BỘ NGOẠI GIAO
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 33/2018/TB-LPQT
|
Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 2018
|
THÔNG BÁO
VỀ VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Thực hiện quy định tại Điều 56 của Luật
Điều ước quốc tế năm 2016, Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Hiệp định và Nghị định thư của Hiệp định giữa
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa
Lát-vi-a về Tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các
loại thuế đánh vào thu nhập, ký tại Ri-ga, Lát-via ngày 19 tháng 10 năm
2017, có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 06 tháng 8 năm 2018.
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi bản sao Hiệp định theo
quy định tại Điều 59 của Luật nêu trên./.
|
TL. BỘ TRƯỞNG
KT.VỤ TRƯỞNG
VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Lê Hải Triều
|
HIỆP ĐỊNH
GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC
CỘNG HÒA LÁT-VI-A VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ ĐỐI
VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Lát-vi-a,
Mong muốn ký kết
một Hiệp định về việc trành đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập,
Đã thỏa thuận như sau:
Điều 1
PHẠM VI ÁP DỤNG
Hiệp định này sẽ áp dụng đối với các đối tượng là những
đối tượng một hoặc của cả hai Nước ký kết
Điều 2
CÁC LOẠI THUẾ ĐƯỢC ÁP DỤNG
1. Hiệp định này áp dụng đối với các
loại thuế do một Nước ký kết hoặc chính quyền địa phương của
Nước đó đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp dụng của
các loại thuế đó như thể nào.
2. Tất cả các loại
thuế thu trên tổng thu nhập hoặc nhũng phần của thu nhập,
kể cả các loại thuế đối với thu nhập từ việc chuyển nhượng
động sản hoặc bất động sản, các loại thuế đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do doanh nghiệp chi trả sẽ được coi là các loại thuế đánh vào thu nhập.
3. Các loại thuế hiện hành được áp dụng
trong Hiệp định này cụ thể là:
a) tại Lát-vi-a:
(i) thuế thu nhập
doanh nghiệp; và
(ii) thuế thu nhập cá nhân;
(sau đây gọi là “thuế Lát-vi-a”);
b) tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân; và
(ii) thuế thu nhập doanh nghiệp;
(sau đây gọi là “thuế Việt Nam”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng đối với các loại thuế có tính chất tương tự
hoặc về cơ bản giống như các loại thuế trên được ban hành sau ngày ký Hiệp định
này để bổ sung hoặc thay thế các loại thuế hiện hành. Các
nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau biết những
thay đổi đáng kể trong các luật thuế của từng Nước.
Điều 3
CÁC ĐỊNH NGHĨA CHUNG
1. Vì mục đích của Hiệp định này, trừ
trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có
sự giải thích khác:
a) thuật ngữ “Lát-vi-a” có nghĩa là nước Cộng hòa Lát-vi-a và khi dùng theo nghĩa địa lý, thuật ngữ này có nghĩa là lãnh thổ của nước Cộng hòa Lát-vi-a và bất kỳ vùng nào tiếp giáp với lãnh hải
của nước Cộng hòa Lát-vi-a mà phù hợp với các luật của
Lát-vi-a và luật pháp quốc tế, các quyền của Lát-vi-a có thể thực hiện đối
với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển và tài nguyên thiên nhiên ở
đó;
b) thuật ngữ “Việt Nam” có nghĩa là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng theo
nghĩa địa lý, thuật ngữ này có nghĩa là lãnh thổ đất liền, các hải đảo, nội thủy, lãnh hải và vùng trời phía trên đó, vùng biển ngoài lãnh hải, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán
phù hợp với pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế;
c) thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước
ký kết kia” có nghĩa là Lát-vi-a hoặc
Việt Nam tùy ngữ cảnh đòi hỏi;
đ) thuật ngữ “đối tượng” bao gồm một
cá nhân, công ty và bất kỳ tổ chức khác của nhiều đối tượng;
e) thuật ngữ “công ty” có nghĩa là bất kỳ tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực
thể nào được coi là tổ chức công ty
dưới giác độ thuế;
f) thuật ngữ “doanh nghiệp của một Nước
ký kết” và “doanh nghiệp của Nước ký kết kia” theo thứ tự có nghĩa là một doanh
nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của một Nước
ký kết và một doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia;
g) thuật ngữ “vận tải quốc tế” có nghĩa là bất kỳ sự vận chuyển nào bằng tàu
thủy hoặc máy bay do đối tượng cư trú của một Nước ký kết điều
hành, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay đó chỉ
hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia;
h) thuật ngữ “nhà chức trách có thẩm
quyền” có nghĩa là:
(i) tại Lát-vi-a, Bộ trưởng Bộ Tài
chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng;
(ii) tại Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tài
chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng;
i) thuật ngữ “đối tượng mang quốc tịch”,
liên quan đến một Nước ký kết, có nghĩa là:
(i) bất kỳ cá nhân nào mang quốc tịch
của một Nước ký kết; và
(ii) bất kỳ pháp nhân, hợp danh hoặc
hiệp hội nào có tư cách như vậy theo luật pháp hiện hành tại Nước ký kết.
Trong khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp
định này vào bất kỳ thời điểm nào, bất kỹ thuật ngữ nào chưa được định nghĩa tại
Hiệp định này sẽ có nghĩa theo như định nghĩa tại luật của Nước đó đối với các
loại thuế mà Hiệp định này áp dụng vào thời điểm đó, trừ trường hợp ngữ cảnh
đòi hỏi có sự giải thích khác, bất kỳ nghĩa nào theo các luật thuế được áp dụng
của Nước đó sẽ có giá trị cao hơn nghĩa của thuật ngữ đó theo các luật khác của
Nước đó.
Điều 4
ĐỐI TƯỢNG CƯ TRÚ
1. Vì các mục đích của Hiệp định này,
thuật ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất kỳ đối tượng
nào, mà theo luật pháp của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nơi ở, cư
trú, địa điểm đăng ký, địa điểm quản lý, địa điểm thành lập, hoặc bất kỳ các
tiêu thức nào khác có tính chất tương tự, và cũng bao gồm cả Nhà nước và bất kỳ
cơ quan chính quyền địa phương nào của Nước đó. Tuy nhiên,
thuật ngữ này không bao gồm bất kỳ đối tượng nào là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối với thu nhập từ các nguồn
tại Nước đó.
2. Trường hợp theo các quy định tại
khoản I khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thân phận
cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
a) cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng
cư trú chỉ của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú; nếu cá nhân đó có
nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ
của Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của các quyền lợi thiết yếu);
b) nếu không thể xác định được Nước
nơi cá nhân đó có trung tâm của các quyền lợi thiết yếu, hoặc nếu cá nhân đó
không có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, thì cá nhân đó sẽ
được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó
thường sống;
c) nếu cá nhân đó thường xuyên sống ở
cả hai Nước hoặc không thường xuyên ở Nước nào, thì cá nhân đó sẽ được coi là đối
tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d) nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc
tịch của cả hai Nước hoặc không mang quốc tịch của cả hai Nước, thì các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn
đề bằng thỏa thuận song phương.
3. Trường hợp theo các quy định tại
khoản 1 khi một đối tượng không phải cá nhân, là đối tượng
cư trú của cả hai Nước ký kết, nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ cố gắng giải quyết vấn đề này thông qua thỏa thuận song
phương để xác định cách thức áp dụng Hiệp định này đối với
đối tượng đó.
Điều 5
CƠ SỞ THƯỜNG TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này,
thuật ngữ “cơ sở thường trú” có nghĩa là một địa điểm kinh
doanh cố định mà qua đó doanh nghiệp
thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ yếu bao gồm:
a) một trụ sở điều hành;
b) một chi nhánh;
c) một văn phòng;
d) một nhà máy;
e) một xưởng;
f) một kho hàng;
và
g) một mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá
hoặc bất kỳ địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào
khác.
3. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” cũng
bao gồm:
a) một địa điểm xây dựng, dự án xây dựng,
lắp đặt hoặc lắp ráp hoặc các hoạt động giám sát có liên quan, nhưng chỉ
khi địa điểm, dự án hoặc các hoạt động này kéo dài trên sáu
tháng;
b) việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm
cả dịch vụ tư vấn do một doanh nghiệp của một Nước ký kết thực hiện thông qua
những người làm công hoặc những đối tượng khác được doanh nghiệp giao thực hiện
các hoạt động trên, nhưng chỉ khi các hoạt động nêu trên kéo dài (trong cùng một dự án hoặc một dự án có liên quan) tại Nước ký kết
kia trong một giai đoạn hoặc nhiều giai đoạn gộp lại hơn sáu tháng trong bất kỳ
giai đoạn mười hai tháng nào.
c) các hoạt động thực hiện ngoài khơi
tại một Nước ký kết có liên quan đến thăm dò hoặc khai thác đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển và tài nguyên thiên nhiên ở đó.
4. Mặc dù đã có các quy định trên của
Điều này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là không bao gồm:
a) việc sử dụng các phương tiện chỉ
với mục đích lưu kho, trưng bày hoặc giao hàng hóa hay tài sản của
doanh nghiệp;
b) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài
sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích lưu kho, trưng bày hoặc giao tài sản;
c) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài
sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích để cho doanh nghiệp
khác gia công;
d) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ với mục đích mua hàng hóa hoặc tài sản hoặc để thu thập thông
tin cho doanh nghiệp;
e) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ với mục đích tiến
hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ cho doanh
nghiệp; và
f) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chi cho bất kỳ sự kết hợp nào của các hoạt động nêu tại các điểm
từ a) đến e), với điều kiện toàn bộ hoạt động của địa điểm kinh doanh cố định bắt
nguồn từ sự kết hợp này mang tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ.
5. Mặc dù đã có những quy định tại các khoản 1 và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 6 -
hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một doanh nghiệp của Nước ký kết
kia, doanh nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết thứ nhất
đối với các hoạt động mà đối tượng trên thực hiện cho
doanh nghiệp, nếu đối tượng đó:
a) có và thường
xuyên thực hiện tại Nước đó thẩm quyền ký kết các hợp đồng
đứng tên doanh nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối tượng đó chỉ giới hạn
trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà những hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một địa điểm kinh doanh cố
định thì sẽ không làm cho địa điểm kinh doanh cố định đó trở
thành một cơ sở thường trú theo những quy định tại các khoản đó; hoặc
b) không có thẩm quyền trên, nhưng
thường xuyên duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa hoặc tài sản, qua đó đối
tượng này thường xuyên thực hiện giao hàng hóa hoặc tài sản thay mặt cho doanh
nghiệp.
6. Một doanh nghiệp sẽ không được coi
là có cơ sở thường trú tại một Nước ký kết nếu doanh nghiệp đó chỉ thực hiện kinh doanh tại Nước ký kết đó thông qua một đại lý môi giới,
một đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với điều
kiện những đối tượng này chỉ hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường
của họ. Tuy nhiên, khi các hoạt động của đại lý đó dành toàn bộ hay hầu như toàn bộ cho việc đại diện cho doanh nghiệp
đó, và điều kiện được tạo ra hay áp đặt giữa doanh nghiệp đó và đại lý trong
quan hệ thương mại và tài chính khác với điều kiện được tạo ra giữa các doanh
nghiệp độc lập, đại lý đó sẽ không được coi là đại lý có tư cách độc lập trong
phạm vi ý nghĩa của khoản này.
7. Việc một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia, hoặc tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước
kia (có thể thông qua một cơ sở thường trú hoặc dưới hình thức khác), sẽ không
làm cho bất kỳ công ty nào trở thành một cơ sở thường trú của công ty kia.
