BỘ
CÔNG NGHIỆP NHẸ
*******
Số:133-BCNN/KH
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******
Hà Nội ngày 13 tháng 03 năm 1961
|
QUY ĐỊNH THỂ THỨC THI HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ VIỆC LẬP KẾ
HOẠCH, HẠCH TOÁN VÀ THỐNG KÊ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP DO HỘI ĐỒNG CHÍNH
PHỦ BAN HÀNH THEO NGHỊ ĐỊNH SỐ 43-CP NGÀY 16-09-1960
Kính
gửi:
|
Các ông Giám đốc các xí nghiệp,
Công trường và các cơ quan thuộc
Bộ Công nghiệp nhẹ.
|
Bộ quy
định thể thức thi hành điều lệ tạm thời về việc lập kế hoạch, hạch toán, thống
kê giá thành và phí lưu thông của Hội đồng Chính phủ ban hành theo Nghị định số
43-CP ngày 16 tháng 09 năm 1960 có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1961 để
các xí nghiệp, công trường và các cơ quan thuộc Bộ triệt để thi hành:
PHẦN THỨ NHẤT
MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA CHẾ ĐỘ LẬP KẾ HOẠCH, HẠCH TOÁN VÀ
THỐNG KÊ GIÁ THÀNH CỦA SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP
Quản lý
giá thành là tìm mọi biện pháp tiết kiệm lao động quá khứ và lao động sống nhằm
mục đích hạ giá thành. Việc tính giá thành từng loại sản phẩm công nghiệp có mục
đích:
- Làm cơ sở
cho việc quy định giá bán buôn chỉ đạo.
- Để lập kế
hoạch và tính giá thành của toàn bộ sản phẩm thương phẩm;
- Để xác định
tốc độ tăng giảm giá thành sản phẩm công nghiệp có thể so sánh được trong công
tác kế hoạch và thống kê
Mục đích lập
kế hoạch giá thành để dự tính trước giá thành của các loại sản phẩm, định ra tiểu
chuẩn cần thiết về nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, động lực tiền lương và
các chi phí khác tính, vào giá thành của mỗi loại sản phẩm đó, làm cho việc
dùng sức người sức của và tiền tệ đều có tiêu chuẩn nhất định và việc sử dụng
được hợp lý, giúp ích cho các xí nghiệp tự kiểm tra được các hoạt động kinh tế
- sản xuất của mình, nhờ đó giảm bớt và chấm dứt lãng phí, thực hành tiết kiệm,
nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành là nguồn gốc quan trọng trong việc mở
rộng tái sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng thêm tích lũy vốn trong ngành công
nghiệp, thực hiện nhu cầu căn bản của chế độ hạch toán kinh tế, đồng thời đảm bảo
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.
Chính vì mục
đích đó mà chế độ lập kế hoạch, thống kê và hạch toán giá thành của sản phẩm
công nghiệp không ngừng được cải tiến.
Hội đồng
Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về việc lập kế hoạch, hạch toán, thống kê
giá thành và phí lưu thông có hiệu lực thi hành từ 01-01-1961 nhằm mục đích:
1.
Giúp ích cho việc cải tiến sự lãnh đạo của xí nghiệp trong công tác quản lý giá
thành và lập kế hoạch giá thành được khoa học, đơn giản, gọn, dễ phát hiện vấn
đề, làm cho việc phấn đấu hạ giá thành có trọng tâm, trọng điểm, giảm nhẹ khó
khăn cho công tác quản lý;
2. Giảm
bớt công việc cho cán bộ quản lý làm nhanh, tốt, chính xác trong khi lập kế hoạch,
thống kê và hạch toán giá thành có quy định rõ ràng nguyên tắc, phương pháp,
quan niệm thống nhất, do đó công tác lập kế hoạch, tính giá thành và phí tổn sản
xuất được nhanh chóng, dễ dàng, làm cho cán bộ quản lý có điều kiện tập trung
vào phục vụ sản xuất tốt hơn, giám đốc tình hình chấp hành kế hoạch giá thành,
kiểm tra việc giảm giá thành, phát hiện ra những nhân tố nào làm cho giá thành
cao, tìm ra nguyên nhân trong quá trình chấp hành kế hoạch và lực lượng tiềm
tàng trong nội bộ xí nghiệp căn cứ vào tiêu chuẩn các khoản chi phí giá thành do
Nhà nước quy định.
3. Làm
cho quần chúng công nhân dễ dàng tham gia quản lý kế hoạch giá thành, kiểm tra
giá thành thực tế và đấu tranh hạ giá thành một cách có hiệu quả.
4.
Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch, thống kê và hạch toán giá thành được chính
xác, hợp lý và dễ so sánh giá thành sản phẩm cùng một loại của xí nghiệp này với
xí nghiệp khác có cơ sở quy định thống nhất.
5. Loại
trừ những nhân tố không tham gia quá trình sản xuất ra khỏi giá thành của sản
phẩm công nghiệp nhằm giảm bớt khó khăn cho xí nghiệp trong việc hoàn thành nhiệm
vụ hạ giá thành của Nhà nước và của Bộ, nhất là đối với những nhân tố khách
quan trên sức người mà xí nghiệp không có khả năng khắc phục được như là: trợ cấp
kinh phí công đoàn, Đảng và Đoàn thanh niên, chi phí chuyên gia, bệnh viện, cấp
dưỡng, giữ trẻ, thuế,vv…
Chúng ta đều
biết rằng yêu cầu của công tác quản lý sản xuất – kinh doanh đòi hỏi phải hạch
toán sản xuất và tính giá thành, bởi vì trong kế hoạch sản xuất, kế hoạch giá
thành là khâu chính. Vì thế, nếu không có hạch toán sản xuất rành mạch và tính
giá thành chính xác thì không thể quản lý xí nghiệp công nghiệp được tốt.
Với mục đích
yêu cầu trên, chế độ lập kế hoạch, hạch toán và thống kê giá thành mới do Hội đồng
Chính phủ ban hành lần này sẽ có tác dụng nêu lên mục tiêu phấn đấu hạ giá
thành và phương hướng cố gắng quản lý sản xuất kinh doanh của xí nghiệp được tốt
hơn, chính xác hơn và hợp lý hơn bất cứ một chế độ lập kế hoạch, hạch toán và
thống kê giá thành nào từ trước đến nay.
Lập kế hoạch,
hạch toán và thống kê giá thành của sản phẩm công nghiệp, càng chính xác và hợp
lý thì công tác quản lý giá thành càng trở thành nội dung trung tâm của hạch
toán kinh tế trong các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa của chúng ta.
PHẦN THỨ HAI
NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ VIỆC LẬP VÀ XÉT DUYỆT KẾ HOẠCH GIÁ
THÀNH VÀ QUY TẮC THỐNG NHẤT VỀ PHÂN LOẠI CHI PHÍ
I. NGUYÊN TẮC
CƠ BẢN VỀ VIỆC LẬP VÀ XÉT DUYỆT KẾ HOẠCH
GIÁ THÀNH CỦA SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP
Khi lập và
xét duyệt kế hoạch giá thành và phí lưu thông của các xí nghiệp phải dựa trên
cơ sở tài liệu dưới đây làm căn cứ:
1. Phải căn cứ
vào chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước về sản xuất, kiến thiết cơ bản và lưu thông hàng
hóa, về cung cấp vật tư, lao động tiền lương, vv…
2. Phải căn cứ
vào những tiêu chuẩn về sử dụng thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, động
lực và lao động do Ủy ban kế hoạch Nhà nước hoặc Bộ quy định.
3. Phải căn cứ
vào những tiêu chuẩn về chế độ chỉ tiêu hành chính do Hội đồng Chính phủ hoặc
cơ quan được Hội đồng Chính phủ quy định.
(Chương 1, điều
4 trong điều lệ tạm thời theo Nghị định số 43/CP ngày 16-09-1960 của Hội đồng
Chính phủ).
II. QUY TẮC
THỐNG NHẤT VỀ PHÂN LOẠI CHI PHÍ ĐƯỢC TÍNH VÀO
GIÁ THÀNH, KHÔNG ĐƯỢC TÍNH VÀO GIÁ THÀNH VÀ NHỮNG CHI PHÍ DO NGUỒN VỐN KHÁC CHI
A. Chi phí không được tính vào giá thành sản xuất công nghiệp:
Không được
tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp 2 loại chi phí dưới đây:
Loại 1:
- Chi phí cho các công việc không có tính chất sản xuất công nghiệp.
Loại 2:
- Chi phí cho các sản phẩm không tính vào giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
Nội dung chi
tiết của từng loại chi phí trên như sau:
Loại 1.
Chi phí cho các công việc không có tính chất sản xuất công nghiệp.
Không được
tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp những chi phí cho các công việc không
có tính chất sản xuất công nghiệp như sau:
Một là: Những
chi phí cho công việc thuộc về xây lắp công trình kiến thiết cơ bản và sữa chữa
lớn tài sản cố định gồm có:
1.
Giá trị công việc xây dựng cơ bản và lắp đặt thiết bị và máy móc sản xuất do
công nhân viên sản xuất công nghiệp làm không được tính vào giá thành của sản
phẩm mà phải lấy ở vốn kiến thiết cơ bản để chi.
Nếu là xây
dựng công trình phúc lợi tập thể hoặc bổ sung các sự nghiệp văn hóa và phúc lợi
cho cán bộ, công nhân viên như: nhà ở, bệnh viện, vườn trẻ, nhà gửi trẻ, nhà
ăn, câu lạc bộ và những xây dựng về văn nghệ, thể dục, thể thao thì do quỹ xí
nghiệp (quỹ tiền thưởng xí nghiệp) chi. Những khoản chi này có thể
chiếm 50% của quỹ tiền thưởng (Quỹ xí nghiệp). Số tiền chi vào khoản trên là thêm
ngoài kế hoạch đã được duyệt y của mỗi xí nghiệp.
- Nếu cần xây
dựng những xí nghiệp phúc lợi tập thể với quy mô lớn mà khả năng mỗi xí nghiệp
không làm nổi thì sau khi được các xí nghiệp đồng ý và được Bộ trưởng duyệt y,
Bộ có thể tập trung sử dụng một phần quỹ tiền thưởng của xí nghiệp “quỹ xí nghiệp”,
nhưng số tiền thưởng xí nghiệp tập trung cả năm không được quá 20% của quỹ xí
nghiệp “ quỹ tiền thưởng của xí nghiệp” đã được trích.
Nếu là chi về
thiết bị an toàn lao động và thiết bị sản xuất nhằm tăng cường hơn nữa việc bảo
vệ tính mạng, cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân và tăng thêm thiết bị
sản xuất của xí nghiệp ngoài những việc mà Bộ đã quy định được trích vào vốn kiến
thiết cơ bản ra để chi tiêu thì do quỹ xí nghiệp chi (quỹ tiền thưởng của xí
nghiệp chi). Những chi phí vào thiết bị này chiếm độ 20% của quỹ xí nghiệp.
