ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN
TRE
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2882/QĐ-UBND
|
Bến Tre, ngày 28 tháng 12 năm 2018
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ
VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN CHƯƠNG TRÌNH MỖI XÃ MỘT SẢN PHẨM TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN
2018-2020, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa
phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Quyết định số
490/QĐ-TTg ngày 07 tháng 5 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Chương trình mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bến Tre giai đoạn
2018-2020;
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tại Tờ trình số 3175/TTr-SNN
ngày 26 tháng 12 năm
2018,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê
duyệt kèm theo Quyết định này Đề án Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bến
Tre giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2030.
Điều 2. Các
Sở, ngành, địa phương có liên quan căn cứ theo chức năng nhiệm vụ tổ chức triển
khai thực hiện Đề án đảm bảo hiệu quả, đúng quy định.
Giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan theo dõi, tổng hợp,
báo cáo UBND tỉnh về tình hình thực hiện Đề án; chủ động tham mưu, đề xuất các
biện pháp để thực hiện có hiệu quả các nội dung của Đề án.
Điều 3. Chánh
Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn; Thủ trưởng các Sở, ban, ngành tỉnh; Chánh Văn phòng Điều phối Chương
trình xây dựng nông thôn mới tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố
và các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Quyết định này có hiệu lực
kể từ ngày ký./.
Nơi nhận:
- Như Điều 3 (để thực hiện);
- VPĐP NTM TW;
-
TT.TU, TT.HĐND;
-
UBMTTQVN tỉnh;
- CT, các PCT UBND tỉnh;
-
Chánh, các Phó
CVP
UBND tỉnh;
-
Phòng: TH, KT, TCĐT,
KGVX;
-
Cổng TTĐT UBND
tỉnh;
-
Lưu: VT.
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ
TỊCH
Cao Văn Trọng
|
MỤC
LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT
TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU - SỰ CẦN THIẾT, CĂN CỨ PHÁP LÝ, TỔNG QUAN, PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG, NGUYÊN
TẮC, PHƯƠNG
PHÁP
I. Sự cần thiết của việc xây dựng đề án
II. Căn cứ pháp lý
III. Tổng quan chung về Chương trình Mỗi xã một sản
phẩm
IV. Phạm vi, đối tượng, nguyên tắc thực
hiện
1. Phạm vi thực hiện
2. Đối tượng thực hiện
3. Nguyên tắc thực hiện
PHẦN THỨ NHẤT - ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH
TẾ XÃ HỘI VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM
TỈNH BẾN TRE
I. Điều kiện tự nhiên, cơ
sở hạ tầng
1. Điều kiện tự nhiên
2. Cơ sở hạ tầng
II. Kinh tế - xã hội
1. Kinh tế
2. Văn hóa, xã hội
III. Thực trạng phát triển các sản phẩm
nông nghiệp, sản
phẩm thủ công truyền thống của tỉnh Bến Tre
1. Trồng trọt
2. Chăn nuôi
3. Thủy sản
4. Thực trạng chế biến sản phẩm nông lâm
thủy sản
5. Thảo dược, dược phẩm
6. Ngành tiểu thủ công nghiệp
7. Ngành dịch vụ, du lịch
IV. Các sản phẩm tiềm năng cấp huyện
V. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu trong
phát triển và thương mại hóa sản phẩm đặc trưng, truyền
thống
1. Nhóm sản phẩm, dịch
vụ có tiềm năng 4 sao
2. Nhóm sản phẩm dịch vụ có tiềm năng 3
sao
3. Nhóm sản phẩm dịch
vụ tiềm năng 1-2 sao
PHẦN THỨ HAI NỘI DUNG ĐỀ ÁN CHƯƠNG
TRÌNH MỖI XÃ MỘT SẢN PHẨM TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2018-2020, ĐỊNH HƯỚNG 2030
I. Quan điểm
II. Mục tiêu
1. Mục tiêu tổng quát
2. Mục tiêu cụ thể
3. Định hướng phát triển
các nhóm sản phẩm
III. Nội dung Đề án
Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bến Tre
1. Hệ thống tổ chức
triển khai thực hiện Chương trình
Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bến Tre giai đoạn 2018 - 2020
2. Chu trình OCOP hàng năm
3. Nội dung thực hiện Chu trình OCOP tỉnh Bến
Tre
4. Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng,
thống kê, kiểm
soát
5. Công tác xúc tiến thương
mại
6. Xây dựng và triển khai
các nhiệm vụ, Đề án thành phần của Chương trình
7. Tổng kết Chương
trình
DANH MỤC CÁC
CHỮ VIẾT TẮT
CEO
HĐQT
HTX
KHCN
KHKD
MTQG
NN
NSNN
NTM
OCOP
OTOP
OVOP
OCOP-BT
PTNT
PTTH
TCVN
THT
TNHH
UBND
|
: Chief Executive Officer (Giám đốc)
: Hội đồng quản trị
: Hợp tác xã
: Khoa học công nghệ
: Kế hoạch kinh doanh
: Mục tiêu Quốc gia
: Nông nghiệp
: Ngân sách Nhà nước
: Nông thôn mới
: One Commune One Product (Mỗi xã,
phường Một sản phẩm)
: One Tambon One Product (Mỗi làng/cộng
đồng một sản phẩm)
: One Village One Product (Mỗi làng
xã Một sản phẩm)
: Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bến Tre
: Phát triển nông
thôn
: Phát thanh truyền hình
: Tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam
: Tổ hợp tác
: (Công ty) Trách nhiệm hữu hạn
: Ủy ban nhân dân
|
Phần
mở đầu
SỰ
CẦN THIẾT, CĂN CỨ PHÁP LÝ, TỔNG QUAN, PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG, NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG
PHÁP
I. Sự cần thiết của
việc xây dựng đề án
Trong những năm qua, kinh tế tỉnh Bến
Tre có sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu khá tích cực. Bình quân giai đoạn 2010-2017,
tốc độ tăng trưởng
kinh tế (GRDP) của tỉnh đạt 5,99%/năm. Tuy nhiên, so với bình quân chung của cả
nước và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, quy mô nền kinh tế của tỉnh Bến Tre
còn nhỏ, sức cạnh tranh thấp, các sản phẩm nông nghiệp vẫn đóng vai trò rất
quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh. Năm 2017, tỷ trọng nông nghiệp
chiếm 35,8%, công nghiệp - xây dựng 16,4% và thương mại - dịch vụ chiếm
45,6%1. Trong khi đó, lực lượng lao động chất
lượng cao ở khu vực
nông thôn còn hạn chế, chỉ có 11,7% lao động đang làm việc ở khu vực nông thôn
đã qua đào tạo.
Sau 08 năm thực hiện Chương trình Mục
tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới (từ 2010 đến 2018), Bến Tre đã đạt được
những kết quả nổi bật (có 30 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trung bình đạt tiêu
chí trên xã là 12,67 tiêu chí), diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc, đời sống
nhân dân được cải thiện và nâng cao. Bên cạnh đó, tỉnh Bến Tre cũng đang triển khai
thực hiện Chương trình Đồng
khởi khởi nghiệp và Phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2016-2020 nhằm phát triển
và gia tăng số lượng doanh
nghiệp trên địa bàn. Mục tiêu của Chương trình trong giai đoạn 2016-2020 là thành
lập 5-10 nhóm doanh nghiệp dẫn đầu trong các lĩnh vực như chế biến các sản phẩm
từ dừa, thủy sản, trái cây/cây ăn
trái, giống, công nghiệp phụ trợ, dịch vụ du lịch, xuất nhập khẩu, vận chuyển. Chương
trình này kỳ vọng sẽ hỗ trợ cho tỉnh Bến Tre thực hiện thành công Chương trình
xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp đến năm 2020. Tuy
nhiên, đến nay, ngành nông nghiệp của tỉnh vẫn gặp một số khó khăn, vướng mắc
như chưa sản xuất tập trung theo quy mô lớn, mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ
và gắn với chuỗi giá trị chưa chặt chẽ, thiếu các
doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị.
Chương trình Mỗi xã một sản phẩm được
xem là một trong những chương trình phát triển kinh tế quan trọng của cả nước,
là động lực phát triển kinh tế nông thôn, phục vụ có hiệu quả cho
Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Chương trình Mỗi xã một sản phẩm được
khởi xướng đầu tiên tại tỉnh Quảng Ninh từ năm 2013. Đến nay, chương trình đã gặt
hái được một số thành công ban đầu, tạo ra được nhiều sản phẩm thương hiệu, đáp ứng yêu cầu
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần vào sự phát triển kinh tế và xây dựng
nông thôn mới bền vững. Từ thành công của mô hình này, các địa phương khác trong
cả nước đã học hỏi kinh nghiệm
trong việc phát huy thế mạnh của sản phẩm truyền thống đặc trưng của địa phương
trên cơ sở chuyển đổi các nhóm hộ kinh doanh, cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, tự phát
sang hình thức liên kết tập thể, sản xuất tập trung vào sản phẩm có lợi thế của địa
phương.
Từ cơ sở nêu trên, tỉnh Bến Tre tiến
hành xây dựng và triển khai Đề án Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bến Tre
giai đoạn 2018-2020, định hướng 2030 (sau đây viết tắt là Chương trình OCOP Bến
Tre), Đây được xem là một trong những giải pháp phù hợp và cần thiết để thực hiện
nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới gắn liền với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, góp
phần đạt được mục tiêu của Chương trình Đồng Khởi khởi nghiệp và Phát triển doanh nghiệp
cũng như đẩy nhanh tiến độ hoàn thành Chương trình MTQG xây dựng NTM trên địa
bàn tỉnh.
II. Căn cứ pháp lý
- Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28
tháng 10 năm 2008 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
- Quyết định số 889/QĐ-TTg ngày 10
tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
- Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16
tháng 8 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020.
- Quyết định số 414/QĐ-TTg ngày 04
tháng 4 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai Nghị quyết
số 32/2016/QH ngày 23/11/2016 của Quốc hội về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu
quả việc thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại
ngành nông nghiệp.
- Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 07 tháng
5 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mỗi xã một sản phẩm
giai đoạn 2018 - 2020.
- Quyết định số 01/QĐ-BCĐTW của Ban chỉ
đạo Trung ương các chương trình MTQG giai đoạn 2016-2020 ngày 22 tháng 8 năm
2018 về Ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình Mỗi xã một sản phẩm giai đoạn
2018-2020.
- Chương trình số 10-CTr/TU ngày 28
tháng 4 năm 2016 của Tỉnh ủy về Đồng Khởi khởi nghiệp và Phát triển doanh nghiệp
tỉnh Bến Tre.
- Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 05 tháng
8 năm 2016 của Tỉnh ủy Bến Tre về xây dựng và hoàn thiện chuỗi giá trị sản phẩm
nông nghiệp chủ lực tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến năm
2025.
- Đề án số 6227/ĐA-UBND ngày 18 tháng
12 năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre về “Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh Bến Tre giai đoạn
2013-2015 và hướng đến năm 2020”.
- Quyết định số 1186/QĐ-UBND tỉnh Bến
Tre ngày 5 tháng 6 năm 2018 về việc phê duyệt Đề cương Đề án Chương trình quốc
gia Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bến Tre giai đoạn 2018-2020.
III. Tổng quan chung
về Chương trình Mỗi xã một sản phẩm
Chương trình Mỗi xã một sản phẩm bắt
nguồn từ ý tưởng của Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” (OVOP) của Nhật Bản.
Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” (“Isson, Ippin” Undo - theo tiếng Nhật và
“One village, One product” Movement - theo tiếng Anh) ngày nay đã trở thành một
cụm từ mang tính khu vực dùng để chỉ những hoạt động phát triển nông thôn với
những nét đặc trưng riêng.
“Mỗi làng” (isson, one village) là một
khái niệm mang tính ước lệ của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”, chỉ một cộng
đồng dân cư cụ thể nào đó, không phân biệt theo địa giới hành chính, cũng như về
quy mô.
“Một sản phẩm” (ippin, one product)
cũng là một khái niệm mang tính ước lệ của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”,
dùng để chỉ sản phẩm đặc trưng của một cộng đồng dân cư nào đó
tạo ra. Sản phẩm này thường có những đặc điểm rất riêng biệt của nơi sản xuất
ra nó, khiến cho mọi người có thể dễ dàng nhận ra nơi sản xuất giữa những sản
phẩm cùng loại. Một cộng đồng dân cư, “một làng” có thể sản xuất ra nhiều loại
sản phẩm khác, nhưng trong Phong trào
này, người ta thường chú trọng vào việc nâng cao chất lượng của loại sản phẩm nào có nhiều
nét đặc trưng của địa phương nhằm tạo ra sự khác biệt và làm tăng khả năng cạnh
tranh của chúng. Mặc dù vậy, tùy vào tình hình thực tế, khái niệm “Một sản phẩm”
được sử dụng một cách linh hoạt. Một làng, một cộng đồng dân cư có thể phát triển
một hoặc nhiều sản phẩm của mình, nhưng có khi hai hay nhiều
“làng” có thể kết hợp với nhau theo kiểu sản xuất dây chuyền (có “làng” chỉ sản
xuất bán thành phẩm, làm nguyên liệu cho “làng” khác hoàn chỉnh sản phẩm) để tạo
ra một loại sản phẩm, hàng hóa nào đó. Khái niệm “sản phẩm” cũng mang tính ước
lệ, chúng có thể là các loại nông, lâm sản đặc trưng trong vùng, có thể đã qua
chế biến như nấm Shiitake, rượu Sochu, chanh Kabosu... nhưng cũng có thể chỉ là
những bài dân ca, kỹ thuật canh tác, nông nghiệp hoặc các dịch vụ du lịch như dịch
vụ du lịch xanh, homestay...
Phong trào (undo, movement) không chỉ
mang nghĩa
phong trào thông thường mà còn là khái niệm chỉ các hoạt động mang ý nghĩa quần
chúng, sự phát triển nội
sinh của mỗi cộng đồng cư dân nói
chung và cư dân
nông thôn nói riêng.
Ở Nhật Bản,
chưa bao giờ tồn tại các khái niệm như Chương trình “Mỗi làng, một sản phẩm”
hay Dự án “Mỗi làng, một sản phẩm” mà chỉ có khái niệm Phong trào “Mỗi làng, một
sản phẩm” mà thôi.
Học tập kinh nghiệm thành công của Nhật Bản, nhiều quốc gia trong khu vực
và trên thế giới như Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc,... đã rất chú ý đến phát
triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn theo hướng nội sinh, chú trọng các nguồn
lực sẵn có làm động lực
phát triển (đất đai, tài nguyên, điều kiện địa lý, công nghệ truyền
thống, lòng tự hào, khả
năng sáng tạo,...) trong xây dựng và triển khai chiến lược phát triển kinh tế,
đặc biệt là
phát triển các vùng nông thôn. Dựa trên ý tưởng Phong trào OVOP của Nhật Bản, đến nay đã
có rất nhiều quốc gia đã hình thành các chương trình, phong trào riêng như: các
phong trào “Mỗi nhà máy, Một sản
phẩm”, “Mỗi thành phố, một sản phẩm”, “Mỗi làng, một báu vật” tại Trung Quốc;
Chương trình OTOP (One Tambon, One Product) tại Thái Lan; Phong trào “One
Barangay, One Product” (Mỗi làng, một sản phẩm) tại Philippines; Chương trình
“Mỗi làng một nhãn hiệu” tại Hàn Quốc.
Tại Việt Nam, dựa trên những thành
công và sự lan tỏa Phong trào tại Nhật Bản, Thái Lan và các nước khác trên thế
giới, ngay từ cuối những năm 1990, một số nhà khoa học, nhà quản lý ngành ở Việt
Nam đã tìm hiểu và vận dụng OCOP vào Việt Nam, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp,
điển hình là Đề án “Mỗi làng một nghề” với điểm nhấn là các làng nghề ở Việt
Nam. Một số địa phương ở Việt Nam đã
cố gắng triển khai Mỗi làng một nghề như Thừa Thiên - Huế, Bình Định, TP Hồ Chí Minh,
Vĩnh Long... Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Quảng Ninh đã được khởi xướng
và chính thức triển
khai từ năm 2013. So với Đề án Mỗi làng một nghề, Chương trình OCOP Quảng Ninh có sự
khác biệt quan trọng là: Đây là lần đầu tiên được triển khai theo cách có hệ thống,
với sự tham gia của cả hệ thống
chính trị, lấy trọng tâm là Chu trình OCOP thường niên; Chương trình OCOP tập trung
vào các đối tượng sản phẩm, không chỉ giới hạn ở các sản phẩm thủ công mỹ nghệ mà được
mở rộng thành 5 ngành hàng sản phẩm và dịch vụ. Từ thành công của mô hình này,
các địa phương khác trên cả nước đã học hỏi kinh nghiệm trong việc phát huy thế
mạnh của sản
phẩm truyền thống đặc trưng của địa phương trên cơ sở chuyển đổi các nhóm hộ
kinh doanh, cơ sở sản xuất
nhỏ lẻ, tự phát sang hình thức liên kết tập thể, sản xuất tập trung vào sản phẩm
có lợi thế của địa phương. Từ đó, tạo ra được nhiều sản phẩm thương hiệu, đáp ứng yêu cầu
tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu, góp phần vào sự phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới bền
vững.
IV. Phạm vi, đối tượng,
nguyên tắc thực hiện
1. Phạm vi thực hiện
- Phạm vi không gian: 9 huyện, thành
phố trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2018 đến năm
2020.
2. Đối tượng
thực hiện
a) Sản phẩm: Bao gồm các sản phẩm
hàng hóa và sản phẩm dịch vụ có nguồn gốc từ địa phương hoặc được thuần hóa,
trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái, văn
hóa, nguồn gen, tri thức và công nghệ địa phương. Từ nay đến 2020, tập trung
vào 6 nhóm/ngành hàng:
- Thực phẩm: Nông sản tươi sống
(rau củ quả tươi, nấm, trái cây tươi các loại, như dừa, chôm chôm, sầu riêng,
nhãn,...); sản phẩm
thô và sơ chế (dùng để chế biến các sản phẩm như: gạo, ngũ cốc, tôm, cá một
nắng, cá đông lạnh, xúc xích, thịt hun khói, thịt tươi, thủy sản tươi,...); thực
phẩm tiện lợi (đồ ăn nhanh, tương, tương ớt, nước mắm, sản phẩm được chế biến từ
rau, củ, quả, thực phẩm chế biến từ thịt, trứng, sữa, thực phẩm chế biến từ thủy
sản, thực phẩm chế biến từ gạo và ngũ cốc).
- Đồ uống: Gồm đồ uống có cồn
(rượu ngâm ủ, rượu chưng cất, rượu vang, ...); đồ uống không cồn (nước trái
cây, trà, trà thảo dược,...).
- Thảo dược: Gồm các sản
phẩm có thành phần từ thảo dược như thuốc y học cổ truyền, thực phẩm chức năng,
thuốc từ dược liệu, mỹ phẩm từ thảo dược (mặt nạ dừa, son dừa,...), chế phẩm
xua đuổi/diệt trừ côn trùng,...
- Lưu niệm - nội
thất - trang trí: Gồm các sản phẩm từ gỗ, sợi, mây tre, kim loại, gốm sứ,
dệt may,... làm đồ lưu niệm, đồ gia dụng, đồ dùng nhà bếp, đồ nội thất,
trang trí các tòa nhà,...
- Dịch vụ du lịch nông thôn, bán hàng: Gồm các sản
phẩm dịch vụ phục vụ hoạt động tham quan, du lịch, giải trí, học tập, nghiên cứu,...
- Nhóm sản phẩm
nông nghiệp, truyền thống khác: Gồm các sản phẩm đặc trưng như cây giống các
loại, hoa kiểng các loại, than hoạt tính, nhang sinh học, gà nòi,...
b) Chủ thể thực hiện: Tất cả chủ
thể sản xuất sản phẩm của địa phương, tập trung vào chủ thể là các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác (THT), các hộ sản xuất có đăng ký kinh
doanh.
