HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
75-CP
|
Hà
Nội, ngày 08 tháng 04 năm 1974
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG XÓA BỎ THỊ TRƯỜNG TỰ DO VỀ
LƯƠNG THỰC VÀ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ LƯƠNG THỰC
Lương thực là nhu cầu cơ bản của
nhân dân, là vật tư quan trọng của Nhà nước. Từ lâu trung ương Đảng và Chính phủ
vẫn thường xuyên quan tâm lãnh đạo chặt chẽ từ sản xuất đến tiêu dùng lương thực.
Mới đây, nghị quyết Hội nghị lần thứ 22 của trung ương Đảng lại nhấn mạnh cần
“có biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính, chỉ đạo chặt chẽ để kiên quyết
xóa bỏ thị trường tự do về lương thực ở thành thị và nông thôn, tăng cường quản
lý việc phân phối lương thực, gắn chặt quản lý lương thực với quản lý lao động”.
Nghị quyết số 228-NQ/TW của Bộ Chính trị trung ương Đảng cũng chỉ rõ: “Ngoài phần
lương thực phân phối chung, Nhà nước thống nhất quản lý thu mua và phân phối
lương thực, xóa bỏ thị trường tự do về lương thực cả ở thành thị và nông thôn”.
Thực hiện các nghị quyết trên, Hội đồng Chính phủ trong phiên họp thường vụ
ngày 27 tháng 03 năm 1974 quyết định một số chủ trương và biện pháp sau đây để
các ngành, các địa phương thi hành.
I. THỐNG NHẤT
THU MUA, PHÂN PHỐI VÀ XOÁ BỎ THỊ TRƯỜNG TỰ DO VỀ LƯƠNG THỰC
Lương thực là nguồn vật tư chiến
lược của Nhà nước nên phải được quản lý thống nhất. Nhà nước phải nắm độc quyền
về mua bán lương thực và phải thống nhất quản lý việc thu mua, phân phối lương
thực để quản lý chặt chẽ các mặt hoạt động khác trong xã hội. Trong khi
thống nhất quản lý lương thực, Nhà nước vẫn khuyến khích nông dân đẩy mạnh sản
xuất lương thực bằng các biện pháp giúp đỡ sản xuất và thi hành chính sách mua
giá cao đối với lương thực bán ngoài nghĩa vụ cho Nhà nước.
Để thống nhất thu mua, phân phối
và xóa bỏ thị trường tự do về lương thực phải thực hiện những chủ trương và biện
pháp sau đây:
1. Việc phân phối lương
thực trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp vẫn áp dụng đúng theo chính sách phân
phối hiện hành. Đối với người lao động thì mức ăn bằng lương thực cho người được
phân phối nhiều nhất cũng không quá mức ăn của một lao động giỏi ở địa phương.
Số còn lại, được phân phối bằng tiền tùy theo giá bán cho Nhà nước.
Việc phân phối lương thực trong
nội bộ các hợp tác xã nông nghiệp phải theo nguyên tắc phân phối theo lao động.
Không được sử dụng lương thực lãng phí, không được dùng lương thực vào liên
hoan, hội họp, chiêu đãi.v.v..; không được phân phối bình quân, tràn lan hoặc bớt
xén lương thực của người được cấp.
Ban quản trị các hợp tác xã nông
nghiệp phải chịu trách nhiệm quản lý lương thực trong nội bộ hợp tác xã theo
đúng chính sách của Nhà nước để hoàn thành và hoàn thành vượt mức nghĩa vụ
lương thực đối với Nhà nước; không để lọt lương thực ra thị trường tự do.
2. Nghiêm cấm tư nhân và
hợp tác xã buôn bán thóc, gạo, ngô, bột mì (kể cả thứ phẩm, phế phẩm), những sản
phẩm chế biến từ các mặt hàng đó và các loại tem, phiếu, sổ lương thực.