Hoặc là chi
vào kinh phí chuyên dùng nếu là những khoản chi phí về cải tiến kỹ thuật, xây dựng
mới, an toàn lao động và kiến thiết linh tinh (kỹ, tân, lao, linh). Những khoản
chi này là ngoài kế hoạch và trong trường hợp quỹ xí nghiệp không đủ để chi
(thiết bị an toàn và thiết bị sản xuất không được chi quá 20% của quỹ xí nghiệp).
Do đó, trên 20% thì những khoản chi thêm về kỹ tân lao linh sẽ lấy vào kinh phí
chuyên dùng.
Chú ý:
Một số xí nghiệp đã lẫn lộn cải tiến kỹ thuật với sửa chữa thường xuyên. Do đó,
có tình trạng những chi phí về cải tiến kỹ thuật đáng lẽ phải chi vào kinh phí
chuyên dùng và không được tính vào giá thành của sản phẩm mới đúng, nhưng tài vụ
kế toán của xí nghiệp lại quan niệm là sửa chữa thường xuyên lấy ở vốn lưu động
để chi và tính vào giá thành của sản phẩm là sai, nay cần bổ khuyết.
2. Sửa chữa
lớn tài sản cố định (Nhà cửa công trình kiến trúc, máy móc sản xuất, phương
tiện vận tải và các tài sản cố định khác trong sản xuất và ngoài sản xuất) chi
vào vốn sửa chữa lớn (lấy ở ngân hàng tiền gửi về vốn sửa chữa lớn tài sản
cố định).
- Hai là:
Chi phí về công việc vận tải cho cơ quan bên ngoài; vận tải cho ngành xây dựng
cơ bản; vận tải cho sửa chữa lớn công trình kiến trúc trong xí nghiệp:
Không được
tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp, mà phải:
1. Thu tiền
ở vốn kiến thiết cơ bản để chi về công việc vận tải cho ngành xây dựng cơ bản;
2. Thu tiền
của cơ quan bên ngoài để chi về công việc vận tải cho cơ quan bên ngoài;
3. Thu tiền
ở vốn sửa chữa lớn (vốn khấu hao để sửa chữa lớn tài sản cố định) để chi về
công việc vận tải cho sửa chữa lớn công trình kiến trúc trong xí nghiệp.
- Ba là:
Chi phí nghiên cứu thí nghiệm (ngoài việc nghiên cứu thí nghiệm để xác định
quy cách, phẩm chất sản phẩm của xí nghiệp được tính vào giá thành.).
Không được
tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp, mà phải:
1. Thu tiền
của cơ quan bên ngoài hoặc Bộ chủ quản xí nghiệp để chi về những công việc
nghiên cứu, thí nghiệm, thiết kế, làm cho cơ quan bên ngoài, hoặc làm cho Bộ chủ
quản xí nghiệp.
2. Lấy ở
kinh phí chuyên dùng để chi về những công việc nghiên cứu chế thử sản phẩm
mới (chỉ được kể những sản phẩm mới mà xí nghiệp chưa sản xuất bao giờ).
Những chi phí
về phổ biến kinh nghiệm tiên tiến, cải tiến tổ chức sản xuất và cải tiến kỹ
thuật cũng lấy ở kinh phí chuyên dùng để chi, mà không được tính vào giá
thành sản phẩm.
Loại 2.
Chi phí cho các sản phẩm không nằm trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
Trong xí nghiệp,
ngoài việc sản xuất sản phẩm chính (sản xuất chính), xí nghiệp còn có những sản
xuất phụ như là: sản xuất những phụ tùng để sửa chữa và thay thế, những công
cụ mô hình và bán thành phẩm tự chế để dùng trong nội bộ xí nghiệp đều không được
tính vào giá trị tổng sản lượng của sản phẩm chính. Do đó các loại của chi phí
sản xuất (nguyên liệu, vật liệu mua ngoài dùng trong quá trình sản xuất;
nhiên liệu và động lực mua ngoài dùng trong quá trình kỹ thuật công nghiệp: tiền
lương của công nhân sản xuất, vv…)của những sản phẩm tự chế đó thuộc vào sản
xuất phụ đều không được tính vào giá thành của sản phẩm chính, mà phải:
1. Lấy ở vốn
sửa chữa lớn để chi về việc sản xuất những sản phẩm tự chế dùng vào sửa
chữa lớn tài sản cố định.
2. Lấy ở vốn
lưu động của xí nghiệp để chi về việc sản xuất những sản phẩm tự chế để dự trữ
trong kho của xí nghiệp.
- Khi nào
xuất kho dự trữ những sản phẩm tự chế ấy ra dùng vào sản xuất chính thì lúc đó
mới được tính vào giá thành của sản phẩm chính.
Trường hợp
xuất kho dự trữ những sản phẩm tự chế ấy ra dùng cho công việc sửa chữa lớn tài
sản cố định của xí nghiệp thì lúc đó phải thu tiền vốn sửa chữa lớn về giá
trị của những sản phẩm tự chế đó để hoàn lại vốn lưu động (chi phí sản xuất phụ
do vốn lưu động chi ra, cho nên nay phải thu về).
B. Chi phí không được tính vào kế hoạch giá thành nhưng được
tính vào
giá thành thực tế khi hạch toán và thống kê giá thành:
Những chi phí
không được tính vào kế hoạch giá thành nhưng được tính vào giá thành thực tế
khi hạch toán và thống kê giá thành gồm có 5 loại:
Loại 1. Chi
phí trong quá trình áp dụng kỹ thuật không thích hợp.
Loại 2. Thiệt
hại về sản phẩm hỏng.
Loại 3.Thiệt
hại về đâm đổ và bồi thường của ngành vận tải của xí nghiệp.
Loại 4. Thiệt
hại về ngừng sản xuất.
Loại 5. Các
thiệt hại khác do khuyết điểm chủ quan của xí nghiệp gây nên.
Các loại chi
phí kể trên thuộc vào loại chi phí sản xuất hầu hết là do việc quản lý kinh
doanh của xí nghiệp còn thiếu sót cần khắc phục và xóa bỏ, nên trong kế hoạch
giá thành và phí lưu thông không được ghi, nhưng trên thực tế vẫn còn vướng mắc
những thiếu sót ấy thì vẫn được tính vào giá thành khi hạch toán thống kê.
Phân tích chi
tiết các loại chi phí trên như sau:
Loại 1.
Chi phí trong quá trình áp dụng kỹ thuật không thích hợp.
Loại 2.
Thiệt hại về sản phẩm hỏng:
Sản phẩm hỏng
hay phế phẩm là những thành phẩm, bán thành phẩm sản xuất ra không đúng quy
cách, phẩm chất, tiêu chuẩn kỹ thuật và mẫu hàng đã quy định cho sản phẩm đó và
không thể sử dụng được theo công dụng chính của nó. Có thể định nghĩa một cách
giản đơn, sản phẩm hỏng là sản phẩm không đúng quy cách phẩm chất và không có
giá trị sử dụng như một sản phẩm thương phẩm theo đúng công dụng chính của nó.
Những sản phẩm
hỏng (phế phẩm) muốn sử dụng được thì phải mất thêm chi phí sửa chữa lại.
Thiệt hại về
sản phẩm hỏng bao gồm:
1. Giá trị của
tất cả sản phẩm hỏng do sản xuất loại ra.
2. Những phí
tổn về sửa chữa sản phẩm hỏng kể trên.
Những sản phẩm
hỏng phát hiện ra trong quá trình sản xuất chia ra 2 loại:
1. Sản phẩm
hỏng có thể sửa chữa được.
2. Sản phẩm
hỏng không thể sửa chữa được.
Giá trị thiệt
hại về sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được và không thể sửa chữa được như sau:
1. Giá trị
thiệt hại về sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được bao gồm:
- Giá trị vật
liệu và bán thành phẩm;
- Tiền lương
dùng vào việc sửa chữa những sản phẩm hỏng;
- Phân bổ một
phần kinh phí phân xưởng thích hợp.
(nhưng phải
trừ khoản bồi thường do người đã làm hỏng phải trả (nếu có)).
Còn giá thành
của bản thân sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được thì không tính là phí tổn để sửa
chữa phế phẩm.
Không phân bổ
quản lý xí nghiệp vào sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được).
2. Giá trị
thiệt hại sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được:
Tức là những
sản phẩm hư hỏng hoàn toàn không thể sửa chữa được hay “phế phẩm không thể sửa
chữa được thì không được tính vào giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
Đối với phế
phẩm không thể sửa chữa được thì xí nghiệp phải thu nhặt và đánh giá vật phế phẩm
đó xem như phế liệu. Giá trị còn lại của phế phẩm được xem như phế liệu
thì phải hạch toán giảm thiệt hại về sản phẩm hỏng.
Giá trị thiệt
hại bao gồm toàn bộ chi phí trong quá trình sản xuất trừ đi (-) giá trị thu hồi
được.
Khi tính giá
trị sản phẩm hỏng do cơ quan tiêu thụ bên ngoài phát hiện thì cũng chia ra 2 loại:
1. Đối với sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được thì phần thiệt hại bao gồm
chi phí về sửa chữa sản phẩm hỏng cho người tiêu thụ.
2. Đối với
sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được, chi phí về sản phẩm hỏng bao gồm:
Giá thành
công xưởng của sản phẩm, (a)
+ (Cộng với)
Chi phí về đổi hàng mới, (b)
+ (Cộng với)
Tiền chuyên chở đi về của sản phẩm, (c).
Muối xác định
số thiệt hại về sản phẩm hỏng (TH) thì phải:
Lấy giá thành
công xưởng (a) cộng với (+) chi phí về đổi hàng mới và tiền chuyên chở đi về (b
+ c)
Rồi trừ đi
(-) số tiền thu thực tế do người có lỗi bồi thường, hoặc cơ quan cung cấp bồi
thường (B) vì cung cấp nguyên nhiên vật liệu kém phẩm chất nên gây tình trạng
sinh ra sản phẩm hỏng.
TH = {a + (b
+ c)} – B.
Nếu phát hiện
trong thời kỳ báo cáo thì điều chỉnh ngay trong báo cáo.
Nếu phát hiện
sau thời kỳ báo cáo thì chờ đến sáu tháng hay toàn năm sẽ điều chỉnh sau.
Trong trường
hợp xí nghiệp sản xuất sản phẩm không đúng phẩm chất quy cách của kỹ thuật
quy định thì không được ghi vào sản lượng hay giá trị tổng sản lượng, do đó
không được tính là đơn vị sản phẩm để phân bổ vào giá thành (theo bản giải
thích giá thành sản phẩm công nghiệp quốc doanh kèm theo công văn số 619-CTK/CN
ngày 29-08-1960 của Cục Thống kê trung ương, điểm 4, trang 8).
Nói chung,
khoản thiệt hại về sản phẩm hỏng và chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng đó thì được
tính vào giá thành thực tế ở khoản mục “Thiệt hại về sản phẩm hư hỏng trong sản
xuất ”, nhưng tuyệt đối không được tính vào “Kế hoạch giá thành ”.
