BỘ NGOẠI GIAO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 53/2013/TB-LPQT
|
Hà Nội, ngày 05
tháng 11 năm 2013
|
THÔNG BÁO
VỀ VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Thực hiện quy định tại khoản
3 Điều 47 của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005,
Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo.
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Xéc-bi-a về tránh đánh
thuế hai lần đối với các loại thuế đánh vào thu nhập, ký tại Hà Nội ngày 01
tháng 3 năm 2013, có hiệu lực kể từ ngày 18 tháng 10 năm 2013.
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi bản sao
Hiệp định theo quy định tại Điều 68 của Luật nêu trên.
|
TL.
BỘ TRƯỞNG
KT. VỤ TRƯỞNG
VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Nguyễn Văn Ngự
|
HIỆP ĐỊNH
GIỮA
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA
XÉC-BI-A VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÉC-BI-A
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc
tránh đánh thuế hai lần đối với các loại thuế đánh vào thu
nhập,
Đã thỏa thuận dưới
đây:
Điều 1. Phạm vi
áp dụng
Hiệp định này áp dụng đối với các đối
tượng là những đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
Điều 2. Các loại
thuế bao gồm trong Hiệp định
1. Hiệp định này áp dụng đối với các
loại thuế do một Nước ký kết hoặc các cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp
dụng của các loại thuế đó như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng thu nhập, hoặc những phần của thu nhập bao
gồm các khoản thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản,
các loại thuế đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do doanh nghiệp chi trả, cũng như các loại thuế đánh vào giá trị tài sản
tăng thêm đều được coi là thuế đánh vào thu nhập.
3. Các loại thuế hiện hành được áp dụng
trong Hiệp định này cụ thể là:
tại Việt Nam:
1) thuế thu nhập cá nhân; và
2) thuế thu nhập doanh nghiệp.
(dưới đây được gọi là "thuế Việt
Nam");
tại Xéc-bi-a:
1) thuế thu nhập doanh nghiệp; và
2) thuế thu nhập cá nhân.
(dưới đây được gọi là "thuế
Xéc-bi-a").
4. Hiệp định này
cũng sẽ được áp dụng đối với các loại thuế có tính chất tương tự hoặc về cơ bản
giống như các loại thuế trên được ban hành sau ngày ký Hiệp định này để bổ
sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện hành, Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông báo
cho nhau biết những thay đổi quan trọng trong các luật thuế
của từng Nước.
Điều 3. Các định
nghĩa chung
1. Theo nội dung của Hiệp định này:
1) thuật ngữ "Nước ký kết"
và "Nước ký kết kia" có nghĩa là Việt Nam hoặc Xéc-bi-a, tùy ngữ cảnh
đòi hỏi;
2) thuật ngữ "Việt Nam" có
nghĩa là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng
theo nghĩa địa lý, thuật ngữ này có nghĩa là lãnh thổ đất liền, các hải đảo, nội thủy, lãnh hải và vùng trời phía trên đó,
vùng biển ngoài lãnh hải, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán phù
hợp với pháp luật quốc gia và luật pháp quốc tế;
3) thuật ngữ "Xéc-bi-a" có
nghĩa là nước Cộng hòa Xéc-bi-a, và khi dùng theo nghĩa địa lý, thuật ngữ này
có nghĩa là lãnh thổ của nước Cộng
hòa Xéc-bi-a;
4) thuật ngữ "đối tượng mang quốc tịch" có nghĩa là:
- bất kỳ cá nhân nào mang quốc tịch của
một Nước ký kết;
- bất kỳ pháp nhân, công ty hợp danh
hoặc hiệp hội nào có tư cách theo các luật có hiệu lực tại một Nước ký kết;
5) thuật ngữ "đối tượng" bao gồm cá nhân, công ty và bất kỳ tổ chức của nhiều đối
tượng nào khác;
6) thuật ngữ "công ty" có
nghĩa là bất kỳ tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào
được coi là tổ chức công ty dưới giác độ thuế;
7) thuật ngữ "doanh nghiệp của một
Nước ký kết" và "doanh nghiệp của Nước ký kết kia" theo thứ
tự có nghĩa là một doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết và một doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia;
8) thuật ngữ "vận tải quốc tế"
có nghĩa là bất kỳ sự vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay được thực hiện bởi một doanh nghiệp của một Nước
ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay đó chỉ
hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia;
9) thuật ngữ "nhà chức trách có
thẩm quyền" có nghĩa là:
- trong trường hợp của Việt Nam, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền
của Bộ trưởng;
- trong trường hợp
của Xéc-bi-a, là Bộ trưởng Bộ Tài chính và Kinh tế hoặc
người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng.