3. Nguyên
tắc thực hiện
Việc triển khai Chương trình OCOP cần
được định hướng và tổ chức thực hiện theo cách tuân thủ đầy đủ 3 nguyên tắc
sau:
1) Hành động địa phương hướng đến toàn
cầu;
2) Tự lực, tự tin và sáng tạo;
3) Đào tạo nguồn nhân lực.
Hành động địa phương hướng đến toàn cầu:
Để gia nhập vào thị trường thế giới, các sản phẩm cần được cải tiến, thiết
kế lại cho phù hợp thị hiếu của người tiêu dùng. Các sản phẩm cần đáp ứng
các tiêu chuẩn/yêu cầu và vượt qua được các hàng rào kỹ thuật của thị trường
tiêu thụ (như tiêu chuẩn organic,...). Để làm điều này, cần tập trung vào hình thành,
tái cơ cấu và hỗ trợ các tổ chức kinh tế tại cộng đồng (HTX, doanh nghiệp) hơn
là các cá nhân, hộ gia đình đơn lẻ, để có pháp nhân công bố tiêu chuẩn chất lượng
và tổ chức sản xuất ở quy mô lớn hơn.
- Tự lực, tự tin và sáng tạo: Kiến tạo
môi trường sáng tạo cho người dân thông qua đánh giá và xếp hạng sản phẩm, từ
đó người dân xác định được các điểm còn yếu của sản phẩm để cải tiến và tiếp tục
tham gia vào cuộc thi đánh giá và xếp hạng tiếp theo. Các sản phẩm được đánh
giá và xếp hạng cao hơn vẫn có thể dự thi để tiếp tục nâng cấp sản phẩm.
- Đào tạo nguồn nhân
lực: Tập trung xây dựng và hình thành một ngành đào tạo mới, song song với đào
tạo "chất lượng cao" ở các trường đại học và cao đẳng: đào tạo các lãnh
đạo, quản lý của các tổ chức kinh tế tại cộng đồng. Chương trình này được thiết
kế riêng cho đối tượng có trình độ học vấn thấp hơn, thiết thực hơn và có phần
thực hành bám sát các tình huống thực tiễn trong vận hành sản xuất kinh doanh
các tổ chức kinh tế tại cộng đồng.
Phần
thứ nhất
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ THỰC TRẠNG PHÁT
TRIỂN CÁC SẢN PHẨM TỈNH BẾN TRE
I. Điều kiện tự
nhiên, cơ sở hạ tầng
1. Điều kiện tự nhiên
a) Vị trí địa lý và khí hậu
Bến Tre là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông
Cửu Long, có diện tích tự nhiên là 2.360 km2, được hợp thành bởi cù
lao An Hóa, cù lao Bảo, cù lao
Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long (sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm
Luông, sông Cổ Chiên) bồi đắp thành. Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 86 km, cách thành
phố Cần Thơ 120 km, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía Tây và phía
Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh
Trà Vinh, phía Đông giáp biển Đông. Về khí
hậu, Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với hai mùa rõ rệt:
mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình
hàng năm từ 2.000 đến 2.300 mm, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26°C - 27°C. Với
vị trí nằm tiếp giáp biển Đông, nhưng Bến Tre ít chịu ảnh hưởng của
bão lũ, khí hậu ôn hòa, mát mẻ quanh năm... Đây là điều
kiện thuận lợi cho việc đầu tư, sản xuất, kinh doanh và phát triển hoạt động du lịch của tỉnh.
b) Về địa hình
Tỉnh Bến Tre có địa hình bằng phẳng, rải
rác những giồng cát xen kẽ với ruộng, vườn,
không có rừng cây lớn, chỉ có một số rừng chồi và những dải rừng ngập mặn
ở ven biển và các cửa sông. Nhìn từ trên cao xuống, Bến Tre có hình giẻ quạt, đầu nhọn nằm
ở thượng nguồn, các nhánh sông lớn như hình nan quạt xòe rộng về phía đông.
Phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía
nam giáp tỉnh Trà Vinh, phía tây giáp tỉnh Vĩnh Long, có ranh giới chung là
sông Cổ Chiên, phía đông giáp biển Đông, với chiều dài bờ biển là 65 km.
c) Hệ thống kênh rạch và sông ngòi
Bến Tre có những con sông lớn nối từ
biển Đông qua các cửa sông chính (cửa Đại, cửa Ba Lai,, cửa Hàm Luông, cửa Cổ
Chiên) ngược về phía thượng nguồn đến tận Campuchia. Từ Bến Tre, tàu bè có thể đến
Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Tây; ngược lại, tàu bè từ Thành phố Hồ
Chí Minh về các tỉnh miền Tây đều phải qua Bến Tre. Tỉnh có 4 con sông lớn chảy
qua là: Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên và hệ thống kênh rạch chằng chịt khoảng
6.000 km đan vào nhau chở nặng phù sa chảy khắp ba dải cù lao. Những con sông này giữ một
vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa của nhân dân trong tỉnh như:
cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và nông nghiệp, góp phần làm tươi đẹp
cảnh quan, điều hòa khí hậu và tạo thành một lợi thế trong phát
triển giao thông đường thủy, hệ thống thủy lợi, phát triển kinh tế biển, kinh tế
vườn và trao đổi hàng hóa với các tỉnh lân cận.
d) Tài nguyên thiên nhiên
Bến Tre là tỉnh có nguồn tài nguyên đất
phong phú, với nhiều loại đất như: đất cát, đất phù sa, đất phèn, đất mặn. Sản
xuất nông nghiệp của tỉnh được mở rộng theo hướng chuyên sâu; nhu cầu thâm
canh, tăng vụ ngày càng được chú trọng. Hơn 20 năm qua, bằng những nỗ lực của
mình, nhân dân
Bến
Tre cũng như cả vùng đồng bằng Nam Bộ đã tiến hành nhiều công trình "thau chua rửa mặn", cải tạo đất
đai nhằm khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên này có hiệu quả hơn. Ngoài
ra, do nằm ở giữa môi trường sông và biển, chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa
nhiệt đới nên cảnh quan tự nhiên của Bến Tre mang đặc trưng của miền Tây Nam Bộ.
Những con sông lớn và vùng biển Đông ở Bến Tre có nhiều loại thủy sản như: cá
vược, cá dứa, cá bạc má, cá thiều, cá mối, cá cơm, nghêu, của biển
và tôm,...
đây
là nguồn nguyên liệu vô cùng phong phú cho ngành công nghiệp chế biến thủy sản
của tỉnh phát triển. Rừng phòng hộ ở các huyện giáp biển (Ba Tri, Bình Đại và Thạnh
Phú) đang được bảo vệ thông qua việc trồng mới và quản lý chặt chẽ hoạt động lâm sản,
góp phần ổn định vành đai rừng phòng hộ ven biển. Bên cạnh đó, Bến Tre có đường
bờ biển dài hơn 65 km với những bãi biển rất hoang sơ và nguồn thủy hải sản vô
cùng phong phú. Đây là điểm đến đầy tiềm năng để phát triển du lịch biển kết hợp
dịch vụ ăn nghỉ, lưu trú.
2. Cơ sở hạ tầng
a) Giao thông
Hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh
có vị trí đặc biệt, tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh thông thương với khu vực
lân cận với đoạn đường nối liền Bến Tre và Thành phố Hồ Chí Minh (qua Tiền
Giang, Long An) dài 86 km và Quốc lộ 60 nối liền các tỉnh miền Tây đang được đầu
tư nâng cấp. Cầu Rạch Miễu, cầu Hàm Luông và cầu Cổ Chiên sau khi hoàn thành đã
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương, gắn kết kinh tế của tỉnh Bến
Tre với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và các vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam. Qua đó, tiềm năng kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh được khơi dậy và
phát triển mạnh mẽ. Đối với giao thông đường thủy, Bến Tre là tỉnh có hệ thống
sông ngòi khá phát triển với 4 con sông lớn chảy qua; đó là các con sông quan
trọng trong hệ thống giao thông đường thủy không chỉ của tỉnh mà còn của cả khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, hệ thống kênh rạch chằng chịt đan xen, nối
liền nhau đã tạo thành một mạng lưới giao thông và thủy lợi rất thuận tiện.
b) Bưu chính viễn
thông
Thời gian qua, hạ tầng bưu chính viễn
thông đã được đầu tư xây dựng rộng khắp trên phạm vi toàn tỉnh, mạng thông tin di
động 2G, 3G và 4G đã phủ sóng 100% địa bàn dân cư. Tỉnh cũng đã đầu tư xây dựng
và đưa vào sử dụng nhiều dự án hiện đại về công nghệ đảm bảo phục vụ yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm tới, Bưu chính viễn thông Bến Tre
sẽ tiếp tục có những sách lược, hướng đi phù hợp để phát triển kinh doanh bền vững,
phát triển nguồn nhân lực, tập trung xây dựng lực lượng cán bộ khoa học có
trình độ và năng lực quản lý, quyết tâm giữ vững vai trò chủ lực trong lĩnh vực
bưu chính viễn thông trên địa bàn tỉnh...
c) Điện lực
Những năm qua, ngành điện đã đầu tư
hàng ngàn tỷ đồng để xây dựng nhiều công trình trọng điểm như: trạm 220 kV Bến
Tre - 2 x 125 MVA đường
dây 220 kV Mỹ Tho - Bến Tre, đường dây 110 kV Mỏ Cày - Chợ Lách, đường dây 110 kV
Vĩnh Long - Chợ Lách, trạm 110 kV Chợ Lách. Do đặc thù địa hình sông ngòi chằng
chịt, nhiều cù lao ở xa đất liền cho nên ngành điện đã tập trung đầu tư nâng cấp
lưới điện và đưa điện về vùng sâu, vùng xa, đến từng hộ gia đình. Trong giai đoạn
2008 - 2017, ngành điện đã tập trung cải tạo lưới điện nông thôn với tổng vốn đầu tư
hơn 1.000 tỷ đồng để nâng cấp, xây mới các đường dây trung thế, hạ thế với chiều
dài hơn 7.000 km. Qua đó, tỷ lệ hộ dân sử dụng điện của tỉnh Bến Tre tăng từ
93% năm 2008 lên 99,89% vào cuối năm 2017.
II. Kinh tế - xã hội
1. Kinh tế
Trong những năm gần đây, sự tác động
chung của tình hình lạm phát, khủng hoảng tài chính thế giới và suy giảm kinh tế
trong nước đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và đời sống nhân dân trên địa bàn
tỉnh. Tuy nhiên với sự nỗ lực, cố gắng và đồng lòng của hệ thống chính trị và
nhân dân tỉnh nhà, kinh tế tỉnh vẫn đảm bảo duy trì ở mức tăng trưởng khá. GRDP bình
quân đầu người của tỉnh năm 2017 đạt 1.366 USD, tăng 19,4 % so với năm 2015. Cơ
cấu kinh tế của tỉnh tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm dần khu vực nông nghiệp
và gia tăng khu vực dịch vụ. Tỷ trọng tổng sản phẩm theo giá so sánh năm 2010,
khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 35,2%; khu vực công nghiệp - xây dựng
chiếm 17,2% năm 2017; khu vực dịch vụ chiếm 45,41%.
a) Sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp được coi là lĩnh vực chủ lực
và còn rất nhiều tiềm năng của tỉnh Bến Tre. Trong những năm qua, ngành nông nghiệp
đã có bước phát triển nhanh và khá toàn diện; hai thế mạnh kinh tế thủy
sản và kinh tế vườn tiếp tục là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Bến Tre là tỉnh có nhiều
lợi thế về nguồn
lợi thủy sản, với 65 km chiều dài bờ biển nên thuận lợi cho việc đánh bắt và nuôi trồng
thủy sản, tạo ra nguồn tài
nguyên biển phong phú với các loại tôm, của, cá, mực, nhuyễn thể,...
Đây còn là vùng đất phù sa trù phú và nhiều loại nông sản mang lại
hiệu quả kinh tế cao. Những vườn hoa kiểng, cây trái nổi tiếng ở vùng Cái Mơn - Chợ
Lách hàng năm cung ứng cho thị trường nhiều loại trái cây và hàng triệu
giống cây trồng, cây cảnh nổi tiếng. Đặc biệt, Bến Tre - xứ sở dừa Việt Nam là nơi có diện tích trồng
dừa lớn nhất cả nước. Cây dừa đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế của tỉnh, có thể
nói là “cây xóa đói, giảm
nghèo” đồng thời giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động, giúp nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống, góp phần đáng kể vào ngân sách địa
phương.
Ngày 18/12/2013, tỉnh đã ban hành Đề
án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển
bền vững giai đoạn 2013-2015, hướng đến năm 2020. Nhằm
góp phần thực hiện thành công đề án tái cơ cấu nông nghiệp, tỉnh Bến Tre đã chọn xây dựng
và phát triển 8 chuỗi giá trị sản phẩm nông sản chủ lực giai đoạn 2015 - 2020 và định hướng
đến năm 2025. Theo đó, 8 chuỗi giá trị sản phẩm nông sản chủ lực được tỉnh Bến
Tre lựa chọn là những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao, gồm bưởi da xanh, dừa,
chôm chôm, nhãn, hoa kiểng, lợn, bò và tôm biển. Đây là nhóm nông sản có đóng
góp đáng kể vào tăng trưởng chung của kinh tế tỉnh nhà.
Tính đến cuối năm 2017, toàn tỉnh Bến
Tre có khoảng 71.460 ha trồng dừa; diện tích cây ăn trái ước khoảng trên
28.000 ha, chủ yếu là các loại cây đặc sản như bưởi da xanh (trên 5.000 ha), chôm chôm (trên
5.500 ha), nhãn (trên 4.000 ha),...; diện tích trồng cây hoa kiểng khoảng 730
ha. Riêng đối với nuôi tôm biển (nuôi
thâm canh tôm thẻ chân trắng chiếm ưu thế hơn so với nuôi tôm sú) đã hình thành
các vùng nuôi tập trung chuyên canh, thâm canh tại ba huyện biển là Bình Đại,
Ba Tri và Thạnh Phú. Để xây dựng và phát triển 8 chuỗi giá trị sản
phẩm nông sản chủ lực thành công, tỉnh đang xây dựng thương hiệu, hoàn thiện
chuỗi và hình thành ít nhất một HTX kiểu mới tiêu biểu cho mỗi
nông sản tham gia chuỗi
giá trị; riêng đối với sản phẩm dừa, tỉnh sẽ xây dựng thương hiệu “sản phẩm mạnh” và hình
thành ít nhất 2 HTX dừa
trên địa bàn.
b) Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp trong thời gian qua gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên vẫn
duy trì được mức tăng trưởng khá. Lĩnh vực sản xuất công nghiệp phát triển khá ổn định.
Hạ tầng các khu công nghiệp được quan tâm đầu tư. Bến Tre đã hình thành và đưa
vào hoạt động hai khu công nghiệp là khu công nghiệp Giao Long và khu công nghiệp
An Hiệp với tỷ lệ lắp đầy 100%. Hiện nay, tỉnh đang thực hiện các thủ tục cần
thiết để triển khai xây dựng hạ tầng Khu công nghiệp Phú Thuận. Đặc biệt, việc
hoàn thành và đưa vào sử dụng các công trình cống đập Ba Lai và cầu
Rạch Miễu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mở ra tương lai phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội của tỉnh, đưa Bến Tre thoát khỏi thế “ốc đảo”, tạo sự
giao thương thuận lợi với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tạo đà phát triển
các mặt kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng cho toàn vùng.
c) Thương mại - dịch vụ
Mặc dù giá cả thị trường có nhiều biến
động, nhưng hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh vẫn phát triển khá ổn định, lượng
hàng hóa dồi dào, cơ bản đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng. Tổng mức
bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội đến năm 2017 ước đạt khoảng 28.359 tỷ đồng,
tăng bình quân 12,7%/năm trong giai đoạn 2010-2017. Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh
tăng trưởng khá. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, đến nay hàng hóa
của tỉnh đã xuất khẩu sang 79 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có một số thị trường
chủ lực như: Trung Quốc, EU, Nhật, ASEAN,...
Hoạt động du lịch có bước phát triển
khá, cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư, nâng cấp. Tổng doanh thu du lịch từ
142 tỷ đồng năm 2010, tăng lên 280 tỷ đồng năm 2017, tăng bình quân 12,4%/năm
trong giai đoạn 2010-2017. Tổng lượt khách du lịch tăng từ 669.514 lượt người năm
2010 tăng lên 1.975.279 lượt người
năm 2016; tăng bình quân là 11,1%/năm; trong đó khách quốc tế tăng bình quân là
16,5%/năm. Năm 2017, chỉ riêng lượng khách du lịch nội địa do các cơ sở lưu trú
phục vụ đã tăng lên 1.569.825 lượt khách.
Dịch vụ vận tải hàng hóa và hành khách
tiếp tục phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng phục vụ, đáp ứng tốt nhu cầu vận
chuyển hàng hóa và đi lại của người dân. Dịch vụ bưu chính viễn thông và Internet
tiếp tục phát triển nhanh, đa dạng chất lượng dịch vụ được nâng cao, an toàn
đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều của nhân dân và yêu cầu phát triển kinh
tế-xã hội trong tình hình mới.
d) Phát triển hạ tầng
kinh tế - xã hội
Hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm
đầu tư ngày càng đồng bộ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Trong năm 2017, tỉnh đã xây dựng mới, cải tạo và nâng cấp được 175,573 km đường
giao thông (trong đó xây mới 16,899 km đường nhựa, 109,32 km đường bê tông; cải
tạo, nâng cấp 49,354 km đường giao thông); hoàn thành và đưa vào sử dụng, xây mới
và cải tạo 54,2 km đường dây trung thế, 119 km đường dây hạ thế, trạm biến áp với
dung lượng 4.068 kVA; tiếp tục thi công 14 công trình trường học chuyển tiếp từ
năm 2016, xây dựng mới 23 công trình năm 2017; có 02 Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã
đạt chuẩn, 30 nhà văn hóa - khu thể thao ấp đạt chuẩn; xây mới 02 chợ, nâng cấp
03 chợ nông thôn; số nhà ở đạt chuẩn Bộ Xây dựng là 248.303 căn (đạt 77,4%), số
nhà tạm là 18.868 căn (chiếm 5,9%); các xã đăng ký đạt chuẩn nông thôn mới
được đầu tư trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất.
2. Văn hóa - xã hội
Toàn tỉnh có 860/986 ấp, khu phố được
công nhận danh hiệu “ấp, khu phố văn hóa”, với 39 ấp đạt danh hiệu ấp văn hóa
05 năm liên tục. Chất
lượng đời sống văn hóa của người dân nông thôn ngày càng được nâng lên. Mạng lưới
trường lớp được phát triển đều khắp, phù hợp với điều kiện của từng địa bàn, tạo
điều kiện thuận lợi cho học sinh đến trường. Đội ngũ cán bộ, giáo viên đạt chuẩn
đào tạo trở lên là 98%; tỷ lệ giáo viên đạt trình độ trên chuẩn ở các cấp
học mầm non 18,46%, tiểu học 59%, trung học cơ sở 46,4%, trung học phổ thông
9,4%. Bên cạnh đó, tỉnh có hai trường Cao đẳng và trên 60 cơ sở dạy nghề. Hàng
năm tỉnh đã đào tạo và giới thiệu việc làm cho khoảng 30.000 lao động, tỷ lệ
lao động qua đào tạo chiếm 36%. Bến Tre hiện có 31 trường trung học với khoảng
40.000 học sinh, trong đó có khoảng
12.000 học sinh trung học phổ thông tốt nghiệp hàng năm và khoảng 3.000 học
sinh bước vào các trường Đại học, Cao đẳng. Năm 2017, có 145/147 xã đạt phổ cập mầm non
5 tuổi, 140/147 xã đạt phổ cập Tiểu học
mức độ 2,49/147 xã đạt xóa mù chữ mức độ 2, 147/147 xã đạt phổ cập trung học cơ
sở mức độ 2. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở tiếp tục học tiếp trung học phổ
thông, bổ túc, trường nghề đạt 81,2%.
