BỘ
NỘI THƯƠNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1-NT
|
Hà
Nội, ngày 08 tháng 1 năm 1988
|
THÔNG TƯ
SỐ 1-NT NGÀY 8-1-1988 HƯỚNG DẪN THI HÀNH VIỆC
TIÊU THỤ SẢN PHẨM THEO QUYẾT ĐỊNH SỐ 217-HĐBT CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
VỀ CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI KẾ HOẠCH HOÁ VÀ HẠCH TOÁN KINH DOANH XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA ĐỐI VỚI XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH.
Thi hành Quyết định
số 217-HĐBT ngày 14-11-1987 của Hội đồng Bộ trưởng về chính sách đổi mới kế hoạch
hoá và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với xí nghiệp quốc doanh, Bộ Nội
thương hướng dẫn việc thực hiện các điều 12, 13, 14, 15 bản quy định của Hội đồng
Bộ trưởng (kèm theo Quyết định số 217-HĐBT) về tiêu thụ sản phẩm giữa xí nghiệp
thương nghiệp với xí nghiệp sản xuất quốc doanh như sau:
I.
THƯƠNG NGHIỆP QUỐC DOANH THÔNG QUA ĐƠN ĐẶT HÀNG VÀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
ĐỂ TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA XÍ NGHIỆP SẢN XUẤT QUỐC DOANH
1. Đối với những sản
phẩm tiêu dùng trọng yếu thuộc nhu cầu về đời sống của cán bộ, công nhân viên
chức, lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân được Nhà nước cân đối vật tư
và giao kế hoạch pháp lệnh hoặc đơn đặt hàng Nhà nước thì xí nghiệp sản xuất có
trách nhiệm bán cho tổ chức thương nghiệp quốc doanh được cơ quan giao chỉ tiêu
kế hoạch hoặc đơn đặt hàng chỉ định tiêu thụ. Căn cứ vào chỉ tiêu pháp lệnh và
đơn đặt hàng Nhà nước, các tổ chức thương nghiệp được chỉ định tiêu thụ sản phẩm
của xí nghiệp phải lập đơn đặt hàng chi tiết về từng mặt hàng trên cơ sở điều
tra, nghiên cứu và tính toán kỹ nhu cầu và thị trường. Đơn đặt hàng của tổ chức
thương nghiệp quốc doanh phải gửi cho xí nghiệp sản xuất ít nhất là 3 tháng trước
khi bước vào năm kế hoạch sản xuất. Trường hợp xí nghiệp bố trí kế hoạch sản xuất
theo quý thì đơn đặt hàng phải gửi cho xí nghiệp ít nhất là 1 tháng trước khi
bước vào kế hoạch quý. Riêng năm 1988, do quy định của Hội đồng Bộ trưởng mới
ban hành nên việc giao kế hoạch và đơn hàng sẽ được thực hiện trong quý I-1988.
Nếu xí nghiệp sản xuất không thể thoả mãn được đơn hàng của thương nghiệp thì 2
bên cùng nhau bàn bạc giải quyết thoả đáng theo kế hoạch Nhà nước và sự chỉ đạo
của cơ quan quản lý cấp trên.
Trong quá trình sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm nếu một bên nào muốn thay đổi mặt hàng thì phải báo cho bên kia biết
trước ít nhất là 2 tháng để chuẩn bị và cùng nhau sửa đổi, bổ sung vào hợp đồng
đã ký. Đối với những sản phẩm trong danh mục được sản xuất bằng vật tư chủ yếu
do Nhà nước cung ứng và theo đơn đặt hàng của thương nghiệp, các tổ chức thương
nghiệp được chỉ định tiêu thụ sản phẩm đã ký hợp đồng kinh tế phải nhận hết sản
phẩm theo đúng tiến độ sản xuất của xí nghiệp, không được để ứ đọng sản phẩm tại
kho của xí nghiệp sản xuất. Mọi thiệt hại về kinh tế do việc ứ đọng sản phẩm
hàng hoá hoặc xí nghiệp sản xuất không giao hàng cho xí nghiệp thương nghiệp
theo đúng tiến độ đã thoả thuận đều phải được xem xét xử lý về trách nhiệm vật
chất đối với bên có lỗi. Nếu có vướng mắc về chất lượng, mặt hàng và giá cả mà
hai bên không thoả thuận được thì cả hai bên đều phải kịp thời báo cáo lên cơ
quản quản lý cấp trên trực tiếp. Nếu cấp trên của 2 bên không trả lời thì sau
30 ngày (điều 15 của bản quy định) mà hai bên vẫn không thoả thuận được với
nhau thì xí nghiệp sản xuất được bán sản phẩm cho các hộ tiêu thụ khác. Riêng đối
với sản phẩm mau hỏng thì thời hạn báo cáo và xử lý không được vượt quá thời hạn
quy định sử dụng đối với từng sản phẩm cụ thể.