2. Trong khi một Nước ký kết áp dụng
Hiệp định này vào bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ thuật ngữ
nào chưa được định nghĩa tại Hiệp định này sẽ có nghĩa theo như định nghĩa tại
luật của Nước đó, đối với các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng vào thời điểm đó, bất kỳ nghĩa nào theo các luật thuế được áp
dụng của Nước đó sẽ có giá trị cao hơn nghĩa của thuật ngữ
đó theo các luật khác của Nước đó, trừ trường hợp ngữ cảnh
đòi hỏi có sự giải thích khác.
Điều 4. Đối tượng
cư trú
1. Theo nội dung của Hiệp định này,
thuật ngữ "đối tượng cư trú của một Nước ký kết"
có nghĩa là bất kỳ đối tượng nào, mà theo các luật của Nước
đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nơi cư trú, nhà ở,
trụ sở điều hành, trụ sở đăng ký, hoặc
bất kỳ tiêu chuẩn nào khác có tính chất tương tự. Nhưng thuật ngữ này không bao
gồm bất kỳ đối
tượng nào là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối với thu nhập từ các nguồn tại Nước đó.
2. Trường hợp theo các quy định tại
khoản 1, khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì thân phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
1) cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng
cư trú chỉ của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú; nếu cá nhân đó có
nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ
của Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung
tâm của các quyền lợi chủ yếu);
2) nếu không thể xác định được Nước
ký kết nơi cá nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu,
hoặc nếu cá nhân đó không có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá
nhân đó thường sống;
3) nếu cá nhân đó thường xuyên sống ở
cả hai Nước hoặc không thường xuyên ở Nước nào, cá nhân đó sẽ được
coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó mang
quốc tịch;
4) nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc tịch của cả
hai Nước hoặc không mang quốc tịch của Nước nào, các nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.
3. Trường hợp theo các quy định tại khoản 1, một đối
tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, khi đó
đối tượng trên sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước có trụ sở điều hành
thực tế của đối tượng đó.
Điều 5. Cơ sở thường trú
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ
"cơ sở thường trú" có nghĩa là một địa điểm kinh doanh cố định mà qua
đó doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ "cơ sở thường trú" chủ yếu
bao gồm:
1) trụ sở điều hành;
2) chi nhánh;
3) văn phòng;
4) nhà máy;
5) xưởng; và
6) mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ địa điểm
khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác.
3. Thuật ngữ "cơ sở thường trú" cũng bao
gồm:
1) một địa điểm xây dựng, dự án xây dựng, lắp ráp
hoặc lắp đặt hoặc các hoạt động giám sát có liên quan, nhưng chỉ khi địa điểm,
dự án hoặc các hoạt động này kéo dài trong giai đoạn trên sáu tháng;
2) việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư
vấn do một doanh nghiệp thực hiện thông qua những người làm công hoặc những đối
tượng khác được doanh nghiệp giao thực hiện các hoạt động trên, nhưng chỉ khi
các hoạt động mang tính chất nêu trên kéo dài (trong cùng một dự án hoặc một dự
án liên quan) tại một Nước trong một giai đoạn hoặc nhiều giai đoạn gộp lại hơn
sáu tháng.
4. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, thuật ngữ "cơ sở thường trú" sẽ được coi là không bao gồm:
1) việc sử dụng các phương tiện chỉ
cho mục đích lưu kho, trưng bày hoặc không thường xuyên
giao hàng hóa hoặc tài sản của doanh nghiệp;
2) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích lưu kho, trưng bày hoặc không thường xuyên giao hàng;
3) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài
sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích để cho doanh nghiệp
khác gia công;
4) việc duy trì
một địa điểm kinh doanh cố định chỉ với mục đích mua hàng
hóa hoặc tài sản hoặc để thu thập thông tin cho doanh nghiệp;
5) việc duy trì
một địa điểm kinh doanh cố định chỉ với mục đích tiến hành
bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ cho doanh nghiệp;
6) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ với mục đích kết hợp
bất kỳ hoạt động nào nêu từ điểm 1) tới điểm 5), với điều
kiện toàn bộ hoạt động của một địa điểm kinh doanh cố định từ sự kết hợp trên
mang tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ.
5. Mặc dù có những quy định tại khoản
1 và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh
tại khoản 7 - hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một
doanh nghiệp của Nước ký kết kia, doanh nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường
trú tại Nước ký kết thứ nhất đối với các hoạt động mà đối
tượng đó thực hiện cho doanh nghiệp, nếu đối tượng đó;
1) có và thường xuyên thực hiện tại
Nước đó thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối tượng đó
chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4
mà những hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một địa
điểm kinh doanh cố định thì sẽ không làm cho địa điểm kinh doanh cố định đó trở
thành một cơ sở thường trú theo những quy định tại khoản đó; hoặc
2) không có thẩm quyền trên, nhưng thường xuyên duy trì tại Nước thứ nhất một
kho hàng hóa hoặc tài sản, qua đó đối tượng này thường
xuyên giao hàng hóa hoặc tài sản thay mặt cho doanh nghiệp.
6. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, một doanh nghiệp bảo hiểm của một Nước ký kết,
trừ trường hợp tái bảo hiểm, sẽ được coi là có cơ sở thường
trú tại Nước ký kết kia nếu doanh nghiệp đó thu phí bảo hiểm trên lãnh thổ của
Nước kia hoặc bảo hiểm các rủi ro tại đó thông qua một đối
tượng không phải là một đại lý có tư
cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 7.
7. Một doanh nghiệp sẽ không được coi là có cơ sở thường trú tại một Nước ký kết
nếu doanh nghiệp chỉ thực hiện kinh doanh tại Nước đó
thông qua một đại lý môi giới, một đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào
khác có tư cách độc lập, với điều kiện những đối tượng này chỉ hoạt động trong
khuôn khổ kinh doanh thông thường của mình. Tuy nhiên, khi những hoạt động của đại lý đó dành toàn bộ hoặc hầu như toàn
bộ thay mặt cho doanh nghiệp đó, đại lý đó sẽ không được
coi là đại lý có tư cách độc lập theo nghĩa của khoản này.
8. Việc một công ty là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một
công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động kinh
doanh tại Nước kia (có thể thông qua một cơ sở thường trú hoặc
dưới hình thức khác) sẽ không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
Điều 6. Thu nhập
từ bất động sản
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú tại
một Nước ký kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ
nông nghiệp hoặc lâm nghiệp) đặt tại Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ "bất động sản"
sẽ có nghĩa theo như luật của Nước ký kết nơi có tài sản.
Trong mọi trường hợp thuật ngữ sẽ bao gồm cả tài sản đi liền
với bất động sản, đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp,
các quyền áp dụng theo các quy định tại luật chung về điền
sản, quyền sử dụng bất động sản và các quyền được hưởng các khoản thanh toán thay đổi hoặc cố định trả cho việc khai thác hoặc
quyền khai thác các mỏ, các nguồn khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên
khác; các tàu thủy và máy bay sẽ không được coi là bất động
sản.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng
đối với thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hoặc sử dụng các loại bất động
sản dưới bất kỳ hình thức nào khác.
4. Những quy định tại các khoản 1 và
3 cũng sẽ áp dụng cho thu nhập từ bất động sản của một
doanh nghiệp và đối với thu nhập từ bất
động sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ
cá nhân độc lập.
Điều 7. Lợi nhuận
kinh doanh
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp của
một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp doanh nghiệp có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký
kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia. Nếu doanh nghiệp có hoạt động kinh
doanh theo cách trên, thì các khoản lợi nhuận của doanh
nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên phần
lợi nhuận phân bổ cho cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3,
khi một doanh nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động
kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia, thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có những khoản lợi nhuận được
phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên
mà cơ sở đó có thể thu được, nếu đó là một doanh nghiệp
riêng và tách biệt cùng tham gia vào các hoạt động như nhau hoặc tương tự trong
cùng những điều kiện như nhau hoặc tương tự và có quan hệ
hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp mà cơ sở đó được
coi là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi nhuận của một cơ sở thường trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí phát sinh phục vụ cho mục
đích kinh doanh của cơ sở thường trú này, bao gồm cả chi phí điều hành và chi
phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát sinh tại Nước nơi cơ sở thường trú
đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy
nhiên, sẽ không cho phép tính vào các khoản chi phí được
trừ bất kỳ các khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú
trả cho (trừ tiền thanh toán các chi
phí thực tế) trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn
phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản phí hoặc
bất kỳ khoản thanh toán tương tự nào
khác để được phép sử dụng sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt, hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới hình thức lãi tính trên tiền cho cơ
sở thường trú vay, trừ trường hợp lãi
từ tiền cho vay của tổ chức ngân
hàng. Tương tự như vậy, khi xác định lợi nhuận của cơ sở thường trú, sẽ không
tính đến các khoản tiền (trừ các khoản tiền thanh toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở chính của
doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền
bản quyền, các khoản phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự nào khác để
được phép sử dụng sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức
tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới hình thức lãi
tính trên tiền cho trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất
kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay
của tổ chức ngân hàng.
4. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn
thường xác định các khoản lợi nhuận
được phân bổ cho một cơ sở thường trú
trên cơ sở phân chia tổng các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp thành những phần
khác nhau, không có nội dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi nhuận chịu thuế theo cách phân chia
theo thông lệ trên; tuy nhiên, phương pháp phân chia được
chấp nhận sẽ có kết quả phù hợp với những nguyên tắc nêu tại Điều này.
5. Không một khoản lợi nhuận nào sẽ được phân bổ cho một cơ sở
thường trú chỉ vì lý do cơ sở thường
trú đó mua hàng hóa hoặc tài sản cho doanh nghiệp.