- Đối với những
sản phẩm hỏng (phế phẩm) xảy ra trong sản xuất thì cần phải truy cứu trách nhiệm,
hoặc do máy móc thiết bị không tốt, hoặc do công nhân làm hỏng, hoặc do người
cung cấp nguyên vật liệu không đúng phẩm chất để gây ra hư hỏng. Tùy trường hợp
cụ thể mà xét người có trách nhiệm phải đền bù một số phần thiệt hại, hoặc cải
tiến máy móc để tránh thiệt hại.
- Đối với các
ngành đúc, nhiệt điện, thủy tinh và một số xí nghiệp mới sản xuất thì những thiệt
hại về sản phẩm hỏng trong quá trình sản xuất được tính vào kế hoạch giá thành
một tỷ lệ nhất định do Ủy ban kế hoạch Nhà nước quy định để xí nghiệp có hướng
phấn đấu để giảm dần tỉ lệ phế phẩm (sản phẩm hỏng). Bộ sẽ quy định tỉ lệ phế
phẩm cho từng xí nghiệp có sản xuất cơ khí chế tạo dụng cụ, máy móc được phép
tính vào giá thành thực tế nhằm mục đích hạn chế thiệt hại về phế phẩm. Trường
hợp xí nghiệp nào vượt mức tỉ lệ phế phẩm của Bộ quy định thì phải báo cáo cho
Bộ xét duyệt.
Thiệt hại về
sản phẩm hỏng không được tính vào kế hoạch giá thành, nhưng được tính vào giá
thành thực tế khi hạch toán và thống kê.
Những thiệt hại
về sản phẩm hỏng hay phế phẩm sau khi đã được Ủy ban kế hoạch Nhà nước xét duyệt
các tỉ lệ phế phẩm ghi vào kế hoạch giá thành và Bộ xét duyệt tỉ lệ phấn đấu giảm
tỉ lệ phế phẩm nhằm hạ giá thành thực tế thì đều được ghi vào khoản mục “Thiệt
hại về sản phẩm hỏng” trong giá thành công xưởng.
3. Nguyên
tắc phân bổ thiệt hại về sản phẩm hỏng trong sản xuất như sau:
1. Căn cứ vào
những nguyên nhân do phòng Kiểm tra kỹ thuật phát hiện, phòng Tài vụ kế toán của
xí nghiệp phải tính toán thiệt hại về phế phẩm (sản phẩm hỏng) phân bổ cho từng
phân xưởng, từng sản phẩm, từng khoản mục chi phí, hoặc phân bổ cho từng cá
nhân gây ra sản phẩm hỏng và tính vào phân xưởng làm hỏng phải chịu.
2. Trường hợp
vì không tìm ra nguyên nhân do phân xưởng nào làm hỏng thì ghi thiệt hại cho
phân xưởng sản xuất chính phải chịu.
3. Trong khi
hạch toán, thiệt hại về sản phẩm hỏng được ghi vào khoản mục “Thiệt hại về sản
phẩm hỏng”, tức là không được tính lẫn lộn vào những khoản chi phí về vật liệu,
tiền lương và các khoản mục khác,
4. Trong trường
hợp xí nghiệp sản xuất ra sản phẩm mà chất lượng kém hơn chất lượng đã ghi
trong kế hoạch và có thể bán ra được, nhưng số thu nhập về tiêu thụ sản phẩm đó
sẽ ít hơn tổng số chi phí sản xuất của sản phẩm ấy thì không được tính vào sản
lượng và giá trị tổng sản lượng của xí nghiệp. Những chi phí sản xuất của các sản
phẩm đó cũng không được tính vào phí tổn sản xuất của xí nghiệp, mà được ghi
vào kết quả thu chi tài vụ của xí nghiệp.
5. Những xí
nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng thì được phép tính số thiệt hại về sản phẩm hỏng
vào giá trị sản phẩm đang chế tạo dở dang tại xưởng (giá trị tại phế phẩm) nếu
như số thiệt hại đó có tính vào một đơn đặt hàng nhất định mà chưa sản xuất
xong.
6. Đối với sản
phẩm của phân xưởng sản xuất chính nhưng do phân xưởng sản xuất phụ hoặc các
phân xưởng khác của xí nghiệp làm hỏng thì vẫn ghi số thiệt hại về sản phẩm hỏng
đó cho phân xưởng sản xuất chính.
7. Thiệt hại
về sản phẩm hỏng phát hiện ra trong nội bộ xí nghiệp thì bất cứ là phát hiện ở
đâu trong xí nghiệp cũng vẫn tính vào phân xưởng làm hỏng.
8. Những sản
phẩm hỏng do người tiêu thụ bên ngoài phát hiện thì xí nghiệp sản xuất ra sản
phẩm hỏng sẽ chịu trách nhiệm ghi vào phần chi của mình vào tháng mà xí nghiệp
đó nhận được giấy phát hiện sản phẩm hỏng của người tiêu thụ (Thành phẩm đã bán
cho người tiêu thụ nay phát hiện ra làm hàng hư hỏng hay sản phẩm hỏng tức là
phế phẩm). Những thiệt hại về sản phẩm hỏng đó sẽ tính cho phân xưởng làm hỏng,
sau khi tìm ra nguyên nhân.
Trường hợp
không tìm ra nguyên nhân thì những thiệt hại về sản phẩm hỏng do người tiêu thụ
phát hiện tính cho phân xưởng sản xuất chính phải chịu như đã nói ở nguyên tắc
2 đã nói ở trên.
Giá trị thiệt
hại về sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được cho người tiêu thụ phát hiện gồm
có: giá thành công xưởng của sản phẩm hỏng + (cộng với) những phí tổn về đổi
hàng mới và phí tổn chuyên chở vận tải của sản phẩm hỏng đó.
Nếu là sản phẩm
có thể sửa chữa lại được thì thiệt hại gồm có: phí tổn về đổi hàng mới và
chuyên chở vận tải + (cộng với) những phí tổn về sửa chữa sản phẩm hỏng đó cho
người tiêu thụ.
9. Để xác định
số thiệt hại về sản phẩm hỏng (phế phẩm) phát hiện ở trong nội bộ xí nghiệp
cũng như phát hiện bên ngoài phân bổ vào giá thành của sản phẩm, cách tính giá
trị thiệt hại sản phẩm hỏng đó như sau (TH):
Lấy số phí tổn
về sửa chữa sản phẩm hỏng (P)
Cộng với (+)
giá trị sản phẩm hỏng phát hiện trong xí nghiệp hay ngoài xí nghiệp (G)
Trừ đi (-)
giá trị của sản phẩm có thể sử dụng được (S) và số tiền thực tế do người có lỗi
phải đền (L) hoặc tổng số tiền thực tế do người cung cấp phải bồi thường (B) do
cung cấp vật liệu hoặc bán phế phẩm kém phẩm chất, nên gây ra tình
trạng sản phẩm hỏng:
TH = (P+G) –
(S+L hoặc B).
- Trong trường
hợp nguyên nhân thiệt hại về sản phẩm hỏng do người cung cấp vật liệu hoặc bán
thành phẩm gây ra thì sau khi người cung cấp đã công nhận khuyết điểm hoặc cơ
quan trọng tài đã chứng thực thì sẽ lấy tổng số tiền do người cung cấp bồi thường
trừ đi (-) số tiền thiệt hại về sản phẩm hỏng của xí nghiệp.
- Việc trừ tiền
của công nhân, cán bộ kỹ thuật và nhân viên gây ra sản phẩm hỏng (phế phẩm) để
bù lại số thiệt hại đó sẽ do Nhà nước quy định.
10. Đối với số
thiệt hại về sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ trước, nhưng bây giờ không còn
sản xuất nữa, mà đến nay người tiêu thụ mới phát hiện là sản phẩm hỏng thì thiệt
hại đó phải tính vào giá thành của loại sản phẩm tương tự đang sản xuất.
Nếu trong thời
kỳ báo cáo hiện tại mà không sản xuất những loại sản phẩm tương tự như thế thì
phân bổ cho toàn bộ sản phẩm thương phẩm chịu theo phương pháp phân bổ quản lý
phí xí nghiệp.
11. Đối với
những sản phẩm hoặc công việc đó có đảm bảo nếu như hỏng trước thời hạn đảm bảo
đó thì những phí tổn về sửa chữa trong trường hợp này cũng tính như là thiệt hại
về sản phẩm hỏng.
Loại 3.
Thiệt hại về đâm đổ và bồi thường của ngành vận tải của xí nghiệp.
Không được
tính vào kế hoạch giá thành, nhưng được ghi vào giá thành thực tế (ô-tô vận tải
của xí nghiệp đâm vào tường làm đổ tường của bên ngoài phải bồi thường).
Loại 4. -
Thiệt hại về ngừng sản xuất:
- Không được
tính vào giá thành khi lập kế hoạch (trừ loại xí nghiệp sản xuất theo mùa thì
được tính vào giá thành kế hoạch).
- Nhưng được
tính vào giá thành thực tế khi hoạch toán và thống kê.
- Thiệt hại về
ngừng sản xuất do 3 nguyên nhân:
1. Do nguyên
nhân bên ngoài (do cơ quan khác gây nên);
2. Do nguyên
nhân bên trong (do bản thân xí nghiệp gây nên);
3. Do hỏa hoạn
thiên tai,
Cụ thể như
sau:
1. Nguyên
nhân bên ngoài:
Những thiệt hại
về ngừng sản xuất do nguyên nhân bên ngoài tức là do cơ quan khác gây nên thì:
- Không được
tính vào giá thành của sản phẩm.
- Nhưng được
ghi vào lỗ của xí nghiệp.
Thí dụ: các
cơ quan bên ngoài không cung cấp đủ điện để chạy máy, hoặc không cung cấp đủ
nguyên vật liệu để sản xuất, nhiên liệu để đốt lò, hoặc không cung cấp đúng thời
hạn hợp đồng thì không được tính vào giá thành kế hoạch, nhưng được tính vào
giá thành thực tế của sản phẩm và ghi riêng vào khoản mục “thiệt hại về ngừng sản
xuất ” trong giá thành công xưởng.
2. Do
nguyên nhân bên trong:
Những thiệt hại
về ngừng sản xuất do nguyên nhân bên trong tức là do bản thân xí nghiệp gây nên
không được ghi vào kế hoạch giá thành.
Những thiệt hại
này do công tác quản lý của nội bộ xí nghiệp gây nên, do đó khi hạch toán, được
ghi vào giá thành thực tế của sản phẩm sản xuất ra (ghi vào khoản mục thiệt hại
về ngừng sản xuất trong giá thành công xưởng).
3. Do hỏa
hoạn thiên tai:
Những thiệt hại
về ngừng sản xuất do hỏa hoạn (cháy nhà) thiên tai (bão lụt, vv…) thì không được
tính vào giá thành của sản phẩm (giá thành kế hoạch và giá thành thực tế đều
không được tính vào), nhưng được ghi vào lỗ của xí nghiệp.
