
15-NT
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 12 năm 1984
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ NỘI THƯƠNG SỐ 15-NT NGÀY 31-12-1984 HƯỚNG DẪN VỀ CHỨC
NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY SỞ THƯƠNG NGHIỆP TỈNH, THÀNH PHỐ VÀ ĐẶC KHU.
Để thi hành Nghị định số
152-HĐBT ngày 13-12-1983 của Hội đồng Bộ trưởng về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức
bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu
trực thuộc Trung ương, Bộ Nội thương hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức
bộ máy Sở thương nghiệp các tỉnh, thành phố và đặc khu như sau:
I. CHỨC NĂNG,
NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA SỞ THƯƠNG NGHIỆP
Sở thương nghiệp là cơ quan
chuyên môn của Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung
ương, đồng thời là cơ quan cấp dưới của Bộ Nội thương, vừa có chức năng quản lý
hành chính Nhà nước đối với mọi hoạt động thương nghiệp và thị trường địa
phương, vừa có chức năng quản lý kinh tế - kỹ thuật đối với các tổ chức thương
nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã do địa phương quản lý.
Sở thương nghiệp thực hiện hai
loại chức năng này theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo đảm
hoàn thành tốt nhiệm vụ tổ chức lưu thông vật phẩm tiêu dùng (bao gồm việc cung
cấp định lượng, phân phối hàng hoá cho các đối tượng theo chính sách và mở rộng
kinh doanh thương nghiệp) thu mua nông, lâm, thuỷ, hải sản và những mặt hàng
công nghiệp tiêu dùng; quản lý ngành ăn uống công cộng, khách sạn và dịch vụ; tự
sản xuất, chế biến và gia công sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng cần thiết để
phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh và xuất khẩu; hoàn thành cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với thương nghiệp tư doanh và tăng cường quản lý thị trường, nhằm phục
vụ tốt sản xuất và đời sống của nhân dân ở địa phương, đồng thời làm đầy đủ
nghĩa vụ với Trung ương.
Sở thương nghiệp có những nhiệm
vụ và quyền hạn cụ thể sau đây:
1. Nghiên cứu xây dựng quy hoạch
phát triển ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa gồm thương nghiệp quốc doanh,
thương nghiệp hợp tác xã và tổ chức quản lý thị trường ở địa phương.
2. Xây dựng, tổng hợp và cân đối
kế hoạch lưu chuyển hàng hoá ở địa phương và các kế hoạch biện pháp. Căn cứ vào
kế hoạch đã được Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố đặc khu và Bộ xét duyệt, phân
bổ các chỉ tiêu kế hoạch cho các công ty kinh doanh thuộc ngành; hướng dẫn các
công ty xây dựng kế hoạch, bảo đảm thực hiện tốt các chỉ tiêu pháp lệnh về thu
mua, điều động sản phẩm (phần điều đi) và bán lẻ tại địa phương.
3. Tổ chức và chỉ đạo thực hiện
các chính sách, chế độ, thể lệ thương nghiệp trong phạm vi tỉnh, thành phố, đặc
khu; nghiên cứu đề nghị Bộ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu bổ sung
hoặc sửa đổi những điểm cần thiết.
4. Tổ chức thực hiện chính sách
giá, thực hiện mức giá cụ thể của trung ương và địa phương, kiểm tra các tổ chức
kinh doanh trực thuộc thực hiện giá chỉ đạo của Nhà nước.
5. Căn cứ vào kế hoạch đã được
duyệt và các chính sách, chế độ về thương nghiệp của Nhà nước và sự chỉ đạo, hướng
dẫn của Bộ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu, chỉ đạo các đơn vị
kinh doanh trực thuộc thực hiện việc thu mua hàng nông sản, thực phẩm, hàng
công nghiệp, gia công, tự sản xuất chế biến, tổ chức dự trữ và bán ra, kinh
doanh ăn uống công cộng và các hoạt động dịch vụ sinh hoạt.
6. Căn cứ vào đường lối, chính
sách về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư doanh và quản lý thị
trường của Đảng, Chính phủ và sự chỉ đạo của Bộ, nghiên cứu đề xuất với Uỷ ban
Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu những chủ trương và biện pháp cụ thể để thực
hiện việc cải tạo và quản lý thị trường tại địa phương, đồng thời chỉ đạo và tổ
chức thực hiện các chủ trương và biện pháp đó.
7. Xây dựng quy hoạch và kế hoạch
phát triển mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, bảo đảm hàng hoá lưu thông
thông suốt và hợp lý trên thị trường địa phương.