Hoạt động khoa học công nghệ của tỉnh có
nhiều tiến bộ, tạo nên sự chuyển biến trong nhận thức, tiếp thu khoa học và công
nghệ trong nhân dân. Công tác
nghiên cứu, ứng dụng
khoa học công nghệ vào sản
xuất và đời sống đạt nhiều kết quả, một số đề tài khoa học có tính ứng dụng cao góp
phần tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển mạnh mẽ hơn. Năm 2017, tỉnh Bến Tre có
khoảng 1.267 triệu người, với 64% dân số ở trong độ tuổi lao động. Trong đó phần lớn
lao động của tỉnh thuộc khu vực nông thôn, chiếm 90,71% tổng lực lượng
lao động. Công tác giải quyết việc làm có nhiều chuyển biến tích cực
góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động.
Công tác giảm nghèo được sự quan tâm của
toàn xã hội với nhiều hoạt động, giải pháp giảm nghèo hiệu quả được thực hiện như hỗ trợ vốn vay ưu đãi, chuyển
giao kiếp thức khoa học kỹ thuật, đầu tư cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi,
xây dựng mô hình xóa đói giảm
nghèo bền vững tạo điều kiện để người nghèo có việc làm ổn định và
nâng cao thu nhập.
Tính đến năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh khoảng
6,38%. Nguyên nhân chủ yếu là do trong hộ
gia đình có người mắc bệnh hiểm nghèo
hoặc bị tai nạn
mất sức lao động..., trong khi
chuẩn nghèo hiện nay còn thấp so với mức sống trung bình của người dân nên cuộc
sống của các hộ nghèo trong tỉnh vẫn còn khó khăn.
III. Thực trạng phát
triển các sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm thủ công truyền thống của tỉnh Bến Tre
1. Trồng trọt
a) Về cây Lúa: tổng diện
tích gieo cấy năm 2017 đạt
59.846 ha, tăng 44,05% (khoảng 18.300
ha) so với cùng kỳ năm 2016; năng suất trung bình cả năm đạt 41,27 tạ/ha, tăng 14,33%
(tăng 5,17 tạ/ha) so với cùng kỳ; tổng sản lượng lúa cả năm của toàn tỉnh đạt 246.965
tấn, tăng 181,9% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, diện tích cánh đồng mẫu đạt
khoảng 1.122 ha, với năng suất 55 tạ/ha: Diện tích lúa lớn nhất của tỉnh thuộc huyện Ba Tri chiếm
hơn 66% tổng diện tích lúa
toàn tỉnh, tiếp theo là các huyện
Thạnh Phú, Giồng Trôm, Bình Đại lần lượt chiếm khoảng 15,5%; 13,2% và 4,6%. Các
huyện và thành phố còn lại chỉ chiếm
dưới 1% hoặc không sản xuất lúa.
Hiện nay, người trồng lúa trên địa bàn
tỉnh đang tập trung
chuyển hướng sang trồng lúa sạch, hữu cơ, áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, điển hình
như mô hình trồng lúa - tôm tại xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú. Năm 2014, từ một THT sản
xuất nhỏ, xã đã nhanh
chóng phát triển tổ
hợp tác này lên thành HTX lúa - tôm Thạnh Phú với sự tham gia của 85 hộ, diện
tích 105
ha.
Sản phẩm lúa gạo hữu cơ
của
HTX được Cục Sở hữu
trí tuệ công nhận nhãn hiệu, sản phẩm đã có mặt khắp các siêu thị, cửa hàng và xuất khẩu sang các nước
Châu Âu. Hàng năm, HTX sản xuất
và cung cấp ra thị trường gần 450 tấn lúa sạch (giá lúa sạch bình quân 7.000 đồng/kg, lúa hữu cơ
8.500 đồng/kg).
b) Về Cây dừa: Dừa là một
ngành hàng chủ lực của tỉnh Bến Tre. Hiện nay diện tích dừa của Bến Tre cao nhất
cả nước (chiếm khoảng 42%), và năng suất dừa Bến Tre cũng khá cao so với chuẩn
quốc tế (khoảng 7.700 trái/ha/năm), tương đương với năng suất dừa Ấn Độ và Sri
Lanka. Đến cuối năm 2017, diện tích trồng dừa trên địa bàn tỉnh đạt 71.461 ha;
trong đó diện tích cho thu hoạch là 64.647 ha với năng suất đạt 8,8 tấn/ha. Dừa
được trồng tập trung chủ yếu ở các huyện Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, một
phần của huyện Bình Đại và Châu Thành. Trong đó, Giồng Trôm là huyện có diện
tích dừa lớn nhất của Bến Tre với khoảng 17.260 ha, chiếm 24,2% diện tích dừa
toàn tỉnh. Mỏ Cày Nam và Mỏ Cày Bắc là hai huyện có diện tích dừa lớn thứ hai
và thứ ba, với diện tích lần lượt là 16.346 ha và 9.356 ha (chiếm 22,9% và
13,1% diện tích dừa toàn tỉnh). Tiếp theo là ba huyện Châu Thành, Bình Đại và
Thạnh Phú có diện tích khá bằng nhau, lần lượt chiếm 11,1%, 10,2%, và 9,6% tổng
diện tích dừa toàn tỉnh. Các huyện Chợ Lách, Ba Tri và Thành phố Bến Tre có diện
tích dừa ít hơn, tổng diện tích dừa của cả ba địa phương này chỉ chiếm khoảng
8,9% diện tích toàn tỉnh.
Các giống dừa đang được trồng tại tỉnh
khá đa dạng. Hiện nay, có khoảng 12,5% diện tích trồng dừa Bến Tre là các giống
dừa thuộc nhóm cho trái tươi (dừa lấy nước) phổ biến như các giống Xiêm xanh,
Xiêm vàng, Xiêm đỏ, Xiêm lục, dừa Tam Quan, dừa Dứa. Khoảng 85% diện tích còn lại
trồng các giống dừa chế biến công nghiệp hoặc đa dụng như nhóm dừa Ta (Ta xanh,
Ta vàng, Ta đỏ), dừa Dâu (Dâu xanh, Dâu vàng, Dâu đỏ), giống lai PB121, JVA 2,
và giống lai khác. Các vùng trồng dừa tươi phân bố xen kẽ với vùng dừa chế biến
công nghiệp. Trong đó, sản phẩm dừa nước xiêm xanh Bến Tre đã được Cục Sở hữu
trí tuệ quốc gia cấp giấy chứng nhận Chỉ dẫn địa lý.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm dừa Bến
Tre trải rộng khắp cả nước và xuất khẩu. Thị trường trong nước chủ yếu tiêu thụ
các sản phẩm dừa tươi uống nước. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Trung Quốc với
các sản phẩm nguyên liệu dừa thô. Bên cạnh đó, các loại sản phẩm dừa qua chế biến
như cơm dừa nạo sấy, sữa dừa, kẹo dừa, thạch dừa thô, than gáo dừa (đã xay),
than hoạt tính, xơ dừa, mụn dừa, dầu dừa... đã xuất khẩu sang 85 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Kim ngạch
xuất khẩu sản phẩm từ dừa năm 2017 đạt khoảng 180,118 triệu USD, chiếm 21,43% tổng
kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.
c) Cây ăn trái: tỉnh Bến Tre
có điều kiện thuận lợi để phát triển các loại cây ăn quả đặc sản. Các loại cây
ăn quả đặc sản của Bến Tre tập trung chủ yếu ở các huyện vùng nước ngọt (Chợ
Lách, Châu Thành) và một phần các huyện vùng lợ (thành phố Bến Tre, huyện Giồng
Trôm, Mỏ Cày Nam và Mỏ Cày Bắc) với nhiều chủng loại trái cây nổi tiếng, chất
lượng cao như bưởi da xanh, sầu riêng, măng
cụt, nhãn...
Năm 2017, diện tích cây ăn trái của Bến
Tre ước đạt 28.283 ha, với sản lượng của các loại cây ăn quả chính đạt hơn
292.000 tấn. Trong đó, các loại cây có diện tích trồng lớn nhất là bưởi (bưởi da xanh) với
8.277 ha (chiếm 29,3% tổng diện tích cây ăn quả), chôm chôm với 5.455 (chiếm
19,3%). Các loại cây như măng cụt, nhãn, chanh, cam quýt, sầu riêng và chuối có
diện tích trồng tương đương nhau chiếm khoảng từ 5% đến 8% tổng diện tích cây
ăn quả của toàn tỉnh cho mỗi loại. Xoài và những cây trồng khác chiếm khoảng 9%
còn lại.
Trong các loại trái cây của Bến Tre, Bưởi
được liệt kê vào nhóm có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh cao trên thị trường trong
và ngoài nước. Trong đó giống bưởi da xanh đặc sản của tỉnh Bến Tre đã được Bộ
Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận là giống quốc gia, được thị
trường tiêu thụ trong nước và cả ngoài nước rất ưa chuộng vì phẩm chất ngon đặc
trưng và đã được cấp chứng nhận chỉ dẫn địa lý. Tính đến cuối năm 2017, tổng diện
tích
bưởi
của Bến Tre là 8.277 ha, diện tích cho thu hoạch 5.233 ha, sản lượng đạt khoảng
11,7 tấn/ha. Cây bưởi được trồng ở hầu hết các huyện của tỉnh, nhưng tập trung
nhiều ở các huyện Châu Thành (hơn 3.150 ha) , Giồng Trôm (1.619 ha), Mỏ Cày Bắc
(1.220 ha) và thành phố Bến Tre (767 ha).
Đến cuối năm 2018, Bến Tre có diện
tích Sầu riêng khoảng 2.062 ha, diện tích đang cho trái 1.577 ha, năng
suất bình quân 12 tấn/ha,
sản lượng 20.753 tấn, tập trung ở các xã vùng ngọt của huyện Chợ Lách và Châu
Thành. Hiện nay, diện tích trồng mới sầu riêng đang tăng do hiệu quả
kinh tế cao, ít tốn công
thu hoạch và được trồng trên các vườn cây lâu năm đã già cỗi ở vùng ngọt
cần thanh lý. Sầu riêng
trên đất Bến Tre phần lớn được thâm canh, rải vụ khá triệt để, vì vậy, hiệu quả
kinh tế của sầu riêng mang lại rất hấp dẫn đối với người nông dân.
Chôm chôm là cây trồng có diện
tích lớn thứ 2 trong
các loại cây ăn quả của
tỉnh và lớn nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích trồng chôm chôm tính đến năm
2018 là 5.430 ha, trong đó, diện tích
đang cho thu hoạch là 5.220 ha. (chiếm 96,1%), sản lượng đạt 111.082 tấn.
Chôm chôm của Bến Tre trồng khá tập trung ở 3 huyện là Chợ Lách
với 3.320 ha
(chiếm 61,1%), Châu Thành với 2.100 ha (chiếm 38,6%) và một phần nhỏ
ở huyện Mỏ Cày Bắc chỉ có khoảng 10
ha. Chôm chôm cũng là cây có năng suất cao nhất trong các loại cây ăn quả chính của Bến
Tre, năng suất bình quân khoảng 20 tấn/ha/năm.
Cây nhãn là cây có diện
tích lớn của tỉnh và chất lượng cao của tỉnh, tuy nhiên diện tích
nhãn đang dần thu hẹp khá nhanh trong những năm gần đây. Tính đến năm 2018, diện tích
nhãn của toàn tỉnh chỉ còn
2.656 ha (giảm gần 16% so với năm 2016). Hiện nay cây nhãn của Bến
Tre chỉ còn được trồng nhiều nhất ở huyện Bình Đại với 1.716 ha, sản lượng đạt gần 21.593 tấn/năm.
Châu Thành và Chợ Lách là hai huyện còn diện tích trồng nhãn đáng kể, tuy nhiên diện
tích này cũng đang thu hẹp
nhanh chóng. Các huyện còn lại vẫn còn trồng rải rác ở một số nơi với diện tích thấp.
Hiện nay, với diện tích còn lại, các hộ trồng nhãn đang chuyển
dần sang canh tác
theo tiêu chuẩn như VietGAP nhằm
nâng cao chất lượng của quả nhãn, hướng đến các thị trường giá trị cao và xuất
khẩu.
Măng cụt Bến Tre được trồng ở
ba huyện Chợ Lách (960 ha), Mỏ Cày Bắc (210 ha), và Châu Thành (145 ha); thống
kê đến năm 2017, diện tích măng cụt cho thu hoạch của toàn tỉnh là 1.324 ha, sản
lượng đạt khoảng 5.677 tấn/năm. Xoài cũng là một trong những cây trồng
truyền thống của
Bến Tre, tuy nhiên trong những năm gần đây diện tích xoài trong tỉnh đã suy
giảm nhanh chóng. Diện tích xoài toàn tỉnh đã giảm từ hơn 2.000 ha năm 2006 xuống
chỉ còn 697 ha năm 2018; Hiện nay cây xoài được trồng rải rác ở tất cả các huyện, thành
phố, trong đó nhiều nhất là 2 huyện Thạnh
Phú (250 ha) và Bình Đại
(188 ha).
d) Rau, nấm: Các loại cây
rau màu được người
dân Bến Tre canh tác quanh năm, diện tích trồng rau màu năm 2017 toàn tỉnh ước khoảng
6.096 ha; giảm 7,92 so với cùng kỳ năm 2016. Tổng sản lượng rau màu của tỉnh cả
năm ước đạt 118.932 tấn/năm. Nguyên nhân giảm diện tích chủ yếu là do lượng mưa
tăng gây ngập úng tại nhiều vùng, người dân chuyển sang trồng dừa, các loại cây lâu
năm khác và cỏ cho chăn
nuôi gia súc... Tuy nhiên, hiện nay các mô hình trồng rau an toàn, rau hữu cơ đang có
xu hướng phát triển tốt trên địa bàn tỉnh.
Hiện nay, diện tích rau, đậu phân bổ nhiều nhất
tại 3 huyện là Ba Tri (1.976 ha), Thạnh Phú (1.522 ha), Bình Đại (1.002 ha). Thạnh
Phú là huyện có năng suất cao nhất
tỉnh với 298 tạ/ha/năm, tiếp theo là huyện Bình Đại có năng suất đạt 207 tạ/ha/năm,
trong khi đó các huyện còn lại sản lượng thấp hơn khá nhiều, chỉ ở mức 120-130 tạ/ha/năm.
Bên cạnh các loại cây rau đậu, hiện nay người dân đang phát triển các mô hình trồng nấm, mang lại
thu
nhập
cao cho người nông dân. Các loại nấm
đang được nuôi trồng chủ yếu là nấm bào ngư, nấm rơm, nấm linh chi. Một số mô
hình khởi nghiệp trồng nấm tại huyện Ba Tri, Chợ Lách, Châu Thành, Giồng Trôm
đã cho thấy hiệu quả kinh tế cao và đang được nhân rộng trên địa bàn một số huyện
khác trong tỉnh.
e) Cây giống và hoa kiểng: Cây hoa kiểng
và cây giống là một sản phẩm đặc biệt và tạo được thương hiệu, dấu ấn của Bến
Tre và là một trong 8 ngành hàng chủ lực của tỉnh. Hiện nay, sản lượng hoa kiểng
của tỉnh ước đạt 15 triệu sản phẩm các loại, giá cả tương đối tốt, đặc biệt là
trong dịp Tết Nguyên đán.
Diện tích hoa kiểng đạt 733 ha trong năm 2017. Làng nghề cây giống và hoa kiểng
ở huyện Chợ Lách được biết đến là nơi sản xuất cây giống và hoa kiểng nổi tiếng
cả khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện tại, tại Chợ Lách có 17 làng nghề cây
giống và hoa kiểng được công nhận, phần lớn đều tập trung tại xã Vĩnh Thành, xã
Phú Sơn và Vĩnh Hòa.
2. Chăn nuôi
Trong những năm gần đây, ngành chăn
nuôi của tỉnh phát triển nhanh chóng, bình quân tăng khoảng 9%/năm, chủ yếu là
các loại vật nuôi như bò, lợn, dê, gia cầm. Trong năm 2017, tổng đàn bò toàn tỉnh có khoảng 206.241 con,
trong đó tập trung nhiều tại 3 huyện Ba Tri (chiếm 47,57%), Thạnh Phú (chiếm
19,71%), Giồng Trôm (chiếm 10,45%); sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng năm 2017
đạt 19.092 tấn, tăng 4,39% so với năm 2016. Tổng đàn lợn toàn tỉnh là 635.082
con, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt khoảng 136.989 tấn. Tổng đàn gia cầm
ước khoảng 5.212 nghìn con, sản lượng thịt xuất chuồng đạt 15.342 tấn, đàn gia
cầm chủ yếu là đàn gà thả vườn với quy mô lớn. Dê, cừu được nuôi ở tất cả các
huyện trên địa bàn tỉnh và phát triển rất nhanh, tính đến năm 2017 toàn tỉnh có
161.574 con, tăng gần 4,5 lần so với năm 2010. Huyện có số lượng dê nhiều nhất
là các huyện Giồng Trôm với gần 37.000 con, Thạnh Phú với 24.573 con, Ba Tri với
20.479 con, các huyện còn lại cũng có số lượng dê khá cao từ 10.000 - 20.000
con, thấp nhất là thành phố Bến Tre chỉ có khoảng 2.428 con.
3. Thủy sản
Bến Tre có lợi thế mạnh và tiềm
năng phát triển ngành nuôi trồng và khai thác thủy sản. Trong những năm gần
đây, tình hình thời tiết thuận lợi đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản, đặc
biệt là nuôi tôm biển thâm canh. Hoạt động khai thác thủy sản biển của các tàu
trên địa bàn tỉnh nhìn chung ổn định và có bước phát triển. Ngư dân linh hoạt,
chủ động trong ứng phó khắc phục khó khăn, cải tiến ngư cụ, trang thiết bị,
chuyển đổi ngư trường phù hợp, đầu tư vươn khơi bám biển. Tổng sản lượng thủy sản
toàn tỉnh năm 2017 ước đạt 466,2 nghìn tấn, trong đó sản lượng tôm ước đạt 67,5
nghìn tấn, sản lượng cá ước đạt 331,9 nghìn tấn và các loại thủy sản khác ước đạt
66,8 nghìn tấn. Một
trong những ưu điểm nổi bật của nghề nuôi thủy sản Bến Tre hiện nay là các
doanh nghiệp ngày càng mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng thực
hành nông nghiệp tốt vào sản xuất,
đạt chứng nhận GlobalGap, ASC, MSC, BAP, AquaGap.., để xuất khẩu vào các thị
trường có yêu cầu cao.
Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản của
toàn tỉnh ước đạt 45.240 ha, trong đó diện tích nuôi thâm canh - bán thâm canh
là 11.839 ha chủ yếu là diện tích nuôi tôm biển (11.037 ha), còn lại là 669 ha
nuôi cá tra và 133 ha nuôi các loại cá khác. Sản lượng thủy sản nuôi ước đạt
262,4 nghìn tấn, chủ yếu là tôm biển. Trong năm 2017, diện tích nuôi tôm sú khoảng
24.248 ha. Hình thức nuôi tôm sú chủ yếu là nuôi quảng canh, tập trung ở ba huyện
ven biển là Ba Tri, Bình Đại và
Thạnh Phú. Từ năm 2017, phương thức nuôi quảng canh giảm do người nuôi chuyển
phần diện tích nuôi này sang nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh và một ít chuyển
sang nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh. Diện tích nuôi tôm sú thâm canh, bán
thâm canh của toàn tỉnh hiện khoảng 784 ha, chiếm 3,32% tổng diện tích nuôi tôm
sú. Tổng sản lượng nuôi tôm sú đã thu hoạch trong năm ước đạt 5.000 tấn. Đối với
tôm thẻ chân trắng, diện tích nuôi ước khoảng 11.194 ha, trong đó diện tích
nuôi thâm canh và bán thâm canh là 10.253, chiếm 91,6%; sản lượng tôm thẻ chân trắng
thu hoạch trong năm ước đạt 51.000
tấn. Hiện nay môi trường nuôi tôm thẻ khá ổn định, giá cả đầu ra luôn ở mức
cao, nên nhiều hộ đầu tư mở rộng diện tích.