4. Tổng số
thiệt hại vì ngừng sản xuất gồm có:
Một là: Tổng
số tiền lương chính thực tế phải trả cho công nhân trong thời gian ngừng sản
xuất.
Nguyên tắc
trả lương trong những trường hợp ngừng sản xuất như sau:
Trường hợp
thứ nhất: Ngừng sản xuất vì điều kiện thời tiết hoặc thiên tai:
Khi mưa bão,
lụt lũ, hỏa hoạn, không thể tiếp tục sản xuất được thì cấp phụ trách sẽ điều động
công nhân viên làm việc khác. Nếu không bố trí được công việc khác thì sẽ tuyên
bố cho công nhân viên tạm nghỉ. Trong thời gian tạm nghỉ, công nhân viên được
trả lương:
- 80% lương
trong 7 ngày đầu.
- 70% lương từ
ngày thứ 8 trở đi.
Trường hợp nếu
cấp phụ trách chưa tuyên bố mà công nhân viên tự ý bỏ việc thì xem như nghỉ việc
không có lý do chính đáng không có lương.
Trường hợp
thứ hai: Ngừng sản xuất vì khuyết điểm của xí nghiệp.
Đều xem là do
khuyết điểm của xí nghiệp những trường hợp phải tạm ngừng sản xuất như: vì mất
điện, hỏng máy không sửa kịp, thiếu nguyên vật liệu, thừa nhân công, ứ đọng
hàng hóa do kế hoạch không sát.
Những ngày ngừng
sản xuất như vậy sẽ trả:
- 100% lương
trong 3 ngày đầu.
- 80% lương từ
ngày thứ 4 trở đi.
Trường hợp
thứ ba: Ngừng sản xuất vì phạm kỷ luật.
Trường hợp một
bộ phận hay cả xí nghiệp phải tạm ngừng sản xuất vì một hành động vi phạm kỷ luật
của một vài cá nhân gây nên (ví dụ: máy đương chạy bỏ đi nơi khác để hỏng máy,
đứt điện, hoặc làm những việc chưa được cấp phụ trách đồng ý) thì những người
đã vi phạm kỷ luật không được trả lương trong thời gian ngừng sản xuất, ngoài
ra còn phải đưa ra hội đồng kỷ luật.
Những người
khác bắt buộc phải ngừng sản xuất và nghỉ việc thì được trả 100% lương trong 3
ngày đầu, 80% lương từ ngày thứ 4 trở đi.
Đối với những
trường hợp ngừng sản xuất trên:
- Trong những
ngày đầu cấp phụ trách nên cố gắng bố trí những công việc tạm thời cho công nhân
viên làm. Nếu không có việc thì tổ chức cho học tập chính trị hay nghiệp vụ. Những
ngày làm công việc tạm thời hay học tập đều được trả lương.
- Nếu xét thấy
trong khoản 10 ngày chưa có thể trở lại sản xuất được thì cấp phụ trách đơn vị
phải thỉnh thị ngay cấp trên để tìm ra biện pháp giải quyết. Trong trường hợp
không giải quyết được mà phải tạm ngừng, sản xuất một thời gian dài thì có thể
chuyển công nhân viên đến công tác ở một đơn vị khác hoặc phải nghỉ việc tạm thời.
Trường hợp nghỉ việc như vậy thì không trả lương nữa mà sẽ ấn định một khoản trợ
cấp đặc biệt nhằm giúp đỡ một phần cho công nhân viên.
(Thông tư
27/LĐ-TT ngày 15-10-1958 của Bộ Lao động hiện hành).
Hai là:
Giá trị nhiên liệu và động lực sử dụng trong thời gian ngừng sản xuất.
Ba là:
Một phần kinh phí phân xưởng và quản lý phí xí nghiệp phân bổ cho thiệt hại
vì ngừng sản xuất phải chịu:
5. Tiền phạt
do cơ quan cung cấp bên ngoài trả vì đã vi phạm hợp đồng thì không được trừ
vào số thiệt hại vì thời gian chết do ngừng sản xuất, mà phải tính vào quản lý
phí xí nghiệp.
6. Những
thiệt hại vì ngừng sản xuất nếu không thể trực tiếp phân bổ vào giá thành của sản
phẩm theo 2 phương pháp:
Một là: Nếu
do nguyên nhân bên trong thì theo phương pháp phân bổ kinh phí phân xưởng
như sau:
- Phân bổ
theo từng khoản về bảo quản, sử dụng thiết bị, chi phí chung cho toàn phân xưởng
(trong đó có phí tổn để bảo quản, sử dụng máy móc thiết bị).
- Hoặc là
phân bổ theo tỉ lệ với số giờ chạy máy.
- Hoặc là
phân bổ theo số ngày công của công nhân sản xuất, hoặc theo tiền lương chính của
công nhân sản xuất.
Chú thích:
đối với những phí tổn chung của toàn phân xưởng thì cần tính vào giá thành của
phân xưởng nào đã trực tiếp sản xuất ra sản phẩm đó.
Trường hợp nếu
trong nội bộ phân xưởng sản xuất nhiều loại sản phẩm, hoặc nhiều ban, tổ sản xuất
thì tùy theo tính chất sản xuất mà tiến hành phân bổ tỉ lệ với số giờ chạy máy
hoặc với tiền lương chính của công nhân sản xuất.
Vì tính chất
sản xuất của từng loại xí nghiệp công nghiệp khác nhau, vì đặc điểm khác nhau của
từng ngành nên không thể áp dụng một phương pháp phân bổ thống nhất cho tất cả
các xí nghiệp được mà mỗi ngành sản xuất có thể áp dụng một phương pháp phân bổ
riêng, có chiếu cố đến đặc điểm và trình độ kế hoạch, hạch toán và thống kê giá
thành của từng ngành sản xuất đó, nhưng phải được Bộ cho phép.
Trên đây là mấy
phương pháp chủ yếu trong việc phân bổ kinh phí phân xưởng trong thời gian ngừng
sản xuất.
Còn nhiều
phương pháp khác để phân bổ kinh phí phân xưởng theo chế độ kế toán Nhà nước do
Bộ Tài chính ban hành có giải thích rõ ở trang 101.
Hai là: Nếu
do nguyên nhân bên ngoài thì phân bổ những thiệt hại vì ngừng sản xuất theo
phương pháp phân bổ quản lý xí nghiệp như sau:
Quản lý phí
xí nghiệp phân bổ cho:
1. Phân xưởng
sản xuất chính sản xuất ra thành phẩm, bán thành phẩm, kể cả phân xưởng chế biến
sản phẩm phụ bằng phế liệu.
2. Phân xưởng
sản xuất phụ đối với công việc làm cho bên ngoài cũng như để thỏa mãn nhu cầu
kiến thiết cơ bản, sửa chữa lớn, công trình phục vụ công cộng, nhu cầu về văn
hóa và sinh hoạt của xí nghiệp.
Chú ý:
Trong quản lý phí xí nghiệp bao gồm chi phí sản xuất, chi phí sản xuất như là
tiền phạt, tiền bồi thường mà xí nghiệp phải trả vì vi phạm hợp đồng vận tải,
hoặc cung cấp nguyên vật liệu, thiệt hại, hư hỏng, mất vật liệu, mất sản phẩm,
vv… Cho nên khi phân bổ chi phí sản xuất vào giá thành thực tế của sản phẩm thì
cần phải trừ đi các khoản tiền phạt, tiền bồi thường vì vi phạm hợp đồng kinh tế
mà xí nghiệp thu được của các cơ quan khác và số sản phẩm, vật liệu thừa ra sau
khi kiểm kê ở các kho và phân xưởng.
Trường hợp xí
nghiệp thu khoản tiền phạt, tiền bồi thường vi phạm hợp đồng mà tỷ lệ nhiều hơn
số tiền nộp phạt phải chi ra thì số tiền bội thu đó không được phân bổ để giảm
những chi phí phi sản xuất, mà ghi vào lỗ của xí nghiệp.
7. Thiệt hại
về ngừng sản xuất chia ra 2 loại:
Một là:
Thiệt hại về ngừng sản xuất trong kế hoạch đối với các xí nghiệp sản xuất theo
mùa như: rượu, nước đá, chè, thuốc lá, đường, ép dầu, vv… thì được tính vào
kế hoạch giá thành khi lập kế hoạch, nhưng phải được Bộ chủ quản quy định.
Khi hạch toán
thì được tính trước vào giá thành thực tế các tháng trong năm về những thiệt hại
ngừng sản xuất dự toán trong kế hoạch.
Hai là:
Thiệt hại về ngừng sản xuất ngoài kế hoạch thì không được tính vào kế hoạch
giá thành khi lập kế hoạch, nhưng phải được ghi vào giá thành thực tế đã nói ở
trên đối với các xí nghiệp sản xuất không phải theo mùa.
Về thời gian
thì việc ngừng sản xuất có thể chia ra làm 3 trường hợp:
- Ngừng sản
xuất dưới 1 tiếng đồng hồ.
- Ngừng từ 1
tiếng đồng hồ trở lên nhưng dưới 1 ca làm việc (dưới 8 tiếng đồng hồ),
- Ngừng từ 1
ca hay 8 tiếng đồng hồ trở lên.
Về không gian
thì có thể ngừng sản xuất toàn xí nghiệp hay ở từng bộ phận của xí nghiệp (các
phân xưởng, các tổ sản xuất, vv…).
Ngừng sản xuất
là một hiện tượng không tốt trong sản xuất, cần tích cực đấu tranh chống hiện
tượng đó, để có cơ sở đấu tranh chống hiện tượng không tốt đó thì phải biết được
trong mỗi tháng, thời gian ngừng sản xuất toàn xí nghiệp và ngừng sản xuất từng
bộ phận là bao lâu. Chẵng những thế mà còn phải tính ra bằng số tiền thiệt hại
do ngừng sản xuất gây nên để đánh giá được mức độ của thiệt hại đó.
Đứng về phía
thống kê thời gian ngừng sản xuất, thì bất luận thời gian ngừng sản xuất dài
hay ngắn, ngừng toàn xí nghiệp hay từng bộ phận, đều phải ghi số giờ chết để thống
kê.
Nhưng để đơn
giản bớt công việc hạch toán, Bộ quyết định căn cứ vào thời gian chết mà sắp xếp
ngừng sản xuất thành 2 loại:
- Ngừng sản
xuất dưới 1 tiếng đồng hồ.
- Ngừng sản
xuất từ 1 tiếng đồng hồ trở lên.
Một là: Ngừng
sản xuất dưới 1 tiếng đồng hồ:
Nếu ngừng sản
xuất dưới 1 tiếng đồng hồ thì dù là ngừng toàn xí nghiệp, hay từng bộ phận và
do nguyên nhân bên trong hay bên ngoài đều không cần tính ra tiền của thiệt hại
đó để ghi vào sổ kế toán. Nhưng nếu do nguyên nhân bên ngoài thì có giá trị thiệt
hại đó. Trị giá như thế nhằm mục đích chiểu theo hợp đồng kinh tế đã ký kết mà
đòi người có trách nhiệm phải bồi thường số thiệt hại đó.