Điều 6
THU NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một
đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ
nông nghiệp hoặc lâm nghiệp) đặt tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có
nghĩa theo như luật pháp của Nước ký kết nơi có bất động sản
đó. Thuật ngữ này trong mọi trường hợp sẽ bao gồm cả tài sản đi liền với bất động
sản, dàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền
áp dụng theo các quy định tại luật chung về điền sản, bất kỳ quyền nào về bất động
sản, quyền sử dụng bất động sản và các quyền được hưởng các khoản thanh toán cố định hoặc không cố định trả cho việc
khai thác hoặc quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác. Các tàu thủy và máy
bay sẽ không được coi là bất động sản.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng
đối với thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hoặc sử dụng dưới
bất kỳ hình thức nào khác của bất động sản.
4. Khi việc sở hữu có phần hay các quyền lợi công ty khác tại một công ty cho phép chủ sở hữu các cổ
phần đó hoặc các quyền lợi công ty đó được hưởng tài sản cố định
do công ty đó nắm giữ thì thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê
hay sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào khác quyền được hưởng tài sản đó có thể bị
đánh thuế tại Nước ký kết nơi có tài sản cố định đó.
5. Các quy định tại các khoản 1, 3 và
4 cũng sẽ áp dụng đối với thu nhập từ bất động sản của một doanh nghiệp và đối với
thu nhập từ bất động sản sử dụng cho việc thực hiện các dịch vụ cá nhân độc lập.
Điều 7
LỢI NHUẬN KINH DOANH
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp của
một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ trường
hợp doanh nghiệp đó tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông
qua một cơ sở thường trú tại Nước kia. Nếu doanh nghiệp có
hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp
có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên phần lợi nhuận phân bố cho cơ sở thường trú đó. Tuy
nhiên, lợi nhuận thu được từ việc bán hàng hóa hay tài sản cùng loại hoặc tương
tự như loại được bán thông qua cơ sở thường trú đó hay lợi nhuận thu được từ
các hoạt động kinh doanh cùng loại hay tương tự như loại được thực hiện thông
qua cơ sở thường trú đó, có thể được coi là lợi nhuận phân
bổ cho cơ sở thường trú đó nếu việc bán hàng hóa hay tài sản hoặc các hoạt động
kinh doanh đó được kết cấu theo cách có chủ đích để lợi dụng
Hiệp định này.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3,
khi một doanh nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở
thường trú tại Nước kia, thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có những khoản lợi nhuận được
phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở thường trú đó có thể thu được nếu
đó là một doanh nghiệp riêng và tách biệt cùng tham gia vào các hoạt động như
nhau hoặc tương tự trong cùng các điều kiện như nhau hoặc tương tự và có quan hệ
hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp mà cơ sở đó được coi là
cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác
định lợi nhuận của một cơ sở thường trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các
khoản chi phí phát sinh phục vụ cho cơ sở thường trú này, bao gồm cả chi phí điều
hành và chi phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát sinh tại
Nước nơi cơ sở thường trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên, sẽ
không cho phép tính vào các khoản chi phí được trừ bất kỳ các khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú trả cho (trừ tiền thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất
kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền
bản quyền, các khoản phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự nào khác để được
phép sử dụng sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện dịch vụ riêng biệt, hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới hình thức lãi tính trên tiền cho cơ sở thường trú vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay của tổ chức ngân hàng. Tương tự như vậy, khi xác định
lợi nhuận của cơ sở thường trú, sẽ không tính đến các khoản
tiền (trừ các khoản thanh toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ
trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp
dưới hình thức tiền bản quyền, các
khoản phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự nào khác để được phép sử dụng
sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho
các công việc quản lý, hoặc dưới hình thức lãi tính trên
tiền cho trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn
phòng nào khác của doanh nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay của tổ
chức ngân hàng.
4. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn
thường xác định các khoản lợi nhuận được phân bổ cho một cơ sở thường trú trên
cơ sở phân chia tổng các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp
thành những phần khác nhau, không có nội dung nào tại khoản
2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi nhuận chịu thuế theo cách phân chia theo
thông lệ trên; tuy nhiên, phương pháp phân chia được chấp nhận số có kết quả
phù hợp với những nguyên tắc nêu tại Điều này.
5. Vì mục đích của các khoản trên,
các khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ
được xác định theo cùng một phương pháp giữa các năm, trừ khi có đủ lý do chính
đáng để xác định theo phương pháp khác.
6. Khi lợi nhuận bao gồm các khoản
thu nhập được đề cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định
này, thì các quy định của các Điều đó sẽ không bị ảnh hưởng
bởi những quy định tại Điều này.
Điều 8
VẬN TẢI BIỂN VÀ VẬN TẢI HÀNG KHÔNG
1. Lợi nhuận của một đối tượng cư trú
của một Nước ký kết từ hoạt động của tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế
sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Theo nội dung của Điều này, lợi
nhuận của một doanh nghiệp từ hoạt động của các tàu thủy hoặc máy bay trong vận
tải quốc tế bao gồm:
a) lợi nhuận từ việc cho thuê tàu thủy
hoặc máy bay trống; và
b) lợi nhuận từ việc sử dụng, bảo dưỡng
hoặc cho thuê các công-ten-nơ (bao gồm cả khoang móoc và thiết bị kèm theo phục
vụ cho việc vận chuyển công-ten-nơ) dùng để vận chuyển
hàng hóa hay tài sản;
khi việc cho thuê hoặc sử dụng, bảo
dưỡng hoặc cho thuê như trên, tùy từng trường hợp, có tính chất phụ kèm theo hoạt
động của tàu thủy hoặc máy bay bởi doanh nghiệp trong vận tải quốc tế.
3. Những quy định tại các khoản 1 và
2 cũng sẽ áp dụng đối với các khoản lợi nhuận từ việc tham gia vào một tổ hợp,
một liên doanh hoặc một hãng hoạt động quốc tế.
Điều 9
CÁC DOANH NGHIỆP LIÊN KẾT
1. Khi
a) một doanh nghiệp của một Nước ký kết
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc quản lý, kiểm soát hoặc góp vốn vào
một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
b) các đối tượng cùng tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc quản
lý, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp của một Nước ký kết và vào một
doanh nghiệp của Nước ký kết kia,
và trong cả hai trường hợp, trong mối
quan hệ tài chính và thương mại giữa hai doanh nghiệp trên
có những điều kiện được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều
kiện được đưa ra giữa các doanh nghiệp độc lập, lúc đó mọi
khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp có thể thu được nếu không có những điều kiện
trên nhưng nay vì những điều kiện này mà doanh nghiệp đó không thu được, sẽ vẫn
được tính vào các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp đó và bị
đánh thuế tương ứng.
2. Khi một Nước ký kết tính vào các
khoản lợi nhuận của một doanh nghiệp tại Nước đó - và đánh thuế tương ứng - các
khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp tại Nước ký kết kia đã bị đánh thuế ở Nước
kia và những khoản lợi nhuận được tính vào như vậy là những khoản lợi nhuận lẽ
ra thuộc về doanh nghiệp tại Nước thứ nhất nếu những điều kiện xác lập giữa hai
doanh nghiệp trên là những điều kiện được đưa ra giữa các doanh nghiệp độc lập, khi đó Nước kia sẽ điều chỉnh các khoản
thuế tại Nước mình đối với các khoản lợi nhuận trên cho
phù hợp. Khi xác định sự điều chỉnh này, các quy định khác của Hiệp định này sẽ
được xem xét một cách thích hợp và các nhà chức trách có thẩm quyền
của các Nước ký kết sẽ tham vấn lẫn nhau nếu cần thiết.
Điều 10
TIỀN LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là
đối tượng cư trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ
phần đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú và theo luật
pháp của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia thì thuế được tính khi đó số không vượt quá:
a) 5 phần trăm tổng
số tiền lãi cổ phần nếu đối tượng thực hưởng là công ty
(không phải là một công ty hợp danh) nắm giữ trực tiếp ít
nhất 70 phần trăm quyền bỏ phiếu của công ty trả tiền lãi cổ phần;
b) 10 phần trăm
tổng số tiền lãi cổ phần trong tất cả các trường hợp khác.
Khoản này sẽ
không ảnh hưởng tới việc đánh thuế công ty đối với lợi nhuận dùng để chia lãi cổ
phần.
3. Thuật ngữ “tiền
lãi cổ phần” được sử dụng trong Điều này có nghĩa là thu
nhập từ cổ phần, cổ phần khai thác mỏ, cổ phần sáng lập hoặc
các quyền khác, không phải các khoản nợ, được hưởng lợi
nhuận, cũng như thu nhập từ các quyền lợi khác cùng chịu sự
điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo luật pháp của
Nước nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
4. Những quy định tại các khoản 1 và
2 sẽ không áp dụng trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi
cổ phần là đối tượng cư trú tại một Nước ký kết có tiến hành hoạt
động kinh doanh tại Nước ký kết kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú thông qua một cơ sở thường trú
nằm tại Nước đó, hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia các dịch vụ cá nhân độc lập
thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước đó, và việc nắm giữ mà theo đó các khoản tiền lãi cổ phần được trả có sự liên hệ thực
tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó. Trong trường hợp như vậy các quy
định tại Điều 7 hoặc Điều 14, sẽ được áp dụng tùy theo từng trường hợp.
5. Khi một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết nhận được các khoản lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh từ
Nước ký kết kia, Nước kia có thể không đánh bất kỳ khoản thuế nào đối với các
khoản tiền lãi cổ phần do công ty này trả, trừ trường hợp các khoản tiền lãi cổ
phần này được trả cho một đối tượng cư trú của Nước kia hoặc
trừ trường hợp việc nắm giữ cổ phần có các khoản tiền lãi cổ phần được trả có sự
liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định nằm tại Nước
kia, đồng thời Nước kia cũng không buộc các khoản lợi nhuận không chia của công ty trên phải chịu thuế đối với các khoản lợi
nhuận không chia của công ty, cho dù các khoản tiền lãi cổ
phần được chia hoặc các khoản lợi nhuận không chia bao gồm toàn bộ hoặc một phần
các khoản lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh tại Nước kia.
Điều 11
LÃI TỪ TIỀN CHO VAY
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại
một Nước ký kết và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản lãi từ tiền cho
vay này cũng có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo luật
pháp của Nước đó, nhưng nếu chủ sở hữu thực hưởng lãi từ tiền cho vay là đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia, thì mức thuế khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm
tổng số khoản lãi từ tiền cho vay.
3. Mặc dù đã có
các quy định của khoản 2, lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết và
thu được bởi Chính phủ của Nước ký kết kia, chính quyền địa
phương của Nước đó, Ngân hàng trung ương của Nước ký kết kia hoặc bất kỳ tổ chức
tài chính nào thuộc sở hữu toàn bộ của Chính phủ, hoặc bất
kỳ đối tượng cư trú của Nước ký kết kia đối với khoản nợ được bảo lãnh, đảm bảo hoặc gián tiếp
được tài trợ bởi Chính phủ của Nước ký kết kia, chính quyền
địa phương của Nước đó, ngân hàng trung ương của Nước ký kết kia hoặc bất kỳ tổ
chức tài chính nào thuộc sở hữu toàn bộ của Chính phủ sẽ
được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất.
4. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay” sử
dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản nợ dưới bất kỳ hình thức
nào, có hoặc không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc
không có quyền được hưởng lợi nhuận của người đi vay và đặc biệt là khoản thu
nhập từ chứng khoán Chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc
trái phiếu công ty, bao gồm cả tiền thưởng và giải thưởng
đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu công ty đó. Thuật ngữ
“lãi từ tiền cho vay” sẽ không bao gồm bất kỳ khoản thu nhập
nào được xem như tiền lãi cổ phần theo các quy định của Điều 10. Các khoản phạt
trả chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho vay theo quy định của Điều này.