Diện tích nuôi cá thâm canh ước đạt
669 ha. Sản lượng cá tra thâm canh ước đến cuối năm 2017 đạt khoảng 171,3 nghìn
tấn. Sản lượng nghêu năm 2017 ước đạt
4,8 nghìn tấn, giảm 39,56% so với
cùng kỳ năm 2016; nguyên nhân giảm là do môi trường bị ảnh hưởng khiến lượng nghêu
giống tại một số sân nghêu xuất hiện ít. Đối với sò, sản lượng thu hoạch
năm 2017 ước đạt 7,2 nghìn tấn, giảm 15,66% so với cùng kỳ năm 2016, nguyên
nhân do hiện tượng xâm nhập mặn. Sản lượng hàu đạt 2,6 nghìn tấn năm.
4. Thực
trạng chế biến sản phẩm nông, lâm thủy sản
a) Chế biến thực phẩm từ dừa
Ngành công nghiệp chế biến dừa ở Bến
Tre những năm gần đây đã có sự phát triển nhanh, khá chắc chắn và phong phú về
mặt hàng. Công nghiệp chế biến dừa chiếm tỷ trọng khá lớn trong ngành công nghiệp
chế biến, được xem là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Giá trị sản xuất công nghiệp
các sản phẩm dừa (giá so sánh 2010) năm 2017 ước đạt 3.000 tỷ đồng.
Trái dừa sau thu hoạch được chế biến
thành nhiều sản phẩm, chủng loại sản phẩm
khác nhau (nhóm cơm dừa, nước dừa,...).
Hiện nay, Bến Tre có khoảng 236 cơ sở
sơ chế dừa; đây là nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho các doanh nghiệp chế
biến các sản phẩm từ trái dừa. Toàn tỉnh có 44 doanh nghiệp chế biến 05 nhóm, sản phẩm
chính: cơm dừa nạo sấy, sữa dừa, bột
sữa dừa, kẹo dừa, dầu dừa. Tổng công suất tiêu thụ thiết kế của
các nhà máy chế biến
cơm dừa lên 1,253 tỷ trái. Tuy nhiên, các
nhà máy vẫn chưa huy động được hết
công suất nên sản lượng dừa được đưa vào chế biến chỉ
đạt khoảng 500 triệu trái vào năm 2017. Hiện tại công suất chế biến dừa đã hơn
02 lần tổng sản lượng dừa của tỉnh, nếu các nhà máy hoạt động hết công suất thì
sản lượng dừa khô của
toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng
không đủ đáp ứng cho phục vụ chế biến. Đây là nhóm có trình độ kỹ thuật cao nhất
của ngành dừa, hầu hết các công đoạn đều được cơ giới hóa, áp dụng nhiều loại công nghệ
mới, các sản phẩm đáp ứng được yêu cầu thị trường.
b) Chế biến từ thủy sản: Về lĩnh vực
chế biến thủy sản, toàn tỉnh hiện có khoảng 400 cơ sở thu mua, sơ chế, chế biến
thủy sản. Trong đó, chủ yếu là thu mua, sản xuất thủy sản khô còn lại là các cơ sở sản
xuất nước mắm,
sơ chế ghẹ, sản xuất cá đóng hộp và 10 nhà máy chế biến thủy sản phục vụ xuất
khẩu với công suất thiết kế khoảng 140.000 tấn, sản lượng 62.000 tấn sản phẩm/năm.
5. Thảo dược, dược phẩm
Mỹ phẩm từ dừa là một sản phẩm giá trị gia tăng cao đang được một số
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh nghiên cứu và phát triển. Các sản phẩm tiềm
năng như dầu dừa tinh khiết, mặt
nạ dừa, kem dưỡng da, son từ
dừa... đã được thương mại hóa ở quy mô lớn, tuy nhiên sản lượng vẫn chưa ổn định.
Trong những năm gần đây, mô hình trồng nấm
linh chi làm thuốc
đang phát triển tại một số địa phương trong tỉnh. Nấm linh chi là loại
thảo dược, thức ăn giàu chất dinh dưỡng, giá
thành khá cao và nhu cầu sử dụng nấm khá lớn. Hiện nay, đã hình thành nhiều
THT,
HTX
sản xuất nấm linh chi, và chế biến các sản phẩm từ linh chi như nấm linh chi xắt
lát, rượu linh chi...
Sa sâm có tên khoa học học
là Launaea Sarmentosa, thuộc họ Cúc. Sa Sâm được cho là cây “nhân sâm” quý, từ
lâu, đã phát triển tốt trên vùng đất giồng cát ven biển ở huyện Thạnh Phú. Hiện
nay tại Bến Tre, Công ty Cổ phần Sa Sâm Việt đang đầu tư sản xuất cây sa sâm
nguyên liệu theo hướng hữu cơ và áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn
VietGAP cho diện tích 1,5 ha trồng cây sa sâm nguyên liệu, với sản lượng 150 tấn/năm.
6. Ngành tiểu thủ công nghiệp
Bến Tre là một trong những tỉnh ở Nam
Bộ còn tồn tại nhiều làng nghề truyền thống nhất trong vùng. Hoạt động làng nghề
ở đây tuy không sôi động như những địa phương khác nhưng có những đặc tính
riêng, nổi bật lên sự “lành nghề”, khéo léo của người dân sở tại. Hiện nay, Bến
Tre đã công nhận 18 làng nghề tiểu thủ công nghiệp, chủ yếu tập trung vào các sản
phẩm: bánh tráng, bánh phồng, rượu, kẹo dừa, kìm, sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ
dừa... Trong đó, có 6 làng nghề được công nhận làng nghề tiêu biểu Việt Nam
như: Làng nghề dệt chiếu An Hiệp, làng nghề tiểu thủ công nghiệp Phú Lễ, làng
nghề sản xuất bánh phồng Sơn Đốc, làng nghề sản xuất bánh tráng Mỹ Lồng, làng
nghề sản xuất kẹo dừa Phường 7, làng nghề cây giống và hoa kiểng Cái Mơn.
7. Ngành dịch vụ, du
lịch
Bến Tre là tỉnh có tiềm năng du lịch
đa dạng, phong phú và hấp dẫn, với nhiều loại hình du lịch khác nhau như: Du lịch
văn hóa, lịch sử, du lịch sinh thái sông nước xứ dừa, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch
tâm linh (du lịch về nguồn), du lịch cộng đồng... Ngành du lịch tỉnh Bến Tre những
năm gần đây có những bước phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, mỗi năm
lượt khách đến tham quan đều tăng bình quân 13% so với cùng kỳ. Năm 2017, ngành
du lịch Bến Tre đã đón hơn 3,7 triệu lượt khách, tăng gần gấp đôi năm 2010,
doanh thu theo giá hiện hành từ hoạt động du lịch là 280 tỷ đồng và doanh thu từ
dịch vụ ăn uống đạt 4.357 tỷ đồng. Hiện nay toàn tỉnh có khoảng 78 điểm du lịch
nông thôn và 5 điểm du lịch tâm linh, lịch sử gồm Di tích Đồng Khởi Bến Tre, Mộ
và khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu, Di tích Căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, Đền
thờ Nữ tướng Nguyễn Thị Định, Di tích kiến trúc nghệ thuật Nhà cổ Huỳnh Phủ
(Hương Liêm).
IV. Các sản phẩm tiềm
năng cấp huyện
Theo kết quả thống kê sơ bộ, tỉnh có
265 sản phẩm tiềm năng chia thành 6 nhóm chính gồm: i) Thực phẩm; ii) Đồ uống; iii) Đồ lưu niệm
- trang trí - nội thất;
iv) Thảo dược, mỹ phẩm, chế phẩm thảo mộc; v) Du lịch và dịch vụ nông thôn và
vi) loại khác. Trong đó, Thực phẩm là nhóm nhiều sản phẩm nhất với 174
sản phẩm gồm trái cây (bưởi da xanh, sầu riêng, dừa xiêm xanh, chôm chôm...),
bánh mứt kẹo, thịt, thủy sản, rau nấm các loại, gạo, mắm, hủ tiếu, và các sản
phẩm chế biến từ nông sản, thủy sản... Nhóm đồ uống có 17 sản phẩm gồm các loại rượu
(Bình Phú, Phú Lễ, Phú Quý,...), nước dừa.
Các mặt hàng lưu niệm, nội thất, trang trí có 46 loại sản phẩm chính, chủ yếu
là các sản phẩm từ dừa, nổi bật như dừa
chỉ sơ dừa, thảm chỉ dừa, giỏ cọng dừa,... và các loại cây kiểng. Về thảo
dược, mỹ phẩm có 14 loại sản phẩm đã được khảo sát. Nhóm các sản phẩm du lịch
và dịch vụ nông thôn cũng khá đa dạng với các dịch vụ ăn uống, du lịch sinh
thái, dịch vụ lưu trú, du lịch miệt vườn, sông nước.... Bên cạnh đó, còn một số
sản phẩm đặc biệt, nổi tiếng của tỉnh như cây giống, hoa
kiểng, gà chọi, chế phẩm than, phân bón từ phụ phẩm chế biến dừa... (Chi tiết
kèm theo Phụ Lục 1).
Kết quả khảo sát một số sản phẩm tiêu
biểu tại 9 huyện và thành phố cho thấy trên địa bàn các huyện, thành phố trong
tỉnh đều có những sản phẩm, dịch vụ tiềm năng, thế mạnh riêng. Mặc dù phần lớn
các sản phẩm dịch vụ còn nhiều hạn chế, nhưng cũng có rất nhiều cơ hội và tiềm
năng phát triển thành các sản phẩm chủ lực có thế mạnh của tỉnh. Cụ thể:
(1) Thành phố Bến Tre:
17 xã, phường (10 phường, 7
xã)
Thành phố Bến Tre là trung tâm kinh tế,
văn hóa và chính trị của tỉnh Bến Tre. Vị trí và đặc điểm tự nhiên của thành phố
có nhiều lợi thế và thuận lợi giúp thành phố Bến Tre có nhiều sản phẩm, dịch vụ,
trong các lĩnh vực nông nghiệp, thương mại, du lịch có chất lượng cao. Trong số
đó, nổi bật là các sản phẩm dịch vụ đã có thương hiệu gồm các sản phẩm thực phẩm
như bưởi da xanh, bánh mứt,
kẹo; sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ dừa; các sản phẩm chế biến cao cấp từ dừa như
mỹ phẩm (mặt nạ dừa, son dừa,...). Bên cạnh đó, ngành dịch vụ, du lịch, thương mại cũng
là một ngành thế mạnh của thành
phố với nhiều đơn vị, doanh nghiệp khai thác du lịch, như du lịch nhà vườn, du lịch
sinh thái, nghỉ dưỡng, homestay... Ngoài ra, trên địa bàn thành phố còn nhiều cơ sở
có sản phẩm và dịch vụ có chất lượng và thương hiệu, nhưng chưa được đánh giá cụ
thể như: bột lá sâm, bánh in, thạch dừa, kẹo dừa, bánh hoa dừa, rượu Bình Phú,
rượu Phú Quý, thảm chỉ sơ dừa,...
(2) Châu Thành: 22 xã, thị trấn (21
xã, 1 thị trấn)
Châu Thành là huyện cửa ngõ của tỉnh,
có vị trí đặc trưng của một huyện ở vùng hạ lưu của miền Đồng bằng châu thổ
sông Cửu Long, với cảnh quan cồn, bãi và sông rạch chằng chịt, có nhiều lợi
thế phát triển, nuôi trồng chế
biến thủy sản nước ngọt và phát triển kinh tế vườn kết hợp du lịch
sinh thái nghỉ dưỡng. Hiện nay, Châu Thành đang có nhiều sản phẩm có tiềm năng
phát triển như dừa xiêm xanh, bưởi da xanh, sầu riêng, chôm chôm, các loại thực
phẩm chế biến từ dừa
(dừa sấy giòn, bột dừa, bơ dừa, nước màu dừa,...), kẹo chuối, mứt trái cây, đồ
uống, nước dừa, các đồ thủ
công mỹ nghệ từ dừa, các điểm du lịch sinh thái, và các sản phẩm phụ phẩm từ dừa.
(3) Chợ Lách: 11 xã, thị trấn (10 xã,
1 thị trấn)
Huyện Chợ Lách là một trong bốn huyện
nằm ở khu vực Cù lao Minh của tỉnh, được bao bọc bởi sông Cổ Chiên và sông Hàm
Luông. Huyện có điều kiện tự nhiên thuận lợi với đất đai màu mỡ được bồi tụ bởi
phù sa của hai sông lớn, có nguồn nước ngọt quanh năm, khí hậu điều hòa tạo nên
thế mạnh của huyện là cây ăn trái và cây giống hoa kiểng. Các sản phẩm đặc
trưng của huyện gồm các loại cây ăn trái như chôm chôm, sầu riêng, măng cục, bưởi
da xanh,...; các loại hoa kiểng như kiểng thú, hoa kiểng, lá kiểng, bon sai,...; cây giống các
loại; các loại hình du lịch sinh thái (homestay, du lịch sông nước miệt vườn,...);
du lịch tâm linh như Nhà thờ lớn Chợ Lách, các khu nhà cổ, chùa; các sản phẩm từ
trái cây như bánh, mứt, kẹo. Ngoài ra, Chợ Lách cũng có các sản phẩm có lợi thế
khác như rượu nấm linh chi, đồ thủ công mỹ nghệ (bội kẽm, chậu cây,...), gà chọi
và các sản phẩm khác.
(4) Mỏ Cày Nam: 17 xã, thị trấn (16
xã, 1 thị trấn)
Huyện Mỏ Cày Nam có điều kiện tự nhiên
ưu đãi về sản xuất nông nghiệp, trong đó thế mạnh là các ngành chăn nuôi. Hiện
nay Mỏ Cày Nam có 5 nhóm sản phẩm đặc trưng chính trong nhóm thực phẩm, đồ thủ
công mỹ nghệ, trang trí, thảo dược, dịch vụ - du lịch và sản phẩm khác. Nhóm sản
phẩm nông nghiệp của huyện khá đa dạng với các loại cây ăn trái,
nấm bào ngư, nấm
linh chi, sản phẩm chăn nuôi như gà, heo; thủy sản có tôm càng xanh; và các sản
phẩm tiện lợi chế biến từ cây trái (mứt dừa, kẹo dừa của cơ sở Tuyết Phụng), thực
phẩm chế biến từ thịt như nem chả. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ gồm các sản phẩm từ dừa
(chỉ sơ dừa, thảm sơ dừa, đồ mỹ nghệ từ dừa) và mây tre đan. Nhóm thảo dược nổi
bật với các sản phẩm sinh học như nhang muỗi, mỹ phẩm từ dừa (dầu dừa). Bên cạnh
đó, các sản phẩm du lịch cũng là điểm mạnh tiềm năng của huyện với các loại
hình du lịch sinh thái kết hợp tâm linh (Khu di tích Đồng Khởi) và du lịch cộng
đồng. Ngoài ra, huyện có sản phẩm phân bón hữu cơ từ sơ dừa hết sức tiềm năng.
(5) Mỏ Cày Bắc: 13 xã
Mỏ Cày Bắc là huyện cửa ngõ khu vực Cù
Lao Minh, nằm ở hạ lưu sông Cửu Long. Mỏ Cày Bắc có khí hậu tương đối ôn hòa, mỗi
năm có hai mùa mưa nắng rõ rệt thuận lợi cho phát triển các loại cây ăn trái.
Hiện nay, Mỏ Cày Bắc đang có 3 nhóm sản phẩm đặc trưng gồm thực phẩm, đồ lưu
niệm-thủ công-trang trí và thảo dược. Nhóm sản phẩm thực phẩm của huyện khá đa
dạng với các sản phẩm cây ăn trái như dừa xiêm xanh, cam xoàn, bưởi da xanh;
các sản phẩm chế biến như bánh mứt, kẹo trái cây, bánh phồng, hủ tiếu. Nhóm sản
phẩm thủ công mỹ nghệ, trang trí có các sản phẩm nổi bật như cây hoa kiểng và
thảm chỉ sơ dừa. Nhóm sản phẩm thảo dược mỹ phẩm có các sản phẩm chế biến từ dừa
như dầu dừa, xà bông dừa.
(6) Giồng Trôm: 22 xã, thị trấn (21
xã, 1 thị trấn)
Giồng Trôm nằm giữa cù lao Bảo với đặc
điểm đất đai được cấu tạo từ phù sa của hai sông lớn là Ba Lai và Hàm Luông,
nên Giồng Trôm có thế mạnh của một nền kinh tế nông nghiệp đa dạng. Huyện có diện
tích vườn dừa đứng đầu của tỉnh và có nhiều làng nghề thủ công truyền thống đã
được công nhận (làng nghề
bánh
tráng Mỹ Lồng, làng nghề bánh phồng Sơn Đốc, làng nghề kiềm kéo Mỹ Thạnh, 2
làng nghề đan giỏ cọng dừa tại xã Phước Long và Hưng Phong). Theo thống kê sơ bộ,
hiện nay Giồng Trôm có 4 nhóm sản phẩm dịch vụ đặc trưng chính gồm: thực phẩm
(bưởi da xanh, dừa xiêm xanh, tôm càng xanh, tôm thẻ, bánh phồng, bánh tráng),
đồ uống (rượu dừa, rượu Cả Cọp), đồ lưu niệm thủ công mỹ nghệ từ gỗ dừa và các
dịch vụ du lịch như du lịch sinh thái, homestay.
(7) Bình Đại: 20 xã, thị trấn (19 xã, 1 thị trấn)
Bình Đại là một trong ba huyện ven biển
của Bến Tre, nhưng có nét riêng so với Ba Tri và Thạnh Phú. Người dân Bình Đại
ngoài nghề làm vườn, làm ruộng còn có nghề trồng giồng và nghề đánh cá biển, chế
biến những sản phẩm của biển. Nghề đánh cá ở Bình Đại là một nghề có truyền thống
lâu đời và có những nét độc đáo riêng, tại đây có làng nghề cá khô Bình Thắng với
hàng trăm hộ sản xuất kinh doanh thủy sản khô. Theo kết quả khảo sát sơ bộ, hiện
nay huyện Bình Đại
có 3 nhóm sản phẩm đặc trưng chính gồm nhóm thực phẩm tươi sống, thực phẩm chế
biến và du lịch sinh thái.
(8) Ba Tri: 24 xã, thị trấn (23 xã, 1 thị trấn)
Huyện Ba Tri nằm ở phía đông cù lao Bảo
và sát biển, do phù sa của sông Ba Lai và sông Hàm Luông bồi tụ nên. Đất đai Ba
Tri gồm những đồng ruộng, xen kẽ những giồng cát. Với điều kiện tự nhiên ưu đãi
giúp Ba Tri có điều kiện phát triển các sản phẩm nông nghiệp kết hợp du lịch
sinh thái. Hiện nay, Ba Tri có thế mạnh với nhóm sản phẩm thực phẩm như dừa
xiêm, bò, bánh phồng với làng nghề bánh phồng Sơn Đốc, cá khô, nghêu, muối tôm. Ngoài
ra, Ba Tri còn có các sản phẩm làng nghề truyền thống như rượu Phú Lễ, rượu ấp
sanh, mây tre đan, đây là những sản phẩm có chất lượng và thương hiệu của huyện.