Hai là: Ngừng
sản xuất từ 1 tiếng đồng hồ trở lên:
Trường hợp ngừng
sản xuất từ 1 tiếng đồng hồ trở lên thì tính vào giá thành thực tế của sản phẩm
và ghi vào khoản mục “Thiệt hại vì ngừng sản xuất ” vô luận là ngừng sản xuất ở
một bộ phận của phân xưởng, ở một phân xưởng hay ở nhiều phân xưởng và do bên
ngoài hay bên trong gây ra.
Loại 5.
Các thiệt hại khác do khuyết điểm chủ quan của xí nghiệp gây nên:
Các khoản thiệt
hại khác do khuyết điểm chủ quan của xí nghiệp gây nên như là: Thiệt hại do
bị phạt lưu kho, lưu bãi, vi phạm hợp đồng, nợ quá hạn và những thiệt hại do
hao hụt quá mức quy định Nhà nước đều không được tính vào kế hoạch giá thành,
nhưng được tính vào giá thành thực tế khi hạch toán và thống kê.
Cụ thể như
sau:
1. Thiệt hại
về tiền nộp phạt và tiền lãi do nợ quá hạn.
a) Tiền nộp
phạt:
Các khoản tiền
nộp phạt về lưu kho bãi, để toa xe và các phương tiện vận tải khác đỗ quá thời
gian quy định, tiền bốc dỡ hàng chậm ở các bến tàu và ga, không thi hành đúng
các hợp đồng đã ký kết với các nơi như: chậm giao hàng, chậm thanh toán, vv…
Tiền phạt, tiền
bồi thường, vi phạm hợp đồng, phải trả hoặc nhận được do không hoàn thành hợp đồng
cung cấp, tiêu thụ, do không thanh toán kịp thời, vv… tức là do không nghiêm chỉnh
chấp hành các điều cam kết trong các điều khoản của hợp đồng đã ký kết đều
không được tính vào kế hoạch giá thành, nhưng được tính vào giá thành thực tế
khi hạch toán, ghi vào quản lý phí phi sản xuất (ngoài kế hoạch) trong quản lý
phí xí nghiệp, giá thành công xưởng.
b)Lãi do nợ
quá hạn:
Là tiền lợi tức
trả ngân hàng do vay vốn ngân hàng quá kỳ hạn mà chưa thanh toán, kể cả vay
ngân hàng trong định mức và ngoài định mức, cũng tính vào quản lý phí phi sản
xuất như trên.
2. Thiệt hại
do hao hụt quá mức quy định của Nhà nước.
Những
thiệt hại do hao hụt quá mức quy định của Nhà nước như là:
a) Hao hụt
và thiếu ở kho nguyên liệu vật liệu và thành phẩm, qua định mức (ngoài kế
hoạch) hoặc không phát hiện được người gây nên khuyết điểm;
Hoặc do hao hụt
tự nhiên vì lý do thời tiết như bốc hơi, vải co giản, bông ẩm, thuốc lá ẩm quá
tỉ lệ hao hụt luật định (freinte légale).
Nếu thiếu do
hao hụt thì ghi vào khoản mục:
Thiệt hại
trong quản lý phí phi sản xuất như trên.
Nếu thiếu quá
tỉ lệ hao hụt trên và do thủ kho gây nên khuyết điểm thì thủ kho phải bồi thường.
Nếu thiếu kho
ngoài định mức mà không phát hiện được người gây ra thiếu hụt đó thì cũng tính
vào quản lý phí xí nghiệp. Nếu thừa kho thì giảm bớt quản lý phí xí nghiệp (quản
lý phí phi sản xuất).
Trường hợp
thiếu dưới 50% của tỉ lệ quy định thì tính vào quản lý phí xí nghiệp. Thí dụ tỉ
lệ quy định là 2% hao hụt tối đa (tỉ lệ hao hụt luật định) nghĩa là cứ 100kg
thì được hao hụt nhiều nhất là 2kg chỉ còn 98 ki lô là hợp lý. Nhưng xí nghiệp
hao hụt 2kg800 chỉ còn 97kg200 tức là đã hao hụt quá mức quy định 1ki lô hay dưới
50% (50% tỉ lệ của hao hụt).
Nếu hao hụt
trên 50% thì dù hao đến 4 ki lô của tỉ lệ quy định không quá 2kg thì lập biên bản
báo cáo lên Bộ để Bộ tùy trường hợp mà xét duyệt hoặc có những biện pháp giải
quyết hợp lý.
Trong trường
hợp này, nếu có lý do chính đáng và được Bộ cho phép sau khi thỏa thuận với Bộ
Tài chính thì xí nghiệp được phép ghi vào lỗ và trừ vào lãi của xí nghiệp hoặc
bằng cách giảm vốn lưu động, hoặc được Bộ Tài chính cấp vốn lưu động bổ sung.
- Nếu xét
không có lý do chính đáng thì xí nghiệp sẽ phải bồi thường bằng cách trừ dần
vào lương của cán bộ chịu trách nhiệm.
- Trường hợp
thừa dưới 30% của tỉ lệ quy định thì sẽ giảm bớt quản lý phí xí nghiệp.
- Nếu thừa
trên 30% của tỉ lệ quy định thì xí nghiệp cũng phải báo cáo lên Bộ để Bộ có thể
hoặc cho vào lãi, hoặc tăng vốn lưu động của xí nghiệp, tùy theo khả năng mà
tài chính của xí nghiệp và tình hình thực hiện kế hoạch tích lũy của Nhà nước
mà Bộ cùng với Bộ Tài chính có thể quy định được.
b) Nguyên vật
liệu và thành phẩm hư hỏng trong kho mà không tìm ra người khuyết điểm, trong
trường hợp được cấp trên cho phép (Giám đốc chứng nhận).
c) Các chi
phí khác về quản lý chi phí sản xuất như là tiền than phát không cho công nhân
viên, điện phát không, vv…
C. Ngoại lệ: Những chi phí được tính vào giá thành khi lập kế
hoạch, hạch toán và thống kê giá thành:
Có 3 loại chi
phí dưới đây được tính vào giá thành kế hoạch và giá thành thực tế:
1. Hao hụt
tự nhiên và hao hụt do tính chất của từng ngành:
Những hao hụt
của một số nguyên vật liệu, thành phẩm và hao hụt do tính chất của từng ngành
như: điện, đúc, thủy tinh, vv… được tính vào kế hoạch giá thành theo tỉ lệ nhất
định do Ủy ban kế hoạch Nhà nước và Bộ chủ quản quyết định tùy theo từng loại sản
phẩm hoặc từng loại xí nghiệp.
2. Chi phí
trong thời gian ngừng sản xuất của những xí nghiệp sản xuất theo mùa: Được
tính vào giá thành khi lập kế hoạch, nhưng phải được Bộ chủ quản quy định.
3. Lương
công nhân ốm đau nghỉ việc một thời gian ngắn (số ngày, Nhà nước quy định
sau):
a) Trong
thời hạn: - Tiền lương của công nhân ốm đau nghỉ việc trong thời gian Nhà
nước quy định thì vẫn do quỹ tiền lương chi và được tính vào kế hoạch
giá thành.
b) Quá thời
hạn – Quá thời hạn quy định thì số tiền lương ấy do quỹ bảo hiểm lao động
chi và được tính vào kế hoạch giá thành.
D. Chi phí do nguồn vốn khác đài thọ:
Các chi
phí do các nguồn vốn khác dưới đây đài thọ thì không được lấy ở vốn lưu động để
chi, không được tính vào giá thành khi lập kế hoạch, hạch toán và thống kê
(không được tính vào kế hoạch giá thành cũng như không được hạch toán vào giá
thành thực tế).
a) Do ngân
sách Nhà nước đài thọ:
1. Trợ cấp
2% kinh phí công đoàn:
Bộ tài chính
sẽ cấp phát cho Tổng công đoàn bằng cách:
- Các xí nghiệp,
công trường vẫn tiếp tục trích 2% trên tổng mức tiền lương của toàn xí nghiệp để
nộp cho Tổng công đoàn như hiện nay, nhưng có khác một điểm là không được
tính vào giá thành như trước, mà sẽ do ngân sách Nhà nước đài thọ. Xí
nghiệp, công trường coi như tạm ứng cho Bộ Tài chính và Bộ Tài chính sẽ hoàn lại
dưới hình thức cho phép xí nghiệp được trích vào lãi đã nộp cho Tổng công
đoàn, tránh tình trạng lấy vốn sản xuất ra để nộp cho Tổng công đoàn và một mặt
khác lại phải vay vốn ngân hàng để sản xuất và phải trả lãi thì không hợp lý.
- Đối với các
xí nghiệp không có lãi, hoặc bị lỗ thì hàng tháng phải lập kế hoạch xin cấp
bù lỗ để lấy tiền nộp 2% trợ cấp kinh phí công đoàn cho Tổng công đoàn. Trường
hợp Bộ Tài chính chưa kịp cấp phát ngay trong tháng đó thì chỉ được phép lấy ở
vốn lưu động tạm ứng cho Bộ Tài chính vay để nộp trước cho Tổng công đoàn trong
những ngày đầu tháng (từ ngày 1 đầu tháng đến ngày 10 theo quy định hiện hành).
Tuyệt đối không được vay lãi ngân hàng để nộp kinh phí công đoàn cho Tổng công
đoàn và không được tính vào giá thành số tiền lãi đó. Nếu có trường hợp bất đắc
dĩ phải vay để đảm bảo hoạt động của công đoàn thì phải được Bộ và Bộ Tài chính
cho phép và tiền lãi trả ngân hàng được trừ vào lãi, hoặc ghi vào lỗ và xin
cấp bù lỗ như đã nói ở trên, chứ không được tính vào quản lý phí xí nghiệp
trong giá thành của sản phẩm sản xuất ra.
Từ đầu năm
1960, nhiều xí nghiệp khi trích nộp 2% kinh phí công đoàn cho Tổng công đoàn vẫn
tạm ghi nợ vào tài khoản 101 – “các khoản phải thu và phải trả” thì nay phải kết
chuyển vào lỗ lãi của năm 1961, coi đó là 1 khoản do ngân sách Nhà nước cấp
thêm cho Tổng công đoàn ngoài 2% kể trên đã được Bộ Tài chính đồng ý (hạch toán
tháng 3 năm 1961 sẽ ghi: Nợ TK 109 – “lãi nộp trước vào ngân sách” (tiểu khoản
109.1 – “lãi nộp trước về năm nay”). Có TK 101 –“ các khoản phải thu và phải trả”.