6. Theo nội dung các khoản trên, các
khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được
xác định theo cùng một phương pháp giữa các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định theo phương pháp khác.
7. Khi lợi nhuận bao gồm các khoản
thu nhập được đề cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều đó sẽ không bị ảnh hưởng
bởi những quy định tại Điều này.
Điều 8. Vận tải
quốc tế
1. Lợi nhuận do một doanh nghiệp của
một Nước ký kết thu được từ hoạt động của tàu thủy, thuyền hoặc máy bay trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước ký kết đó.
2. Những quy định tại khoản 1 cũng sẽ áp dụng cho các khoản lợi nhuận thu được từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên doanh hoặc một hãng hoạt động quốc
tế.
Điều 9. Các doanh
nghiệp liên kết
Khi
1) một doanh nghiệp của một Nước ký kết
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
2) các đối tượng cùng tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp
vốn vào một doanh nghiệp của một Nước ký kết và vào một doanh nghiệp của Nước
ký kết kia,
và trong cả hai trường hợp, trong mối
quan hệ tài chính và thương mại giữa hai doanh nghiệp trên có những điều kiện
được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các doanh nghiệp độc
lập, lúc đó mọi khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp có thể
thu được nếu không có những điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà
doanh nghiệp đó không thu được, sẽ vẫn được tính vào các khoản lợi nhuận của
doanh nghiệp đó và bị đánh thuế tương ứng.
Điều 10. Tiền
lãi cổ phần
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là
đối tượng cư trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh
thuế ở Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ
phần đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký
kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú và
theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng
tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá:
1) 10 phần trăm tổng
số tiền lãi cổ phần nếu đối tượng thực hưởng là công ty
(không kể tổ chức hùn vốn) nắm giữ trực tiếp ít nhất 25 phần
trăm vốn của công ty trả tiền lãi cổ phần;
2) 15 phần trăm tổng số tiền lãi cổ
phần trong tất cả các trường hợp còn lại.
Các nhà chức trách
có thẩm quyền của các Nước ký kết sẽ giải quyết phương
thức áp dụng giới hạn này thông qua thỏa thuận
chung.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới việc
đánh thuế công ty đối với khoản lợi nhuận dùng để chia lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ "tiền lãi cổ phần"
được sử dụng tại Điều này có nghĩa là
thu nhập từ cổ phần hoặc các quyền lợi khác không kể các
khoản nợ, được hưởng lợi nhuận, cũng như thu nhập từ các quyền lợi công ty khác cùng chịu
sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo luật của Nước nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng
cư trú.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ
không áp dụng trong trường hợp đối tượng
thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú tại một Nước ký kết
có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia, nơi
công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại
Nước đó, hoặc tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá
nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và
quyền nắm giữ cổ phần nhờ đó được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế
đến cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy các
quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14 của Hiệp định này, tùy
từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết có lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh từ Nước
ký kết kia thì Nước kia có thể không đánh thuế đối với những
khoản tiền lãi cổ phần do công ty này trả, trừ trường hợp
những khoản tiền lãi cổ phần này được
trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có
các khoản tiền lãi cổ phần được trả có sự liên hệ thực tế
với một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở
cố định tại Nước kia, đồng thời Nước kia cũng không buộc các khoản lợi nhuận
không chia của công ty trên phải chịu thuế đối với những
khoản lợi nhuận không chia của công ty, cho dù những khoản tiền lãi cổ phần được
chia hoặc các khoản lợi nhuận không chia bao gồm toàn bộ
hoặc một phần các khoản lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh
tại Nước kia.
Điều 11. Lãi từ
tiền cho vay
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại
một Nước ký kết và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi này cũng
có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi
phát sinh lãi và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi này là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia thì mức thuế khi đó được
tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm của tổng số khoản lãi từ tiền cho vay.
3. Thuật ngữ "lãi từ tiền cho vay" được sử dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có hoặc không được đảm bảo bằng
thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng lợi nhuận của
người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu
công ty, bao gồm cả tiền thưởng và giải thưởng đi liền với
các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu công ty
đó. Tiền phạt thanh toán chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền
cho vay theo nội dung của Điều này.
4. Những quy định tại các khoản 1 và
2 sẽ không được áp dụng nếu người thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối
tượng cư trú tại một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia hoặc thực hiện tại
Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia và khoản nợ có các khoản tiền lãi được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó.
Trong trường hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều
14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả chính là Nhà nước đó, cơ quan chính quyền cơ sở, chính quyền địa
phương, hoặc đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến
các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và khoản tiền
lãi đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối tượng có là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết hay
không, khoản tiền lãi này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở
Nước nơi cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng trả lãi và đối tượng
hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các đối tượng
khác, khoản lãi từ tiền cho vay, liên quan đến khoản cho
vay có số tiền lãi được trả vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối
với các khoản tiền thanh toán khi
không có mối quan hệ đặc biệt trên. Trong trường hợp này,
phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế
theo luật của từng Nước ký kết có xem xét tới các quy định
khác của Hiệp định này.