(9) Thạnh Phú: 18 xã, thị
trấn (17 xã, 1
thị
trấn)
Thạnh Phú được hình thành từ đất phù
sa của sông Hàm Luông và Cổ Chiên bồi đắp, qua nhiều thế kỷ tới nay, bãi biển Thạnh
Phú vẫn lấn dần ra phía Biển Đông. Là một trong 3 huyện duyên hải
của tỉnh, Thạnh Phú gồm những cánh đồng bằng phẳng xen kẽ với những giồng cát và những khu rừng
ngập mặn. Ở ven biển,
ven sông là những dải rừng dừa nước, bần, mắm, đước, vẹt. Những điều kiện trên giúp Thạnh
Phú có lợi thế trong việc phát triển các ngành chế biến thủy sản và khai thác
du lịch. Hiện nay, Thạnh Phú đang có 3 nhóm sản phẩm đặc trưng chính, gồm: thực
phẩm, đồ thủ công và dịch vụ du lịch. Nhóm thực phẩm khá đa dạng với các sản phẩm
như dừa, lúa (mô
hình lúa -
tôm), rau sâm biển, thủy sản (tôm,
cá); các thực phẩm thô sơ chế như
tôm khô, cá khô, thịt bò và các sản phẩm chế biến như bánh dừa, cơm dừa, nước
màu dừa, mắm ba khía. Sản phẩm thủ công nổi tiếng của Thạnh Phú là chổi cọng dừa.
Bên cạnh đó, các sản phẩm về du lịch cũng là thế mạnh của tỉnh với du lịch biển,
du lịch sinh thái, cộng đồng.
V. Phân tích điểm mạnh,
điểm yếu trong phát triển và thương mại hóa sản phẩm đặc trưng, truyền thống
1. Nhóm sản phẩm, dịch
vụ có tiềm năng 4 sao
Các sản phẩm dịch vụ này được đánh
giá có khả năng đạt chất
lượng tương đương xếp hạng 4
sao theo Bộ tiêu chí đánh giá sản phẩm OCOP tạm thời. Điểm mạnh của các sản phẩm, dịch vụ này
là các chủ thể sản xuất đã hoàn thiện bộ máy tổ chức sản xuất, phần lớn là doanh nghiệp
hoặc
HTX
có năng lực sản xuất kinh doanh tốt, Các sản phẩm đã hoàn thiện về bao bì, nhãn mác,
thương hiệu, tiêu chuẩn chất lượng và có chất lượng tốt. Đồng thời, các sản phẩm
đều đã và có khả năng tiếp cận các thị trường xuất khẩu.
Tuy nhiên nhóm sản phẩm này cũng còn
một số hạn chế nhất định như: chưa phát huy sức mạnh cộng đồng, ít có sự tham gia của
cộng đồng, các sản phẩm chưa khai thác hết được giá trị về nguồn gốc, xuất xứ
và quá trình hình
thành, tạo nên sản phẩm, ít được tư liệu hóa để người tiêu dùng tìm hiểu,... đồng thời một
số sản phẩm chưa thể hiện sự nổi
bật các yếu tố
bản sắc, đặc trưng, văn hóa... của địa
phương. Các sản phẩm tiêu biểu bao gồm:
Các sản phẩm chế biến từ dừa: Các sản phẩm chế
biến từ dừa của TNHH chế biến dừa Lượng Quới (nhà máy tại huyện Châu Thành) như nước dừa đóng
lon, dầu dừa, bột dừa,... là các
sản phẩm có chất lượng cao, đã được tiêu thụ tại nhiều thị trường trên khắp các
tỉnh thành cả nước và thị trường xuất khẩu. Điểm đánh giá xếp hạng sản phẩm này
đạt 87/100
điểm
(Phụ lục 2).
Mỹ phẩm từ dừa, mặt nạ dừa: Sản phẩm được
sản xuất tại công ty TNHH chế biến dừa Cửu Long (Thành phố Bến Tre). Đây là sản
phẩm mới và có nhiều tiềm năng với tổng điểm đánh giá đạt 86/100 điểm (Phụ lục 2). Sản phẩm có
khá nhiều điểm mạnh và lợi thế như sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc phần lớn từ
trong tỉnh, quy trình sản xuất số lượng lớn với chất lượng cao, hình thức bao bì mẫu
mã hoàn thiện
có chứng nhận bảo hộ; sản phẩm có hệ thống phân phối, quảng bá hoàn chỉnh. Câu
chuyện về phát triển sản phẩm được khai thác để thể hiện nét đặc trưng độc đáo của
sản phẩm. Hiện nay thị trường tiêu thụ chính là trong nước nhưng sản
phẩm có đủ tiêu chuẩn để phát triển sang thị trường nước ngoài.
Rượu Cả Cọp: Đây là
thương hiệu rượu nổi bật của Công ty TNHH một thành viên Gia Thái, huyện Giồng
Trôm. Sản phẩm là loại rượu nếp truyền thống, nguyên chất, đã có thương hiệu
lâu năm. Điểm mạnh của loại rượu này là sử dụng công nghệ truyền thống rồi xử
lý với công nghệ và tiêu chuẩn tiên tiến. Việc tổ chức sản xuất của doanh nghiệp
khá hoàn thiện, các sản phẩm đưa
ra thị trường có mẫu mã bao bì đẹp, đủ tiêu chuẩn về công bố thông tin và chất
lượng, có tiềm năng xuất khẩu cao. Tuy nhiên sản
phẩm cũng còn một số hạn chế như giá thành sản phẩm cao, thời gian sản xuất lâu
ngày (cần thời gian ngâm ủ từ 10 năm đến 20 năm). Sản phẩm được đánh giá 81/100 điểm (Phụ
lục 2).
Bưởi da xanh: Sản phẩm bưởi của
HTX Mỹ Thạnh An (Thành phố Bến Tre) được đánh giá là có tiềm năng cạnh tranh
cao với điểm đánh giá xếp hạng đạt 80/100 điểm (Phụ lục 2), Điểm mạnh, lợi
thế của sản phẩm nằm ở chất lượng sản phẩm và tổ chức sản xuất, phát triển sản
phẩm của HTX. Sản phẩm bưởi da xanh của HTX phần lớn sử dụng giống tại địa phương, đã
xây dựng liên kết chuỗi, có
chứng nhận quản lý chất lượng và hồ sơ công bố chất lượng đầy đủ. Tổ chức sản
xuất của HTX khá hoàn thiện, cơ bản đáp ứng theo quy định Luật Hợp tác xã. Sản phẩm
đã được tiêu thụ rộng rãi tại thị trường trong nước và có đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
Hạn chế của sản phẩm ở kênh tiếp thị, quảng bá và xây dựng tư liệu riêng về sản phẩm.
Du lịch sinh thái: khu du lịch
sinh thái Lan Vương tại Thành phố Bến Tre được đánh giá 80/100 điểm (Phụ lục
2). Điểm mạnh của cơ sở là có tổ chức quản lý khá tốt, có cán bộ kiêm nhiệm
quản lý là người địa phương, đầy đủ hệ thống kế toán... Vị trí và trang thiết bị
phục vụ của cơ sở đầy đủ, hiện đại, chất lượng phục vụ tốt với nhân viên được
đào tạo chuyên nghiệp. Điểm hạn chế của cơ sở là chưa có liên kết, các dịch vụ,
sản phẩm du lịch chưa mang nét riêng của địa phương, thiếu đặc trưng riêng.
Ngoài ra một điểm du lịch khác cũng có tiềm năng cạnh tranh cao là điểm du lịch
vườn xoài của Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ - Du lịch Du
Thuyền Xoài, huyện Giồng Trôm.
Nấm linh chi, rượu linh chi: Nấm linh chi là mặt
hàng có giá trị cao, có tiềm năng phát triển cao trên địa bàn huyện Chợ Lách.
Các sản phẩm nấm linh chi của Công ty TNHH MTV SX TM DV nấm Tấn Bửu được đánh
giá đạt 75-77/100 điểm. Hiện tại các sản phẩm nấm linh chi đã được cơ sở hoàn
thiện khá tốt, đa dạng về mẫu mã, hình ảnh kiểu dáng bao bì. Chất lượng sản phẩm
được đánh giá tốt, có thị trường tiêu thụ ổn định và phát triển khá tốt. Cơ sở sản
xuất cũng có hệ thống đại lý phân phối ở một số tỉnh và có các hoạt động quảng
bá trên nhiều kênh thông tin. Điểm hạn chế của sản phẩm là tính cộng đồng chưa
cao, chưa xây dựng chuỗi liên kết. Đây là sản phẩm mới được phát triển của địa
phương, nên chưa có nhiều dấu ấn bản sắc riêng.
Nấm bào ngư (huyện Chợ Lách): Sản phẩm nấm
bào ngư được đánh giá đạt 73/100 điểm. Đây là sản phẩm được phát triển bởi
doanh nghiệp tư nhân với tổ chức sản xuất cơ bản đã hoàn thiện. Điểm lợi thế của
sản xuất nấm bào ngư là nguyên liệu nấm tận dụng hoàn toàn nguyên liệu của địa
phương. Các sản phẩm đã hoàn thiện về hình ảnh, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu.
Các tiêu chí cảm quan về sản phẩm và chất lượng sản phẩm đều đã được phát triển
tốt. Thị trường tiêu thụ hiện tại chính là thị trường trong nước. Cơ sở kinh
doanh đã có hệ thống phân phối và có các hoạt động quảng bá thường xuyên thông
qua nhiều kênh đa dạng. Điểm hạn chế của sản phẩm là chưa hình thành được chuỗi
liên kết.
Dầu dừa: Sản phẩm dầu dừa của
cơ sở Dầu dừa Pha Lê tại huyện Mỏ Cày Nam được đánh giá có chất lượng và tiềm
năng khá tốt đạt 72/100 điểm. Sản phẩm dầu dừa Pha Lê sử dụng hoàn toàn nguyên
liệu của địa phương. Hình thức, mẫu mã, chất lượng sản phẩm được đánh giá khá
cao. Sản phẩm đã được xây dựng hệ thống phân phối và tiếp thị đến nhiều thị trường,
trong đó chủ yếu là thị trường quốc tế. Điểm hạn chế của sản phẩm là chưa hình
thành chuỗi liên kết, sản phẩm chưa có sự đóng góp của cộng đồng.
Thủ công mỹ nghệ từ dừa: Sản phẩm thủ
công mỹ nghệ của cơ sở thủ công mỹ nghệ Trường Ngân (Thành phố Bến Tre) có tổng
điểm đánh giá 70/100 điểm (Phụ lục 2). Điểm mạnh của sản phẩm này là sử
dụng toàn bộ nguyên liệu có nguồn gốc trong tỉnh, có thể ứng dụng công nghệ tạo
ra sản phẩm chất lượng cao hơn, có khả năng sản xuất lại với số lượng và chất
lượng ban đầu. Đây là sản phẩm tự phát triển dựa trên sản phẩm truyền thống hoặc
ý tưởng của mình gắn với nhu cầu thị trường. Các sản phẩm có phong cách thiết kế
độc đáo,
đặc
sắc, mang nét đặc trưng của địa phương với thị trường tiêu thụ lớn. Tuy nhiên,
việc phát triển sản phẩm cũng còn những hạn chế, các sản phẩm hiện tại hầu như
là sản phẩm nguyên bản từ xưa, chưa có cải tiến thêm, cơ sở sản xuất là hộ tư
nhân cá thể, không có bộ máy quản lý, kế toán hoàn thiện.
2. Nhóm sản phẩm dịch
vụ có tiềm năng 3 sao
Các sản phẩm dịch vụ được đánh giá có
khả năng xếp hạng 3 sao là những sản phẩm, dịch vụ đã tương đối hoàn thiện về tiêu
chuẩn, chất lượng, mẫu mã và có lợi thế khá mạnh để phát triển của các địa
phương trong tỉnh. Điểm mạnh của nhóm này là tổ chức sản xuất đã khá hoàn thiện,
phần lớn nguyên liệu
hoàn toàn chủ động tại
địa phương. Phần lớn sản phẩm, dịch vụ tận dụng được nguồn lực của cộng đồng,
có chất lượng khá tốt và đã phát triển được thị trường tiêu thụ trong nước.
Điểm hạn chế của nhóm sản phẩm dịch vụ
này là chưa
hoàn thiện các hồ sơ công bố chất lượng và tiêu chuẩn của sản phẩm. Đặc biệt, các hoạt
động tiếp thị, xúc tiến thương mại còn hạn chế, chưa khai thác được câu chuyện sản
phẩm. Đồng thời, các yếu tố có thể phản ánh trí tuệ và bản sắc địa
phương để làm nổi bật nét đặc trưng thì còn khá hạn chế. Nhiều sản phẩm chưa hoàn thiện về
mẫu mã, hình ảnh, thương hiệu. Các
sản phẩm tiêu biểu của nhóm này bao gồm:
Nhang sinh học: Sản phẩm được
phát triển bởi công ty TNHH Sản xuất Thương mại Sản phẩm sạch Thiên Phúc, huyện
Mỏ Cày Nam. Điểm mạnh của
sản phẩm thể hiện qua tính hoàn thiện của sản phẩm với bao bì, nhãn mác đầy đủ. Sản
phẩm được phát triển dựa trên ý tưởng cá nhân, sử dụng các nguyên liệu hoàn toàn có nguồn gốc
trong tỉnh với chất lượng
công bố có tiêu chuẩn cao. Đây là một
trong số ít sản phẩm đã khai thác được tư liệu, câu chuyện về sản phẩm
để tiếp thị. Sản phẩm đã phát triển hệ thống phân phối tại nhiều tỉnh. Tuy
nhiên, hạn chế của cơ sở là vẫn chưa hoàn thiện hệ thống tổ chức, chưa phát triển chuỗi liên kết, yếu
tố về sự tham gia của cộng đồng còn rất yếu. Sản phẩm được đánh giá với số điểm
là 68/100 điểm.
Bưởi da xanh Quới Sơn: Đây là sản
phẩm thuộc nhóm sản phẩm chủ lực của tỉnh. Sản phẩm bưởi da xanh của HTX Bưởi da
xanh Qưới Sơn, huyện Châu Thành được đánh giá đạt 64/100 điểm. Điểm mạnh của sản
phẩm là đã có chứng nhận quản lý chất lượng, có chỉ dẫn địa lý, tổ chức sản xuất, quản
lý của HTX tốt, phát huy được sức mạnh; cộng đồng cao, sản phẩm có khả năng tiếp
cận thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên,
sản phẩm còn một số hạn
chế như chất lượng không đồng đều, sản phẩm chủ yếu bán thô hoặc sơ chế đơn giản,
hồ sơ chất lượng chưa đầy đủ, khả năng tiếp thị quảng bá sản
phẩm của HTX còn
thấp.
Mứt dừa: Sản phẩm mứt dừa của
cơ sở Năm Thiện (Thành phố Bến Tre) được đánh giá 62/100 điểm. Mứt dừa là món sản
phẩm truyền thống của Bến Tre. Điểm mạnh của sản phẩm là sử dụng toàn bộ nguyên
liệu có nguồn gốc trong tỉnh,
là sản phẩm được phát triển từ sản phẩm truyền thống có thể sản xuất lại với số
lượng và chất lượng tốt như nguyên gốc. Đặc điểm về cảm quan và chất lượng của
sản phẩm đều khá tốt. Tuy nhiên, sản phẩm vẫn còn hạn chế trong công tác phát
triển sản phẩm, tổ chức sản xuất và truyền thông quảng bá. Hiện tại cơ sở sản
xuất vẫn là cơ sở tư nhân, chưa có bộ máy quản lý hoàn thiện. Mặc dù sản phẩm
đã có kênh phân phối và các hoạt động quảng bá thường xuyên nhưng chưa khai
thác được câu chuyện đặc biệt của sản phẩm.
Đồ thủ công mỹ nghệ từ dừa: Sản phẩm thủ
công mỹ nghệ của cơ sở sản xuất ấp Tôn Vinh, xã Tân Thạch, huyện Châu Thành. Cơ
sở sản xuất có nhiều loại sản phẩm đa dạng, nổi bật như bộ tách, ấm
trà bằng gỗ dừa... Các sản phẩm được đánh giá trung bình 52/100 điểm. Sản phẩm
được sử dụng toàn bộ nguyên liệu có nguồn gốc trong tỉnh, có khả năng sản xuất
lại với số lượng lớn. Mẫu mã bao bì
khá đơn giản, không có nhiều ấn tượng. Cơ sở sản xuất quy mô hộ gia đình, chưa
có hệ thống quản lý đầy đủ; cơ sở cũng không có kênh phân phối riêng, chỉ có một
số hoạt động quảng bá đơn giản. Các sản phẩm mặc dù có ấn tượng, bản sắc rất tốt,
nhưng không có tư liệu hóa về phát triển
sản phẩm. Tuy nhiên, chất lượng sản phẩm được đánh giá rất tốt, tinh xảo, có thể
tiêu thụ tại nhiều thị trường cả trong nước và xuất khẩu.
Du lịch sinh thái và homestay: Điểm du lịch
sinh thái homestay Hai Hồ tại thành phố Bến Tre có điểm đánh giá đạt 56/100 điểm.
Đây là điểm du lịch được phát triển dựa trên cảnh quan địa phương, với sự quản
lý của hộ gia đình. Điểm du lịch có thế mạnh là điều kiện môi trường cảnh quan
đẹp, thuận lợi và có trang bị cơ sở đầy đủ cho phục vụ du khách. Điểm du lịch
đã liên kết với một
số tour du lịch, có hoạt động quảng bá thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, tổ chức quản lý của cơ sở vẫn còn hạn chế, thiếu hệ thống kế toán,
chưa có cán bộ chịu trách nhiệm về quản lý môi trường, nhân viên chưa được đào
tạo đầy đủ.
Ngoài ra còn các sản phẩm khác cũng được
đánh giá có khả năng cạnh tranh khá tốt như bưởi da xanh, bánh phồng, bánh
tráng và kiềm kéo của cơ sở kiềm Nguyễn Thanh Liêm (Giồng Trôm); rau an toàn của
công ty TNHH Sản xuất Thương mai Dịch Vụ Việt Tâm (Ba Tri),... (Chi tiết
đánh giá điểm các sản phẩm xem tại Phụ lục 2).
3. Nhóm sản phẩm dịch vụ
tiềm năng 1-2 sao
Các sản phẩm dịch vụ tiềm năng 1-2 sao
chiếm phần lớn các sản phẩm hiện có của tỉnh. Nhóm này đa số là các sản phẩm đặc
sản, truyền thống của địa phương, nhưng chưa hoàn thiện để trở thành sản phẩm
thương mại quy mô lớn. Điểm mạnh của các sản phẩm nhóm này là các sản phẩm tận
dụng nguồn nguyên liệu sẵn có của địa phương. Các sản phẩm có truyền thống từ
xưa, có thị trường ổn định ở địa phương. Nhiều sản phẩm có chất lượng tương đối
tốt, được người tiêu dùng tin tưởng và có tiềm năng lớn để mở rộng thị trường
trong tỉnh và toàn quốc.
Tuy nhiên, điểm hạn chế của các sản phẩm
này vẫn còn khá nhiều. Chủ yếu là sản phẩm thô, ít giá trị gia tăng. Các sản phẩm
có hình thức mẫu mã bao bì, nhãn mác đơn giản, truyền thống, không được phát
triển thêm. Các chủ thể sản xuất chủ yếu là hộ tư nhân hoặc cơ sở sản xuất
riêng lẻ, thiếu liên kết; đồng thời, phần lớn cơ sở sản xuất kinh doanh có ít
hoặc không có đầu tư cho hoạt động tiếp thị, quảng bá, phân phối sản phẩm, thiếu
các kiến thức về thị trường. Công nghệ thủ công, lạc hậu, tiêu chuẩn chất
lượng không được kiểm định. Một số sản phẩm khó sản xuất được ở quy mô lớn do hạn
chế về kỹ thuật và nguyên liệu; năng lực nghiên cứu và phát triển sản phẩm của
phần lớn hộ sản xuất nhỏ lẻ còn rất yếu.