5. Những quy định tại các khoản 1 và
2 sẽ không áp dụng nếu chủ sở hữu thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi
phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước
ký kết kia, hoặc tiến hành tại Nước ký kết đó các dịch vụ cá nhân độc lập thông
qua một cơ sở cố định nằm tại Nước đó, và khoản nợ có khoản
lãi từ tiền cho vay được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ
sở cố định đó. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14 sẽ được
áp dụng tùy theo từng trường hợp.
6. Lãi từ tiền
cho vay sẽ được coi là phát sinh tại một Nước ký kết khi người trả là đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi
đối tượng trả lãi từ tiền cho vay, là hoặc không là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên
quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay này, và khoản
lãi từ tiền cho vay đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù
đối tượng có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không,
khoản lãi từ tiền cho vay này vẫn được coi là phát sinh ở
Nước nơi cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt
giữa đối tượng trả và chủ sở hữu thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên và
các đối tượng khác mà khoản lãi từ tiền cho vay được trả
cho khoản nợ có liên quan vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả
lãi và chủ sở hữu thực hưởng khi không có mối quan hệ này, thì các quy định tại Điều này sẽ chỉ áp dụng
đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp
này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết có
xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
Điều 12
TIỀN BẢN QUYỀN VÀ PHÍ DỊCH VỤ KỸ THUẬT
1. Tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ
thuật phát sinh tại một Nước ký kết và được trả cho một đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên,
các khoản tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ thuật này cũng
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi các khoản tiền bản quyền và phí dịch vụ
kỹ thuật phát sinh và theo luật pháp của Nước đó, nhưng chủ sở hữu thực hưởng
các khoản tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ thuật đó là đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia, thì mức thuế khi đó sẽ không vượt quá:
a) trong trường hợp đối với tiền bản
quyền, 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền;
b) trong trường hợp đối với phí dịch
vụ kỹ thuật, 7,5 phần trăm tổng số phí dịch vụ kỹ thuật.
3. a) Thuật ngữ “tiền bản quyền” được
sử dụng tại Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào
được trả cho việc sử dụng hoặc quyền sử dụng bất kỳ bản quyền tác giả nào của một
tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học, bất kỳ sáng chế, nhãn hiệu, thiết kế
hoặc mẫu, đồ án, công thức bí mật hoặc trả cho việc sử dụng hoặc quyền sử dụng
thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa học hoặc trả cho thông tin liên quan
đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương mại hoặc khoa học.
b) Thuật ngữ “phí dịch vụ kỹ thuật”
được sử dụng tại Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán dưới bất kỳ hình thức
nào, trừ các khoản thanh toán được đề cập tại Điều 14 và
15 của Hiệp định này, được trả cho các dịch vụ mang tính chất quản lý hoặc kỹ
thuật hoặc tư vấn, bao gồm cả việc cung cấp các dịch vụ kỹ thuật hoặc dịch vụ nhân sự khác.
4. Những quy định tại các khoản 1 và
2 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền hoặc phí
dịch vụ kỹ thuật là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi tiền bản quyền hoặc phí
dịch vụ kỹ thuật phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú có tại Nước ký kết
kia, hoặc tiến hành tại Nước đó các dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở
cố định nằm tại Nước đó, và quyền hoặc tài sản có các khoản tiền bản quyền hoặc
phí dịch vụ kỹ thuật được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc
cơ sở cố định đó. Trong trường hợp này các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14 sẽ
được áp dụng tùy theo từng trường hợp.
5. Tiền bản quyền và phí dịch vụ kỹ
thuật sẽ được coi là phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả là đối tượng
cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ
kỹ thuật có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một
cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ
thuật đã phát sinh, và khoản tiền bản quyền hoặc phí dịch
vụ kỹ thuật đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối tượng
đó có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền bản quyền
hoặc phí dịch vụ kỹ thuật này sẽ vẫn được coi là phát sinh tại Nước nơi có cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định đó.
6. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt
giữa đối tượng trả và chủ sở hữu thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên và
các đối tượng khác, khoản tiền bản quyền hoặc phí dịch vụ kỹ thuật được trả vượt
quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả và chủ sở
hữu thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì khi đó các quy định tại
Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ trên. Trong
trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng Nước
ký kết có xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
Điều 13
THU NHẬP TỪ CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN
1. Thu nhập thu được bởi một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết từ việc chuyển nhượng bất động sản nêu tại Điều 6 và
nằm tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thu nhập thu được bởi một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết từ việc chuyển nhượng các cổ phần trong một công ty
hoặc các quyền lợi tương tự trong một hợp danh, một tín thác hoặc một tổ chức
khác tương tự mà từ 50 phần trăm giá trị tài sản trực tiếp hoặc gián tiếp là bất
động sản đặt tại Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Thu nhập từ việc chuyển nhượng động
sản tạo thành một phần tài sản kinh doanh của một cơ sở
thường trú mà một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia hoặc
động sản gắn liền với một cơ sở cố định có thể có cho một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết tại Nước ký kết kia cho mục đích tiến hành các dịch vụ cá nhân
độc lập, kể cả thu nhập từ việc chuyển nhượng cơ sở thường trú này (một cách
riêng rẽ hoặc cùng với toàn bộ doanh nghiệp) hoặc cơ sở cố định này có thể bị
đánh thuế tại Nước kia.
4. Thu nhập thu được bởi một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết điều hành tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế
từ việc chuyển nhượng các tàu thủy hoặc máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế
hoặc động sản gắn liền với việc điều
hành các tàu thủy, máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
5. Thu nhập từ việc chuyển nhượng cổ
phần, khác với cổ phần được đề cập tại khoản 2, không ít hơn 15 phần trăm của
toàn bộ cổ phần của một công ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết có thể
bị đánh thuế tại Nước ký kết đó.
6. Thu nhập từ việc chuyển nhượng bất
kỳ tài sản nào khác với những tài sản đã được nêu tại các khoản 1,2, 3,4 và 5 sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư
trú.
Điều 14
DỊCH VỤ CÁ NHÂN ĐỘC LẬP
1. Thu nhập do một cá nhân là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết thu được từ các dịch vụ hành nghề hoặc các hoạt động
khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó,
trừ các trường hợp sau đây, khi đó những khoản thu nhập như vậy cũng có thể bị
đánh thuế tại Nước ký kết kia:
a) nếu đối tượng đó thường xuyên có tại
Nước ký kết kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động của đối tượng đó;
trong trường hợp đó, chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia; hoặc
b) nếu đối tượng đó có mặt tại Nước
ký kết kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại bằng hoặc vượt quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn mười hai tháng nào bắt
đầu hoặc kết thúc trong năm tài chính có liên quan; trong
trường hợp đó, chỉ phần thu nhập phát sinh từ
các hoạt động của đối tượng đó được thực hiện tại Nước ký
kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao
gồm chủ yếu các hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng dạy
mang tính chất độc lập cũng như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, luật
sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
Điều 15
DỊCH VỤ CÁ NHÂN PHỤ THUỘC
1. Thể theo những quy định tại các Điều
16, 18 và 19, các khoản tiền lương, tiền công và các khoản tiền thù lao tương tự
khác do một đối tượng cư trú của Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ
chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ khi lao động làm công đó được thực hiện tại
Nước ký kết kia. Nếu lao động làm công được thực hiện như
vậy, tiền công trả cho lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Mặc dù đã có các quy định tại khoản
1, tiền công do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động
làm công tại Nước ký kết kia sẽ chì bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a) người nhận tiền công hiện có mặt tại
Nước kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không
quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn mười hai tháng nào bắt
đầu hoặc kết thúc trong năm tài chính có liên quan, và
b) tiền công được trả bởi chủ lao động
hay đối tượng đại diện chủ lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng
cư trú tại Nước kia, và
c) số tiền công không phải phát sinh
tại một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù đã có các quy định trên của
Điều này, tiền công thu được từ lao động làm công trên một tàu thủy, hoặc máy
bay do một doanh nghiệp của một Nước ký kết điều hành trong vận tải quốc tế
sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều 16
THÙ LAO GIÁM ĐỐC
Các khoản thù lao cho giám đốc và các
khoản thanh toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận
được với tư cách là thành viên ban giám đốc hoặc bất kỳ tổ chức tương tự nào của
một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
Điều 17
NGHỆ SĨ VÀ VẬN ĐỘNG VIÊN
1. Mặc dù đã có các quy định tại các
Điều 14 và 15, thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được với
tư cách người biểu diễn như diễn viên sân khấu, diễn viên điện ảnh, nghệ sĩ
phát thanh hoặc truyền hình, hoặc nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên
từ những hoạt động cá nhân của người đó thực hiện tại Nước ký kết kia có thể bị
đánh thuế ở Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến
các hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng
không được trả cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên mà trả cho một đối
tượng khác thì thu nhập đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc
dù đã có những quy định tại các Điều 7, 14 và 15.
3. Các quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ
không áp dụng đối với thu nhập do người biểu diễn hoặc vận động viên thu được từ
các hoạt động trình diễn tại một Nước ký kết nếu chuyến biểu diễn tại Nước đó
do một hoặc cả hai Nước ký kết hoặc chính quyền địa phương của các Nước ký kết
đó tài trợ chủ yếu trong khuôn khổ chương
trình trao đổi văn hóa giữa hai Nước ký kết. Trong trường
hợp như vậy, các khoản thu nhập đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi người
biểu diễn hoặc vận động viên đó là đối tượng cư trú.
Điều 18
TIỀN LƯƠNG HƯU
1. Thể theo các quy định tại khoản 2
Điều 19, tiền lương hưu và các khoản thù lao tương tự khác được trả cho một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết do việc làm công trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế
tại Nước đó.
2. Mặc dù đã có các quy định tại khoản
1 Điều này và khoản 2 Điều 19, tiền lương hưu và các khoản thù lao tương
tự khác được trả theo một chương trình phúc lợi công cộng là một
phần của hệ thống bảo hiểm xã hội của Nước ký kết đó hoặc chính quyền địa
phương của Nước đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều 19
PHỤC VỤ CHÍNH PHỦ
1. a) Tiền lương, tiền công và các
khoản tiền thù lao tương tự khác, trừ tiền lương hưu, do một Nước ký kết hoặc
chính quyền địa phương của Nước đó trả cho một cá nhân đối với việc phục vụ cho
Nhà nước hoặc chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
b) Tuy nhiên, tiền lương, tiền công
và các khoản tiền thù lao tương tự khác sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia
nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước kia và nếu cá nhân này là đối tượng
cư trú của Nước kia, đồng thời:
(i) là đối tượng mang quốc tịch của
Nước kia; hoặc
(ii) không trở thành đối tượng cư trú
của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc
nêu trên.
2. a) Bất kỳ khoản tiền lương hưu nào
do một Nước ký kết, hoặc chính quyền địa phương của Nước đó hoặc do các quỹ của
những cơ quan này lập ra trả cho một cá nhân đối với các công việc phục vụ cho
Nhà nước hoặc chính quyền địa phương của Nước đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước
đó.
b) Tuy nhiên, những khoản tiền lương
hưu này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối tượng cư
trú và là đối tượng mang quốc tịch của Nước kia.
3. Các quy định của Điều 15, 16, 17
và 18 sẽ áp dụng đối với những khoản tiền lương, tiền công, tiền lương hưu và
các khoản thù lao tương tự khác đối với các công việc liên quan đến một hoạt động
kinh doanh được thực hiện bới một Nước ký kết hoặc chính quyền địa phương của
Nước đó.