8. Thực hiện thanh tra, kiểm tra
thường xuyên mọi hoạt động của các tổ chức kinh doanh thương nghiệp tại địa
phương, giám sát và kiểm tra chất lượng hàng hoá và đo lường theo tiêu chuẩn
quy định của Nhà nước.
9. Chịu trách nhiệm trước Uỷ ban
Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu và trước Bộ, quản lý các đơn vị kinh doanh trực
thuộc; chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra các công ty thương nghiệp (đã phân cấp
cho Uỷ ban Nhân dân huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh) thực hiện các định
mức kinh tế - kỹ thuật và các chế độ quản lý tài sản, tiền vốn, vật tư và lao động
do Hội đồng Bộ trưởng, Bộ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố ban hành; phân bổ
mức chiết khấu và thặng số thương nghiệp cho các công ty đó.
10. Nghiên cứu cải tiến nghiệp vụ
kỹ thuật kinh doanh; áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất
lượng phục vụ và văn minh thương nghiệp, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả
công tác.
11. Nghiên cứu và chỉ đạo việc
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và trang bị kỹ thuật, phương tiện, dụng cụ
kinh doanh cho các cơ sở trong ngành.
12. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công nhân viên về quản lý và nghiệp vụ kỹ thuật kinh doanh thương nghiệp và quản
lý các loại cán bộ, công nhân viên theo sự phân cấp quản lý của Hội đồng Bộ trưởng,
của Bộ và của Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu.
13. Chỉ đạo, hướng dẫn và tổng kết
phong trào thi đua trong ngành và tổ chức việc khen thưởng động viên kịp thời đối
với các đơn vị và cá nhân có thành tích.
II. TỔ CHỨC BỘ
MÁY CỦA SỞ THƯƠNG NGHIỆP
Sở thương nghiệp do giám đốc điều
khiển. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu
và Bộ Nội thương thực hiện các nhiệm vụ ghi ở phần I trên đây.
Các phó giám đốc giúp giám đốc
trong việc lãnh đạo chung và được giám đốc phân công chỉ đạo từng phần công tác
cụ thể.
Trong phạm vi quyền hạn của
mình, trên cơ sở các chính sách, chế độ, thể lệ của Hội đồng Bộ trưởng, của Bộ
và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, Giám đốc Sở thương nghiệp được ra các quyết định, chỉ
thị và các văn bản khác cho các tổ chức kinh doanh trực thuộc thi hành.
A. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY:
Để giúp giám đốc chỉ đạo và tổ
chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên, bộ máy của Sở thương nghiệp có các
phòng và văn phòng. Phòng do trưởng phòng, văn phòng do chánh văn phòng điều
khiển. Giúp việc trưởng phòng có từ một đến hai phó trưởng phòng, giúp việc
chánh văn phòng có từ một đến hai phó văn phòng.
Bộ máy Sở thương nghiệp có các
phòng và văn phòng sau đây:
- Phòng kế hoạch - thống kê.
- Phòng nghiệp vụ kinh doanh
thương nghiệp.
- Phòng nghiệp vụ kinh doanh ăn
uống và dịch vụ.
- Phòng vật giá.
- Phòng tài chính - kế toán.
- Phòng cải tạo và quản lý thị
trường.
- Phòng quản lý chất lượng hàng
hoá và đo lường.
- Phòng kho vận và xây dựng cơ bản.
- Phòng tổ chức cán bộ, đào tạo,
lao động và tiền lương (gọi tắt là phòng tổ chức).
- Phòng thanh tra và bảo vệ.
- Văn phòng sở.
Đối với những địa phương có khối
lượng công việc không nhiều thì có thể ghép một số phòng có liên quan vào với
nhau như vật giá với nghiệp vụ kinh doanh, quản lý chất lượng hàng hoá và đo lường
với cải tạo và quản lý thị trường, nghiệp vụ kinh doanh với kho vận, kế hoạch
thống kê với xây dựng cơ bản, v.v...
Ngoài các phòng và văn phòng
trên đây, Sở còn có các đơn vị trực thuộc:
- Ban quản lý hợp tác xã mua bán
tỉnh.
- Trường dạy nghề thương nghiệp.
- Các công ty kinh doanh, xí
nghiệp sản xuất, xây dựng cơ bản và các đơn vị tương đương khác.
d. Biên chế và cán bộ:
Biên chế của các phòng và chung
của Sở phải hết sức gọn, nhẹ, nhưng phải bảo đảm hoàn thành được nhiệm vụ với
chất lượng cao. Xác định biên chế của Sở phải xuất phát từ những tiêu thức sau
đây:
1. Bảo đảm thực hiện được cả nhiệm
vụ quản lý hành chính Nhà nước và nhiệm vụ quản lý kinh tế - kỹ thuật thương
nghiệp của Sở.