Phần
thứ hai
NỘI
DUNG ĐỀ ÁN CHƯƠNG TRÌNH MỖI XÃ MỘT SẢN PHẨM TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2018-2020, ĐỊNH
HƯỚNG 2030
I. Quan điểm
Chương trình Mỗi xã một sản phẩm là
chương trình phát triển kinh tế khu vực nông thôn theo hướng phát triển nội lực
và gia tăng giá trị; là giải pháp, nhiệm vụ trong triển khai thực hiện Chương
trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Trọng tâm của chương trình là phát triển sản
phẩm nông nghiệp, phi nông nghiệp,
dịch vụ có lợi thế của
địa phương theo chuỗi giá trị do các thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể thực hiện. Cơ quan quản lý
Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, ban hành khung pháp lý và chính sách thực
hiện; định hướng quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa, dịch vụ; quản lý và giám sát
tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm; hỗ trợ các khâu: đào tạo, tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, ứng
dụng khoa học công nghệ, xây dựng
thương hiệu, xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, tín dụng.
II. Mục tiêu
1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng và triển khai
Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bến Tre giai đoạn 2018-2020, định hướng
2030 để
phát
triển các mô hình tổ chức
sản xuất, kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ truyền
thống có lợi thế
ở khu vực nông thôn của tỉnh Bến Tre và có khả
năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế góp phần
phát triển kinh tế
nông thôn, thực hiện tái cơ cấu nền
kinh tế nông thôn để nâng cao thu nhập, đời sống cho nhân dân nông thôn và thực
hiện có hiệu quả nhóm tiêu chí "Kinh tế và tổ chức sản
xuất" trong xây dựng
nông thôn mới của
tỉnh giai đoạn 2018 - 2020.
2. Mục tiêu cụ thể
Giai đoạn 2019-2020:
- Tổ chức triển khai thực hiện Chương
trình Mỗi xã một sản phẩm từ cấp tỉnh đến cấp xã với 100% số xã
có sản phẩm
tham gia chương trình.
- Tiêu chuẩn hóa ít nhất 50% số sản phẩm
truyền thống, chủ lực, đặc trưng và có tiềm năng phát triển sản xuất quy mô trung bình và lớn
của tỉnh Bến Tre.
- Tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa chất
lượng cao, mang tính đặc trưng, lợi thế của mỗi vùng, miền, đáp ứng yêu
cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đến năm 2020, toàn tỉnh có
từ 20-30 sản phẩm OCOP đạt tiêu
chuẩn từ 3 sao trở lên.
- Phát triển các hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh theo
hướng gia tăng
lợi thế cộng đồng,
góp phần phát triển kinh tế nông thôn theo hướng nội sinh và gia
tăng giá trị.
- Hình thành mới, củng cố, nâng cao hiệu
quả hoạt động của tổ chức kinh tế cộng đồng, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, nhằm phát
triển kinh tế địa phương bền vững.
Đến năm 2020, tỉnh hình thành mới 10-15 tổ chức kinh tế dựa vào cộng đồng, tái cơ
cấu 20-30 tổ chức đã có để phát triển các sản phẩm truyền thống, tập trung vào
các công ty cổ phần, công ty TNHH, HTX, THT.
Giai đoạn 2021-2030:
- Đến năm 2030, toàn tỉnh có ít nhất
250 sản phẩm, dịch vụ OCOP đạt tiêu chuẩn từ 3 sao trở
lên, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
- Tại thời điểm năm 2030 hình thành mới
ít nhất 50 tổ chức kinh tế dựa vào cộng đồng, có liên kết chuỗi giá trị bền vững.
3. Định hướng phát triển các nhóm sản
phẩm
a) Nhóm sản phẩm tiềm năng 4 sao trở lên
Định hướng phát triển cho nhóm sản phẩm,
dịch vụ này bao gồm 2 hướng chính:
- Tập trung phát triển và hoàn thiện
thành sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế; hỗ trợ phát
triển thành sản phẩm tiêu biểu của tỉnh tham gia lựa chọn sản phẩm OCOP quốc
gia thông qua ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin vào sản
xuất, phân phối và tiếp thị sản phẩm; đẩy mạnh xây dựng các câu chuyện sản phẩm
mang nét đặc trưng của địa phương; tổ chức xúc tiến thương mại hướng đến phát
triển thị trường xuất khẩu, xuất khẩu tại chỗ.
- Tổ chức phát triển các chuỗi giá trị
liên quan đến sản phẩm, Các chủ thể sản xuất được hỗ trợ để thực hiện liên kết
với đối tác, đơn vị khác trong và ngoài tỉnh, trở thành mắt xích quan trọng
giúp phát triển chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực của tỉnh.
b) Nhóm sản phẩm tiềm năng 3 sao
Định hướng phát triển của nhóm này cần
phát huy tối đa lợi thế của địa phương, hoàn thiện và nâng cao chất lượng của sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ, cụ thể:
- Phát triển nội lực, phát huy tối đa
điểm mạnh, lợi thế của các địa phương để củng cố lại tổ chức sản xuất cộng đồng
(HTX, THT) nhằm hoàn thiện, nâng
cấp chất lượng sản phẩm, dần dần áp dụng các công nghệ mới, nâng cao tiêu chuẩn
chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
- Nâng cao năng lực quản lý, tăng cường
kiến thức về tổ chức sản xuất, kinh
doanh, và thị trường của các chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Kết nối và tăng cường
hợp tác với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, các chuyên gia và nhà khoa học trong
việc đào tạo cộng đồng về phát triển và thương mại hóa sản phẩm, nhằm nâng cấp/hoàn
thiện sản phẩm (thiết kế nhãn mác, bao
bì, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý; xây dựng và công bố tiêu chuẩn,...),
cải tiến công nghệ, quản trị sản xuất, quản trị kinh doanh nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh.
- Thúc đẩy việc xây dựng thương hiệu sản
phẩm cộng đồng, thương hiệu tập thể địa phương, nhằm nâng cao hình ảnh của địa
phương, dần dần giới thiệu, phổ biến và đưa các sản phẩm, dịch vụ đến với người
tiêu dùng ở các địa
phương khác. Trên cơ sở nghiên cứu, phát triển các sản phẩm trên nền tảng các giá trị
văn hóa truyền thống của địa phương, xây dựng và gắn câu chuyện sản phẩm từ các
giá trị văn hóa này nhằm gia tăng giá trị cho sản phẩm.
c) Nhóm sản phẩm tiềm năng 1-2 sao
Định hướng phát triển nhóm các sản phẩm
dịch vụ này cần thực hiện đồng thời nhiều biện pháp nhằm phát huy tối đa lợi thế
của địa phương và cải thiện dần các điểm yếu. Các biện pháp thực hiện cần có lộ
trình rõ ràng để phát triển sản phẩm, dịch vụ, cụ thể:
- Thúc đẩy liên kết sản xuất, phát triển
các tổ chức kinh tế cộng đồng như HTX, THT, đặc biệt trong các làng nghề truyền thống. Đồng
thời, tuyên truyền thay đổi tư duy
sản xuất manh mún nhỏ lẻ trong cộng đồng; phát huy các lợi thế đặc trưng của tỉnh,
tiến tới cộng đồng tự chủ động trong phát triển sản phẩm truyền thống. Thực hiện
các chương trình
tuyên
truyền, tập huấn sâu rộng đối với người dân, cộng đồng thực hiện khai thác bền
vững tài nguyên.
- Khuyến khích và phát huy tối đa lợi
thế của nguồn nhân lực trẻ, có trình độ
để tham gia vào phát triển sản phẩm, dịch vụ truyền thống của địa phương. Đội
ngũ thanh niên trẻ là nhân tố
quan trọng để ứng dụng các công nghệ mới, đặc biệt là trong cuộc cách mạng 4.0 trong trồng
trọt, chế biến, sản xuất cũng như tiếp thị, quảng bá và phân phối bán hàng.
Nâng cao năng lực của người quản lý, chủ cơ sở sản xuất kinh doanh về phát triển
sản phẩm, thương mại hóa
sản
phẩm
- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ
trong phát triển sản phẩm nông nghiệp địa phương theo hướng tối
ưu hóa, tận dụng mọi giá trị của nguyên liệu. Vận dụng được một cách đa dạng,
linh hoạt các nguồn lực hỗ trợ các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp từ khía cạnh tài
chính, tư vấn, khoa học công nghệ đến
đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực vào hỗ trợ các Dự án phát triển sản phẩm.
- Hỗ trợ cộng đồng xúc tiến thương mại sản phẩm
thông qua chương trình phát triển du lịch của tỉnh, hệ thống điểm trưng bày, giới
thiệu và bán sản phẩm tại
các trung tâm du lịch của tỉnh.
III. Nội dung Đề án
Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bến Tre
1. Hệ thống tổ chức triển
khai thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bến Tre giai đoạn 2018 - 2020
Xây dựng hệ thống tổ chức và cơ chế cho hệ thống
OCOP từ tỉnh - huyện - xã, nhằm hỗ trợ
các cộng đồng trong tỉnh phát triển và thương mại hóa sản phẩm chủ lực của chương
trình
Mỗi
xã một sản phẩm tỉnh Bến Tre. Trên cơ sở tổng số lượng biên chế được phân bổ, xây dựng
hệ
thống
cơ cấu nhân sự các cấp đảm bảo hoạt động thông suốt, hiệu quả.
- Cơ cấu nhân sự cấp tỉnh:
+ Cơ quan chỉ đạo: UBND tỉnh
+ Cơ quan thực hiện: Sở Nông
nghiệp và PTNT, Văn phòng Điều phối Chương trình xây dựng Nông thôn mới và các
đơn vị có liên quan. Dựa trên chức năng nhiệm vụ của các cơ quan liên quan
thành lập các bộ phận nghiệp vụ chuyên môn như: bộ phận nghiệp vụ Phát triển sản
phẩm và Phát triển doanh nghiệp/hợp tác xã; bộ phận nghiệp vụ Xúc tiến Thương
mại và truyền thông; Bộ phận hành chính và tổng hợp thông tin. Có ít nhất 01
cán bộ chuyên trách, 2-3 cán bộ kiêm nhiệm.
- Cơ cấu nhân sự cấp huyện,
thành phố:
+ Cơ quan chỉ đạo: UBND cấp huyện.
+ Cơ quan thực hiện: Phòng Nông
nghiệp và PTNT, Văn phòng Điều phối Chương trình xây dựng nông thôn mới cấp huyện
và các phòng, ban liên quan. Có ít nhất 01 cán bộ chuyên trách, 2-3 cán bộ kiêm
nhiệm.
- Nhân sự cấp xã:
+ Cơ quan chỉ đạo: UBND cấp xã.
+ Cán bộ thực hiện: bố trí 01 cán bộ
chuyên trách và các cá nhân, đơn vị có liên quan phối hợp thực hiện.
- Thành lập Hội đồng đánh giá và xếp hạng sản
phẩm ở các cấp tỉnh, cấp huyện tại mỗi kỳ đánh giá. Hội đồng có chức năng đánh
giá và phân hạng các sản phẩm OCOP theo các Bộ tiêu chí đã
ban hành. Chức năng của hệ thống này là chỉ đạo và điều hành toàn bộ các hoạt động
của Chương trình OCOP tại cấp tương ứng của mình, có quy chế hoạt động cụ thể.
Các nhân sự tại mỗi vị trí công tác đều phải có bản mô tả công việc và các chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả công việc.
2. Chu trình OCOP hàng
năm
- Xây dựng chu trình chuẩn (lựa chọn, hỗ
trợ phát triển, đầu tư,...) cho Chương trình OCOP - BT giai đoạn 2018-2020 chuẩn
căn cứ theo nội dung trong Quyết định số 490/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 07 tháng 5 năm 2018 (Hình 1).
Hình 1: Chu
trình OCOP hàng năm
3. Nội dung thực hiện
Chu trình OCOP tỉnh Bến Tre
a) Tuyên truyền, hướng dẫn về Chương
trình OCOP
- Triển khai các hoạt động tuyên truyền
để nâng cao nhận thức của hệ thống quản lý Chương trình OCOP Bến Tre các cấp và
sự hiểu biết của cộng đồng về Chương trình OCOP Bến Tre, bao gồm: ý nghĩa, mục
tiêu, nội dung Chương trình OCOP Bến Tre,... Qua đó, cộng đồng khởi đầu Chu
trình OCOP bằng cách tham gia gửi ý tưởng sản phẩm.
- Các kênh tuyên truyền bao gồm: Các
phương tiện truyền thông đại chúng cấp quốc gia, tỉnh, huyện, xã (truyền thanh,
truyền hình, báo chí, trang tin điện tử OCOP...); các hội nghị, hội thảo cấp quốc
gia, tỉnh, huyện, xã, thôn (lồng ghép); họp, hội nghị của các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp (lồng ghép)...
- Xây dựng bộ tài liệu tuyên truyền về
Chương trình OCOP Bến Tre (cẩm nang OCOP) dành cho các chủ thể sản xuất kinh
doanh trên địa bàn. Nội dung tài liệu tuyên truyền bao gồm: giới thiệu chung về
Chương trình OCOP Bến Tre, hướng dẫn chi tiết về trình tự thủ tục tham gia theo
từng bước của chu trình OCOP.
Thời gian thực hiện: Liên tục trong
năm.
Cơ quan thực hiện: UBND xã, cơ quan phụ
trách OCOP cấp huyện, tỉnh; các Sở, ngành tỉnh và các tổ chức đoàn thể.
b) Nhận đăng ký ý tưởng sản phẩm
- Sau khi được tuyên truyền, cộng đồng
khởi đầu tham gia chương trình OCOP bằng việc đăng ký ý tưởng sản phẩm cho hệ
thống quản lý Chương trình OCOP và nộp cho UBND xã. Trên cơ sở
các ý tưởng nhận được, UBND xã phân công cán bộ kiểm tra thể thức các phiếu
ý tưởng để chọn ra các phiếu ý tưởng hợp lệ và gửi về Cơ quan phụ trách OCOP cấp huyện; đồng
thời, giải thích, hỗ trợ cho người nộp các phiếu ý tưởng không phù hợp để điều
chỉnh, hoàn thiện và nộp lại sau 1 tuần hoặc tham gia vào năm sau.
- Cơ quan phụ trách OCOP cấp huyện kiểm
tra nội dung các phiếu ý tưởng và tính phù hợp để chọn ra các ý tưởng tốt nhất
làm cơ sở triển khai; đồng thời, thông báo, giải thích, tư vấn cho người nộp
các ý tưởng không được chọn để có thể hoàn thiện, nộp lại sau 1 tuần hoặc tham
gia vào thời điểm năm sau. Cơ quan phụ trách OCOP cấp huyện liên hệ với các người
nộp ý tưởng được chọn để hoàn tất hồ sơ, bao gồm: Phiếu đăng ký, mẫu sản phẩm,
giấy đăng ký kinh doanh, các loại giấy tờ khác như Giấy chứng nhận đủ điều kiện
sản xuất loại sản phẩm tương ứng (đủ điều kiện an toàn thực phẩm, cam kết sản
xuất thực phẩm an toàn, nuôi trồng an toàn, chứng nhận sản xuất tốt,...);
sau đó, chuyển lên Cơ quan phụ trách
OCOP cấp tỉnh danh mục ý tưởng được lựa chọn và các hồ sơ kèm theo.
- Trên cơ sở danh mục ý tưởng và hồ sơ của cấp
huyện, Cơ quan phụ trách OCOP cấp tỉnh sắp xếp theo ngành hàng và mời họp Hội đồng
xét chọn ý tưởng hoặc tổ chức đánh giá ý tưởng tại địa phương và thông báo kết
quả đến Cơ quan phụ trách OCOP cấp huyện. Cơ quan phụ trách OCOP cấp huyện chịu trách nhiệm trả lời cho cộng đồng
kết quả xét chọn ý tưởng.
Thời gian thực hiện: Liên tục trong
năm, tập trung vào Quý I hằng năm.
Cơ quan thực hiện: UBND xã, Cơ quan phụ trách OCOP cấp huyện,
tỉnh.
c) Tập huấn xây dựng Kế hoạch kinh doanh:
Chủ nhân của các ý tưởng sản phẩm được
chọn sẽ được tập huấn về phương pháp xây dựng “Kế hoạch kinh doanh”. Nội dung tập
huấn bao gồm: Khái niệm về kinh doanh, các loại hình tổ chức sản xuất - kinh
doanh, tiếp thị cơ bản, sản phẩm, xây dựng kế hoạch tài chính và nội dung kế hoạch
kinh doanh. Kết quả cần có là người dân có thể xây dựng KHKD dựa trên ý tưởng sản phẩm
đã được duyệt.
Thời gian: Quý I - Quý II hằng năm.
Cơ quan thực hiện: Cơ quan
phụ trách OCOP cấp huyện hoặc Tư vấn OCOP.
d) Nhận Kế hoạch kinh doanh
- Sau khi được tập huấn, chủ nhân các
ý tưởng sẽ xây dựng KHKD cho UBND
xã.
UBND
xã phân công cán bộ kiểm tra thể thức các KHKD và gửi về Cơ quan phụ trách OCOP
cấp huyện; đồng thời, giải
thích cho người nộp khi KHKD không phù hợp để có thể hoàn thiện, nộp lại hoặc
tham gia cùng thời điểm năm sau.
- Cơ quan phụ trách OCOP cấp huyện kiểm
tra, sàng lọc nội dung các KHKD để thông báo, giải thích, tư vấn cho
người nộp các bản kế hoạch không đầy đủ và thông báo thời gian nhận lại; đồng
thời, tổ chức Hội đồng đánh giá, thẩm
định, phê duyệt các
KHKD hợp lệ (bắt buộc thực hiện
đối với các KHKD cần vốn hỗ trợ trực tiếp từ NSNN, khuyến khích thực hiện đối với
các KHKD không cần vốn hỗ trợ trực tiếp từ NSNN), sau đó tổng hợp,
thông báo/đăng ký nhu cầu
hỗ trợ của cộng đồng đến Cơ quan phụ trách OCOP cấp tỉnh.
- Trên cơ sở nhu cầu hỗ trợ của cộng đồng từ các địa phương, Cơ quan
phụ trách OCOP cấp tỉnh xây dựng kế hoạch huy động, phân bổ nguồn lực hỗ trợ cộng đồng trong
quá trình triển khai KHKD và gửi kế hoạch hỗ trợ đến Cơ quan
phụ trách OCOP cấp huyện để thông báo đến cộng đồng.
Thời gian thực hiện: Liên tục trong năm, tập trung
vào Quý II hằng năm.
Cơ quan thực hiện: UBND xã, Cơ quan phụ
trách OCOP cấp huyện, tỉnh.
e) Tập huấn phương pháp triển khai kế
hoạch kinh doanh:
Chủ nhân của các KHKD được duyệt sẽ được
tập huấn về phương pháp triển khai KHKD. Nội dung tập huấn bao gồm: Chu trình
hình thành doanh nghiệp/hợp tác xã; quản trị sản xuất, tiếp thị; nghiên cứu
phát triển sản phẩm; tài chính doanh nghiệp nâng cao. Kết quả cần có là người
dân có thể triển khai KHKD.
Trong quá trình triển khai, cộng đồng
chủ động xây dựng thuyết minh dự án hoàn thiện sản phẩm và mở rộng sản xuất (sản
phẩm đã có), dự án phát triển sản phẩm mới (từ các ý tưởng đăng ký mới được phê
duyệt). Trong quá trình xây dựng, cộng đồng sẽ nhận được sự hướng dẫn của Cơ
quan phụ trách OCOP cấp huyện, tỉnh, đơn vị tư vấn hoặc có thể hợp đồng với đơn
vị tư vấn trong việc xây dựng và hoàn thiện thuyết minh dự án, sau đó trình
thuyết minh dự án (hoặc kế hoạch kinh doanh) đến cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
UBND xã, Cơ quan phụ trách OCOP cấp huyện, tỉnh hỗ trợ cộng đồng trong toàn bộ
quá trình tiếp nhận, thẩm định, phê duyệt dự án.