Điều 20
SINH VIÊN
1. Những khoản tiền mà một sinh viên,
thực tập sinh hoặc học sinh học nghề nhận được để trang trải các chi phí sinh
hoạt, học tập hoặc đào tạo mà người sinh viên hoặc học sinh học nghề này ngay
trước khi đến một Nước ký kết đang hoặc đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia và hiện có mặt tại Nước thứ nhất chỉ với mục đích học
tập hoặc đào tạo, sẽ không bị đánh thuế tại Nước đó, với điều kiện những khoản
tiền đó phát sinh từ các nguồn ở bên ngoài Nước đó.
2. Đối với các khoản thanh toán chưa
được đề cập tại khoản 1, và tiền công từ các dịch vụ cá nhân phụ thuộc phục vụ
cho quá trình học tập hoặc đào tạo đó, một sinh viên, thực tập sinh hoặc học
sinh học nghề được đề cập tại khoản 1, trong quá trình học tập hoặc đào tạo đó,
sẽ được hưởng khoản miễn thu, miễn thuế hoặc giảm thuế thu nhập mà các đối tượng
cư trú của Nước ký kết nơi sinh viên, thực tập sinh hoặc học sinh học nghề đó đến
được hưởng.
Điều 21
THU NHẬP KHÁC
1. Các khoản thu nhập của một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến tại những
Điều trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Các quy định tại khoản 1 sẽ không
áp dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại khoản
2 Điều 6, nếu đối tượng nhận khoản thu nhập đó là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
thông qua một cơ sở thường trú có tại Nước kia, hoặc thực hiện tại Nước kia các
dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước đó, và quyền
hoặc tài sản liên quan đến số thu nhập được chi trả có sự liên hệ thực tế với
cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó. Trong trường hợp như vậy, các quy định
tại Điều 7 hoặc Điều 14 sẽ được áp dụng tùy theo từng trường hợp.
3. Mặc dù đã có những quy định tại
các khoản 1 và 2, nếu một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được thu nhập
từ các nguồn tại Nước ký kết kia dưới hình thức trúng thưởng
xổ số, câu đố ô chữ, các cuộc đua bao gồm đua ngựa, chơi bài và các trò chơi
khác ở bất kỳ dạng nào hoặc cờ bạc hay cá cược dưới bất kỳ hình thức nào, thu
nhập đó có thể bị đánh thuế tại Nước Ký kết kia.
Điều 22
XÓA BỎ VIỆC ĐÁNH THUẾ HAI LẦN
Tại Lát-vi-a, việc đánh thuế hai lần
sẽ được xóa bỏ như sau:
a) trường hợp một đối tượng cư trú của
Lát-vi-a nhận được thu nhập, phù hợp với các quy định của Hiệp định này, đã chịu
thuế tại Việt Nam, thể theo các quy định tại các điểm b) và c), Lát-vi-a sẽ miễn
thuế đối với các khoản thu nhập đó; và
b) trường hợp một đối tượng cư trú của
Lát-vi-a nhận được thu nhập phù hợp với
các quy định tại điểm b) khoản 2 của Điều 10 hoặc khoản 2 của Điều 11 hoặc khoản
2 của Điều 12, có thể bị đánh thuế tại Việt Nam, Lát-vi-a sẽ cho phép khấu trừ
vào thuế đánh trên thu nhập của đối tượng cư trú đó một khoản tiền bằng số tiền
thuế thu nhập đã nộp tại Việt Nam.
Tuy nhiên, khoản
tiền thuế được khấu trừ đó sẽ không vượt quá phần thuế
đánh trên thu nhập, được tính trước khi cho phép khấu trừ, phân bổ cho thu nhập
có thể bị đánh thuế tại Việt Nam.
c) theo nội dung của các điểm a) và
b) khoản 1, số thuế phải nộp tại Việt Nam sẽ được coi như bao gồm bất kỳ khoản
thuế nào lẽ ra sẽ phải nộp với tính chất là thuế Việt Nam trong bất kỳ năm nào
nhưng được miễn hoặc giảm thuế trong năm đó hoặc bất kỳ thời gian nào trong năm đó theo bất kỳ quy định nào sau đây của luật Việt
Nam:
(i) Các Điều 13, 14,
15 và 17 của Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp của Việt Nam năm 2008 và các
quy định dưới luật được sửa đổi, chừng nào những quy định đó có hiệu lực, và
chưa được sửa đổi kể từ ngày ký Hiệp định này, hoặc sau đó đã được sửa đổi chỉ
trong phạm vi nhỏ không ảnh hưởng đến tính chất chung của
những quy định đó, và luôn luôn với điều kiện nhà chức
trách có thẩm quyền của Việt Nam đã xác nhận việc miễn hoặc giảm thuế Việt Nam theo những Điều này được áp dụng
nhằm khuyến khích việc phát triển công nghiệp, thương mại, khoa học hoặc giáo dục
tại Việt Nam và nhà chức trách có thẩm quyền của Lát-vi-a
đã chấp nhận việc miễn hoặc giảm thuế đó là vì những mục đích nêu trên; hoặc
(ii) bất kỳ quy định nào khác trong
luật Việt Nam có thể được ban hành sau này cho phép miễn
hay giảm thuế Việt Nam nhằm khuyến khích phát triển kinh tế
tại Việt Nam và quy định đó đã được các nhà chức trách có thẩm quyền của cả hai
Nước ký kết thống nhất là về cơ bản có tính chất tương tự với các quy định đã
nêu tại tiết (i), nếu sau đó quy định đó chưa được sửa đổi hoặc chỉ được sửa đổi
trong phạm vi nhỏ không ảnh hưởng đến tính chất chung của những quy định đó, và
luôn luôn phải có sự xác nhận và chấp thuận như quy định tại tiết (i).
d) việc miễn thuế của Lát-vi-a theo nội
dung điểm c) sẽ chỉ được áp dụng trong thời hạn 10 năm kể từ ngày Hiệp định này
có hiệu lực.
2. Tại Việt Nam, việc đánh thuế hai lần
sẽ được xóa bỏ như sau:
a) Trường hợp một đối tượng cư trú của
Việt Nam nhận được thu nhập, lợi nhuận hoặc thu nhập từ chuyển nhượng tài sản
mà theo luật của Lát-vi-a và phù hợp với Hiệp định này, có thể bị đánh thuế tại
Lát-vi-a, Việt Nam sẽ cho phép khấu trừ vào thuế đánh trên thu nhập một khoản
tiền bằng số tiền thuế đã nộp tại Lát-vi-a. Tuy nhiên, khoản tiền thuế được khấu
trừ sẽ không vượt quá số thuế Việt Nam đánh trên thu nhập, lợi nhuận hoặc thu
nhập từ chuyển nhượng tài sản được tính phù hợp với luật và các quy định về thuế
của Việt Nam.
b) Trường hợp một đối tượng cư trú của
Việt Nam nhận được thu nhập mà theo bất kỳ quy định nào của Hiệp định này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Lát-vi-a, khi tính số thuế đối với
thu nhập còn lại của đối tượng cư trú tại Việt Nam, Việt Nam có thể xét đến số
thu nhập được miễn thuế.
Điều 23
KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Các đối tượng mang quốc tịch của một
Nước ký kết sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ hình thức thuế nào hoặc
bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với hoặc nặng hơn hình
thức thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang hoặc có thể áp dụng cho các đối tượng
mang quốc tịch của Nước kia, đặc biệt đối với đối tượng cư trú trong cùng những hoàn cảnh như nhau.
2. Hình thức thuế áp dụng đối với một
cơ sở thường trú của một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết
kia sẽ không kém thuận lợi hơn hình thức thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp
của Nước ký kết kia cùng thực hiện những hoạt động tương tự.
Quy định này sẽ không được giải thích là buộc một Nước ký kết phải dành cho đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia được hưởng bất kỳ khoản miễn thu cá nhân, khoản
miễn thuế và giảm thuế nào vì lợi ích của thân phận dân sự hoặc trách nhiệm gia
đình mà Nước ký kết đó dành cho đối tượng cư trú của Nước mình được hưởng.
3. Trừ trường hợp các quy định tại
khoản 1 Điều 9, khoản 7 Điều 11 hoặc khoản 6 Điều 12 được áp dụng, lãi từ tiền
cho vay, tiền bản quyền, phí dịch vụ kỹ thuật và các khoản
thanh toán khác do một doanh nghiệp của một Nước ký kết trả cho đối tượng cư
trú của Nước ký kết kia, vì mục đích xác định các khoản lợi nhuận
chịu thuế của doanh nghiệp đó, sẽ được trừ vào chi phí
theo cùng các điều kiện như thể các khoản đó được trả cho một đối tượng cư trú
của Nước thứ nhất.
4. Các doanh nghiệp của một Nước ký kết
có toàn bộ hoặc một phần vốn do một hoặc nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước
thứ nhất bất kỳ hình thức thuế hoặc yêu cầu nào liên quan
đến hình thức thuê đó khác với hoặc nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu liên
quan hiện đang hoặc có thể được áp dụng cho các doanh nghiệp tương tự khác của
Nước thứ nhất.
5. Mặc dù đã có các quy định của Điều
2, các quy định của Điều này sẽ áp dụng đối với tất cả các loại thuế và khoản thu.
Điều 24
THỦ TỤC THỎA THUẬN SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết cho rằng việc giải quyết của
nhà chức trách có thẩm quyền của một hoặc cả hai Nước ký kết làm cho hoặc sẽ
làm cho đối tượng đó phải nộp thuế không đúng với các quy định của Hiệp định
này, khi đó đối tượng này có thể giải trình trường hợp của mình với nhà chức
trách có thẩm quyền của Nước ký kết nơi đối tượng đó đang cư trú, mặc dù trong
các luật trong nước của hai Nước đã quy định các chế độ xử
lý khiếu nại. Trường hợp đó cần phải được giải trình trong vòng ba năm kể từ
làn thông báo đầu tiên dẫn đến hình thức thuế áp dụng không đúng với các quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức
trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản
thân nhà chức trách đó không thể đi đến một giải pháp thỏa đáng, phối hợp với
nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia để cùng
giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm
mục đích tránh đánh thuế không phù hợp với quy định của Hiệp định này. Mọi thỏa
thuận đạt được sẽ được thực hiện mặc dù đã có bất kỳ những giới hạn về thời
gian quy định tại luật trong nước của hai Nước ký kết.
3. Các nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận chung mọi khó khăn hoặc
vướng mắc phát sinh trong quá trình giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này. Nhà
chức trách có thẩm quyền của hai Nước cũng có thể trao đổi
với nhau nhằm xóa bỏ việc đánh thuế hai lần trong các trường hợp không được quy
định tại Hiệp định.
4. Các nhà chức trách có thẩm quyền của
các Nước ký kết có thể liên hệ trực tiếp với nhau, bao gồm việc thông qua một Ủy
ban có thành viên là chính các nhà chức trách có thẩm quyền hoặc các đại diện của
họ, nhằm đạt được một thỏa thuận theo nội dung của các khoản trên đây.
Điều 25
TRAO ĐỔI THÔNG TIN
1. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ trao đổi với nhau những thông tin có thể thay trước là thích hợp cho việc thực hiện các quy định của Hiệp định
này hoặc việc quản lý hoặc thực thi nội luật của từng Nước ký kết liên quan đến
các loại thuế và khoản thu được đánh bởi các Nước ký kết hoặc chính quyền địa
phương trong phạm vi việc đánh thuế không trái với Hiệp định này. Việc trao đổi
thông tin không bị giới hạn bởi các Điều 1 và 2.
2. Mọi thông tin
do một Nước ký kết nhận được theo khoản 1 sẽ được giữ bí mật
giống như thông tin thu nhận theo nội luật của Nước này và thông tin đó sẽ chỉ
được cung cấp cho các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng (bao gồm
cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính toán hoặc thu,
cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định
các khiếu nại về các loại thuế nêu tại khoản 1, hoặc giám sát các nội dung
trên. Các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng này sẽ chỉ
sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ
quan đó có thể cung cấp các thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của
tòa án hoặc trong các quyết định của tòa án.