Các chi phí về
giáo dục, văn hóa, thể dục, thể thao và các chi phí khác do sự nghiệp hoạt động
của Công đoàn thì do quỹ của Công đoàn chi theo đúng quy định của Hội đồng
Chính phủ (Nghị định 43-CP kèm điều lệ tạm thời về kế hoạch và hạch toán giá
thành từ 01-01-1961). Công đoàn phải lập dự trù đề nghị Tổng công đoàn cấp kinh
phí cho số tiền chênh lệch giữa số tiền thu tiền học của học viên với số tiền
chi về tiền lương trả cho giáo viên trong quý I – 1961 để có tiền hoàn lại vốn
lưu động của xí nghiệp để sản xuất. Tuyệt đối không được thanh toán vào tài khoản
109 – “lãi nộp trước vào ngân sách” như đối với 2% kinh phí nộp cho Tổng công
đoàn kể trên. Do đó, kể từ tháng 04-1961 trở đi, khoản chi này sẽ nằm trong kế
hoạch thu chi tài vụ hàng tháng của Công đoàn do Công đoàn lập để gửi Tổng công
đoàn xét duyệt và cấp kinh phí.
Các xí nghiệp,
công trường vẫn có trách nhiệm giúp đỡ phương tiện làm việc cho Công đoàn.
2. Chi phí
về hoạt động của Đảng và Đoàn thanh niên lao động:
Các kinh phí
của Đảng ủy xí nghiệp và Đoàn thanh niên lao động trong xí nghiệp, công trường
sẽ không tính vào giá thành, mà do ngân sách Nhà nước trực tiếp cấp phát
theo dự toán ngân sách của Đảng và Đoàn Thanh niên lao động. Các đoàn thể
này có thể thông qua ngân sách địa phương các tỉnh, thành phố, khu, cấp phát
cho các cơ sở đoàn thể trong các xí nghiệp, công trường.
Các khoản
chi do quỹ của Đảng ủy xí nghiệp và Đoàn Thanh niên lao động đài thọ gồm
có:
1. Tiền
lương của cán bộ chuyên trách của Đảng và Đoàn Thanh niên lao động trong xí
nghiệp, công trường.
2. Các chi
phí về hành chính của Đảng và Đoàn Thanh niên lao động như: văn phòng phí,
dầu đèn, công tác phí, hội nghị phí, sửa chữa dụng cụ, phương tiện, vật rẻ tiền
mau hỏng, vv…
(Quy định của
Ủy ban không kế hoạch Nhà nước số 2687-UB/TC ngày 25-11-1960).
Chú
thích: Tiền lương và các khoản phụ cấp của số cán bộ nói trên do Ngân sách
Nhà nước thông qua cơ quan tài chính của Đảng và Đoàn Thanh niên mà đài thọ. Đảng
ủy và ban chấp hành Đoàn thanh niên ở các xí nghiệp, cơ quan lập dự toán đề nghị
cấp ủy Đảng và Đoàn thanh niên ở khu, thành, tỉnh xét duyệt và cấp phát.
Còn các
phương tiện làm việc và ăn ở như nhà cửa, bàn ghế, giường tủ, máy điện thoại,
xe cộ, vv.. thì chính quyền các xí nghiệp, cơ quan tùy hoàn cảnh
của từng nơi mà có trách nhiệm cung cấp và quản lý.
(Trích Thông
tư số 19-TT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ngày 10-03-1961
quy định về kinh phí công tác Đảng và Đoàn thanh niên lao động).
Những tài sản
đó vẫn là tài sản của xí nghiệp, công trường, cho nên khấu hao vẫn tính vào giá
thành sản phẩm hay giá thành công trình.
3. Chi phí
về bệnh viện:
Trong điều lệ
tạm thời kèm theo Nghị định số 43-CP ngày 16-09-1960 của Hội đồng Chính phủ, điều
8 quy định về chi phí bệnh viện do ngân sách Nhà nước đài thọ và không tính
vào giá thành và phí lưu thông.
Theo tinh thần
Hội nghị Liên bộ Y tế - Tài chính – Công nghiệp – Lao động và Ủy ban kế hoạch
Nhà nước cuối năm 1960 đã thống nhất hướng giải quyết như sau:
- Về
nguyên tắc: Các bệnh viện do Bộ Y tế quản lý.
Các xí
nghiệp, công trường không được phép tổ chức bệnh viện và kinh doanh về bệnh viện.
Đối với những
xí nghiệp, công trường nào hiện nay đã có bệnh viện, bệnh xá thì sẽ phải bàn
giao cho Bộ Y tế hoặc Sở Y tế địa phương phụ trách quản lý. Các chi phí về bệnh
viện sẽ do kinh phí sự nghiệp của Bộ Y tế hoặc cơ quan Y tế địa phương đài thọ
như là: tiền lương trả cho bác sĩ, y sĩ, y tá, nhân viên phục vụ thuốc men
theo chế độ quy định của Bộ Y tế, vv…
(Quy định số
2687-UB/TC ngày 25-11-1960 của Ủy ban kế hoạch Nhà nước).
Chú thích:
Vì Bộ Y tế và các cơ quan y tế địa phương hiện nay chưa có đủ khả năng tiếp thu
và quản lý tất cả các bệnh viện, bệnh xá của các xí nghiệp, công trường, cho
nên để giải quyết khó khăn đó, Bộ đã thống nhất với Bộ Tài chính cho phép những
xí nghiệp nào đã có bệnh viện, bệnh xá rồi, trong khi chờ đợi bàn giao tạm thời
vẫn tiếp tục quản lý thì những chi phí về bệnh viện do nguồn vốn kinh doanh sự
nghiệp ngoài công nghiệp cấp phát, cũng như các kinh doanh ngoài công nghiệp
khác của xí nghiệp tổ chức và quản lý như là: kinh doanh về nhà ở, quán ăn lao
động, kinh doanh về nhà giữ trẻ, kinh doanh về nhà tắm, là những kinh doanh thường
xuyên có thu, có chi, có lỗ, lãi theo chế độ hạch toán của Bộ Tài chính hiện
hành.
Vì vậy,
chi phí về bệnh viện không được tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp
khi lập kế hoạch, hạch toán và thống kê.
Hướng giải
quyết trong tương lai, khi nào Bộ Y tế đảm nhận quản lý các bệnh xá, bệnh viện,
nhà hộ sinh, phòng khám bệnh, trạm cấp cứu mà xí nghiệp đã tự động tổ chức và
quản lý từ trước đến nay thì lúc đó ở mỗi xí nghiệp, công trường chỉ được phép
mua sắm một tủ thuốc nhỏ gồm có một số thuốc nhất định như là thuốc chữa bệnh
thông thường, thuốc phòng bệnh, bông, băng, thuốc đỏ, vv… để cấp cứu khi xảy ra
tai nạn lao động, trước khi đưa đến bệnh viện hay bệnh xá nhằm mục đích phục vụ
kịp thời cho bệnh nhân, không làm trở ngại cho sản xuất đối với những xí nghiệp,
công trường ở xa bệnh viện, trạm cấp cứu của cơ quan y tế địa phương. Như vậy,
lúc đó những chi phí cho tủ thuốc nhỏ được tính vào giá thành của sản phẩm công
nghiệp (kinh phí phân xưởng và quản lý phí xí nghiệp).
4. Thiệt hại
về hỏa hoạn thiên tai và các chi phí để thanh toán những hậu quả do hỏa hoạn
thiên tai gây nên:
Những thiệt hại
về hỏa hoạn thiên tai và các chi phí để thanh toán những thiệt hại do hỏa hoạn
thiên tai gây nên sẽ do ngân sách Nhà nước đài thọ bằng 2 cách:
1. Hoặc là
giảm vốn Nhà nước.
2. Hoặc là
được ghi vào lỗ của xí nghiệp sau khi được Bộ Tài chính duyệt y.
Cần nhận
thức thế nào là hoạn thiên tai:
Hỏa hoạn
thiên tai là những thiệt hại do bão lụt, lửa, sấm sét gây ra một cách bất ngờ
quá khả năng ngăn ngừa của các xí nghiệp, gây thiệt hại, hư hỏng mất mát
nguyên vật liệu, thành phẩm, tài sản cố định, vv… của xí nghiệp. Thiệt hại về
thiên tai còn bao gồm tất cả những chi phí về tiền lương, vật liệu có
liên quan đến việc thanh toán những hậu quả của thiên tai (trường hợp sau khi
thiên tai xảy ra).
Nếu
do mưa gió bình thường mà vì thiếu sót hay thiếu chuẩn bị, thiếu trách nhiệm bảo
quản của xí nghiệp nên xảy ra thiệt hại đến tài sản của xí nghiệp thì không gọi
là thiên tai được.
Để phân
biệt trường hợp nào là thiên tai, trường hợp nào là không phải thiên tai thì mỗi
xí nghiệp có bị thiệt hại và muốn coi đó là thiệt hại do thiên tai gây nên thì
xí nghiệp phải thành lập một hội đồng gồm có đại biểu của Ủy ban hành chính địa
phương, Ban Giám đốc xí nghiệp, Công đoàn xí nghiệp, Phòng kế hoạch, Phòng kỹ
thuật và Phòng Tài vụ của xí nghiệp. Hội đồng này có nhiệm vụ xét từng trường hợp
cụ thể, điều tra nghiên cứu sự thiệt hại để có ý kiến kết luận, cuối cùng lập
biên bản rõ ràng gửi về Bộ và Bộ Tài chính xét duyệt. Chỉ khi nào Bộ đồng ý với
kết luận ghi ở biên bản và có ý kiến xét duyệt ghi vào biên bản thì xí nghiệp mới
được dùng biên bản này làm chứng từ thi mới được ghi vào khoản thiệt hại do
thiên tai gây ra vào lỗ của xí nghiệp. Cần phân biệt các trường hợp cụ thể:
1. Thiệt hại
về vốn lưu động thì tính vào lỗ, thiệt hại về tài sản cố định thì giảm vốn
Nhà nước (vốn cố định) nếu tài sản cố định đó không cần phải sửa chữa lại…
2. Chi phí để
dọn dẹp sửa sang lại chỗ làm việc sau khi xảy ra thiên tai thì tính vào lỗ của
xí nghiệp.
3. Chi phí để
sửa chữa phục hồi lại tài sản cố định bị hư hỏng thì tùy theo từng trường hợp
mà giải quyết như sau:
- Nếu chỉ
trên cơ sở cũ mà sửa chữa lại những chỗ hư hỏng thì những chi phí sửa chữa được
tính vào lỗ.
- Nếu tài sản
cố định (TSCĐ) bị thiệt hại nặng phải tháo dỡ cái cũ để xây dựng lại cái mới
thì xí nghiệp không được tự ý làm lại mà phải đề nghị Bộ duyệt chủ trương xây dựng
lại.
5. Thiệt hại
về đơn đặt hàng không có giá trị:
Người đặt
hàng nửa chừng hủy bỏ đơn đặt hàng: tuy họ phải bồi thường một số tiền theo quy
định trong hợp đồng, nhưng số tiền đó chưa đủ để bù đắp tất cả các khoản chi mà
xí nghiệp phải bỏ ra để chi về đơn đặt hàng đó. Số tiền bội chi đó được chuyển
vào lỗ của xí nghiệp.