Thời gian thực hiện: Quý II - Quý III
hàng năm.
Cơ quan thực hiện: Cơ quan phụ trách
OCOP cấp huyện, tỉnh hoặc Tư vấn OCOP.
g) Triển khai phương án sản xuất kinh
doanh
Trong quá trình triển khai theo Phương
án kinh doanh, chủ thể thực hiện sẽ nhận được sự tư vấn tại chỗ, kết nối của
cán bộ OCOP cấp huyện hoặc tư vấn của Chương trình OCOP Bến Tre, dưới dạng các chuyến thăm và làm
việc định kỳ. Các hình thức tổ chức có sự tham gia vốn rộng rãi hơn của cộng đồng,
gồm: HTX, công ty cổ phần sẽ được ưu tiên hơn các hình thức khác.
Tùy mức độ đơn giản hay phức tạp và điều kiện sẵn có, một sản phẩm có thể nhận
một hoặc tất cả những hỗ trợ từ
Chương trình OCOP Bến Tre, bao gồm: Hình thành mới hoặc tái cơ cấu các tổ chức
kinh tế đã có; huy động vốn; xây dựng và triển khai các dự án phát triển sản phẩm;
tập huấn về nghiên cứu và phát triển sản phẩm (R&D); xây dựng và triển khai
các đề tài khoa học công nghệ; hợp đồng với các nhà khoa học; tham gia khóa đào
tạo cán bộ quản lý, giám đốc điều hành (CEO); kết nối thị trường; kết nối với
các nhà cung ứng đầu vào.
Các nội dung cụ thể được trình bày ở Bảng 1.
Bảng 1: Các
hoạt động hỗ trợ từ Chương trình OCOP Bến Tre
TT
|
Các hoạt động
triển khai
|
Các hoạt động
hỗ trợ
|
Kết quả cần
có
|
1
|
Hình thành mới hoặc tái cơ cấu tổ chức
kinh tế
|
Tập huấn và tư vấn tại chỗ
|
Người dân có thể chủ động hình thành
tổ chức mới hoặc tái cơ cấu tổ chức đã có theo tiêu chí OCOP.
|
2
|
Huy động nguồn lực
|
Tập huấn và tư vấn tại chỗ
|
Người dân vượt qua các khó khăn nhờ
các tư vấn, chỉ dẫn và kết nối nguồn lực (kiến thức, kỹ năng, doanh nghiệp,
thị trường,...).
|
Người dân được chỉ dẫn, kết nối
để tiếp cận các nguồn vốn (cách tiếp cận, các yêu cầu, mẫu biểu,...).
|
3
|
Xây dựng cơ bản, mua sắm và lắp đặt
trang thiết bị
|
(1) Dự án ứng dụng KHCN (có hỗ trợ vốn
từ NSNN);
(2) Tư vấn tại chỗ
|
Người dân có thể chủ động xây dựng
nhà xưởng, mua sắm và lắp
đặt trang thiết bị phù hợp với quy mô sản xuất và theo luật định.
|
4
|
Sản xuất sản phẩm
|
(1) Tư vấn tại chỗ;
(2) Hợp đồng với các tổ chức/cá nhân
KHCN;...
|
Người dân giải quyết được các vấn đề
phát sinh trong quá trình sản xuất.
|
5
|
Hoàn thiện quy trình công nghệ
|
(1) Đề tài nghiên cứu KHCN;
(2) Dự án sản xuất thử nghiệm.
|
Người dân được chỉ dẫn, kết nối để
xây dựng và phê duyệt các đề tài KHCN, dự án sản xuất thử nghiệm để hoàn thiện
công nghệ sản xuất.
|
6
|
Xúc tiến thương mại
|
(1) Quảng bá trên các phương tiện
truyền thông đại chúng;
(2) Hội chợ, triển lãm;...
|
Sản phẩm sản xuất ra được nhiều người
tiêu dùng biết đến; người dân dần
chủ động về phân phối.
|
7
|
Nâng cao chất lượng năng lực
|
(1) Tập huấn ngắn hạn;
(2) Đào tạo giám đốc điều hành (CEO)
của các tổ chức kinh tế;…
|
Người dân có thể từng bước tự triển
khai các hoạt động sản xuất - kinh doanh sản phẩm của mình.
|
Thời gian thực hiện: Liên tục từ khi kế
hoạch kinh doanh được duyệt.
Cơ quan thực hiện: Cơ quan phụ trách
OCOP cấp huyện, tỉnh hoặc Tư vấn OCOP; Sở Lao động - Thương Binh và Xã hội (đào tạo); Liên
minh HTX (hình thành các HTX); Sở Khoa học và Công nghệ (các đề tài KHCN); Sở Y tế
(tiêu chuẩn sản phẩm cho sức khỏe); Sở Nông nghiệp và PTNT (tiêu chuẩn sản phẩm nông
nghiệp); Sở Công thương (xúc tiến
thương mại); các trường cao đẳng, đại học cấp tỉnh (đào tạo).
h) Đánh giá và xếp hạng
sản phẩm
Các sản phẩm tham gia Chương trình
OCOP Bến Tre bắt buộc phải tham gia đánh giá/xếp hạng tại 3 cấp (cấp huyện, cấp
tỉnh, cấp quốc gia), trong đó các sản phẩm đạt từ 3-5 sao ở cấp huyện sẽ được
đánh giá ở cấp tỉnh, các sản phẩm đạt 4-5 sao cấp tỉnh sẽ được đánh giá ở cấp
quốc gia. Các sản
phẩm được đánh giá và xếp hạng tại các cấp sẽ do Hội đồng đánh giá sản
phẩm cấp tương ứng (huyện, tỉnh và quốc gia) thực hiện. Các sản phẩm từ 4 sao
trở xuống ở kỳ trước có thể hoàn thiện và dự thi để được đánh giá xếp hạng cao
hơn vào kỳ năm tiếp theo.
Thời gian thực hiện: Đánh giá cấp huyện,
cấp tỉnh vào cuối Quý III đến đầu Quý IV hằng năm và cấp quốc gia do Trung ương
quy định (dự kiến
vào
Quý IV hằng năm).
Cơ quan thực hiện: Hội đồng đánh giá
và xếp hạng sản phẩm ở các cấp tỉnh, cấp huyện.
Nhằm bảo đảm tính minh bạch, cũng như
tăng tính chủ động của người dân, tất cả các tiêu chí đánh giá của
Chương trình sẽ được ban hành và thông báo rộng rãi trên trang web OCOP quốc
gia, các phương tiện thông tin đại chúng. Các bản mô tả công việc và bộ đánh
giá hiệu quả công việc của các công chức, cán bộ thực hiện các vị trí công tác
của Chu trình trong hệ thống OCOP sẽ được xây dựng.
i) Xúc tiến thương mại
Các sản phẩm dự thi đạt 3 sao trở lên
sẽ được hỗ trợ xúc tiến thương mại ở các cấp tương ứng nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản
phẩm tại thị trường trong nước và quốc tế. Các hoạt động chính gồm: Xây dựng hệ
thống trung tâm, điểm giới thiệu và bán sản phẩm OCOP, gian hàng OCOP tại các
trung tâm thương mại, siêu thị, khu dân cư; quảng bá trên các phương tiện truyền
thông đại chúng; tổ chức hội chợ sản phẩm OCOP; kết nối thị trường;... (Cụ
thể các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại xem tại mục IV.5).
Thời gian thực hiện: Liên tục trong
năm.
Cơ quan thực hiện: Sở Công thương, Cơ
quan phụ trách OCOP cấp tỉnh.
k) Rà soát và điều chỉnh chu trình thường
niên đảm bảo phù hợp với điều
kiện thực tế
Thông qua tham vấn lãnh đạo, chuyên
gia trong nước, quốc tế và tùy vào tình hình thực tế, Chu trình OCOP thường
niên, Bộ tiêu chí đánh giá và xếp hạng chất lượng sản phẩm sẽ được rà soát, điều
chỉnh và hoàn thiện qua các năm.
Thời gian thực hiện: Quý IV hàng năm.
Cơ quan thực hiện: Cơ quan phụ trách
OCOP tỉnh, Nhóm tư vấn
4. Xây dựng hệ thống
quản lý chất lượng, thống kê, kiểm soát
a) Xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá và xếp
hạng chất lượng sản phẩm
Tỉnh tiến hành xây dựng Bộ tiêu chí
đánh giá, xếp hạng chất lượng sản phẩm đối với các sản phẩm chủ lực, thế mạnh của
tỉnh nhưng chưa có trong Bộ tiêu chí đánh giá, xếp hạng sản phẩm OCOP quốc gia
nhằm kịp thời tổ chức đánh giá, xếp hạng tất cả các sản phẩm của tỉnh.
Toàn bộ các sản phẩm đăng ký tham gia
Chương trình OCOP đều phải được đánh giá và xếp hạng, dựa trên các Bộ tiêu chí
đánh giá, xếp hạng sản phẩm, dịch vụ. Sau khi đánh giá, các sản phẩm OCOP được
xếp hạng từ 1 đến 5 sao tương ứng với điểm chấm tiêu chí theo hướng dẫn của
Trung ương, như sau:
- Hạng 5 sao: Sản phẩm chất lượng cao, đạt
tiêu chuẩn quốc tế;
- Hạng 4 sao: Sản phẩm đạt tiêu chuẩn
cao, có thể nâng cấp để đạt tiêu chuẩn quốc tế;
- Hạng 3 sao: Sản phẩm đạt tiêu chuẩn,
có thể phát triển lên hạng 4 sao;
- Hạng 2 sao: Sản phẩm chưa đạt tiêu chuẩn, có
thể phát triển lên hạng 3 sao;
- Hạng 1 sao: Sản phẩm yếu, có thể
phát triển lên hạng 2 sao.
Các sản phẩm, dịch vụ thuộc Chương trình
OCOP Bến Tre được đánh giá tại cấp huyện. Cấp tỉnh và Trung ương thực hiện nhiệm
vụ công nhận và xếp hạng sản phẩm. Thời gian xét, đánh giá và xếp hạng sản phẩm
được tổ chức hàng năm theo Chu trình OCOP:
- UBND cấp huyện thành lập Hội đồng
đánh giá sản phẩm. Hội đồng đánh giá sản phẩm tổ chức họp đánh giá sản phẩm
theo các Bộ Tiêu chí đánh giá xếp hạng sản phẩm của Chương trình OCOP; sau đó,
lập danh sách sản phẩm (kèm theo hồ sơ) trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét,
công nhận và xếp hạng.
- UBND cấp tỉnh thành lập Hội đồng
đánh giá và xếp hạng sản phẩm. Hội đồng đánh giá và xếp hạng sản phẩm
tổ chức họp thẩm định sản phẩm theo các Bộ Tiêu chí đánh giá xếp hạng sản phẩm,
trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định cấp Giấy công nhận và xếp hạng
sản phẩm. Lựa chọn sản phẩm được cấp giấy công nhận và xếp hạng sản phẩm của tỉnh
tham dự đánh giá, xếp hạng sản phẩm cấp Trung ương.
b) Xây dựng hệ thống
cơ sở dữ liệu Chương trình OCOP của tỉnh: Hàng năm tiến hành rà soát, kiểm
tra, đánh giá hiện trạng các
sản phẩm hiện có trên địa bàn toàn tỉnh. Cập nhật, bổ sung các sản phẩm mới, có
tiềm năng để xây dựng kế hoạch hỗ trợ phát
triển. Xây dựng, cập nhật danh mục các sản phẩm, dịch vụ kèm thông tin về chất
lượng, tiêu chuẩn sản phẩm, và thông tin về cơ sở sản xuất kinh doanh của các sản
phẩm dịch vụ.
c) Xây dựng phần mềm quản lý sản phẩm: Xây dựng hệ
thống phần mềm quản lý sản phẩm, dịch vụ đồng bộ tại các cấp. Ứng dụng các
công nghệ mới trong quản lý đồng bộ các sản phẩm dịch vụ của Chương trình OCOP trên địa
bàn toàn tỉnh.
d) Hệ thống báo cáo theo Bộ chỉ số quốc gia
OCOP:
Thực hiện báo cáo theo hướng dẫn và hệ thống báo cáo theo hướng dẫn của các Bộ
chỉ số quốc gia về OCOP
e) Công tác kiểm soát,
thanh tra:
Định kỳ kiểm tra, giám
sát tình hình triển khai Chương trình OCOP Bến Tre tại các địa phương. Phối hợp với địa
phương trong công tác triển khai, tư vấn, hỗ trợ cộng đồng trong quá trình
sản xuất kinh doanh các sản phẩm OCOP.
5. Công
tác xúc tiến thương mại
a) Công tác quảng cáo, quảng bá sản phẩm
Các sản phẩm đạt 3-5 sao cấp tỉnh được
hỗ trợ xúc tiến thương mại trên quy mô toàn tỉnh. Các sản phẩm đạt 3-5 sao cấp
quốc gia được tham gia các chương trình hỗ trợ xúc tiến cấp quốc gia
(trên toàn quốc và quốc tế), các hình thức chủ yếu gồm:
Triển khai các hoạt động xúc tiến, quảng
bá trên các phương tiện truyền thông đại chúng: (i) Xây dựng video clip, tin bài
quảng bá cho
các sản phẩm có thứ hạng sao cao (từ 3-5 sao); (ii) Phát sóng trên truyền hình hoặc đăng trên
các trang báo, tạp
chí của tỉnh; thời lượng và tần số phát tin bài, video clip căn cứ theo thứ hạng
sao của sản phẩm. Các chủ thể OCOP sẽ được nhận video clip, tin bài về sản phẩm
của mình để chủ động thực hiện các chương trình tiếp thị riêng của mình; (iii)
Xây dựng, xuất bản ấn phẩm, tạp chí chuyên đề OCOP quảng bá trên hệ thống tuyến du lịch.
Tổ chức các đoàn xúc tiến thương mại cấp tỉnh hoặc
các doanh nghiệp mang sản phẩm OCOP tiêu biểu (tùy thị trường) đến giới thiệu tại
các thị trường trong nước và quốc tế.
b) Thương mại điện tử (E-commercial)
- Lồng ghép trang tin điện tử (website) giới
thiệu các sản phẩm thuộc Chương trình OCOP Bến Tre trong Cổng thông tin điện tử
nông thôn mới của tỉnh.
- Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu,
thông tin thị trường sản phẩm OCOP.
- Lựa chọn sản phẩm OCOP để giới thiệu
và tham gia phân phối trên các trang bán sản phẩm nông sản, đặc sản hiện có. Ví dụ: Các
trang facebook
(Đặc sản vùng miền, Chợ Đặc sản,...),
các trang bán lẻ (Lazada.vn, Shopee.vn, Sendo.vn,...).
- Xây dựng sàn giao dịch,
các website bán
hàng, các trang
facebook bán hàng, giới thiệu riêng về sản phẩm OCOP của tỉnh, của huyện.
- Tham gia hệ thống Sàn bán hàng điện
tử OCOP theo hướng dẫn của Thường trực Chương trình OCOP Trung ương. Quản lý số
lượng, chất lượng sản phẩm OCOP của tỉnh trên Sàn bán hàng điện tử.
c) Tổ chức sự kiện hội chợ, triển lãm
- Hỗ trợ quảng bá, giới thiệu sản phẩm OCOP tại
các hội chợ nông sản trong nước và quốc tế. Tổ chức Hội chợ giới thiệu sản phẩm
đặc sản và sản phẩm OCOP tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hằng năm tổ chức Hội chợ trưng bày sản
phẩm OCOP tỉnh Bến Tre và các hội chợ, triển lãm khác sẽ tổ chức lồng ghép các
gian hàng giới thiệu và bán sản phẩm OCOP.
Ban chỉ đạo các Chương trình MTQG tỉnh,
huyện kết nối và hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách nhà nước tùy theo điều
kiện thực tế để các doanh nghiệp có thể tham gia.
d) Trung tâm bán hàng
- Nghiên cứu xây dựng các trung tâm,
điểm giới thiệu và bán sản phẩm
OCOP tại Thành phố Bến Tre và một số huyện có lợi thế về thương mại, dịch vụ.
Kinh phí xây dựng bố trí từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn xã hội hóa trên cơ
sở phù hợp với quy hoạch, chủ trương của tỉnh và yêu cầu chung của chương trình
OCOP. Các trung tâm sẽ chịu sự giám sát, kiểm tra của hệ thống quản lý, điều
hành Chương trình OCOP. Các trung tâm, điểm giới thiệu và bán sản phẩm sẽ liên
kết với các trung tâm OCOP Quốc gia nằm ở các vùng kinh tế trọng điểm tại Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn.
6. Xây dựng và triển
khai các nhiệm vụ, Đề án thành phần của Chương trình
- Các dự án hỗ trợ nâng cấp/mở rộng,
phát triển sản xuất các sản phẩm đã có:
Các Dự án này do cá nhân/tổ chức kinh tế
(doanh nghiệp vừa và nhỏ, HTX, THT,...) đề xuất và làm chủ đầu tư. Ban Chỉ đạo
các CTMTQG xây dựng NTM cấp tỉnh quản lý đầu tư, chủ trì phối hợp với cơ quan
tư vấn, các đối tác hỗ trợ trong quá trình triển khai Dự án.
Các sản phẩm ưu tiên trong giai đoạn
2018-2020 gồm 8 mặt hàng chủ lực của tỉnh (bưởi, dừa, chôm chôm, nhãn, hoa kiểng,
lợn, bò và tôm biển), và một số sản phẩm tiềm năng của các huyện (sa sâm, nấm
bào ngư, nấm linh chi, rượu, mỹ phẩm từ dừa,...)
- Nhóm dự án phát triển các sản phẩm,
dự kiến gồm (Phụ lục 6):
+ Đề án Làng văn hóa du lịch huyện Chợ
Lách cấp quốc gia.
+ Dự án phát triển chế biến các sản phẩm
thịt bò (Ba Tri).
+ Dự án phát triển chế biến các sản phẩm
nghêu (Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú).
+ Dự án phát triển chế biến các sản phẩm
tôm (Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú).
+ Dự án phát triển các sản phẩm chế biến
dừa hữu cơ (Bình Đại, Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú).
+ Dự án phát triển sản phẩm trái cây:
bưởi da xanh, chôm chôm, nhãn, sầu riêng, măng cụt,...
Các dự án sẽ được nghiên cứu đề xuất
và có kế hoạch triển khai cụ thể tùy theo điều kiện, nguồn lực của các địa
phương.
- Nhóm dự án xây dựng Trung tâm, điểm
giới thiệu và bán sản phẩm OCOP
+ Trung tâm giới thiệu và bán sản phẩm
OCOP cấp tỉnh: nghiên cứu xây dựng 01 trung tâm OCOP cấp tỉnh phục vụ việc giới
thiệu và bán các sản phẩm OCOP của Bến Tre và các tỉnh khác trong khu vực. Dự
kiến sẽ xây dựng tại thành phố Bến Tre.
+ Hệ thống các trung tâm giới
thiệu và bán sản phẩm OCOP cấp huyện: từng bước xây dựng các Trung tâm OCOP gắn
với các trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ của tỉnh. Dự kiến triển khai mẫu
tại các huyện có thế mạnh về du lịch như Chợ Lách, Thạnh Phú, Bình Đại, Châu
Thành...
+ Hệ thống các điểm, giới thiệu và bán
sản phẩm OCOP cấp xã: nghiên cứu xây dựng mới/nâng cấp các điểm bán hàng, giới
thiệu sản phẩm OCOP gắn với các điểm sinh hoạt cộng đồng tại xã.
+ Dự án phát triển thương hiệu sản phẩm
OCOP Bến Tre: gồm
các hoạt động xúc tiến phát triển thương hiệu sản phẩm OCOP Bến Tre trên cả nước
như trung tâm/điểm giới thiệu sản phẩm OCOP Bến Tre tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hà Nội và một
số
thành phố lớn nhằm thúc đẩy tiêu
thụ sản phẩm.