3. Không có trường hợp nào cho phép
những quy định tại các khoản 1 và 2 được giải thích là buộc một Nước ký kết có
nghĩa vụ:
a) thực hiện các biện pháp hành chính
khác với pháp luật hoặc thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hoặc
của Nước ký kết kia;
b) cung cấp các thông tin không thể đạt
được theo luật pháp hoặc thông lệ quản lý hành chính thông thường của Nước ký kết
đó hoặc của Nước ký kết kia;
c) cung cấp các thông tin có thể làm
tiết lộ bí mật về thương mại, kinh doanh, bí mật công nghiệp, thương nghiệp hoặc
nghề nghiệp hoặc các quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp các thông tin mà việc
tiết lộ chúng có thể trái với chính sách công (trật tự
công cộng).
4. Nếu thông tin do một Nước ký kết
yêu cầu phù hợp với Điều này, Nước ký kết kia sẽ sử dụng các biện pháp thu thập
thông tin của mình để có được các thông tin theo yêu cầu, mặc dù Nước kia có thể
không cần các thông tin như vậy cho
các mục đích thuế của chính mình. Nghĩa vụ được quy định tại câu trên phụ thuộc
vào các giới hạn tại khoản 3 nhưng trong mọi trường hợp, các giới hạn này không
có nghĩa là cho phép một Nước ký kết từ chối việc cung cấp thông tin chỉ
vì Nước ký kết đó không có lợi ích trong nước đối với các thông
tin như vậy.
5. Không có trường hợp nào cho phép
những quy định tại khoản 3 được giải thích là cho phép một Nước ký kết từ chối
việc cung cấp thông tin chỉ vì thông tin do một ngân hàng,
tổ chức tài chính, đối tượng được chỉ định hoặc đối tượng
với tư cách đại lý hoặc đối tượng được ủy thác khác nắm giữ
hoặc chỉ vì thông tin có liên quan tới các lợi ích về sở hữu
trong một đối tượng.
Điều 26
CÁC THÀNH VIÊN CƠ QUAN ĐẠI DIỆN NGOẠI GIAO
VÀ CƠ QUAN ĐẠI DIỆN LÃNH SỰ
Không có nội dung nào tại Hiệp định
này ảnh hưởng đến các ưu đãi về thuế của các thành viên cơ quan đại diện ngoại
giao hoặc cơ quan đại diện lãnh sự theo các nguyên tắc chung của pháp luật quốc
tế hoặc các quy định tại các hiệp định đặc biệt.
Điều 27
HIỆU LỰC
Từng Nước ký kết sẽ thông báo cho
nhau bằng văn bản thông qua đường ngoại giao việc hoàn tất
các thủ tục theo yêu cầu của pháp luật nước mình để
Hiệp định này có hiệu lực. Hiệp định này sẽ có hiệu lực kể từ
ngày nhận được thông báo sau cùng và các quy định của Hiệp định này sẽ có hiệu
lực thi hành tại cả hai Nước ký kết:
a) đối với các loại thuế khấu trừ tại
nguồn, liên quan đến khoản thu nhập phát sinh vào ngày hoặc sau ngày đầu tiên của
tháng Một của năm tiếp sau năm Hiệp định có hiệu lực;
b) đối với
các loại thuế khác đánh trên thu nhập, liên quan đến số thuế tính
cho bất kỳ năm tính thuế nào vào ngày hoặc sau ngày đầu tiên của tháng Một của
năm tiếp sau năm Hiệp định có hiệu lực.
Điều 28
CHẤM DỨT
Hiệp định này sẽ vẫn còn hiệu lực cho
tới khi một Nước ký kết tuyên bố chấm dứt hiệu lực. Từng Nước ký kết, thông qua
kênh ngoại giao, có thể chấm dứt hiệu lực Hiệp định bằng cách gửi cho Nước ký kết kia thông báo chấm dứt ít nhất sáu tháng
trước khi kết thúc bất kỳ năm dương lịch nào tiếp theo sau thời hạn năm năm kể
từ năm các quy định của Hiệp định có hiệu lực thi hành.
Trong trường hợp như vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi hành tại cả hai Nước ký kết:
a) đối với các loại thuế khấu trừ tại
nguồn, liên quan đến các khoản thu nhập phát sinh vào ngày hoặc sau ngày đầu
tiên của tháng Một của năm tiếp sau năm gửi thông báo kết thúc Hiệp định;
b) đối với các loại thuế đánh trên
thu nhập khác, liên quan đến số thuế tính cho bất kỳ năm tính thuế nào kể từ hoặc
sau ngày đầu tiên của tháng Một của năm tiếp sau năm gửi
thông báo kết thúc Hiệp định.
ĐỂ LÀM
BẰNG những người có tên dưới đây, được sự ủy quyền hợp
thức, đã ký vào Hiệp định này.
LÀM tại Ri-ga ngày 19 tháng 10 năm 2017 thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt,
tiếng Lát-vi-a và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau. Trường
hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Anh sẽ được dùng làm cơ sở.
Thay
mặt Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Đoàn Thị Phương Dung
ĐẠI SỨ ĐẶC MỆNH TOÀN QUYỀN
|
Thay
mặt Chính phủ Nước Cộng hòa
Lát-vi-a
Dana Reiznicce-Ozola
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
|
NGHỊ ĐỊNH THƯ
Tại thời điểm ký kết Hiệp định giữa
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ nước Cộng hòa Lát-vi-a về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu
thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập, những người có tên dưới đây đã thống
nhất những quy định sau sẽ là bộ phận hợp thành của Hiệp định.
1. Liên quan đến
các Điều 10, 11 và 13
Vì mục đích của khoản 2 của Điều 10,
khoản 2 của Điều 11 và vì các mục đích của Điều 13, một quỹ hưu trí hoặc chương
trình trợ cấp hưu trí được thành lập tại một Nước ký kết và được Nước đó công
nhận, sẽ được coi như một đối tượng cư trú của Nước đó và
là chủ sở hữu thực hưởng của khoản thu nhập nhận được.
2. Liên quan đến
khoản 5 của Điều 13
Nếu sau ngày ký kết của Hiệp định
này, một Nước ký kết ký một Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần, hoặc một sửa
đổi đối với một Hiệp định như vậy với một Nước khác là một
thành viên của Liên Minh Châu Âu hoặc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế,
trong đó quy định việc đánh thuế bởi một Nước ký kết đối với
thu nhập từ chuyển nhượng gián tiếp cổ phần tại một công
ty là một đối tượng cư trú của Nước đó, thì quy định như vậy sẽ được áp dụng
theo Hiệp định này với hiệu lực từ ngày Hiệp định đó hoặc sửa đổi đó có hiệu lực;
và kể từ ngày đó khoản 5 của Điều 13 sẽ được diễn đạt như sau:
“5. Thu nhập thu được từ việc chuyển
nhượng trực tiếp hoặc gián tiếp các cổ phần, không phải là các cổ phần được đề
cập tại khoản 2, chiếm không ít hơn 15 phần trăm của toàn bộ số cổ phần của một công ty là một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có
thể chịu thuế tại Nước ký kết đó.”
ĐỂ LÀM BẰNG những người
có tên dưới đây, được sự ủy quyền hợp thức, đã ký vào Nghị định thư này.
LÀM tại Ri-ga ngày 19 tháng 10 năm 2017 thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt, tiếng Lát-vi-a và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều
có giá trị như nhau. Trường hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Anh sẽ
được dùng làm cơ sở.
Thay
mặt Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Đoàn Thị Phương Dung
ĐẠI SỨ ĐẶC MỆNH TOÀN QUYỀN
|
Thay
mặt Chính phủ Nước Cộng hòa
Lát-vi-a
Dana Reiznicce-Ozola
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
|
AGREEMENT
BETWEEN THE GOVERNMENT OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM AND THE
GOVERNMENT OF THE REPUBLIC OF LATVIA FOR THE AVOIDANCE OF DOUBLE TAXATION AND
THE PREVENTION OF FISCAL EVASION WITH RESPECT TO TAXES ON INCOME
The Government of the Socialist Republic of Viet
Nam and the Government of the Republic of Latvia,
Desiring to conclude an Agreement for the avoidance
of double taxation and the prevention of fiscal evasion with respect to taxes
on income,
Have agreed as follows:
Article
1
PERSONS COVERED
This Agreement shall apply to persons who are
residents of one or both of the Contracting States.
Article
2
TAXES COVERED
1. This Agreement shall apply to taxes on income
imposed on behalf of a Contracting State or of its local authorities,
irrespective of the manner in which they are levied.
2. There shall be regarded as taxes on income all
taxes imposed on total income or on elements of income, including taxes on
gains from the alienation of movable or immovable property, taxes on the total
amounts of wages or salaries paid by enterprises.
3. The existing taxes to which the Agreement shall
apply are in particular:
a) in Latvia:
(i) the enterprise income tax; and
(ii) the personal income tax;
(hereinafter referred to as “Latvian tax”);
b) in Viet Nam:
(i) the personal income tax; and
(ii) the business income tax;
(hereinafter referred to as “Vietnamese tax”).
4. The Agreement shall apply also to any identical
or substantially similar taxes that are imposed after the date of signature of
the Agreement in addition to, or in place of, the existing taxes. The competent
authorities of the Contracting States shall notify each other of any
significant changes which have been made in their taxation laws.
Article
3
GENERAL DEFINITIONS
For the purposes of this Agreement, unless the
context otherwise requires:
a) the term “Latvia” means the Republic of Latvia
and, when used in the geographical sense, means the territory of the Republic
of Latvia and any other area adjacent to the territorial waters of the Republic
of Latvia within which under the laws of Latvia and in accordance with
international law, the rights of Latvia may be exercised with respect to the
seabed and its subsoil and their natural resources;
b) the term “Viet Nam” means the Socialist Republic
of Viet Nam; when used in a geographical sense, it means its land territory,
islands, internal waters, territorial sea and airspace above them, the maritime
areas beyond territorial sea including seabed and subsoil thereof over which
the Socialist Republic of Viet Nam exercises sovereignty, sovereign rights and
jurisdiction in accordance with national legislation and international law;
c) the terms “a Contracting State” and “the other
Contracting State” mean Latvia or Viet Nam, as the context requires;
d) the term “person” includes an individual, a
company and any other body of persons;
e) the term “company” means any body corporate or
any entity that is treated as a body corporate for tax purposes;
f) the terms “enterprise of a Contracting State”
and “enterprise of the other Contracting State” mean respectively an enterprise
carried on by a resident of a Contracting State and an enterprise carried on by
a resident of the other Contracting State;
g) the term “international traffic” means any transport
by a ship or aircraft operated by a resident of a Contracting State, except
when the ship or aircraft is operated solely between places in the other
Contracting State;
h) the term “competent authority” means:
(i) in Latvia, the Ministry of Finance or its
authorised representative;
(ii) in Viet Nam, the Ministry of Finance or its
authorised representative;
i) the term “national”, in relation to a
Contracting State, means:
(i) any individual possessing the nationality of a
Contracting State; and
(ii) any legal person, partnership or association
deriving its status as such from the laws in force in a Contracting State.
As regards the application of the Agreement at any
time by a Contracting State, any term not defined therein shall, unless the
context otherwise requires, have the meaning that it has at that time under the
law of that State for the purposes of the taxes to which the Agreement applies,
any meaning under the applicable tax laws of that State prevailing over a
meaning given to the term under other laws of that State.
Article
4
RESIDENT
1. For the purposes of this Agreement, the term
“resident of a Contracting State” means any person who, under the laws of that
State, is liable to tax therein by reason of his domicile, residence, place of
registration, place of management, place of establishment or any other
criterion of a similar nature, and also includes that State and any local
authority thereof. This term, however, does not include any person who is
liable to tax in that State in respect only of income from sources in that
State.