Điều 12.
Tiền bản quyền
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một
Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và
theo các luật của Nước này, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền bản quyền là đối tượng cư trú
của Nước ký kết kia thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền.
3. Thuật ngữ "tiền bản quyền"
được sử dụng tại Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán
ở bất kỳ dạng nào được trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bất kỳ bản quyền tác giả
nào của một tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học, kể
cả phim điện ảnh hoặc các loại phim hoặc các loại băng dùng trong
phát thanh và truyền hình, bất kỳ
sáng chế, nhãn hiệu, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật,
hoặc trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng thiết bị
công nghiệp, thương mại hoặc khoa học, hoặc trả cho thông tin liên quan đến các
kinh nghiệm công nghiệp, thương mại hoặc khoa học.
4. Những quy định
tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản
quyền, là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh ở
Nước ký kết kia nơi có khoản tiền bản quyền phát sinh,
thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước kia hoặc tiến
hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố
định tại Nước kia, và quyền hoặc tài sản có các khoản tiền bản quyền được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó. Trong trường hợp
này các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát
sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả liền bản quyền
chính là Nhà nước đó, cơ quan chính quyền cơ sở, chính quyền địa phương hoặc là
đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi một đối tượng
trả tiền bản quyền, là hoặc không là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường
trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả
tiền bản quyền đã phát sinh và tiền bản quyền đó do cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản quyền này sẽ vẫn được
coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt
giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả
hai đối tượng trên với các đối tượng khác, khoản tiền bản
quyền, liên quan đến việc sử dụng, quyền hoặc thông tin có
số tiền bản quyền được trả, đối với việc sử dụng, quyền hoặc
thông tin, vì bất cứ lý do gì, vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền và đối
tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này,
thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi
không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần
thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết có xem
xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
Điều 13. Thu nhập
từ chuyển nhượng tài sản
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ việc
chuyển nhượng bất động sản được nêu tại Điều 6 và bất động sản đó nằm tại Nước
ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thu nhập từ việc chuyển nhượng động
sản là một phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường
trú mà một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký
kết kia hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định của một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập kể cả lợi nhuận từ việc chuyển
nhượng cơ sở thường trú đó (riêng cơ
sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ doanh nghiệp) hoặc cơ sở cố định đó
có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Thu nhập thu được từ việc chuyển
nhượng các tàu thủy hoặc máy bay của một doanh nghiệp của một Nước ký kết hoạt
động trong vận tải quốc tế hoặc từ
chuyển nhượng động sản gắn liền với hoạt động của các tàu
thủy hoặc máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
4. Thu nhập thu được từ việc chuyển nhượng các cổ phần trong vốn cổ phần của một công ty mà tài
sản của công ty đó chủ yếu trực tiếp hoặc gián tiếp bao gồm bất động sản nằm tại
một Nước ký kết có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
5. Thu nhập thu được từ việc chuyển
nhượng bất kỳ tài sản nào khác với tài sản nêu tại các khoản 1, 2, 3 và 4 sẽ chỉ
bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
Điều 14. Hoạt động
dịch vụ cá nhân độc lập
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hoặc các hoạt động
khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó
trừ khi;
1) nếu đối tượng đó thường xuyên có tại
Nước ký kết kia một cơ sở cố định nhằm mục đích thực hiện các hoạt động của mình; trong những trường hợp đó chỉ phần thu nhập
phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại nước ký kết kia; hoặc
2) nếu đối tượng đó có mặt tại Nước
ký kết kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời
gian gộp lại đến hoặc trên 183 ngày trong bất kỳ khoảng thời
gian 12 tháng nào bắt đầu hoặc kết thúc trong năm tài chính có liên quan; trong trường hợp
đó chỉ phần thu nhập thu được từ các hoạt động của đối tượng này được thực hiện
tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ "dịch vụ ngành nghề"
bao gồm chủ yếu những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng
dạy mang tính chất độc lập như các hoạt động độc lập của các
thầy thuốc, luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
Điều 15. Hoạt động
dịch vụ cá nhân phụ thuộc
1. Thể theo các quy định tại các Điều
16, 18, 19, 20 và 21, các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao tương tự khác do
một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động
làm công sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng
đó được thực hiện tại Nước ký kết kia. Nếu công việc làm công được
thực hiện như vậy, số tiền công trả cho lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản
1, tiền công do
một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công tại Nước
ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu;
1) người nhận tiền công có mặt tại Nước
kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn
12 tháng nào bắt đầu hoặc kết thúc trong năm tài chính liên quan, và
2) chủ lao động hoặc đối tượng đại diện
chủ lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước
kia, và
3) số tiền công không phải phát sinh
tại một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà đối tượng
chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, tiền công thu được từ lao động làm trên tàu thủy hoặc máy bay do một doanh nghiệp của một Nước ký kết điều
hành trong vận tải quốc tế có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
4. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, tiền công do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được sẽ chỉ
bị đánh thuế tại Nước đó nếu khoản tiền
công này được chi trả từ lao động thực hiện tại Nước ký kết kia liên quan đến một
công trình xây dựng, một dự án xây dựng, lắp ráp hoặc lắp
đặt hoặc các hoạt động giám sát có liên quan trong khoảng thời gian sáu tháng mà trong khoảng thời gian đó công trình, dự án hoặc các hoạt động này chưa tạo thành một
cơ sở thường trú tại Nước kia.