Đối với sản phẩm do xí nghiệp tự
cân đối các nguồn vật tư để tận dụng năng lực sản xuất và đáp ứng nhu cầu thị
trường, xí nghiệp ưu tiên bán hàng cho các tổ chức thương nghiệp quốc doanh,
trước hết là cho các xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh đã được chỉ định tiêu
thụ sản phẩm chính theo những điều kiện do 2 bên thoả thuận. Trong trường hợp tổ
chức thương nghiệp quốc doanh không nhận tiêu thụ hoặc không thoả thuận được với
nhau về điều kiện tiêu thụ thì xí nghiệp sản xuất được quyền bán cho các hộ
tiêu thụ khác.
Trường hợp các xí nghiệp sản xuất
muốn mở cửa hàng để giới thiệu sản phẩm mới hoặc để tiêu thụ những sản phẩm mà
thương nghiệp xã hội chủ nghĩa không nhận tiêu thụ, để bảo hành hoặc sửa chữa
hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thì xí nghiệp phải làm thủ tục đăng ký kinh
doanh theo Thông tư số 13-NT ngày 4-11-1986 của Bộ Nội thương và được hoạt động
kinh doanh sau khi đã được cấp giấy phép, phải đóng thuế và tuân thủ các thể lệ
của Nhà nước về kinh doanh thương nghiệp và quản lý thị trường; thương nghiệp
xã hội chủ nghĩa có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ các xí nghiệp đó về nghiệp vụ
kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ nếu xí nghiệp yêu cầu.
Toàn bộ kế hoạch sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm hàng tiêu dùng theo đơn đặt hàng và theo thoả thuận được thể
hiện đầy đủ trong hợp đồng kinh tế giữa 2 bên. Việc ký kết và thực hiện hợp đồng
kinh tế phải thi hành đúng phần VII của bản quy định kèm theo Quyết định số
217-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng và Thông tư hướng dẫn của Trọng tài kinh tế Nhà
nước.
Khi chưa có chỉ tiêu kế hoạch
chính thức của Nhà nước thì 2 bên căn cứ vào nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch của
Nhà nước đã được xác định trong các Nghị quyết Trung ương Đảng và Hội đồng Bộ
trưởng, con số hướng dẫn và tình hình tiêu thụ hàng hoá của các năm trước để ký
hợp đồng. Khi có chỉ tiêu kế hoạch chính thức thì 2 bên điều chỉnh lại cho phù
hợp.
Để tận dụng hết năng lực sản xuất
của các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh và tăng thêm quỹ hàng hoá tiêu dùng,
các tổ chức thương nghiệp có quan hệ với xí nghiệp cần khai thác để cung ứng
cho xí nghiệp các loại vật tư, nguyên liệu ngoài doanh mục do Nhà nước thống nhất
quản lý để đưa vào sản xuất hàng tiêu dùng. Các loại vật tư này được tính theo
giá thoả thuận tương ứng với giá hàng hoá mà xí nghiệp bán cho các tổ chức
thương nghiệp. Nếu tổ chức thương nghiệp có đủ các loại vật tư, nguyên liệu chủ
yếu để sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh thì 2 bên liên kết để sản xuất theo những
điều kiện do 2 bên thoả thuận.
2. Về chất lượng sản phẩm:
Các xí nghiệp sản xuất nhất thiết
phải bảo đảm phẩm chất hàng hoá theo tiêu chuẩn quy định (tiêu chuẩn Nhà nước,
tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn xí nghiệp hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã thoả thuận
trong hợp đồng) và trên sản phẩm phải ghi rõ tên xí nghiệp sản xuất và dấu chất
lượng đó.
