SẮC LỆNH
QUY
ĐỊNH VIỆC BUÔN BÁN VÀNG BẠC CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ
202 NGÀY 15 THÁNG 10 NĂM 1946
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Xét tình thế hiện thời
trong nước;
Chiểu chi lời đề nghị của Bộ trưởng
Bộ Tài chính;
Sau khi đã hỏi ý kiến Ban thường
trực Quốc hội và Hội đồng Chính phủ đã thoả hiệp,
RA
SẮC LỆNH:
TIẾT THỨ NHẤT
VIỆC BUÔN BÁN VÀNG
Điều thứ nhất
Nay cấm hẳn việc xuất cảng vàng
nếu không được Bộ trưởng Bộ Tài chính cho phép.
Việc mối lái, tập trung vàng có
mục đích lũng loạn hoặc bán cho người ngoại quốc, chạy hàng xách vàng cũng cấm.
Điều thứ 2
Chỉ có thể chuyên chở từ địa hạt
này qua địa hạt khác (thành phố, tỉnh, thị xã) một số đồ vàng (đồ trang sức hay
mỹ nghệ) , bất luận bao nhiêu tuổi, không quá một lạng tây (100 grammes).
Quá số đó, phải xin phép UBHC
tỉnh, thị xã hay thành phố mình ở.
Muốn chuyên chở từ địa hạt này sang
địa hạt khác những thứ vàng không phải đồ trang sức hay mỹ thuật, tức như:
- Tiền vàng, kể cả tiền ngoại quốc,
- Vàng thoi, vàng nén, vàng lá,
- Vàng dùng về kỹ nghệ, vàng vụn,
Thì bất cứ trọng lượng hay tuổi bao
nhiêu, cũng phải xin phép Uỷ ban hành chính tỉnh, thị xã hay thành phố mình ở.
Khi cấp giấy Uỷ ban hành chính tỉnh,
thị xã hay thành phố phải xét xem sự chuyên trở có mục đích gì, để bài trừ sự
buôn bán lén lút và đầu cơ vàng.
Điều thứ 3
Việc buôn bán vàng trong nước,
không cứ là vàng gì, phải do những nhà buôn có giấy phép của Uỷ ban hành chính
tỉnh, thị xã hay thành phố.
Trong hạn một tháng kể từ ngày
ban bố Sắc lệnh này, những nhà buôn đó phải gửi đơn xin phép lên Uỷ ban hành
chính tỉnh, thị xã hay thành phố mình ở.
Điều thứ 4
Những nhà buôn được phép mua hay
bán vàng, bắt buộc, ngoài những sổ sách thương mại thường có, phải giữ hai quyển
sổ đúng như mẫu kèm theo Sắc lệnh này (bản phụ thuộc 1 và 2).
1) Quyển thứ nhất để ghi những việc
mua vàng;
2) Quyển thứ hai để ghi những việc
bán vàng.
Mỗi khi mua, bán phải ghi dần
vào những sổ đó, không được bỏ trống hay viết len vào giữa hai dòng. Những sổ
đó làm bằng giấy thường, có đánh số trang, từ trang đầu đến trang cuối và mỗi
trang phải có chữ ký của nhà chức trách ý như những sổ sách thương mại nói
trên, và phải đưa trình nhà chức trách mỗi khi hỏi đến.
Các sự sửa chữa phải do cước chú
riêng ở dưới, cả hai bên mua bán đều ký hay điểm chỉ nhận và phải viết bằng mực
đỏ.
Điều thứ 5
Nếu trái với những điều nói trên,
sẽ bị phạt:
- Tiền, nhất thiết gấp ba giá số
vàng gian lậu hay định gian lậu;
- Tù, từ một tháng đến hai năm, hoặc
sẽ phải chịu một trong hai thứ hình phạt ấy.
Nếu tái phạm, có thể bị phạt tù
từ sáu tháng đến năm năm.
Số vàng gian lậu hay định gian lậu
bắt được sẽ được tịch thu.
TIẾT THỨ HAI
VIỆC BUÔN BÁN BẠC
Điều thứ 6
Nay cấm hẳn, nếu không được Bộ trưởng
Bộ Tài chính cho phép:
- Việc xuất cảng bạc nén, bạc
thoi, bạc vụn, tiền tệ bằng bạc, đồ bạc;
- Việc mua bán, định mua bán hay
dạm mau bán tiền tệ trong nước bằng bạc (hoặc bằng loại kim khác) quá giá do
pháp luật đã định;
- Việc mối lái, tập trung bạc có
mục đích lũng đoạn hoặc bán cho người ngoại quốc, chạy hàng xách bạc cũng cấm.
Điều
thứ 7
Chỉ có thể chuyên chở từ địa hạt
này qua địa hạt khác (thành phố, tỉnh, thị xã) một số đồ bạc (đồ trang sức hay mỹ
thuật), bất luận bao nhiêu tuổi, không quá một cân (1 kilogammes).
Quá số đó, phải xin phép Uỷ ban hành
chính tỉnh, thị xã hay thành phố mình ở.
Muốn chuyên chở từ địa hạt này
qua địa hạt khác những thứ bạc không phải đồ trang sức hay mỹ thuật (bạc nén,
thoi, vụn....) thì bất cứ trọng lượng hay tuổi bao nhiêu cũng phải xin phép Uỷ
ban hành chính tỉnh, thị xã hay thành phố mình ở.
Khi cấp giấy phép, Uỷ ban hành chính
tỉnh, thị xã hay thành phố phải xét xem sự chuyên chở có mục đích gì để bài trừ
sự buôn bán lén lút và đầu cơ bạc.
Điều thứ 8
Nếu trái với Điều thứ 6 và thứ 7
sẽ bị phạt:
- Tiền, nhất thiết gấp ba số bạc
gian lậu hay định gian lậu;
- Tù, từ sáu ngày đến sáu tháng,
hoặc sẽ phải chịu một trong hai thứ hình phạt ấy.
Nếu tái phạm, có thể bị phạt tù
từ hai tháng đến hai năm.
Đồ bạc hay tiền tệ gian lậu hay định
gian lậu, bắt được, sẽ bị tịch thu.
Điều thứ 9
Những luật lệ trước trái với Sắc
lệnh này đều bãi bỏ.
Điều thứ 10
Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng
Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Tài chính chiểu Sắc lệnh thi hành.