Nông dân sau khi đã hoàn thành
nghĩa vụ lương thực, nếu còn thừa lương thực cũng phải thông qua hợp tác xã
nông nghiệp bán cho Nhà nước theo giá khuyến khích. Đối với số lượng thực sản
xuất trên diện tích 5% nếu không dùng để chăn nuôi và cần bán cũng chỉ được bán
cho Nhà nước theo giá khuyến khích. Những người không thừa lương thực, nhưng vì
tạm thời cần tiền phải bán lương thực thì có thể bán ký gửi cho Nhà nước.
Những người được Nhà nước cung cấp
lương thực, nếu không dùng hết phải bán lại cho Nhà nước, không được đem cho,
đem bán, đem trao đổi hoặc sử dụng lãng phí.
3. Nghiêm cấm tư nhân và
hợp tác xã vận chuyển lương thực trái phép. Cơ quan Nhà nước vận chuyển lương
thực phải có vận đơn hợp lệ. Nông dân có việc đi xa, cần mua lương thực ở nơi
khác phải đem khẩu phần lương thực của mình đổi lấy tem lương thực, cần đến đâu
đổi đến đấy. Ngành lương thực có nhiệm vụ tổ chức đổi tem rộng rãi và thuận tiện
phục vụ nhân dân khi cần thiết.
4. Nghiêm cấm tư nhân và
hợp tác xã dùng thóc, gạo, ngô, bột mì (kể cả thứ phẩm, phế phẩm) để nấu rượu lậu
hoặc chế biến ra quà bánh hoặc trao đổi các sản phẩm khác. Ngành thương nghiệp
phải nhanh chóng mở rộng mạng lưới ăn uống rộng khắp của thương nghiệp có tổ chức
để đảm bảo nhu cầu ăn sáng của nhân dân và nhu cầu ăn uống của những người qua
lại. Riêng ở những vùng mà thương nghiệp có tổ chức chưa kinh doanh được, có thể
cho phép một số người làm gia công một vài thứ quà bánh cần thiết tùy theo tập
quán để đổi cho nhân dân ở địa phương.
II. QUẢN LÝ
CUNG CẤP LƯƠNG THỰC TRONG KHU VỰC NHÀ NƯỚC
Lương thực cung cấp trong khu vực
Nhà nước (bao gồm số lương thực cung cấp theo tiêu chuẩn cho cán bộ, công nhân,
viên chức Nhà nước, cho các lực lượng vũ trang thường trực, cho học sinh và
sinh viên các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; số lương thực
cấp theo kế hoạch làm thủy lợi, giao thông, lâm nghiệp, dùng cho ăn uống công cộng,
bệnh viện, cán bộ xã đi dự hội nghị, lớp huấn luyện…, dùng làm thức ăn cho chăn
nuôi, làm nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp.v.v..) đều phải được xét cấp
đúng đối tượng, đúng chính sách, đúng tiêu chuẩn do Nhà nước quy định và phải
được quản lý rất chặt chẽ trong tất cả các khâu: kho, vận tải, cửa hàng, nhà
ăn, nhà máy, v.v..triệt để chống lấy cắp, lợi dụng, tham ô, buôn bán lương thực
dưới mọi hình thức, hoặc khai man số người, tăng tiêu chuẩn để lấy thừa lương
thực của Nhà nước.
Phải có biện pháp kiểm tra, theo
dõi chặt chẽ tình hình thay đổi trong các đối tượng được cung cấp lương thực
(thay đổi ngành nghề cần tăng hoặc giảm tiêu chuẩn; có người đi công tác nước
ngoài, đi B, C; có người chết…) để điều chỉnh việc cấp phát cho kịp thời.
Những người tự ý bỏ việc hoặc
nghỉ việc không có lý do chính đáng thì không được cấp hoặc phải giảm bớt lương
thực. Cơ quan lương thực phải kết hợp với các cơ quan , xí nghiệp Nhà nước
trong việc cấp sổ lao động để thực hiện việc này được tốt.
Các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước
được dùng lương thực theo kế hoạch phải căn cứ vào định mức và kế hoạch Nhà nước
giao mà lập dự trù xin cấp phát và phải thanh toán, quyết toán minh bạch, kịp
thời với cơ quan lương thực về số lương thực đã cấp kỳ trước mới được cấp tiếp
kỳ sau; lương thực dùng không hết phải trả lại cho Nhà nước, không được đem
dùng vào việc khác.