2. Where by reason of the provisions of paragraph 1
an individual is a resident of both Contracting States, then his status shall
be determined as follows:
a) he shall be deemed to be a resident only of the
State in which he has a permanent home available to him; if he has a permanent
home available to him in both States, he shall be deemed to be a resident only
of the State with which his personal and economic relations are closer (centre
of vital interests);
b) if the State in which he has his centre of vital
interests cannot be determined, or if he has not a permanent home available to
him in either State, he shall be deemed to be a resident only of the State in
which he has an habitual abode;
c) if he has an habitual abode in both States or in
neither of them, he shall be deemed to be a resident only of the State of which
he is a national;
d) if he is a national of both States or of neither
of them, the competent authorities of the Contracting States shall settle the
question by mutual agreement.
3. Where by reason of the provisions of paragraph 1
a person other than an individual is a resident of both Contracting States, the
competent authorities of the Contracting States shall endeavour to settle the
question by mutual agreement and determine the mode of application of the
Agreement to such person.
Article
5
PERMANENT ESTABLISHMENT
1. For the purposes of this Agreement, the term
“permanent establishment” means a fixed place of business through which the
business of an enterprise is wholly or partly carried on.
2. The term “permanent establishment” includes
especially:
a) a place of management;
b) a branch;
c) an office;
d) a factory;
e) a workshop;
f) a warehouse, and
g) a mine, an oil or gas well, a quarry or any
other place of extraction of natural resources.
3. The term “permanent establishment” shall also
include:
a) a building site or construction, installation or
assembly project, or supervisory activity connected therewith, but only if such
site, project or activity lasts more than six months;
b) the furnishing of Services, including
consultancy Services, by an enterprise of a Contracting State through its
employees or other personnel engaged by the enterprise for such purpose, but
only where such activities continue (for the same or a connected project) in
the other Contracting State for a period or periods exceeding in the aggregate
six months in any twelve month period;
c) activities carried on offshore in a Contracting
State in connection with the exploration or exploitation of the seabed and
subsoil and their natural resources.
4. Notwithstanding the preceding provisions of this
Article, the term “permanent establishment” shall be deemed not to include:
a) the use of facilities solely for the purpose of
storage, display or delivery of goods or merchandise belonging to the
enterprise;
b) the maintenance of a stock of goods or
merchandise belonging to the enterprise solely for the purpose of storage,
display or delivery;
c) the maintenance of a stock of goods or
merchandise belonging to the enterprise solely for the purpose of Processing by
another enterprise;
d) the maintenance of a fixed place of business
solely for the purpose of purchasing goods or merchandise or of collecting
information, for the enterprise;
e) the maintenance of a fixed place of business
solely for the purpose of carrying on, for the enterprise, any other activity
of a preparatory or auxiliary character; and
f) the maintenance of a fixed place of business
solely for any combination of activities mentioned in sub-paragraphs a) to e),
provided that the overall activity of the fixed place of business resulting
from this combination is of a preparatory or auxiliary character.
5. Notwithstanding the provisions of paragraphs 1 and
2, where a person - other than an agent of an independent status to whom
paragraph 6 applies - is acting in a Contracting State on behalf of an
enterprise of the other Contracting State, that enterprise shall be deemed to
have a permanent establishment in the first-mentioned Contracting State in
respect of any activities which that person undertakes for the enterprise, if
such a person:
a) has and habitually exercises in that State an
authority to conclude contracts in the name of the enterprise, unless the
activities of such person are limited to those mentioned in paragraph 4 which,
if exercised through a fixed place of business, would not make this fixed place
of business a permanent establishment under the provisions of that paragraph;
or
b) has no such authority, but habitually maintains
in the first- mentioned State a stock of goods or merchandise from which he
regularly delivers goods or merchandise on behalf of the enterprise.
6. An enterprise of a Contracting State shall not
be deemed to have a permanent establishment in the other Contracting State
merely because it carries on business in that other Contracting State through a
broker, general commission agent or any other agent of an independent status,
provided that such persons are acting in the ordinary course of their business.
However, when the activities of such an agent are devoted wholly or almost
wholly on behalf of that enterprise, and conditions are made or imposed between
that enterprise and the agent in their commercial and financial relations which
differ from those which would have been made between independent enterprises,
he will not be considered an agent of an independent status within the meaning
of this paragraph.
7. The fact that a company which is a resident of a
Contracting State Controls or is controlled by a company which is a resident of
the other Contracting State, or which carries on business in that other State
(whether through a permanent establishment or otherwise), shall not of itself
constitute either company a permanent establishment of the other.
Article
6
INCOME FROM IMMOVABLE PROPERTY
1. Income derived by a resident of a Contracting
State from immovable property (including income from agriculture or forestry)
situated in the other Contracting State may be taxed in that other State.
2. The term “immovable property” shall have the
meaning which it has under the law of the Contracting State in which the
property in question is situated. The term shall in any case include property
accessory to immovable property, livestock and equipment used in agriculture
and forestry, rights to which the provisions of general law respecting landed
property apply, any rights in respect of immovable property, usufruct of
immovable property and rights to variable or fixed payments as consideration
for the working of, or the right to work, mineral deposits, sources and other
natural resources. Ships and aircraft shall not be regarded as immovable
property.
3. The provisions of paragraph 1 shall apply to
income derived from the direct use, letting, or use in any other form of
immovable property.
4. Where the ownership of shares or other corporate
rights in a company entitles the owner of such shares or corporate rights to
the enjoyment of immovable property held by the company, the income from the
direct use, letting, or use in any other form of such right to enjoyment may be
taxed in the Contracting State in which the immovable property is situated.
5. The provisions of paragraphs 1, 3 and 4 shall
also apply to the income from immovable property of an enterprise and to income
from immovable property used for the performance of independent personal
Services.
Article
7
BUSINESS PROFITS
1. The profits of an enterprise of a Contracting
State shall be taxable only in that State unless the enterprise carries on
business in the other Contracting State through a permanent establishment
situated therein. If the enterprise carries on business as aforesaid, the
profits of the enterprise may be taxed in the other State but only so much of
them as is attributable to that permanent establishment. However, profits
derived from the sale of goods or merchandise of the same or similar kind as
those sold, or from other business activities of the same or similar kind as
those effected, through that permanent establishment may be considered
attributable to that permanent establishment if it is established that such
sales or activities were structured in a manner intended to take advantage of
this Agreement.
2. Subject to the provisions of paragraph 3, where
an enterprise of a Contracting State carries on business in the other
Contracting State through a permanent establishment situated therein, there
shall in each Contracting State be attributed to that permanent establishment
the profits which it might be expected to make if it were a distinct and
separate enterprise engaged in the same or similar activities under the same or
similar conditions and dealing wholly independently with the enterprise of
which it is a permanent establishment.
3. In determining the profits of a permanent
establishment, there shall be allowed as deductions expenses which are incurred
for the purposes of the permanent establishment, including executive and
general administrative expenses so incurred, whether in the State in which the
permanent establishment is situated or elsewhere. However, no such deduction
shall be allowed in respect of amounts, if any, paid (otherwise than towards
reimbursement of actual expenses) by the permanent establishment to the head
office of the enterprise or any of this other offices, by way of royalties,
fees or other similar payments in return for the use of patents or other
rights, or by way of commission, for specific Services performed or for
management, or, except in the case of a banking enterprise, by way of interest
on moneys lent to the permanent establishment. Likewise, no account shall be
taken, in the determination of the profits of a permanent establishment, for
amounts charged (otherwise than towards reimbursement of actual expenses), by
the permanent establishment to the head office of the enterprise or any of its
other offices, by way of royalties, fees or other similar payments in return
for the use of patents or other rights, or by way of commission for specific
Services performed or for management, or, except in the case of banking
enterprise by way of interest on moneys lent to the head office of the
enterprise or any of its other offices.
4. Insofar as it has been customary in a Contracting
State to determine the profits to be attributed to a permanent establishment on
the basis of an apportionment of the total profits of the enterprise to its
various parts, nothing in paragraph 2 shall preclude that Contracting State
from determining the profits to be taxed by such an apportionment as may be
customary; the method of apportionment adopted shall, however, be such that the
result shall be in accordance with the principles contained in this Article.
5. For the purposes of the preceding paragraphs,
the profits to be attributed to the permanent establishment shall be determined
by the same method year by year unless there is good and sufficient reason to
the contrary.
6. Where profits include items of income which are
dealt with separately in other Articles of this Agreement, then the provisions
of those Articles shall not be affected by the provisions of this Article.
Article
8
SHIPPING AND AIR TRANSPORT
1. Profits of a resident of a Contracting State
from the operation of ships or aircraft in international traffic shall be
taxable only in that State.
2. For the purposes of this Article, profits of an
enterprise from the operation of ships or aircraft in international traffic
include:
a) profits from the rental on a bareboat basis of
ships or aircraft; and
b) profits from the use, maintenance or rental of
containers (including trailers and related equipment for the transport of
containers) used for the transport of goods or merchandise;
where such rental or such use, maintenance or
rental, as the case may be, is incidental to the operation of ships or aircraft
by the enterprise in international traffic.
3. The provisions of paragraphs 1 and 2 shall also
apply to profits from the participation in a pool, a joint business or an
international operating agency.
Article
9
ASSOCIATED ENTERPRISES
1. Where
a) an enterprise of a Contracting State
participates directly or indirectly in the management, control or Capital of an
enterprise of the other Contracting State, or
b) the same persons participate directly or
indirectly in the management, control or Capital of an enterprise of a
Contracting State and an enterprise of the other Contracting State,
and in either case conditions are made or imposed
between the two enterprises in their commercial or financial relations which
differ from those which would be made between independent enterprises, then any
profits which would, but for those conditions, have accrued to one of the
enterprises, but, by reason of those conditions, have not so accrued, may be included
in the profits of that enterprise and taxed accordingly.
2. Where a Contracting State includes in the
profits of an enterprise of that State - and taxes accordingly - profits on
which an enterprise of the other Contracting State has been charged to tax in
that other State and the profits so included are profits which would have
accrued to the enterprise of the first-mentioned State if the conditions made
between the two enterprises had been those which would have been made between
independent enterprises, then that other State shall make an appropriate
adjustment to the amount of the tax charged therein on those profits. In
determining such adjustment, due regard shall be had to the other provisions of
this Agreement and the competent authorities of the Contracting States shall if
necessary consult each other.
Article
10
DIVIDENDS
1. Dividends paid by a company which is a resident
of a Contracting State to a resident of the other Contracting State may be
taxed in that other State.
2. However, such dividends may also be taxed in the
Contracting State of which the company paying the dividends is a resident and
according to the laws of that State, but if the beneficial owner of the
dividends is a resident of the other Contracting State, the tax so charged
shall not exceed:
a) 5 per cent of the gross amount of the dividends
if the beneficial owner is a company (other than a partnership) which holds
directly at least 70 per cent of the Capital of the company paying the
dividends;
b) 10 per cent of the gross amount of the dividends
in all other cases.
This paragraph shall not affect the taxation of the
company in respect of the profits out of which the dividends are paid.
3. The term “dividends” as used in this Article
means income from shares, mining shares, founders’ shares or other rights, not
being debt-claims, participating in profits, as well as income from other
rights which is subjected to the same taxation treatment as income from shares
by the laws of the State of which the company making the distribution is
resident.
4. The provisions of paragraphs 1 and 2 shall not
apply if the beneficial owner of the dividends, being a resident of a
Contracting State, carries on business in the other Contracting State of which
the company paying the dividends is a resident through a permanent
establishment situated therein, or performs in that other State independent
personal Services from a fixed base situated therein, and the holding in
respect of which the dividends are paid is effectively connected with such permanent
establishment or fixed base. In such case the provisions of Article 7 or
Article 14, as the case may be, shall apply.