Điều 16. Thù lao
giám đốc
Các khoản thù lao cho giám đốc và các
khoản thanh toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết nhận được với tư cách là thành viên của
ban giám đốc hoặc của một ban tương tự của một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
Điều 17. Nghệ sĩ
và Vận động viên
1. Mặc dù có những quy định tại các
Điều 14 và 15, thu nhập của một đối tượng cư trú của một
Nước ký kết thu được với tư cách người biểu diễn như diễn viên sân khấu, điện ảnh,
phát thanh hoặc truyền hình, hoặc nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên
từ những hoạt động cá nhân của mình thực hiện tại Nước ký kết kia có thể bị
đánh thuế ở Nước kia.
2. Trường hợp
thu nhập liên quan đến các hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc
vận động viên nhưng không được trả cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động
viên, mà trả cho một đối tượng khác thì thu nhập này có thể
bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt động trình diễn của người
biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những quy định tại các Điều 7, 14 và
15.
3. Mặc dù có những quy định tại các
khoản 1 và 2, thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ
các hoạt động cá nhân của mình như là một nghệ sĩ hoặc vận động viên sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó nếu các hoạt động này được trình diễn tại nước ký kết kia
trong khuôn khổ chương trình trao đổi văn hóa hoặc thể thao được nhà chức trách có thẩm
quyền của cả hai Nước ký kết phê duyệt.
Điều 18. Tiền
lương hưu
Thể theo các quy định tại khoản 2 Điều
19, tiền lương hưu và các khoản tiền công tương tự khác được
trả cho một đối tượng cư trú của một Nước ký kết do các
công việc đã làm trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước đó.
Điều 19. Phục vụ
Chính phủ
1. 1) Các khoản tiền lương, tiền công
và các khoản thù lao tương tự khác, trừ tiền lương hưu, do một Nước ký kết hoặc
một cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó trả cho một
cá nhân đối với việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền
địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước đó.
2) Tuy nhiên, khoản tiền lương, tiền
công và các khoản thù lao tương tự khác này sẽ chỉ bị đánh
thuế ở Nước ký kết kia nếu việc phục
vụ này được thực hiện tại Nước kia và nếu cá nhân này là đối
tượng cư trú của Nước kia, đồng thời:
- là đối tượng mang quốc tịch của Nước
kia; hoặc
- không trở
thành đối tượng cư trú của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc
trên.
2. 1) Bất kỳ khoản tiền lương hưu nào
do một Nước ký kết, một cơ quan chính quyền cơ sở hoặc một cơ quan chính quyền
địa phương của Nước đó hoặc do các quỹ của những cơ quan
này lập ra trả cho một cá nhân đối với các công việc phục
vụ cho Nhà nước hoặc các cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương
tại Nước đó sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước đó.
2) Tuy nhiên, những khoản tiền lương hưu này sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối
tượng cư trú và là đối tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia.
3. Những quy định của các Điều 15,
16, 17 và 18 sẽ áp dụng đối với các khoản tiền lương, tiền
công và các khoản tiền thù lao tương tự khác và tiền lương hưu đối với các công
việc liên quan đến một hoạt động kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký
kết hoặc cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của
Nước đó.
Điều 20. Sinh
viên và thực tập sinh
1. Những khoản tiền mà một sinh viên
hoặc thực tập sinh nhận được để trang
trải các chi phí sinh hoạt, học tập hoặc đào tạo mà người sinh viên hoặc thực tập
sinh này ngay trước khi đến một Nước ký kết đang và đã là người cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại Nước thứ nhất chỉ với mục đích học
tập hoặc đào tạo, sẽ không bị đánh thuế tại Nước đó, với điều kiện những khoản
tiền đó có nguồn gốc từ bên ngoài Nước này.