Đối với nhà ăn tập thể và cửa
hàng ăn uống, phải chấm dứt ngay tệ khai man lấy cắp, bớt xén lương thực, thực
phẩm; phải quản lý chặt chẽ số lương thực được cấp từ khâu vận chuyển, bảo quản
đến sử dụng và cải tiến việc nấu nướng, bảo đảm cho mọi người ăn đủ tiêu chuẩn;
phải thực hiện đều đặn chế độ thanh toán công khai giữa nhà ăn và người ăn, giữa
nhà ăn và cơ quan Nhà nước; phải cùng với Công đoàn cơ sở tổ chức và động
viên người ăn kiểm tra, giám sát và ngăn chặn kịp thời những hành vi không tốt.
Theo sự hướng dẫn của cơ quan
lương thực, các nhà ăn tập thể và cửa hàng ăn uống phải thực hiện kiểm kê thường
xuyên và chính xác số lương thực còn lại; số lương thực còn thừa phải được báo
cáo kịp thời và đem nộp lại cho nhà nước (phần thuộc tiêu chuẩn của người ăn
thì tính thành tiền trả lại cho người ăn).
Thủ trưởng các ngành, các cấp,
các cơ sở (kể cả các đơn vị bộ đội) phải chịu trách nhiệm quản lý chặt chẽ
lương thực trong phạm vi mình phụ trách; thường xuyên nắm chắc tình hình và thực
hiện đầy đủ chế độ kiểm tra do ngành lương thực quy định. kịp thời biểu dương
khen thưởng những người có thành tích tiết kiệm lương thực; cùng cơ quan lương
thực và các cơ quan chấp hành pháp luật phát hiện và xử lý kịp thời các vụ vi
phạm các quy định về quản lý lương thực; chịu trách nhiệm về tình hình sai phạm
xảy ra trong phạm vi của mình.
III. QUẢN LÝ
CUNG CẤP LƯƠNG THỰC TRONG KHU VỰC HỢP TÁC XÃ
Lương thực cung cấp trong khu vực
hợp tác xã (bao gồm số lương thực cung cấp theo tiêu chuẩn cho người lao động
trong các hợp tác xã sản xuất tiểu và thủ công nghiệp, xây dựng vận tải, v. v…
và số lương thực cung cấp thêm cho các hợp tác xã trồng cây công nghiệp, trồng
rau, làm muối, đánh cá, v. v…theo tinh thần chỉ thị số 115-TTg ngày 27-3-1971 của
Thủ tướng Chính phủ và thông tư số 04 ngày 5-5-1971 của Bộ lương thực và thực
phẩm) cũng phải được quản lý rất chặt chẽ từ khâu xét duyệt, cấp phát đến khâu
quyết toán số lượng thực được cấp. Đối với các hợp tác xã, việc quản lý cung cấp
lương thực phải gắn với quản lý lao động và quản lý sản phẩm hàng hóa.
Đối với các hợp tác xã tiểu và
thủ công nghiệp, xây dựng, vận tải v.v…phải căn cứ vào thái độ chấp hành các chế
độ chính sách kinh doanh và đối chiếu với khối lượng, chất lượng sản phẩm gia
công, bán cho Nhà nước, hoặc khối lượng hoàn thành công việc được cơ quan Nhà
nước giao mà thực hiện cung cấp lương thực.
Nhà nước sẽ giảm một phần hoặc sẽ
không cung cấp lương thực cho những hợp tác xã hoặc cá nhân nào cố tình vi phạm
các chế độ quản lý của Nhà nước (vi phạm thể lệ kinh doanh công thương nghiệp,
chế độ quản lý tiền công, giá cả, thị trường…)., không thực hiện đầy đủ việc
giao sản phẩm cho Nhà nước mà không có lý do chính đáng, hoặc làm ăn trái phép,
không theo sự quản lý của Nhà nước. Xã viên nào tự ý nghỉ việc hoặc bỏ hợp tác
xã ra làm ăn phi pháp cũng không được cung cấp lương thực.