Trường hợp do khó khăn về vật
tư, nguyên liệu, thiết bị... hàng hoá không bảo đảm đúng tiêu chuẩn chất lượng
quy định, cần được châm chước thì đối với sản phẩm hàng hoá đã có tiêu chuẩn
Nhà nước và tiêu chuẩn ngành 2 bên cũng phải báo cáo lên cơ quan có thẩm quyền
xem xét quyết định.
- Sản phẩm đã có tiêu chuẩn xí
nghiệp thì 2 bên cùng nhau thoả thuận sửa lại trọng hợp đồng sau khi đã trao đổi
với cơ quan quản lý chất lượng hàng hoá của Nhà nước.
- Sản phẩm chưa có tiêu chuẩn mà
do 2 bên thoả thuận với nhau về các chỉ tiêu chất lượng hoặc theo mẫu thì 2 bên
bàn bạc lại về các chỉ tiêu chất lượng theo hợp đồng.
Thời hạn xử lý về chất lượng sản
phẩm cũng được thực hiện như điểm 1, phần I của Thông tư này.
Khi được phép hạ cấp tiêu chuẩn
chất lượng hàng hoá thì 2 bên cùng nhau xem xét và thoả thuận về mức tiêu hao vật
tư, nguyên liệu cho sản phẩm, hàng hoá không đạt chỉ tiêu chất lượng, mức độ
hoàn thành kế hoạch tính theo sản phẩm chuẩn, khối lượng vật tư đã đưa vào sản
xuất để làm cơ sở cho việc quyết toán và thanh lý vật tư; định giá giao cho
thương nghiệp phù hợp với chất lượng sản phẩm, nếu sản phẩm thuộc cơ quan quản
lý vật giá Nhà nước quyết định thì phải báo cáo cơ quan quản lý vật giá Nhà nước
để định lại giá cả. Trên sản phẩm phải đóng dấu phân loại chất lượng của sản phẩm
(loại II, loại III, loại IV...).
Nghiêm cấm lưu thông những sản
phẩm hàng hoá không đạt tiêu chuẩn tối thiểu và những sản phẩm hàng hoá có độc
tố ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng và xử lý theo pháp luật hiện hành đối
với các trường hợp vi phạm.
Không được tính vào kế hoạch sản
xuất và thanh lý vật tư, nguyên liệu đối với những sản phẩm hàng hoá không được
phép lưu thông.
3. Về bảo hành hàng hoá:
Những sản phẩm chế tạo theo quy
trình công nghệ kỹ thuật như máy khâu, quạt điện, máy thu thanh, máy thu hình,
tủ lạnh, đồng hồ, xe đạp, v.v... khi bán ra cho khách hàng nhất thiết phải được
bảo hành.
Những sản phẩm có tính năng kỹ
thuật khi xuất xưởng và xuất bán cho người tiêu dùng phải có dấu chất lượng, có
bản hướng dẫn sử dụng và có phiếu bảo hành.
Bảo hành hàng hoá là việc làm bắt
buộc để bên bán phải bảo đảm sửa chữa, đổi hoặc bồi thường cho người mua đối với
hàng hoá có khuyết tật do lỗi của xí nghiệp sản xuất.
Việc bảo hành hàng hoá được tiến
hành:
- Xí nghiệp nào sản xuất sản phẩm
kỹ thuật thì xí nghiệp đó chịu trách nhiệm bảo hành cho khách hàng.
- Thương nghiệp quốc doanh tổ chức
dịch vụ bảo hành cho khách hàng. Trong trường hợp này, xí nghiệp sản xuất khi
giao sản phẩm hoàn chỉnh phải giao 1 tỷ lệ nhất định phụ tùng lẻ cho thương
nghiệp để thực hiện được việc sửa chữa, bảo hành hoặc bán lẻ phụ tùng thay thế
cho khách hàng. Số lượng, chủng loại phụ tùng lẻ để sửa chữa, bảo hành và bán lẻ
thay thế đối với từng loại hàng cụ thể do 2 bên thoả thuận.