2. Ngoài ra, đối với các khoản tiền
trợ cấp, học bổng và tiền công thu được từ lao động làm công chưa được đề cập tại
khoản 1, một sinh viên hoặc thực tập sinh như được đề cập tại khoản 1, trong
quá trình học tập hoặc đào tạo đó, sẽ được hưởng các khoản miễn thu, miễn thuế
hoặc giảm thuế mà các đối tượng cư trú của Nước ký kết nơi người sinh viên hoặc
thực tập sinh đó đến được hưởng.
Điều 21. Giáo
viên, giáo sư và nhà nghiên cứu
1. Một cá nhân sang một Nước ký kết với mục đích giảng dạy hoặc tiến hành nghiên cứu tại một trường đại học, cao đẳng, trường hoặc cơ sở giáo dục được công nhận khác tại Nước đó và hiện là hoặc ngay trước khi sang một Nước ký kết đã là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất đối
với khoản tiền công từ việc giảng dạy hoặc nghiên cứu đó trong thời hạn không
quá hai năm kể từ lần sang đầu tiên của cá nhân đó để thực hiện mục đích trên, với điều kiện là khoản tiền công này phát sinh
từ nguồn ngoài Nước đó.
2. Các quy định tại khoản 1 của Điều
này sẽ không áp dụng đối với thu nhập từ hoạt động nghiên cứu nếu việc nghiên cứu đó không được thực hiện nhằm
phục vụ lợi ích công cộng, mà chủ yếu phục vụ cho lợi ích
cá nhân của một đối tượng hoặc nhiều đối tượng cụ thể.
Điều 22. Thu nhập
khác
1. Những khoản
thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu,
chưa được đề cập đến tại những Điều trên của Hiệp định
này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Những quy định tại khoản 1 sẽ
không áp dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản
được định nghĩa tại khoản 2 Điều 6, nếu đối tượng nhận thu nhập là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có tiến hành hoạt động kinh doanh tại
Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước
kia hoặc thực hiện tại Nước kia những hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông
qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền hoặc tài sản liên quan đến số thu nhập
được chi trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định như trên. Trong trường hợp như vậy những quy
định tại các Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ
được áp dụng.
3. Mặc dù có những quy định tại các
khoản 1 và 2, các khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết chưa được đề cập đến
tại các Điều trên của Hiệp định này và phát sinh tại Nước
ký kết kia cũng có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
Điều 23. Các biện
pháp xóa bỏ việc đánh thuế hai lần
1. Khi một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết có thu nhập mà theo các quy định của Hiệp định
này, có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia, Nước thứ nhất
sẽ cho phép đối tượng đó được khấu trừ vào thuế tính trên
thu nhập của đối tượng cư trú đó một khoản tiền tương đương với số thuế đã nộp
tại Nước kia.
Tuy nhiên, số thuế được khấu trừ như
vậy sẽ không vượt quá số tiền thuế thu nhập được tính trước khi thực hiện việc khấu trừ, được phân bổ
cho phần thu nhập có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Tuy nhiên, trường hợp thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu
được được miễn thuế tại Nước đó theo bất kỳ quy định nào của Hiệp định này,
trong khi tính số thuế đối với thu nhập còn lại của đối tượng cư trú đó, Nước
này có thể xét đến phần thu nhập được miễn thuế.
3. Vì mục đích khấu trừ thuế tại một
Nước ký kết, số tiền thuế đã nộp tại Nước ký kết kia sẽ được coi là bao gồm cả
số tiền thuế lẽ ra phải nộp tại Nước kia nhưng đã được Nước đó giảm hoặc miễn
theo các quy định pháp lý về ưu đãi thuế của Nước đó.
Điều 24. Thủ tục
thỏa thuận song phương
1. Trường hợp một đối tượng nhận thấy
rằng việc giải quyết của một hoặc cả hai Nước ký kết làm cho hoặc sẽ làm cho đối
tượng đó phải nộp thuế không đúng theo những quy định của Hiệp định này, lúc đó
đối tượng này có thể giải trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm
quyền của Nước ký kết nơi đối tượng đó đang cư trú, mặc dù trong các luật trong nước của hai Nước ký kết đã quy định những chế độ xử
lý khiếu nại. Trường hợp đó phải được giải trình trong thời hạn 3 năm kể từ
lần thông báo giải quyết đầu tiên dẫn đến hình thức thuế áp dụng
không đúng với những quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách
có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như việc khiếu nại là hợp lý
và nếu bản thân nhà chức trách đó không thể đi đến một giải pháp thỏa đáng, phối
hợp với nhà chức trách có thẩm quyền
của Nước ký kết kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục đích tránh đánh thuế không phù hợp với nội
dung của Hiệp định này. Mọi thỏa thuận đạt được sẽ được thực hiện không căn cứ vào những giới hạn ghi trong luật
trong nước của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ cố gắng giải quyết
bằng thỏa thuận chung mọi khó khăn hoặc vướng mắc nảy sinh
trong quá trình giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này. Nhà
chức trách có thẩm quyền của hai Nước cũng có thể trao đổi với nhau nhằm xóa bỏ
việc đánh thuế hai lần trong các trường hợp không được quy định tại Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết có thể liên hệ trực tiếp với nhau, kể cả thông qua một ủy
ban hỗn hợp gồm các đại diện của các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết với mục đích nhằm đạt được một thỏa thuận
theo nội dung những khoản trên đây.