Đối với các hợp tác xã trồng cây
công nghiệp, trồng rau, làm muối, đánh cá…phải quyết toán số lương thực được cấp,
đối chiếu với số sản phẩm đã bán cho Nhà nước theo nguyên tắc có làm đầy đủ
nghĩa vụ đối với Nhà nước thì mới được cung cấp đầy đủ lương thực đã quy định.
Nhà nước không cung cấp lương thực
cho hợp tác xã nào ngoài nhiệm vụ sản xuất cây công nghiệp, cá, muối,
rau.v.v..vẫn còn có đủ ruộng đất để trồng lương thực mà không trồng lương thực,
hoặc dành ruộng đất để làm ra sản phẩm để tiêu thụ riêng, không làm nghĩa vụ đối
với Nhà nước. Trường hợp vì bị thiên tai, mất mùa, hợp tác xã không làm được đủ
nghĩa vụ thì Nhà nước có thể cho vay lương thực để bảo đảm sản xuất; hợp tác xã
nào bán vượt mức sản phẩm cho Nhà nước thì Nhà nước sẽ thưởng bằng giá cao chứ
không thưởng bằng lương thực.
IV. QUẢN LÝ
CUNG CẤP LƯƠNG THỰC CHO NHỮNG NGƯỜI KHÔNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP KHÁC
Lương thực cung cấp cho những
người không sản xuất nông nghiệp khác (bao gồm số lương thực cung cấp cho những
thành phần khác chưa nói ở các phần trên, cho những người chưa đến tuổi lao động
và những người không còn sức lao động trong gia đình cán bộ, công nhân, viên chức
Nhà nước, bộ đội, thợ thủ công, v.v…sống ở thành thị) cũng phải được quản lý rất
chặt chẽ theo chính sách, tiêu chuẩn đã quy định. Phải thông qua chế độ đăng
ký, quản lý hộ khẩu của Nhà nước và kết hợp việc đăng ký nghĩa vụ lao động,
đăng ký kinh doanh công thương nghiệp và phục vụ của khu vực hợp tác xã và tư
nhân mà cung cấp lương thực cho các đối tượng này.
Phải quản lý thật chặt chẽ những
trường hợp tách người ở khu vực sản xuất nông nghiệp ra đưa vào diện Nhà nước
cung cấp lương thực.
Những người đến tuổi lao động và
những người còn sức lao động đã được sắp xếp việc làm mà không chịu lao động và
làm ăn không chính đáng thì không được cung cấp lương thực.
V.
TRÁCH NHIỆM CỦA THỦ TRƯỞNG CÁC NGÀNH VÀ ỦY BAN HÀNH CHÍNH CÁC CẤP
Thủ trưởng các ngành ở trung
ương phải chịu trách nhiệm hướng dẫn đôn đốc và kiểm tra bảo đảm việc chấp hành
đúng chính sách quản lý và sử dụng lương thực trong các đơn vị, cơ quan và cơ sở
thuộc quyền quản lý của mình. Đi đôi với việc giáo dục ý thức quý trọng, tiết
kiệm lương thực, phải thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn, uốn nắn cán bộ, công
nhân, viên chức trong ngành thực hiện đầy đủ các chế độ quy định về quản lý
lương thực, phê phán và xử lý kịp thời những hành động sai phạm. Thủ trưởng từng
đơn vị, cơ quan, xí nghiệp phải chịu trách nhiệm về những việc sai phạm xảy ra
trong phạm vi cơ quan xí nghiệp của mình.
Bộ Quốc phòng phải chịu hoàn
toàn trách nhiệm trước Hội đồng Chính phủ về việc lập dự trù, cấp phát, sử dụng
lương thực trong quân đội theo đúng chính sách, và thực hiện đầy đủ chế độ quyết
toán với Bộ Lương thực và thực phẩm. Căn cứ vào quyết định này, Bộ Quốc phòng
phải có kế hoạch soát xét lại để chấm dứt ngay tình trạng lãng phí, tham ô
lương thực trong các đơn vị, cơ quan xí nghiệp quốc phòng.