5. Where a company which is a resident of a
Contracting State derives profits or income from the other Contracting State,
that other State may not impose any tax on the dividends paid by the company,
except insofar as such dividends are paid to a resident of that other State or
insofar as the holding in respect of which the dividends are paid is
effectively connected with a permanent establishment or a fixed base situated
in that other State, nor subject the company's undistributed profits to a tax
on the company’s undistributed profits, even if the dividends paid or the
undistributed profits consist wholly or partly of profits or income arising in
such other State.
Article
11
INTEREST
1. Interest arising in a Contracting State and paid
to a resident of the other Contracting State may be taxed in that other State.
2. However, such interest may also be taxed in the Contracting
State in which it arises and according to the laws of that State, but if the
beneficial owner of the interest is a resident of the other Contracting State,
the tax so charged shall not exceed 10 per cent of the gross amount of the
interest.
3. Notwithstanding the provisions of paragraph 2,
interest arising in a Contracting State and derived by the Government of the
other Contracting State, a local authority thereof, the Central bank of that
other Contracting State or any financial institution, wholly owned by that
Government, or by any resident of the other Contracting State with respect to
debt-claims guaranteed, insured or indirectly financed by the Government of
that other Contracting State, a local authority thereof, the Central bank of
that other Contracting State or any financial institution wholly owned by that
Government shall be exempt from tax in the first- mentioned Contracting State.
4. The term “interest” as used in this Article
means income from debt- claims of every kind, whether or not secured by
mortgage, and whether or not carrying a right to participate in the debtor’s
profits, and in particular, income from government securities and income from
bonds or debentures, including premiums and prizes attaching to such
securities, bonds or debentures. The term “interest” shall not include any
income which is treated as a dividend under the provisions of Article 10.
Penalty charges for late payment shall not be regarded as interest for the
purpose of this Article.
5. The provisions of paragraphs 1, 2 and 3 shall
not apply if the beneficial owner of the interest, being a resident of a
Contracting State, carries on business in the other Contracting State in which
the interest arises, through a permanent establishment situated therein, or performs
in that other State independent personal Services from a fixed base situated
therein, and the debt-claim in respect of which the interest is paid is
effectively connected with such permanent establishment or fixed base. In such
case the provisions of Article 7 or Article 14, as the case may be, shall
apply.
6. Interest shall be deemed to arise in a
Contracting State when the payer is a resident of that State. Where, however,
the person paying the interest, whether he is a resident of a Contracting State
or not, has in a Contracting State a permanent establishment or a fixed base in
connection with which the indebtedness on which the interest is paid was
incurred, and such interest is borne by such permanent establishment or fixed
base, then such interest shall be deemed to arise in the State in which the
permanent establishment or fixed base is situated.
7. Where, by reason of a special relationship
between the payer and the beneficial owner or between both of them and some
other person, the amount of the interest, having regard to the debt-claim for
which it is paid, exceeds the amount which would have been agreed upon by the
payer and the beneficial owner in the absence of such relationship, the
provisions of this Article shall apply only to the last-mentioned amount. In
such case, the excess part of the payments shall remain taxable according to
the laws of each Contracting State, due regard being had to the other
provisions of this Agreement.
Article
12
ROYALTIES AND FEES FOR TECHNICAL SERVICES
1. Royalties and fees for technical Services
arising in a Contracting State and paid to a resident of the other Contracting
State may be taxed in that other State.
2. However, such royalties and fees for technical
Services may also be taxed in the Contracting State in which they arise and
according to the laws of that State, but if the beneficial owner of the
royalties or of the fees for technical Services is a resident of the other
Contracting State, the tax so charged shall not exceed:
a) in the case of royalties, 10 per cent of the
gross amount of the royalties;
b) in the case of fees for technical Services, 7.5
per cent of the gross amount of the fees.
3. a) The term “royalties” as used in this Article
means payments of any kind received as a consideration for the use of, or the
right to use, any Copyright of literary, artistic or scientific work, any
patent, trade mark, design or model, plan, secret formula or for the use of, or
the right to use, industrial, commercial or scientific equipment or for information
concerning industrial, commercial or scientific experience.
b) The term “fees for technical Services” as used
in this Article means payments of any kind, other than those mentioned in
Articles 14 and 15 of this Agreement, as consideration for managerial or
technical or consultancy Services, including the provision of Services of
technical or other personnel.
4. The provisions of paragraphs 1 and 2 shall not
apply if the beneficial owner of the royalties or of the fees for technical
Services, being a resident of a Contracting State, carries on business in the
other Contracting State in which the royalties or fees for technical Services
arise through a permanent establishment situated therein or performs in that
other State independent personal Services from a fixed base situated therein,
and the right or property in respect of which the royalties or the fees for
technical Services are paid is effectively connected with such permanent
establishment or fixed base. In such case the provisions of Article 7 or Article
14, as the case may be, shall apply.
5. Royalties and fees for technical Services shall
be deemed to arise in a Contracting State when the payer is a resident of that
State. Where, however, the person paying the royalties or the fees for
technical Services, whether he is a resident of a Contracting State or not, has
in a Contracting State a permanent establishment or a fixed base in connection
with which the obligation to pay the royalties or fees for technical Services
was incurred, and such royalties or fees for technical Services are borne by
such permanent establishment or fixed base, then such royalties or fees for
technical Services shall be deemed to arise in the State in which the permanent
establishment or fixed base is situated.
6. Where, by reason of a special relationship
between the payer and the beneficial owner or between both of them and some
other person, the amount of the royalties or fees for technical Services paid
exceeds the amount which would have been agreed upon by the payer and the
beneficial owner in the absence of such relationship, the provisions of this
Article shall apply only to the last mentioned amount. In such case, the excess
part of the payments shall remain taxable according to the laws of each
Contracting State, due regard being had to the other provisions of this
Agreement.
1. Income or gains derived by a resident of a
Contracting State from the alienation of immovable property referred to in
Article 6 and situated in the other Contracting State may be taxed in that
other State.
2. Gains derived by a resident of a Contracting
State from the alienation of shares in a company or of a comparable interest in
a partnership, trust or other similar entity deriving more than 50 per cent of
their value directly or indirectly from immovable property situated in the
other Contracting State may be taxed in that other State.
3. Gains from the alienation of movable property
forming part of the business property of a permanent establishment which an
enterprise of a Contracting State has in the other Contracting State or of
movable property pertaining to a fixed base available to a resident of a
Contracting State in the other Contracting State for the purpose of performing
independent personal Services, including such gains from the alienation of such
a permanent establishment (alone or with the whole enterprise) or of such fixed
base, may be taxed in that other State.
4. Gains derived by a resident of a Contracting
State operating ships or aircraft in international traffic from the alienation
of ships or aircraft operated in international traffic or movable property
pertaining to the operation of such ships or aircraft, shall be taxable only in
that State.
5. Gains derived from the alienation of shares,
other than the shares referred to in paragraph 2, of not less than 15 per cent
of the entire shareholding of a company which is a resident of a Contracting
State may be taxed in that Contracting State.
6. Gains from the alienation of any property other
than that referred to in paragraphs 1, 2, 3, 4 and 5, shall be taxable only in
the Contracting State of which the alienator is a resident.
1. Income derived by an individual who is a resident
of a Contracting State in respect of professional Services or other activities
of an independent character shall be taxable only in that State except in the
following circumstances, when such income may also be taxed in the other
Contracting State:
a) if he has a fixed base regularly available to
him in the other Contracting State for the purpose of performing his
activities; in that case, only so much of the income as is attributable to that
fixed base may be taxed in that other Contracting State; or
b) if his stay in the other Contracting State is
for a period or periods amounting to or exceeding in the aggregate 183 days
within any twelve month period commencing or ending in the fiscal year
concerned; in that case, only so much of the income as is derived from his
activities performed in that other Contracting State may be taxed in that other
Contracting State.
2. The term “professional Services” includes
especially independent scientific, literary, artistic, educational or teaching
activities as well as the independent activities of physicians, lawyers,
engineers, architects, dentists and accountants.
1. Subject to the provisions of Articles 16, 18 and
19, salaries, wages and other similar remuneration derived by a resident of a
Contracting State in respect of an employment shall be taxable only in that
State unless the employment is exercised in the other Contracting State. If the
employment is so exercised, such remuneration as is derived therefrom may be taxed
in that other State.
2. Notwithstanding the provisions of paragraph 1,
remuneration derived by a resident of a Contracting State in respect of an
employment exercised in the other Contracting State shall be taxable only in
the first-mentioned State if:
a) the recipient is present in the other State for
a period or periods not exceeding in the aggregate 183 days in any twelve month
period commencing or ending in the fiscal year concerned, and
b) the remuneration is paid by, or on behalf of, an
employer who is not a resident of the other State, and
c) the remuneration is not borne by a permanent
establishment or a fixed base which the employer has in the other State.
3. Notwithstanding the preceding provisions of this
Article, remuneration derived in respect of an employment exercised aboard a
ship or aircraft operated in international traffic by a resident of a
Contracting State shall be taxable only in that State.
Directors' fees and other similar payments derived
by a resident of a Contracting State in his capacity as a member of the board
of directors or any other similar organ of a company which is a resident of the
other Contracting State may be taxed in that other State.
1. Notwithstanding the provisions of Articles 14
and 15, income derived by a resident of a Contracting State as an entertainer,
such as a theatre, motion picture, radio or television artiste, or a musician,
or as a sportsman, from his personal activities as such exercised in the other
Contracting State, may be taxed in that other State.
2. Where income in respect of personal activities
exercised by an entertainer or a sportsman in his capacity as such accrues not
to the entertainer or sportsman himself but to another person, that income may,
notwithstanding the provisions of Articles 7, 14 and 15, be taxed in the
Contracting State in which the activities of the entertainer or sportsman are
exercised.
3. The provisions of paragraphs 1 and 2 shall not
apply to income derived from activities exercised in a Contracting State by an
entertainer or a sportsman if the visit to that State is wholly or mainly
supported by public funds of one or both of the Contracting States or local
authorities thereof within a framework of cultural exchange between the
Contracting States. In such case, the income shall be taxable only in the
Contracting State of which the entertainer or sportsman is a resident.
1. Subject to the provisions of paragraph 2 of
Article 19, pensions and other similar remuneration paid to a resident of a
Contracting State in consideration of past employment shall be taxable only in
that State.
2. Notwithstanding the provisions of paragraph 1 of
this Article and paragraph 2 of Article 19, pensions and other similar
remuneration paid under a public scheme which is part of the social security
System of a Contracting State or a local authority thereof shall be taxable
only in that State.
1. a) Salaries, wages and other similar remuneration,
other than a pension, paid by a Contracting State or a local authority thereof
to an individual in respect of Services rendered to that State or authority
shall be taxable only in that State.
b) However, such salaries, wages and other similar
remuneration shall be taxable only in the other Contracting State if the
Services are rendered in that State and the individual is a resident of that
State who:
(ii) did not become a resident of that State solely
for the purpose of rendering the Services.
2. a) Any pension paid by, or out of funds created
by, a Contracting State or a local authority thereof to an individual in
respect of Services rendered to that State or authority shall be taxable only
in that State.
b) However, such pension shall be taxable only in
the other Contracting State if the individual is a resident of, and a national
of, that State.
3. The provisions of Articles 15, 16, 17 and 18
shall apply to salaries, wages, pensions, and other similar remuneration in
respect of Services rendered in connection with a business carried on by a
Contracting State or a local authority thereof.
1. Payments which a student, an apprentice or a
trainee who is or was immediately before visiting a Contracting State a
resident of the other Contracting State and who is present in the
first-mentioned State solely for the purpose of his education or training
receives for the purpose of his maintenance, education or training shall not be
taxed in that State, provided that such payments arise from sources outside
that State.