Điều 25. Trao đổi
thông tin
1. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc triển
khai thực hiện những quy định của Hiệp định này hoặc của các luật trong nước của từng Nước ký kết liên quan đến các loại thuế mà Hiệp định
này áp dụng sao cho việc đánh thuế theo các luật trong nước sẽ không trái với Hiệp định này, đặc biệt là nhằm ngăn ngừa việc gian lận hoặc trốn các loại thuế đó. Việc trao đổi thông tin không bị hạn chế bởi Điều 1. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được sẽ được giữ bí mật giống
như thông tin thu nhận theo luật trong nước của Nước này và thông tin đó
sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hoặc các cơ quan chức trách (bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính)
có liên quan đến việc tính toán hoặc thu, cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định
các khiếu nại về các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng. Các đối tượng hoặc các
cơ quan chức trách này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu
trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp các
thông tin này trong quá trình tố tụng
công khai của tòa án hoặc trong các quyết định của tòa án.
2. Không có trường hợp nào những quy định tại khoản 1 được giải thích là buộc nhà chức trách
có thẩm quyền của một Nước ký kết có nghĩa vụ:
1) thực hiện các biện pháp hành
chính khác với luật pháp hoặc thông lệ về quản lý hành chính của
Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
2) cung cấp những thông tin không thể
tiết lộ được theo các luật hoặc theo như quá trình quản lý
hành chính thông thường của Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
3) cung cấp những thông tin có thể
làm tiết lộ bí mật về mậu dịch,
thương mại, công nghiệp, thương nghiệp hoặc bí mật nghề nghiệp hoặc các phương
thức kinh doanh, hoặc cung cấp những thông tin mà việc tiết
lộ chúng có thể trái với chính sách nhà nước.
Điều 26. Thành
viên cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan đại diện lãnh sự
Không nội dung nào trong Hiệp định
này ảnh hưởng đến những ưu đãi về thuế của thành viên cơ quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan đại diện lãnh sự theo các nguyên tắc
chung của luật pháp quốc tế hoặc các quy định tại các hiệp
định đặc biệt.
Điều 27. Hiệu lực
Hiệp định này sẽ có hiệu lực kể từ
ngày hai Nước ký kết trao đổi công hàm ngoại giao thông
báo việc hoàn thành các thủ tục pháp lý nội bộ cần thiết tại
mỗi nước để đưa Hiệp định này vào hiệu lực. Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi
hành:
- trong trường hợp các khoản thuế khấu trừ tại nguồn
thu trên thu nhập, đối với khoản thu nhập chịu thuế được chi trả vào ngày hoặc
sau ngày 1 tháng 1 của năm dương lịch tiếp sau năm Hiệp định có hiệu lực;
- trong trường hợp các khoản thuế khác thu trên thu
nhập, đối với khoản thu nhập phát sinh trong năm dương lịch sau năm Hiệp định
có hiệu lực.
Điều 28. Chấm dứt hiệu lực
Hiệp định này sẽ vẫn còn hiệu lực cho tới khi một
Nước ký kết tuyên bố chấm dứt hiệu lực. Từng Nước ký kết thông qua đường ngoại
giao có thể chấm dứt hiệu lực Hiệp định bằng cách gửi thông báo chấm dứt hiệu lực
HIệp định ít nhất 6 tháng trước khi kết thúc bất kỳ năm dương lịch nào bắt đầu
từ sau năm dương lịch bắt đầu từ sau thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu
lực. Trong trường hợp như vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi hành:
- trong trường hợp các khoản thuế khấu trừ tại nguồn
thu trên thu nhập, đối với khoản thu nhập chịu thuế được chi trả từ ngày 1 tháng
1 của năm dương lịch sau năm gửi thông báo kết thúc Hiệp định;
- trong trường hợp các khoản thuế khác thu trên thu
nhập, đối với khoản thu nhập phát sinh trong năm dương lịch sau năm gửi thông
báo kết thúc Hiệp định.
ĐỂ LÀM BẰNG những người có tên dưới đây, được sự ủy
quyền hợp thức của Chính phủ nước mình, đã ký vào Hiệp định này.
LÀM tại Hà Nội ngày 01 tháng 3 năm 2013, thành hai
bản bằng tiếng Việt, tiếng Xéc-bi-a và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá
trị như nhau. Trường hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Anh sẽ có
giá trị quyết định./.
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
THỨ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Vũ Thị Mai
|
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA
XÉC-BI-A
BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO
Ivan Mrkic
|