Ủy ban hành chính các cấp chịu
trách nhiệm bảo đảm việc nghiêm chỉnh chấp hành chính sách lương thực đối với tất
cả các đối tượng được cung cấp lương thực đang cư trú ở địa phương, bảo đảm thực
hiện các biện pháp xóa bỏ thị trường tự do về lương thực ở địa phương.
Trong phạm vi quản lý của mình. Ủy
ban hành chính các cấp có quyền kiểm tra việc sử dụng lương thực ở bất cứ cơ
quan, xí nghiệp, hợp tác xã nào đang ở địa phương và phải chịu trách nhiệm nếu
xảy ra tình trạng vi phạm chính sách cung cấp, sử dụng và quản lý thị trường
lương thực ở địa phương mình. Ủy ban hành chính các cấp phải có kế hoạch huy động
và phối hợp chặt chẽ các bộ máy quản lý ở địa phương như lương thực, thương
nghiệp, công an v.v…để thực hiện tốt chủ trương xóa bỏ thị trường tự do về
lương thực. Phải đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục trong nhân dân, nhất là
trong nông dân tập thể để quần chúng tự giác chấp hành chính sách lương thực của
Đảng và Nhà nước.
VI. QUẢN LÝ
LƯƠNG THỰC TRONG HỆ THỐNG NGÀNH LƯƠNG THỰC VÀ THỰC PHẨM
Bản thân ngành lương thực và thực
phẩm phải nghiêm chỉnh chấp hành chế độ quản lý lương thực từ trung ương đến cơ
sở, đồng thời phải chịu trách nhiệm chỉ đạo chặt chẽ, kiểm tra hướng dẫn các
ngành, các cấp thực hiện theo quy định của Nhà nước. Bộ Lương thực và thực phẩm
phải phối hợp với các ngành và có kế hoạch tổ chức thực hiện chủ trương xóa bỏ
thị trường tự do về lương thực.
Ngành lương thực phải quản lý tốt
nội bộ từ trung ương đến tận cơ sở. Phải chỉnh đốn đội ngũ những người làm công
tác lương thực có đầy đủ tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ, liêm khiết,
gương mẫu trong việc chấp hành chính sách, chế độ về quản lý lương thực, chống
tệ “làm nghề nào ăn nghề ấy”. Kiên quyết thi hành kỷ luật những người thiếu
tinh thần trách nhiệm, xử phạt nghiêm khắc những kẻ tham ô, lấy cắp lương thực
của Nhà nước hay của khách hàng.
Ngành lương thực phải chấp hành
đúng các quy định hiện hành trong các khâu quản lý, phát hiện kịp thời và có biện
pháp ngăn chặn những sơ hở thiếu sót; định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm
của mỗi đơn vị, mỗi cá nhân trong mỗi khâu công tác, quy định thành chế độ, điều
lệ chặt chẽ trong ngành; đồng thời ngành lương thực phải kịp thời đề nghị Hội đồng
Chính phủ sửa đổi, bổ sung những quy định hiện hành nếu thấy cần thiết.
Phải tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra của ngành đồng thời tạo điều kiện để quần chúng nhân dân kiểm tra
công tác của cán bộ, nhân viên trong ngành. Phải xây dựng và thực hiện chế độ
kiểm tra từ trên xuống cơ sở và kiểm tra lẫn nhau trong từng cửa hàng, từng đơn
vị của ngành lương thực để ngăn chặn và sửa chữa kịp thời những sai sót trong
việc quản lý, thực hiện kịp thời và nghiêm minh chế độ thưởng, phạt.
Ngoài việc kiểm tra nội bộ,
ngành lương thực còn phải làm tốt việc kiểm tra tình hình sử dụng lương thực của
các ngành và địa phương, ở bất cứ cơ quan, xí nghiệp nào.
Bộ trưởng Bộ Lương thực và thực
phẩm phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra tình trạng lãng phí, tham ô, lấy cắp,
làm mất hoặc làm hư hỏng lương thực của Nhà nước; cung cấp lương thực xấu (do bảo
quản không tốt) hoặc không đúng tiêu chuẩn.
|
T.M. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
K.T. THỦ TƯỚNG CHÍNH
PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Lê Thanh Nghị
|