6. Thiệt hại
về nợ khó đòi:
Người mắc nợ
xí nghiệp theo nhận xét của xí nghiệp không thể thu hồi lại được vì người mắc nợ
đi mất không rõ địa chỉ ở đâu, người mắc nợ chết, hoặc vì lý do đặc biệt nào đó
người mắc nợ không đủ khả năng tiếp tục trả nợ được nữa thì xí nghiệp lập một bản
kê đề nghị Bộ xét cho chuyển vào lỗ của xí nghiệp. Tuy nhiên sau khi được Bộ
duyệt y cho vào lỗ, xí nghiệp vẫn chưa được phép xóa tên và số tiền của những
người mắc nợ đó (trừ trường hợp người mắc nợ đã chết) mà còn phải lưu lại một
thời gian là 10 năm để sau này khi nào xét thấy những người mắc nợ đó có khả
năng trả được thì xí nghiệp có nhiệm vụ tiếp tục thu hồi số nợ này. Tiền thu được
đó sẽ chuyển vào lãi tức là thu hồi những khoản nợ khó đòi trước đây đã chuyển
vào lỗ.
7. Thiệt hại
về hàng hóa bị mất cắp:
Ngay sau khi
xảy ra những thiệt hại trên đây, xí nghiệp phải lập biên bản báo cáo tình hình
cụ thể về Bộ trong đó nêu rõ số thiệt hại tính thành tiền, nguyên nhân xảy ra sự
thiệt hại, truy nguyên người chịu trách nhiệm, vv… rồi gửi biên bản về Bộ. Bộ sẽ
nghiên cứu thẩm tra rồi tùy từng trường hợp cụ thể xét duyệt cho vào lỗ hoặc bắt
người gây ra sự thiệt hại phải bồi thường.
8. Chi phí
bảo quản xí nghiệp trong thời gian tạm ngừng sản xuất:
Trong
trường hợp một phân xưởng hay toàn xí nghiệp phải tạm ngừng sản xuất vì thiếu
nguyên vật liệu hoặc do một lý do nào khác thì tất cả những chi phí bảo quản xí
nghiệp trong thời gian này được gửi vào lỗ của xí nghiệp sau khi được Bộ xét
duyệt và Hội đồng Chính phủ hoặc Thường vụ Hội đồng Chính phủ chuẩn y.
9. Chi phí
về y tế vệ sinh nếu chi vượt quá số được trích:
- Trường hợp
chi hết:
- Trường hợp
nếu những chi phí thực tế về y tế vệ sinh vượt quá số được trích làm quỹ y tế của
xí nghiệp thì phần còn thiếu đó được ghi vào lỗ của xí nghiệp, nhưng phải được
Bộ xét duyệt và có ý kiến của Bộ Tài chính tham gia mới được thanh toán.
- Trường hợp
còn thừa quỹ y tế chưa chi hết:
Khi quyết
toán hàng năm, nếu xí nghiệp chưa chi hết quỹ thì phần còn thừa đó sẽ chuyển
vào lãi hoàn lại cho ngân sách Nhà nước.
10. Chi
cho các sự nghiệp phúc lợi:
- Trường hợp
chênh lệch thiếu thì thanh toán vào lỗ ngoài kinh doanh do ngân sách Nhà
nước chịu.
- Trường hợp
chênh lệch thừa thì chuyển vào lãi hoàn lại ngân sách Nhà nước.
11. Khấu
hao các sự nghiệp phúc lợi:
Tiền khấu
hao các sự nghiệp phúc lợi như nhà ăn, nhà ở, vườn trẻ, mua sắm dụng cụ
dùng cho nhà ăn, nhà ở phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
b) Do kinh
phí sự nghiệp của Bộ chủ quản chịu:
1. Tiền
lương và chi phí chuyên gia:
Nguyên tắc là
các chuyên gia công tác cho xí nghiệp thuộc Bộ thì do kinh phí sự nghiệp của
Bộ đài thọ tiền lương và các chi phí cho chuyên gia không tính vào giá
thành của sản phẩm công nghiệp.
Ngoài tiền
lương và chi phí chuyên gia kể trên, xí nghiệp được chi vào vốn lưu động và
tính vào giá thành của sản phẩm (quản lý phí xí nghiệp) các khoản chi về
đón tiếp theo đúng chế độ đón tiếp chuyên gia nước ngoài do Phủ Thủ tướng
ban hành như: Tiếp xúc ban đầu, làm việc hàng ngày, quả kỷ niệm, vv… đều
không được trừ vào tiêu chuẩn sinh hoạt phí hàng tháng của chuyên gia.
Cụ thể là:
Ngân sách
Nhà nước đài thọ bằng kinh phí sự nghiệp để trả lương của chuyên gia và các
chi phí cho chuyên gia, cụ thể là những chi phí về phục vụ như nhà ở, người
nấu ăn, người phục vụ với chuyên gia và những chi phí giặt giũ. Tất cả những
chi phí này đều do kinh phí sự nghiệp thuộc ngân sách Nhà nước chi. Do đó không
tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp.
Xí nghiệp chỉ
được chi tiêu về đón tiếp chuyên gia theo chế độ của Nhà nước hiện hành và tính
vào quản lý phí xí nghiệp trong giá thành công xưởng.
Cá biệt còn
có một số xí nghiệp, tính đến 31-12-1960, chưa phân bổ hết chi phí chuyên gia
trong năm 1960 và các năm trước thì nay được phép kết chuyển vào tài khoản 190
- lỗ lãi của năm 1961 (tiểu khoản lỗ thuộc những năm trước).
Phiên dịch
thuộc vào biên chế của xí nghiệp, cho nên tiền lương và tất cả chi phí cho
phiên dịch đều do xí nghiệp đài thọ và tính vào giá thành (quản lý phí xí nghiệp).
Những phiên dịch do xí nghiệp tạm tuyển theo nhu cầu nhất thời để phục vụ
chuyên gia đều thuộc vào chi phí chuyên gia do Ngân sách Nhà nước đài thọ.
2. Chi phí
về đào tạo cán bộ:
1. Kinh
phí sự nghiệp của Bộ đài thọ những chi phí về đào tạo cán bộ trong những
trường hợp:
Một là:
Bộ mở lớp ở Hà nội, hay mở lớp tại xí nghiệp, hoặc tại một nơi khác để đáp ứng
nhu cầu chung của các xí nghiệp thuộc Bộ.
Hai là:
Gửi cán bộ, công nhân viên đi tham quan, thực tập ở nước ngoài và cán bộ công
nhân viên đi học ở các trường nghiệp vụ dài hạn đã ghi trong kế hoạch được Bộ
duyệt y.
2. Xí nghiệp
đài thọ và tính vào giá thành trong những trường hợp:
Một là:
Thợ già kèm thợ trẻ. Thợ trẻ vừa làm vừa học.
Hai là:
Xí nghiệp mở các lớp để bổ túc nghiệp vụ hoặc đào tạo công nhân viên nhằm đáp ứng
nhu cầu của xí nghiệp. Lớp có thể mở với hình thức tập trung, hoặc học sinh vừa
làm vừa học, hoặc học ngoài giờ (lớp nghiệp dư). Những chi phí này gồm có tiền
lương trả cho học sinh trong thời gian đi học được tính vào giá thành (quản lý
phí xí nghiệp). Xí nghiệp đào tạo công nhân để bổ sung thường xuyên vào số lượng
công nhân trong xí nghiệp.
c) Do quỹ
Công đoàn chi: Các khoản chi do quỹ công đoàn chi gồm có:
1. Tiền
lương: Của cán bộ chuyên trách công tác công đoàn, cán bộ công đoàn đi học,
cán bộ công đoàn thay thế.
2. Tiền
lương: Hoặc phụ cấp trả cho giáo viên dạy văn hóa.
3. Tiền
lương: Của cán bộ nhân viên làm công tác thể dục, thể thao, giữ câu lạc bộ.
4. Các chi
phí về văn hóa quần chúng như: công tác tuyên truyền, cổ động, vui khỏe,
nghệ thuật, báo chí, tủ sách, văn hóa, huấn luyện.
5. Các chi
phí về thể dục, thể thao như: mua sắm dụng cụ, tổ chức các cuộc thi về thể
dục, thể thao.
6. Chi phí
về sinh hoạt đời sống của đoàn viên như: thăm hỏi đoàn viên hoặc gia đình
khi ốm đau, hoạn nạn, vv..
7. Chi phí
về hành chính của công đoàn như: văn phòng phí, dầu đèn, công tác phí, hội
nghị phí, sửa chữa dụng cụ, phương tiện, vật rẻ tiền mau hỏng, vv…
(Quy định của
Ủy ban kế hoạch Nhà nước số 2687-UB/TC ngày 25-11-1960).
d) Do quỹ
xã hội đài thọ:
Quỹ xã
hội (hiện nay là quỹ phụ cấp ngoài lương) chỉ dùng cho những khoản dưới đây được
tính vào giá thành theo tỉ lệ trích trong phạm vi 10% (mười phần trăm) trên tổng
mức tiền lương của toàn xí nghiệp như hiện hành:
1. Chi phí
về bảo hiểm lao động bao gồm:
1. Trợ cấp thai sản:
Tiền bồi dưỡng,
tiền mua tã lót, tiền trợ cấp mất sữa, tiền lương trong thời gian nghỉ đẻ quá
chế độ (nếu nghỉ đẻ đúng chế độ tức là trong phạm vi 2 tháng thì vẫn do quỹ tiền
lương đài thọ. Quá 2 tháng trở đi thì mới do quỹ bảo hiểm lao động chi), tiền
trợ cấp khi sẩy thai của nữ cán bộ, công nhân viên chức của xí nghiệp, công trường.
2. Trợ cấp
ốm đau:
- Tiền lương
sau thời gian quỹ lương thôi trả (tức là tiền lương trong thời gian nghỉ quá
quy định của Nhà nước).
3. Phụ cấp
tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp.
4. Trợ cấp
cho cán bộ công nhân già yếu mất sức lao động (mất khả năng lao động).
Khi cán bộ
công nhân già yếu mất sức lao động không còn làm việc được nữa thì về nghỉ, xí nghiệp
cấp tiền hưu trí lấy ở quỹ bảo hiểm lao động (trong quỹ xã hội) để chi. Trong
khi chưa có chế độ hưu trí của Nhà nước thì áp dụng Thông tư số 613/TTg ngày
07-01-1960 của Phủ Thủ tướng.
Đối với những
cán bộ, công nhân già yếu mất sức lao động đáng lẽ phải về hưu trí, nhưng chưa
về, còn ở xí nghiệp thì xí nghiệp phải trả lương và bố trí cho làm công việc nhẹ
thì số tiền đó chi vào quỹ tiền lương và tính vào giá thành theo nguyên tắc làm
việc ở đâu thì tính vào nơi đó chịu. Thí dụ nếu là công tác ở phân xưởng sản xuất
chính thì tính vào giá thành của sản phẩm chính chịu.