2. Tuỳ theo điều kiện sản xuất,
kết cấu dân cư, địa lý và yêu cầu quản lý của mỗi địa phương khác nhau mà biểu
hiện thành khối lượng công việc của Sở:
- Về công tác quản lý hành chính
kinh tế như số lượng thương nghiệp tư nhân, khối lượng công việc quản lý thị
trường và chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ thương nghiệp ở địa phương.
- Tổng doanh số mua vào, bán ra
của ngành thương nghiệp địa phương (bao gồm đơn vị kinh doanh trực thuộc Sở và
những đơn vị kinh doanh ở huyện mà Sở thực hiện quyền quản lý theo ngành).
- Tổng số đơn vị kinh doanh do Sở
trực tiếp quản lý và những đơn vị Sở quản lý theo ngành.
- Tổng số lao động của các đơn vị
kinh doanh ở địa phương.
3. Căn cứ vào đặc điểm hoạt động
thương nghiệp của từng vùng khác nhau (miền núi, trung du, đồng bằng, thành phố,
khu công nghiệp).
Ngoài 3 tiêu thức chủ yếu trên
đây, còn phải chú ý tới điều kiện thực tế về trình độ, năng lực cán bộ và cơ chế
quản lý kinh tế của Nhà nước và của ngành. Dựa vào những tiêu thức đó, căn cứ
vào tình hình thực tế của ngành hiện nay có thể chia các Sở thương nghiệp trong
cả nước thành 4 loại với số lượng biên chế cần có như sau:
Loại thứ nhất gồm phần lớn các tỉnh
miền núi và một số tỉnh không lớn khác, Sở thương nghiệp quản lý trực tiếp từ 6
đến 8 đơn vị, quản lý theo ngành từ 10 đến 13 đơn vị, có tổng số lao động từ
2500 đến 3000 người và có tổng doanh số cả mua và bán trên dưới 1 tỷ đồng nhưng
đi lại xa, vất vả... thì số biên chế cơ quan Sở cần có từ 50 đến 60 người.
Loại thứ 2 gồm thành phần lớn
các tỉnh trung du và đồng bằng. Sở thương nghiệp quản lý trực tiếp từ 9 đến 11
đơn vị, quản lý theo ngành từ 14 đến 17 đơn vị, có tổng số lao động từ 3100 đến
4000 người và có tổng doanh số cả mua và bán từ trên 2 tỷ đến 3 tỷ đồng, thì số
biên chế cơ quan Sở cần có từ 60 đến 65 người.
Loại thứ 3 gồm thành phố Hải
Phòng và một số tỉnh lớn. Sở thương nghiệp quản lý trực tiếp từ 10 đến 16 đơn vị,
quản lý theo ngành từ 15 đến 20 đơn vị, có tổng số lao động từ 4100 đến 7000
người và có tổng doanh số cả mua và bán từ trên 3 tỷ đến 5 tỷ đồng thì số biên
chế cơ quan Sở cần có từ 65 đến 75 người.
Loại thứ 4 gồm thủ đô Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh, tất cả các chỉ tiêu trên đây đều nhiều hơn bất cứ tỉnh
và thành phố nào trong cả nước thì số biên chế cơ quan Sở thương nghiệp cần có
từ 90 đến 100 người.
Về cán bộ, cần bố trí trong phạm
vi số biên chế cụ thể hàng năm do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố quy định, bố
trí cán bộ đúng tiêu chuẩn theo các chức vụ viên chức Nhà nước.
III. QUAN HỆ
CỦA SỞ THƯƠNG NGHIỆP VỚI CÁC CƠ QUAN CÓ LIÊN QUAN
1. Với Uỷ ban Nhân dân tỉnh,
thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương.
Sở thương nghiệp là một cơ quan
chuyên môn của Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu. Uỷ ban Nhân dân
thông qua Sở thương nghiệp lãnh đạo và chỉ đạo công tác thương nghiệp, quản lý
thị trường và quản lý các tổ chức kinh doanh thương nghiệp địa phương. Sở
thương nghiệp phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi nghị quyết, chỉ thị và quyết định
của Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu trong việc quản lý các mặt công
tác đó.