Quỹ bảo hành đã được tính vào
giá tiêu thụ sản phẩm và giá bán lẻ sản phẩm cho người tiêu dùng. Nếu tổ chức
thương nghiệp chịu trách nhiệm bảo hành thì xí nghiệp sản xuất phải trích phần
quỹ bảo hành giao cho thương nghiệp theo quy định hoặc theo thoả thuận ghi
trong hợp đồng. Để tạo điều kiện thuận tiện cho người tiêu dùng các xí nghiệp
thương nghiệp và các xí nghiệp sản xuất cần có sự phối hợp tổ chức, phân bổ sắp
xếp mạng lưới dịch vụ sửa chữa, bảo hành một cách hợp lý theo hướng ở những nơi
xí nghiệp sản xuất chịu trách nhiệm tổ chức thì xí nghiệp sản xuất chịu trách
nhiệm tổ chức bảo hành, ở những nơi khác thì xí nghiệp thương nghiệp tổ chức bảo
hành.
4. Giá cả:
Giá giao nhận hàng hoá giữa xí
nghiệp sản xuất quốc doanh và thương nghiệp quốc doanh theo đúng phần V bản quy
định kèm theo Quyết định số 217- HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng và thông tư hướng
dẫn của Uỷ ban Vật giá Nhà nước.
II.
TỔ CHỨC VẬN ĐỘNG HÀNG HOÁ HỢP LÝ ĐỂ ĐƯA NHANH HÀNG HOÁ TỪ NƠI SẢN
XUẤT ĐẾN NƠI TIÊU DÙNG
1. Các xí nghiệp
thương nghiệp bán buôn cần tổ chức sự vận động hàng hoá từ các xí nghiệp sản xuất
đến xí nghiệp thương nghiệp bán lẻ, loại bỏ những khâu nấc trung gian không cần
thiết để giảm phí và đưa nhanh hàng từ sản xuất đến tiêu dùng.
2. Việc vận động thẳng hàng hoá
từ nơi sản xuất đến nơi bán lẻ cần được khuyến khích mở rộng trước hết đối với
1 số mặt hàng thực phẩm tươi sống như thịt, rau, quả, thức ăn chế biến từ thịt,
cá... và 1 số mặt hàng công nghiệp tiêu dùng có khối lượng lớn, bao bì tốt, hàng
cồng kềnh, hàng có chủng loại đơn giản, hàng không cần qua khâu bán buôn phân
loại, chọn lọc, đóng gói lại như rượu, bia, nước ngọt, nước mắm, xe đẹp nguyên
chiếc, săm lốp xe đạp v.v...
3. Đối với hàng trong kế hoạch
và hợp đồng:
Việc đưa hàng hoá đi thẳng từ
các xí nghiệp sản xuất đến các xí nghiệp bán lẻ được thực hiện theo sự thoả thuận
giữa xí nghiệp thương nghiệp bán buôn và xí nghiệp sản xuất căn cứ vào kế hoạch
lưu chuyển hàng hoá của Nhà nước do ngành Nội thương quản lý và theo kế hoạch
phân bổ cụ thể của xí nghiệp thương nghiệp được chỉ định tiêu thụ sản phẩm. Trường
hợp đưa thẳng hàng hoá từ xí nghiệp sản xuất đến nơi bán lẻ thì đơn vị nào tổ
chức đưa hàng đi đơn vị đó được hưởng mọi khoản chi phí phát sinh hợp lý hoặc
được hưởng chiết khấu thương nghiệp bán buôn cấp I (nếu đưa xuống tỉnh) hoặc
chiết khấu thương nghiệp bán buôn cấp II (nếu đưa xuống tại cửa hàng bán lẻ) và
chỉ phải trả cho xí nghiệp thương nghiệp được chỉ định tiêu thụ sản phẩm một phần
lệ phí.
Các xí nghiệp thương nghiệp bán
buôn cần căn cứ vào tình hình cụ thể để bàn bạc thoả thuận với các bên về thể
thức giao nhận, thanh toán theo phương thức, giao thẳng và có thông báo kế hoạch
tiêu thụ cụ thể cho cả xí nghiệp sản xuất và các hộ tiêu thụ.
4. Hàng hoá mua bán ngoài kế hoạch
và hợp đồng kinh tế thì việc giao nhận, vận chuyển do xí nghiệp sản xuất và xí
nghiệp thương nghiệp cùng nhau bàn bạc, thoả thuận trên nguyên tắc, nếu bên nào
không tham gia vào khâu nào trong lưu thông hàng hoá thì không được hưởng chiết
khấu thương nghiệp của khâu đó.
Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ ngày 1 tháng 1 năm 1988. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc gì
cần phản ánh về Bộ Nội thương để sửa đổi, bổ sung.