Nếu có trường
hợp hiệu suất lao động của họ thấp hơn số tiền lương của họ lĩnh thì xí nghiệp
thành lập một hội đồng trong đó có đại biểu công đoàn xác định được giá trị của
hiệu suất công tác của họ rồi phân chia số tiền lương ấy ra hai phần:
- Phần ngang
với giá trị hiệu suất lao động, tính vào quỹ tiền lương chuyển vào giá thành.
- Phần chênh
lệch có tính chất phụ cấp thì tính vào quỹ bảo hiểm lao động (trong quỹ xã hội)
của xí nghiệp.
Trường hợp xí
nghiệp có cán bộ công nhân viên nằm bệnh viện hay trại an dưỡng thì số tiền trả
cho họ không phải là tiền lương nữa, mà vẫn là trợ cấp phải tính vào quỹ bảo hiểm
lao động (trong quỹ xã hội).
2. Chi phí
về y tế - vệ sinh:
Những
chi phí về y tế, vệ sinh và phòng bệnh thì xí nghiệp được trích theo tỉ lệ nhất
định để lập quỹ y tế và do Giám đốc xí nghiệp quản lý. Xí nghiệp chỉ được tính
vào giá thành tỉ lệ nhất định đó khi lập kế hoạch, hạch toán và thống kê giá
thành.
Bộ giao trách
nhiệm cho Vụ lao động tiền lương nghiên cứu các tỉ lệ y tế, vệ sinh thích hợp
cho từng xí nghiệp để Bộ ban hành sớm. Các xí nghiệp phải gửi báo cáo cụ thể về
tình hình chi tiêu về y tế, vệ sinh trong năm 1960 và có dự kiến đề nghị tỉ lệ
thích hợp.
Nội dung chi
phí về y tế vệ sinh gồm có:
1. Viện phí
và tiền bồi dưỡng trợ cấp cho công nhân viên chức hiện đang công tác tại xí
nghiệp.
2. Thuốc chữa
bệnh và phòng bệnh thông thường trong xí nghiệp.
3. Tiền lương
của y tá hoặc tiền phụ cấp cho người làm công tác cấp cứu, cho thuốc thông thường.
4. Dụng cụ y
tế (dụng cụ thông thường).
Chú thích:
chi phí về y tế, vệ sinh trên đây không bao gồm chi phí về bệnh viện, bệnh xá,
trạm xá, phòng khám bệnh đã giải thích ở trên.
3. Trợ cấp
xã hội:
Nội dung trợ
cấp xã hội gồm có:
1. Chi phí
cho vườn trẻ
- Tiền lương
cho người giữ trẻ;
- Chi phí mua
sắm dụng cụ vườn trẻ sau khi đã thu tiền của bố mẹ các cháu đóng góp để chi vào
các khoản chi tiêu trên còn thiếu.
2. Trợ cấp
gia đình khó khăn.
3. Trợ cấp
con (Theo tỉ lệ quy định của Nhà nước).
Về chi phí
cho vườn trẻ và gia đình khó khăn:
Bộ sẽ quy định
một tỉ lệ nhất định. Xí nghiệp tự quản lý tỉ lệ quy định và kết hợp với quỹ xí
nghiệp (quỹ tiền thưởng) để chi tiêu về 2 khoản này. Riêng về trợ cấp con. Bộ
sẽ điều phối quỹ trợ cấp con. Xí nghiệp chỉ ghi một tỉ lệ nhất định do Bộ quy định
để tính vào giá thành của sản phẩm.
e) Do kinh
phí của kỷ niệm hoặc kinh phí triển lãm chi:
Những chi phí
làm mô hình cho kỷ niệm hoặc cho triển lãm thì do kinh phí của kỷ niệm hoặc
kinh phí của triển lãm chịu và không được tính vào giá thành.
g) Do các nguồn
vốn khác chịu ngoài các nguồn vốn trên:
Các chi phí
dưới đây không thuộc quỹ xã hội và do các nguồn thu khác chịu:
1. Chi phí
về nhà ăn bao gồm: Tiền lương của cấp dưỡng, tiền mua sắm thêm bát đĩa, dụng
cụ, nhà ăn.
Các chi phí về
nhà ăn kể trên do nguồn thu do công nhân viên đóng góp. Số chênh lệch thu và
chi về nhà ăn sẽ được ghi vào lãi hoặc lỗ về kinh doanh ngoài công nghiệp.
2. Chi phí
về nhà ở như: tiền thuê nhà, tiền điện, nước mua sắm vật rẻ tiền mau hỏng
cho các nhà ở do nguồn thu của công nhân viên đóng góp.
Chênh lệch giữa
thu và chi sẽ được ghi vào lãi hoặc lỗ về kinh doanh ngoài công nghiệp.
3. Chi phí
về câu lạc bộ như: tiền lương của người trông nom câu lạc bộ, sách vở, báo
chí, trang trí câu lạc bộ do quỹ công đoàn chi.
4. Chi phí
về văn hóa như: tiền lương hoặc tiền phụ cấp cho giáo viên dạy văn hóa, tiền
điện, phấn viết, tài liệu, sách giáo khoa do nguồn thu của công nhân viên
đóng góp và kinh phí của công đoàn chi.
5. Chi phí
về thể dục thể thao do quỹ công đoàn chi.
6. Chi phí
về nhà nghỉ mát: Nếu là nhà nghỉ mát chung cho các cơ quan và xí nghiệp thì
do Tổng công đoàn chi. Nếu là nhà nghỉ mát riêng của xí nghiệp thì do quỹ xí
nghiệp chi.
Chú thích:
các khoản trên đây không tính vào giá thành.
7. Riêng về
khấu hao (khấu hao cơ bản và khấu hao về sửa chữa lớn) và phí tổn sửa chữa
lớn thường xuyên các công trình phúc lợi như: nhà ăn, nhà ở, câu lạc bộ, vườn
trẻ và nhà cửa dùng cho văn phòng Đảng, Đoàn thanh niên lao động, Công đoàn
thì được tính vào giá thành công xưởng và ghi vào khoản mục quản lý phí
xí nghiệp.
8. Chi phí
về các cuộc mít tinh, đón tiếp, các phái đoàn Chính phủ và đoàn thể nước ngoài
đến thăm xí nghiệp:
Cơ quan hay
đoàn thể nào phụ trách việc đón tiếp phái đoàn đó phải chịu tất cả các chi phí
đón tiếp gồm: nước chè, đường, bia, thuốc lá, giấy cắt dán các băng biểu ngữ
các chi phí về trang trí khác, tặng phẩm.
Ngân sách cấp
tiền cho cơ quan hay đoàn thể hữu quan cơ quan hay đoàn thể đó sẽ thanh toán với
xí nghiệp.
Không nên huy
động công nhân đang có nhiệm vụ sản xuất, bỏ sản xuất để đi đón tiếp, nếu cần
huy động một số nào để tập trung đón tiếp trọng thể thì nên huy động công nhân
chưa đến ca làm việc và huy động nhân viên gián tiếp. Trường hợp quá cần thiết
như mời chiến sĩ thi đua dự cuộc họp mặt tại phòng đón tiếp thì mới huy động
trong giờ sản xuất, nhưng phải là trường hợp đặc biệt. Lương trong giờ đó phải
trả đủ, do xí nghiệp đài thọ, tính vào giá thành, và tính vào lương phụ.
PHẦN THỨ BA
KẾT LUẬN
Qua phân tích
ở các phần thứ nhất và phần thứ hai kể trên, chúng ta đã nhận rõ quản lý kinh tế
xã hội chủ nghĩa không thể không quản lý giá thành.
Việc quản lý
giá thành gắn liền với việc hạch toán sản xuất: không có hạch toán sản xuất
rành mạch và tính giá thành chính xác thì không thể quản lý xí nghiệp công nghiệp
được tốt.
Muốn quản lý
tốt giá thành để đạt mục đích không ngừng hạ giá thành sản phẩm thì nhất thiết
phải lập kế hoạch giá thành để có thể lợi dụng đúng đắn tác dụng của quy luật
giá trị động viên mọi khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế quốc dân thúc đẩy sản
xuất phát triển, thực hành tiết kiệm, tăng tích lũy cho Nhà nước và nâng cao
mưc sống của nhân dân.
Trong báo cáo
bổ sung tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3, đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Ủy
viên Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nói:
“Nâng cao
năng suất lao động và hạ giá thành là hai mặt của một vấn đề cơ bản của cuộc vận
động sản xuất và tiết kiệm là hướng chính để tăng tích lũy và tạo cơ sở tiến tới
giảm giá một số hàng, cải thiện đời sống của nhân dân ”.
Chế độ lập kế
hoạch, hạch toán và thống kê giá thành mới áp dụng trong các xí nghiệp và quốc
doanh thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ là một thuận lợi nhằm nâng cao chất lượng quản
lý giá thành, nâng cao trình độ nghiệp vụ giá thành được chính xác, giảm nhẹ những
khoản chi phí không hợp lý loại trừ ra khỏi giá thành đồng thời giảm nhẹ một số
khó khăn cho xí nghiệp trong việc phân loại các nguồn vốn được rành mạch, giảm
bớt việc cho lãnh đạo, cho cán bộ và làm cho quần chúng công nhân có điều kiện
tham gia quản lý giá thành để không ngừng đấu tranh hạ giá thành có hiệu quả.
Tuy nhiên
cũng còn một số khó khăn cần tiếp tục giải quyết như là quy định tỉ lệ quỹ xã hội
(quỹ phụ cấp ngoài lương) định mức kế hoạch kinh phí phân xưởng, quản lý phí xí
nghiệp và chi phí ngoài sản xuất.
Bộ ban hành
Thông tư này và tổ chức hội nghị học tập Liên vụ Kế hoạch – Tài vụ và các xí
nghiệp, công trường thuộc Bộ chính là nhằm giải quyết các khó khăn trên mà Bộ
đã nói rõ ở phần thứ nhất. Kể từ ngày 01-01-1961, các Thông tư, Chỉ thị cũ từ
trước đến nay của Bộ nếu có điểm nào trái với Thông tư này đều coi như không
còn hiệu lực nữa.
Bộ yêu cầu
các cấp lãnh đạo xí nghiệp, công trường và các cơ quan thuộc Bộ, sau khi nhận
được Thông tư này, cần thảo luận kỹ càng để thấu triệt các vấn đề về nguyên tắc
cơ bản trong việc lập kế hoạch, hạch toán và thống kê giá thành mà Nhà nước và
Bộ đã quy định để nắm vững vấn đề, phổ biến, giải thích rộng rãi cho toàn thể
cán bộ công nhân và nhân viên trong xí nghiệp, công trường mình cùng học tập nhằm
nâng cao nhiệm vụ, nâng cao chất lượng quản lý giá thành, nâng cao hiệu suất
công tác, để việc lập kế hoạch giá thành cũng như việc hạch toán và thống kê
giá thành từ nay về sau được nhanh, chính xác và kịp thời phục vụ tốt cho sản
xuất và giúp ích cho xí nghiệp, công trường hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế
hoạch Nhà nước năm 1961.
|
BỘ
TRƯỞNG
BỘ CÔNG NGHIỆP NHẸ
Kha Vạng cân
|