7. Tổng kết Chương trình
Tổng kết bài học kinh nghiệm,
xây dựng giáo trình tập huấn và tổ chức đào tạo để mở rộng chương trình nhằm
phát triển và thương mại hóa các sản phẩm truyền thống toàn tỉnh Bến Tre. Cụ thể
các hoạt động sau cần triển khai:
- Giám sát, đánh giá và tổng kết bài học
kinh nghiệm.
- Tổng hợp, cập nhật, hoàn thiện từ
các giáo trình đào tạo tập huấn, kế hoạch hoạt động đã có để xây dựng giáo trình tập huấn phát
triển OCOP (Hình thành và quản lý tổ chức kinh tế làng xã, phát triển sản phẩm, phát triển
kinh doanh, v.v.).
- Xuất bản các sản phẩm nghiên cứu và
kinh nghiệm phát triển Chương trình OCOP Bến Tre giai đoạn
2018 - 2020.
- Tổ chức hội thảo về Chương trình
OCOP Bến Tre giai đoạn 2018 - 2020, định hướng 2030 nhằm chia
sẻ các bài học kinh nghiệm và lấy ý kiến hoàn chỉnh kế hoạch hoạt động. Đồng thời
xây dựng kế hoạch hoạt động Chương trình OCOP Bến Tre cho giai đoạn tiếp theo.
8. Nguồn vốn thực hiện
Tổng vốn dự kiến triển khai thực hiện:
267.090.150.000 đồng, trong đó:
- Vốn thực hiện Chương trình OCOP Bến Tre
giai đoạn 2018 - 2020: 34.637.150.000 đồng (Phụ lục 5), trong đó:
+ Năm 2019: 18.038.550.000 đồng
+ Năm 2020: 16.598.600.000 đồng
- Dự kiến nguồn vốn xây dựng và triển
khai các dự án, đề án thành phần: 232.453.000.000 đồng (Phụ lục 6)
Nguồn kinh phí:
- Nguồn kinh phí sự nghiệp các Chương trình MTQG
xây dựng NTM và nguồn vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án có nội dung liên
quan (Dự án “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh
nghiệp nhỏ và tỉnh Bến Tre giai đoạn 2013-2020”, Chương trình Đồng Khởi khởi nghiệp và
Phát triển doanh nghiệp tỉnh Bến Tre, Chương trình xúc tiến thương mại tỉnh Bến
Tre, v.v....)
- Nguồn khác:
+ Cộng đồng tự huy động;
+ Tài trợ của một số tổ chức trong và
ngoài nước;
+ Các doanh nghiệp (ứng vốn theo chuỗi giá trị);
+ Vốn tín dụng ngân hàng;
....
Phần
thứ ba
NHIỆM
VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
I. Nhiệm vụ và giải
pháp
1. Công tác tuyên
truyền nâng cao nhận thức
Xác định đầy đủ nhiệm vụ và giải pháp
quan trọng trong triển khai thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm, hoạt động
tuyên truyền cần được chú trọng thực hiện sâu, rộng và đa dạng với
nhiều hình thức, với các đối tượng:
- Hệ thống chính quyền các cấp:
+ Chương trình OCOP Bến Tre có trong kế hoạch,
nhiệm vụ trọng tâm của chính quyền địa phương để triển khai thực hiện lâu dài và thường
xuyên.
+ Việc truyền thông được thực hiện
dưới dạng hội nghị, hội thảo chuyên đề tại thời điểm khởi động Chương trình OCOP Bến Tre.
- Đối với Cộng đồng dân cư:
+ Thông tin, tuyên truyền nội dung
Chương trình OCOP Bến Tre, chu trình OCOP, Bộ tiêu chí đánh giá, xếp hạng sản
phẩm OCOP, những thành tựu và kết quả
thực hiện Chương trình; những gương điển hình tiên tiến và mô hình sản xuất tiêu biểu
trong tổ chức sản xuất, phát triển thị trường, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nâng
cao giá trị gia
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm khu vực nông nghiệp, nông thôn.
+ Việc thông tin, tuyên truyền được thực
hiện thường xuyên, liên tục qua hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng từ
tỉnh đến cấp xã, thôn; trang tin điện tử của Chương trình OCOP Bến Tre, dưới dạng
bản tin, chuyên đề, câu chuyện gắn với
hình ảnh, khẩu hiệu cụ thể.
2. Công
tác đào tạo nguồn nhân lực
a) Đối tượng đào tạo
- Cán bộ tham gia quản lý, điều
hành Chương trình OCOP Bến Tre:
+ Đào tạo chuyên gia cấp tỉnh.
+ Đào tạo cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện, xã.
- Các chủ thể sản xuất, lao động tại
các
doanh
nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ sản xuất,...
b) Nội dung đào tạo
Các nội dung đào tạo dựa
theo theo bộ giáo trình chuẩn của Trung ương. Hàng năm, tỉnh tiến hành rà soát
điều chỉnh theo nhu cầu thực tế của các đối tượng đào tạo.
- Các cán bộ tham gia quản
lý, điều hành Chương trình OCOP sẽ được đào tạo các nội dung gồm:
+ Lý luận và thực
tiễn về hình thành và tái cơ cấu các
HTX/doanh nghiệp.
+ Nghiên cứu và phát triển sản phẩm.
+ Tổ chức sản xuất.
+ Xúc tiến thương mại.
+ Xây dựng “Mạng lưới Đối tác OCOP Bến
Tre” với sự tham gia của các
tổ chức OCOP, các
đối tác (thu thập thông tin đối tác OCOP, phân tích, tổng hợp năng lực đối tác OCOP).
+ Tổ chức Hội nghị kết nối (chia sẻ
thông tin, gặp gỡ, đàm phán, ký kết thỏa thuận, hợp đồng....).
Cơ quan thực hiện: Cơ quan phụ trách
OCOP cấp tỉnh/Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn và Nhóm tư vấn.
4. Chính sách thực hiện
Rà soát các chính sách hiện hành về hỗ
trợ phát triển sản xuất, phát triển du lịch, khoa học công nghệ, khuyến nông,
khuyến công, xúc tiến thương mại, chương trình Đồng Khởi khởi nghiệp,... có thể
áp dụng cho các chủ thể Chương trình OCOP Bến Tre để ban hành cẩm nang nhằm
giúp cộng đồng dễ dàng tiếp cận các chính sách này.
Trên cơ sở rà soát các chính sách hiện
có, tiến hành xây dựng và ban hành các chính sách mới hỗ trợ cho các chủ thể
tham gia Chương trình OCOP Bến Tre đối với các lĩnh vực cần hỗ trợ để tạo điều
kiện thuận lợi cho các chủ thể phát triển sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh phân
phối, tiếp thị..., đặc biệt dành cho các sản phẩm chủ lực của tỉnh, huyện.
Sử dụng nguồn kinh phí từ Chương trình
OCOP Bến Tre hỗ trợ các chủ thể sản xuất kinh doanh tham gia Chương trình OCOP
Bến Tre nâng cao năng lực quản lý tổ chức sản xuất (thông qua đào tạo, tập huấn,
tư vấn trực tiếp,..,), hoàn thiện/nâng cấp sản phẩm dịch vụ đạt tiêu chuẩn chất
lượng cao, tham gia các hoạt động
xúc tiến thương mại, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, tiếp cận nguồn vốn
để sản xuất, kinh doanh,...
II. Tổ chức thực hiện
1. Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn
Chịu trách nhiệm chính trong việc triển
khai thực hiện Chương trình trên địa bàn tỉnh, bao gồm những nội dung như sau:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
triển khai Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bến Tre theo giai đoạn và hàng
năm.
- Hướng dẫn UBND các huyện, thành phố
xây dựng kế hoạch và triển khai Chương trình trên địa bàn.
- Chủ trì, phối hợp với đơn vị tư vấn
và các cơ quan, đơn vị có liên quan tham mưu UBND tỉnh ban hành quy định về
thành lập hệ thống chỉ đạo, điều hành thực hiện Chương trình OCOP từ tỉnh đến
cơ sở; xây dựng bộ tiêu chí đánh giá, xếp hạng sản phẩm OCOP đối với các sản phẩm
chủ lực của tỉnh nhưng chưa có trong Bộ tiêu chí đánh giá, xếp hạng sản phẩm
OCOP quốc gia; tham mưu thành lập Hội đồng đánh giá, xếp hạng sản phẩm cấp tỉnh
và tổ chức các kỳ đánh giá sản phẩm hằng năm.
- Chủ trì, phối hợp các cơ
quan, đơn vị có liên quan tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo triển khai các dự án thành
phần của Chương trình; quy định cụ thể về nội dung hỗ trợ, mức hỗ trợ của từng
nội dung, đối tượng được hỗ trợ, để khuyến khích phát triển sản phẩm OCOP; lồng
ghép các hoạt động của Chương trình vào thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp, các hoạt động nông - lâm - ngư nghiệp; hướng dẫn phát triển kinh tế hộ,
kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp.
- Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư,
Sở Tài chính và các cơ quan, đơn vị có liên quan tham mưu UBND tỉnh bố trí, huy
động nguồn lực thực hiện Chương trình OCOP Bến Tre.
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan,
đơn vị liên quan, UBND các huyện,
thành phố tổ chức đánh giá, tổng kết thực hiện Đề án Chương trình OCOP tỉnh Bến Tre
giai đoạn 2018-2020, định hướng 2030; thường xuyên tổ chức kiểm tra, đánh giá
thực hiện Chương trình để tổng hợp báo cáo về UBND tỉnh và các Bộ ngành Trung ương theo định
kỳ hằng năm hoặc đột xuất khi có yêu cầu.
2. Các Sở,
ngành tỉnh có liên quan
- Văn phòng Điều phối Chương
trình xây dựng nông thôn mới tỉnh: phối hợp Sở Nông
nghiệp và PTNT trong việc lồng ghép thực hiện Chương trình NTM và Chương trình
OCOP; phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan thực hiện các nội dung
tuyên truyền, đào tạo, tập huấn đối với các cán bộ thuộc Chương trình OCOP.
- Sở Công thương: tổ chức, quản
lý, điều phối các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ các sản phẩm
OCOP (hội chợ, triển lãm,...); cập nhật
thông tin thị trường trong nước và quốc tế liên quan đến sản phẩm OCOP; thực hiện
quản lý nhà nước
về hoạt động thương mại đối với
các trung tâm, điểm giới thiệu và bán sản phẩm OCOP của tỉnh; phối hợp với Sở Văn
hóa - Thể thao và Du lịch kết nối các trung tâm, điểm giới thiệu và bán sản phẩm
OCOP với các hoạt động
du lịch; hướng dẫn, hỗ trợ
các
chủ thể tham gia
Chương trình OCOP tiếp cận
nguồn vốn khuyến công.
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch: hỗ trợ các tổ
chức kinh tế, nhóm cộng đồng nghiên cứu phát triển, quảng bá các sản phẩm du lịch nông thôn
trên cơ sở phát huy thế mạnh về địa danh, di tích văn
hóa lịch sử, truyền thống văn hóa của dân tộc và đặc trưng của địa phương; hỗ
trợ các địa phương phát triển làng văn hóa du lịch; hướng dẫn các địa phương, các chủ thể
OCOP xây dựng câu chuyện sản phẩm OCOP; quảng bá, xúc tiến mở rộng các tour,
tuyến du lịch kết nối với các vùng sản xuất và các trung tâm, điểm giới thiệu
và bán sản phẩm OCOP; chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan triển khai
thực hiện các dự án, đề án thành phần
gắn với hoạt động du lịch, trong đó có Đề án Làng Văn hóa Du lịch huyện Chợ
Lách.
- Sở Khoa học và
Công nghệ:
chủ trì, phối hợp với các sở ngành, địa phương hướng dẫn, hỗ trợ các tổ chức
OCOP thiết kế sản phẩm, đăng ký; xác lập quyền sở hữu trí tuệ; hướng dẫn
ghi nhãn hàng hóa, đăng ký mã số, mã vạch, công bố chất lượng sản
phẩm OCOP; hỗ trợ các tổ chức kinh tế, cộng đồng đẩy mạnh ứng dụng khoa học,
công nghệ trong phát triển
sản xuất các sản phẩm tham gia Chương trình OCOP.
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội: chủ trì, phối
hợp với Sở Nông
nghiệp và PTNT, UBND các huyện, thành phố, các trường, cơ sở đào tạo nghề xây dựng
và triển khai kế hoạch tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo nghề cho các chủ thể
tham gia Chương
trình
OCOP của tỉnh.
- Sở Kế hoạch và Đầu
tư: lồng ghép
các nội dung của Chương trình vào quy hoạch tổng thể, kế hoạch hằng năm;
phối hợp với Sở Tài chính lập dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách theo quy định; lồng
ghép các hoạt động của
Chương trình Đồng Khởi khởi nghiệp và Phát triển doanh nghiệp
để hỗ trợ Chương trình OCOP.
- Sở Nội vụ: phối hợp với
Sở Nông nghiệp và PTNT và các
cơ quan, đơn vị liên quan tham mưu UBND tỉnh thành lập hệ thống chỉ đạo, điều hành,
thực hiện Chương trình OCOP từ tỉnh đến cơ sở, trên tinh thần sắp xếp, bố trí
nhân lực hợp lý, không tăng biên chế ở các cấp.
- Sở Tài nguyên và Môi trường: chủ trì, phối
hợp với các sở, ngành và địa phương bố trí quỹ đất phục vụ xây dựng các trung
tâm, điểm bán hàng và giới thiệu sản phẩm OCOP; giám sát, hỗ trợ, hướng dẫn các
đơn vị sản xuất, kinh doanh, các khu du lịch, dịch vụ thực hiện đúng quy định
các hoạt động liên quan đến môi trường.
- Sở Y tế: hỗ trợ các tổ chức
kinh tế, hộ sản xuất thực hiện các quy trình liên quan đến an toàn thực phẩm,
công bố chất lượng sản phẩm; đánh giá các sản phẩm thuộc phạm vi quản lý của
ngành y tế.
- Sở Thông tin và Truyền thông: chủ trì, phối
hợp với các Sở, ngành liên quan triển khai các hoạt động tuyên truyền về Chương
trình OCOP; nghiên cứu xây dựng website về Chương trình OCOP.
- Sở Tài chính: tham mưu
UBND tỉnh cân đối, bố trí vốn cho các hoạt động của Chương trình theo quy định;
hỗ trợ, hướng dẫn các tổ chức kinh tế hình thành trong Chương trình về nghiệp vụ,
chế độ quản lý tài chính.
- Liên minh HTX: Hỗ trợ các
nhóm hộ gia đình, tổ hợp tác tham gia OCOP hình thành và phát triển hợp tác xã;
tuyên truyền, tập huấn, hướng dẫn, hỗ trợ các hợp tác xã tham gia Chương trình
OCOP.
- Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh: hỗ trợ doanh
nghiệp, HTX, hộ sản xuất tiếp cận nguồn vốn vay để tổ chức sản xuất.
- Các cơ quan truyền
thông, báo chí: đẩy mạnh công tác đưa tin, bài, hình ảnh tích cực về
Chương trình OCOP để tuyên truyền và quảng bá về Chương trình.
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các Hội, Đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở: đẩy mạnh công
tác vận động, tuyên truyền hội viên và nhân dân đồng thuận và tích cực tham
tham gia thực hiện Chương trình.
3. Ủy ban nhân dân cấp
huyện
- Chỉ đạo các cơ quan tham mưu, giúp
việc chuyên trách xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện có hiệu quả
Chương trình trên địa bàn theo hướng có trọng tâm trọng điểm, trong đó ưu tiên
phát triển các nhóm sản phẩm chủ lực, có lợi thế và phát triển du lịch ở nông
thôn; hướng dẫn, chỉ đạo cấp xã triển khai thực hiện Chương trình theo Kế hoạch
của UBND cấp huyện; thực hiện công tác kiểm tra, giám sát trên địa bàn để kịp
thời xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện và hỗ trợ các tổ chức
kinh tế, cơ sở, hộ sản xuất sản phẩm tham gia Chương trình OCOP.
- Thành lập Hội đồng đánh giá, xếp loại
sản phẩm OCOP cấp huyện; tổ chức cuộc thi đánh giá và xếp hạng sản phẩm cấp huyện
để chọn sản phẩm thi đánh giá và xếp hạng cấp tỉnh.
- Bố trí, lồng ghép các nguồn ngân
sách địa phương và huy động các nguồn lực hợp pháp để triển khai thực hiện
Chương trình OCOP trên
địa bàn.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên
truyền về Chương trình OCOP và vận động, khuyến khích các thành phần kinh tế, hộ
gia đình, người dân tại địa phương tham gia Chương trình.
4. Ủy ban
nhân dân cấp xã
- Triển khai thực hiện có hiệu quả
Chương trình trên địa
bàn quản lý.
- Tuyên truyền, vận động các tổ chức
kinh tế, hộ gia đình, nhân dân trên địa bàn tích cực tham gia Chương
trình.
- Tổng hợp ý tưởng sản xuất, kinh doanh
sản phẩm của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình trình cơ quan cấp huyện đánh giá,
lựa chọn.
- Hỗ trợ các tổ chức kinh tế, hộ gia
đình triển khai thực hiện sản xuất kinh doanh trên ý tưởng được lựa chọn.
Phần
thứ tư
TÁC
ĐỘNG, HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH MỖI XÃ MỘT SẢN PHẨM TỈNH BẾN TRE
I. Tác động của
Chương trình OCOP
Việc triển khai thực hiện Chương trình
Mỗi xã Một sản phẩm tỉnh Bến Tre có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và khu vực nông thôn nói riêng, nhằm
khai thác hiệu quả hơn tiềm năng, thế mạnh của mỗi địa phương, phát triển sản phẩm
có chất lượng theo đúng quy chuẩn, tăng khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu của
thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, thay đổi tập
quán sản xuất lạc hậu, manh mún; khơi
dậy và phát huy tinh thần tự
lực, tự tin, sáng tạo khởi nghiệp của người dân, hướng người dân
vào kinh tế thị trường, thúc đẩy phát triển sản xuất khu vực nông
thôn.
Chương trình giúp người dân nâng cao
trình độ nhận thức, từng bước tiếp cận và ứng dụng khoa học công
nghệ tiên tiến vào sản xuất, nắm bắt tốt thông tin thị trường, từ đó quyết định lựa chọn
và phát triển các sản phẩm đảm bảo chất lượng tốt theo quy chuẩn để tăng lợi thế
cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Thông qua việc phát triển sản xuất các
sản phẩm chủ lực, đặc trưng, tiềm năng tại địa bàn nông thôn góp phần tạo công
ăn việc làm, hạn chế di cư từ nông
thôn ra thành thị, từng bước đưa kinh tế khu vực nông thôn của tỉnh phát triển
theo chiều sâu và bền vững, thu hẹp dần khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
II. Hiệu quả của
Chương trình OCOP
1. Hiệu quả về kinh tế
- Chương trình là giải pháp thiết thực,
hiệu quả để cơ cấu lại và phát triển kinh tế nông thôn, thúc đẩy phát
triển hàng hóa nông nghiệp, phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn.
- Xây dựng một cách có chiến lược kế hoạch
phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh.
- Thúc đẩy ứng dụng công nghệ tiên tiến
vào quá trình sản xuất và quản lý, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, có giá
trị gia tăng cao.
2. Hiệu quả về văn hóa, xã hội và
môi trường
- Giải quyết lao động, tạo ra công ăn
việc làm ở khu vực nông thôn.
- Tạo ra nhiều sản phẩm đặc trưng đậm
nét văn hóa đặc trưng của địa phương, góp phần phục hồi và phát triển một số sản phẩm truyền
thống.
- Thu hút lao động và nguồn vốn đầu tư về
khu vực nông thôn, giúp
xây dựng NTM bền vững và ngày càng phát triển.