Trường hợp Sở thương nghiệp có
những ý kiến không nhất trí với Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu thì
một mặt Sở phải chấp hành quyết định của Uỷ ban Nhân dân, mặt khác phải báo cáo
và kiến nghị để Uỷ ban Nhân dân xem xét lại, đồng thời báo cáo lên Bộ, Uỷ ban Nhân
dân tỉnh, thành phố và đặc khu giao kế hoạch và xét duyệt hoàn thành kế hoạch
ngành nội thương địa phương cho Sở thương nghiệp và quản lý toàn diện cán bộ,
công nhân viên ngành, trừ giàm đốc Sở thương nghiệp do Bộ Nội thương bổ nhiệm
theo đề nghị của Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu.
2. Với Bộ Nội thương:
Sở thương nghiệp là cơ quan cấp
dưới thuộc hệ thống dọc của Bộ Nội thương, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ về
các mặt thuộc phạm vi quản lý của Bộ như Nghị định số 35-CP ngày 9-2-1981 của Hội
đồng Chính phủ đã quy định, có nhiệm vụ chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương,
chính sách, chế độ, thể lệ, các chỉ tiêu kế hoạch và các định mức kinh tế - kỹ
thuật về tổ chức quản lý lưu thông hàng hoá, về giá cả, về nghiệp vụ kinh doanh
và nghiệp vụ quản lý kinh tế thương nghiệp.
Trường hợp có những điểm không
nhất trí giữa địa phương và Bộ về chính sách, chế độ, giá cả, phương thức và tổ
chức lưu thông hàng hoá thì phải căn cứ vào sự chỉ đạo của Bộ để thực hiện, đồng
thời báo cáo để Bộ nghiên cứu xem xét lại và báo cáo Uỷ ban Nhân dân để Uỷ ban
báo cáo lên Bộ và Hội đồng Bộ trưởng xem xét.
3. Với các tổ chức kinh doanh
thương nghiệp địa phương:
Sở thương nghiệp quản lý trực tiếp
và toàn diện đối với các công ty thương nghiệp trực thuộc. Đối với các công ty
đã giao cho Uỷ ban Nhân dân huyện, thị xã trực tiếp quản lý, Sở thương nghiệp
có trách nhiệm chỉ đạo theo ngành về các mặt:
- Chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng
quy hoạch, kế hoạch lưu chuyển hàng hoá, kinh doanh ăn uống, khách sạn và dịch
vụ, và các kế hoạch biện pháp.
- Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra
việc thực hiện các chính sách, chế độ lưu thông phân phối hàng hoá (gồm các
chính sách và phương thức mua, bán, cải tạo và quản lý thị trường...)
- Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra
việc thực hiện các định mức kinh tế - kỹ thuật (mạng lưới lao động, vật tư, tiền
vốn, phân chia thặng số và chiết khấu thương nghiệp...) và các quy định về nghiệp
vụ kỹ thuật kinh doanh.
Hướng dẫn thực hiện các chế độ
tài chính, kế toán của Nhà nước và của ngành; hướng dẫn các mặt nghiệp vụ quản
lý tiền hàng, thanh quyết toán...
- Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
chuyên môn cho cán bộ, công nhân viên.
- Thoả thuận việc bổ nhiệm giám
đốc và kế toán trưởng công ty thương nghiệp huyện trước khi Uỷ ban Nhân dân huyện
ra quyết định chính thức.
4. Với phòng thương nghiệp huyện,
quận, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh:
Trên cơ sở những chính sách, chế
độ về lưu thông phân phối hàng hoá của Hội đồng Bộ trưởng và Bộ, dưới sự lãnh đạo
của Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu, Sở thương nghiệp có trách nhiệm
chỉ đạo, hướng dẫn các Phòng thương nghiệp thực hiện nhiệm vụ quản lý hành
chính Nhà nước về thương nghiệp, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp
tư doanh và quản lý thị trường ở huyện, quận, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh.
Căn cứ vào thông tư này, các Sở
thương nghiệp nghiên cứu và có kế hoạch kiện toàn bộ máy cơ quan Sở, xây dựng
điều lệ tổ chức và hoạt động của Sở trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc
khu ban hành, nhằm đáp ứng được nhiệm vụ công tác thương nghiệp trong giai đoạn
hiện nay và đưa công tác quản lý của Sở thương nghiệp vào nề nếp.
Riêng đối với Sở ăn uống công cộng
và phục vụ của thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trong khi chờ đợi văn bản
hướng dẫn riêng của Bộ, có thể vận dụng những nguyên tắc và nội dung trong
thông tư này.
Mọi văn bản trước đây quy định
trái với Thông tư này đều bãi bỏ.
Trong quá trình thực hiện, nếu
có vướng mắc gì, cần kịp thời báo cáo để Bộ nghiên cứu giải quyết.