2. In respect of the payments not covered by
paragraph 1, and remuneration for dependent personal Services rendered during
such education or training, a student, an apprentice or a trainee shall be
entitled to the same exemptions, reliefs or reductions in respect of taxes on
income as are available to residents of the Contracting State he is visiting.
1. Items of income of a resident of a Contracting
State, wherever arising, not dealt with in the foregoing Articles of this
Agreement shall be taxable only in that State.
2. The provisions of paragraph 1 shall not apply to
income, other than income from immovable property as defined in paragraph 2 of
Article 6, if the recipient of such income, being a resident of a Contracting
State, carries on business in the other Contracting State through a permanent
establishment situated therein, or performs in that other State independent
personal Services from a fixed base situated therein, and the right or property
in respect of which the income is paid is effectively connected with such
permanent establishment or fixed base. In such case the provisions of Article 7
or Article 14, as the case may be, shall apply.
3. Notwithstanding the provisions of paragraph 1
and 2, if a resident of a Contracting State derives income from sources within
the other Contracting State in form of winnings from lotteries, crossword
puzzles, races including horse races, card games and other games of any sort or
gambling or betting of any nature whatsoever, such income may be taxed in the
other Contracting State.
1. In Latvia, double taxation shall be eliminated
as follows:
a) where a resident of Latvia derives income which,
in accordance with the provisions of this Agreement, has been taxed in Viet
Nam, Latvia shall, subject to the provisions of subparagraphs b) and c), exempt
such income from tax; and
b) where a resident of Latvia derives income which
in accordance with the provisions subparagraph b) of paragraph 2 of Article 10
or paragraph 2 of Article 11 or paragraph 2 of Article 12, may be taxed in Viet
Nam, Latvia shall allow as a deduction from the tax on the income of that
resident, an amount equal to the income tax paid in Viet Nam.
Such deduction shall not, however, exceed that part
of the tax on income, as computed before the deduction is given, which is
attributable to the income which may be taxed in Viet Nam.
c) for the purpose of subparagraphs a) and b) of
paragraph 1, the tax paid in Viet Nam shall be deemed to include any amount
which would have been payable as Vietnamese tax for any year but for an
exemption or reduction of tax granted for that year or any part thereof under
any of the following provisions of Vietnamese law:
(i) Articles 13, 14, 15 and 17 of the Law on
Business Income Tax of Viet Nam 2008 and the regulations made thereunder, as
amended, in so far as they were in force on, and have not been modified since
the date of signature of this Agreement, or have been modified since then only
in minor respects so as not to affect their general character, and provided
always that the competent authority of Viet Nam has certified that any such
exemption from or reduction of Vietnamese tax given under these Articles has
been granted in order to promote industrial, commercial, scientific or
educational development in Viet Nam and the competent authority of Latvia has
accepted that such exemption or reduction has been granted for such purpose; or
(ii) any other provisions of Vietnamese law
granting exemption from or reduction of Vietnamese tax which may subsequently
be introduced to promote economic development in Viet Nam and which the
competent authorities of the Contracting States agree are of a substantially
similar character to the provisions named in subparagraph (i), if they have not
been modified thereafter or have been modified only in minor respects so as not
to affect their general character, and subject always to certification and
acceptance having taken place as provided for in subparagraph (i).
d) relief from Latvian tax by virtue of
subparagraph c) shall be given for a period of 10 years only, beginning on the
date on which this Agreement became effective.
2. In Viet Nam, double taxation shall be eliminated
as follows:
a) Where a resident of Viet Nam derives income,
profits or gains which under the law of Latvia and in accordance with this
Agreement may be taxed in Latvia, Viet Nam shall allow as a credit against its
tax on the income, an amount equal to the tax paid in Latvia. The amount of
credit, however, shall not exceed the amount of the Vietnamese tax on that
income, profits or gains computed in accordance with the taxation laws and
regulations of Viet Nam.
b) Where a resident of Viet Nam derives income
which in accordance with any provision of this Agreement is taxable only in
Latvia, Viet Nam may nevertheless, in calculating the amount of tax on the
remaining income of such resident in Viet Nam, take into account the exempted
income.
1. Nationals of a Contracting State shall not be
subjected in the other Contracting State to any taxation or any requirement
connected therewith, which is other or more burdensome than the taxation and
connected requirements to which nationals of that other State in the same
circumstances, in particular with respect to residence, are or may be
subjected.
2. The taxation on a permanent establishment which
an enterprise of a Contracting State has in the other Contracting State shall
not be less favourably levied in that other State than the taxation levied on
enterprises of that other State carrying on the same activities. This provision
shall not be construed as obliging a Contracting State to grant to residents of
the other Contracting State any personal allowances, reliefs and reductions for
taxation purposes on account of civil status or family responsibilities which
it grants to its own residents.
3. Except where the provisions of paragraph 1 of
Article 9, paragraph 7 of Article 11, or paragraph 6 of Article 12, apply,
interest, royalties, fees for technical Services and other disbursements paid
by an enterprise of a Contracting State to a resident of the other Contracting
State shall, for the purpose of determining the taxable profits of such
enterprise, be deductible under the same conditions as if they had been paid to
a resident of the first-mentioned State.
4. Enterprises of a Contracting State, the Capital
of which is wholly or partly owned or controlled, directly or indirectly, by
one or more residents of the other Contracting State, shall not be subjected in
the first-mentioned State to any taxation or any requirement connected
therewith which is other or more burdensome than the taxation and connected
requirements to which other similar enterprises of the first- mentioned State
are or may be subjected.
5. The provisions of this Article shall,
notwithstanding the provisions of Article 2, apply to taxes of every kind and
description.
1. Where a person who is a resident of a
Contracting State considers that the actions of the competent authority of one
or both of the Contracting States result or will result for him in taxation not
in accordance with the provisions of this Agreement, he may, irrespective of
the remedies provided by the domestic law of those States, present his case to
the competent authority of the Contracting State of which that person is a
resident. The case must be presented within three years from the first
notification of the action resulting in taxation not in accordance with the
provisions of the Agreement.
2. The competent authority shall endeavour, if the
objection appears to it to be justified and if it is not itself able to arrive
at a satisfactory solution, to resolve the case by mutual agreement with the
competent authority of the other Contracting State, with a view to the
avoidance of taxation which is not in accordance with this Agreement. Any
agreement reached shall be implemented notwithstanding any time limits in the
domestic law of the Contracting States.
3. The competent authorities of the Contracting
States shall endeavour to resolve by mutual agreement any difficulties or
doubts arising as to the interpretation or application of the Agreement. They
may also consult together for the elimination of double taxation in cases not
provided for in the Agreement.
4. The competent authorities of the Contracting
States may communicate with each other directly, including through a joint commission
consisting of themselves or their representatives, for the purpose of reaching
an agreement in the sense of the preceding paragraphs.
1. The competent authorities of the Contracting States
shall exchange such information as is foreseeably relevant for carrying out the
provisions of this Agreement or to the administration or enforcement of the
domestic laws concerning taxes of every kind and description imposed on behalf
of the Contracting States or local authorities, insofar as the taxation
thereunder is not contrary to the Agreement. The exchange of information is not
restricted by Articles 1 and 2.
2. Any information received under paragraph 1 by a
Contracting State shall be treated as secret in the same manner as information
obtained under the domestic laws of that State and shall be disclosed only to
persons or authorities (including courts and administrative bodies) concerned
with the assessment or collection of, the enforcement or prosecution in respect
of, the determination of appeals in relation to the taxes referred to in
paragraph 1, or the oversight of the above. Such persons or authorities shall
use the information only for such purposes. They may disclose the information in
public court proceedings or in judicial decisions.
3. In no case shall the provisions of paragraphs 1
and 2 be construed so as to impose on a Contracting State the obligation:
a) to carry out administrative measures at variance
with the laws and administrative practice of that or of the other Contracting
State;
b) to supply information which is not obtainable
under the laws or in the normal course of the administration of that or of the
other Contracting State;
c) to supply information which would disclose any
trade, business, industrial, commercial or professional secret or trade
process, or information, the disclosure of which would be contrary to public
policy (ordre public).
4. If information is requested by a Contracting
State in accordance with this Article, the other Contracting State shall use
its information gathering measures to obtain the requested information, even
though that other State may not need such information for its own tax purposes.
The obligation contained in the preceding sentence is subject to the
limitations of paragraph 3 but in no case shall such limitations be construed
to permit a Contracting State to decline to supply information solely because
it has no domestic interest in such information.
5. In no case shall the provisions of paragraph 3
be construed to permit a Contracting State to decline to supply information
solely because the information is held by a bank, other financial institution,
nominee or person acting in an agency or a fiduciary capacity or because it
relates to ownership interests in a person.
Nothing in this Agreement shall affect the fiscal
privileges of members of diplomatic missions or consular posts under the
general rules of international law or under the provisions of special
agreements.
Each of the Contracting States shall notify to the
other in writing through the diplomatic channels the completion of the
procedures required by its legislation for the entry into force of this
Agreement. This Agreement shall enter into force on the date of the receipt of
the later of these notifications and its provisions shall have effect in both
Contracting States:
a) in respect of taxes withheld at source, on
income derived on or after the first day of January in the calendar year next
following the year in which the Agreement enters into force;
b) in respect of other taxes on income, for taxes
chargeable for any fiscal year beginning on or after the first day of January
in the calendar year next following the year in which the Agreement enters into
force.
This Agreement shall remain in force until
terminated by one of the Contracting States. Either Contracting State may
terminate the Agreement, through diplomatic channels, by giving to the other
Contracting State, written notice of termination at least six months before the
end of any calendar year following after the period of five years from the year
in which the provisions of the Agreement became effective. In such event, the
Agreement shall cease to have effect in both Contracting States:
a) in respect of taxes withheld at source, on
income derived on or after the first day of January in the calendar year next
following the year in which the notice has been given;
b) in respect of other taxes on income, for taxes
chargeable for any fiscal year beginning on or after the first day of January
in the calendar year next following the year in which the notice has been
given.
In witness whereof, the undersigned, duly
authorised thereto, have signed this Agreement.
Done in duplicate at Riga this 19 day of October
2017, in the Vietnamese, Latvian, and English languages, all three texts being
equally authentic. In the case of divergence of interpretation the English text
shall prevail.
At the signing the Agreement between the Government
of the Socialist Republic of Viet Nam and the Government of the Republic of
Latvia for the avoidance of double taxation and the prevention of fiscal
evasion with respect to taxes on income, the undersigned have agreed that the
following provision shall form an integral part of the Agreement:
For purposes of paragraph 2 of Article 10,
paragraph 2 of Article 11 and for the purposes of Article 13, a pension fund or
pension scheme established in a Contracting State and recognised by that State
shall be considered as a resident of that State and as the beneficial owner of
the income it receives.
If after the date of signature of this Agreement, a
Contracting State signs an Agreement for the avoidance of double taxation, or
an amendment to such an Agreement with other State that is a member of the
European Union or the Organisation for Economic Co-operation and Development,
providing for taxation by a Contracting State of Capital gains from the
indirect alienation of shares of a company that is a resident of that State,
then such provision shall apply under this Agreement with effect from the date
on which that Agreement or amendment become effective; and from that date the
paragraph 5 of Article 13 shall be expressed as follows:
“5. Gains derived from the direct or indirect
alienation of shares, other than the shares referred to in paragraph 2, of not
less than 15 per cent of the entire shareholding of a company which is a
resident of a Contracting State may be taxed in that Contracting State.”
In witness whereof, the undersigned, duly
authorised thereto, have signed this Protocol.
Done in duplicate at Riga this 19 day of October
2017, in the Vietnamese, Latvian, and English languages, all three texts being
equally authentic. In the case of divergence of interpretation the English text
shall prevail.