CHỦ
TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
151-CT
|
Hà
Nội, ngày 21 tháng 6 năm 1986
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 151-CT NGÀY 21-6-1986 VỀ VIỆC TỔ CHỨC
LẠI SẢN XUẤT NGHỀ CÁ TRÊN CÁC NGƯ TRƯỜNG
Trong những năm gần đây,
ngành thuỷ sản đã có những cố gắng và đạt được một số kết quả bước đầu, khắc phục
được tình trạng sa sút của những năm 1976-1980, tăng khá về kim ngạch xuất khẩu
và tăng dần về sản lượng hải sản cung cấp cho tiêu dùng trong nước.
Tuy nhiên, trên
nhiều mặt vẫn còn yếu kém và mất cân đối, lực lượng sản xuất trên biển chưa được
tổ chức chặt chẽ, hậu cần dịch vụ chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, sản phẩm
chưa được quản lý tốt, công tác bảo vệ nguồn lợi và giữ gìn an ninh chính trị
trên biển còn lỏng lẻo...
Để phù hợp với đặc điểm của
nghề cá, quy luật di chuyển của các loài hải sản, tập quán sản xuất trên biển của
ngư dân và khắc phục những thiếu sót nêu trên đây, nhằm khai thác có hiệu quả
nguồn lợi, từng bước đưa nghề cá lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng quyết định một số nhiệm vụ về tổ chức lại sản xuất nghề cá như
sau:
1. Tổ chức lại
sản xuất trên các ngư trường.
Bộ thuỷ sản chủ trì cùng với Uỷ
ban Nhân dân các tỉnh ven biển và các ngành có liên quan, căn cứ vào những kết
quả điều tra sơ bộ và quy hoạch tạm thời của ngành thuỷ sản, tiến hành tổ chức
lại sản xuất nghề cá trên các ngư trường vịnh Bắc bộ, Nam Trung bộ, Đông và Tây
Nam bộ, viễn dương.
Trước mắt Bộ thuỷ sản cần tập
trung điều tra, quy hoạch và phối hợp với uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố
có liên quan tổ chức lại sản xuất ở ngư trường Đông và Tây nam bộ để thí điểm
rút kinh nghiệm, mặt khác cần tổ chức, sắp xếp lại các trung tâm nghề cá của cả
nước như Hải Phòng, Cửa Hội, Đà Nẵng, Phan Thiết, Năm Căn, Vũng Tàu, sông Ông Đốc,
Rạch Giá và Phú Quốc. Đối với các ngư trường nhỏ khác và các bãi ngang, bến cá
địa phương, Bộ Thuỷ sản hướng dẫn và giúp đỡ để Uỷ ban Nhân dân tỉnh sở tại chỉ
đạo việc tổ chức lại sản xuất, phù hợp với quy hoạch chung của ngành thuỷ sản.
Việc tổ chức lại sản xuất trên
các ngư trường phải gắn chặt khai thác với nuôi trồng, sản xuất với thu mua, chế
biến và dịch vụ hậu cần, nhằm bảo đảm khai thác có hiệu quả nguồn lợi thuỷ sản.
a) Sắp xếp lại lực lượng đánh bắt
hải sản: Sắp xếp củng cố lại các quốc doanh để quốc doanh vừa là chủ đạo, vừa
là nòng cốt trong việc dịch vụ, hậu cần và đánh bắt hải sản phục vụ tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu. Sắp xếp, tổ chức lại số tầu thuyền của hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất và ngư dân cá thể thành đoàn, thành đội khi đi sản xuất trên biển.
Bố trí kết hợp giữa lực lượng cơ giới, bán cơ giới và thủ công để sản xuất theo
các tuyến khơi, lộng và ven bờ cho phù hợp với năng lực sản xuất, tính chất nghề
nghiệp và yêu cầu bảo vệ an ninh, quốc phòng trên biển. Bố trí kiêm nghề trên tất
cả các tầu thuyền để tận dụng mọi thời gian và lao đông, đánh bắt được nhiều sản
phẩm, tiết kiệm vật tư, nhiên liệu và hạ giá thành. Phân bố lại cơ cấu nghề
nghiệp, số lượng tầu thuyền, lưới và công cụ đánh bắt ở từng ngư trường cho phù
hợp với sản lượng cho phép đánh bắt hàng năm.
Việc đưa tầu thuyền di chuyển đến
ngư trường khác để khai thác theo mùa vụ, Bộ Thuỷ sản và các địa phương phải
quán triệt tinh thần vùng biển đặc quyền kinh tế là sở hữu toàn dân, do Nhà nước
thống nhất quản lý, chỉ có quốc doanh và đơn vị tập thể mới được đưa tầu thuyền
di chuyển đến các ngư trường thuộc địa phận của tỉnh khác để đánh bắt hải sản
nhưng phải tổ chức theo đoàn, theo đội có đăng ký hành nghề, tuân theo quy hoạch,
kế hoạch và sự quản lý thống nhất của Bộ Thuỷ sản và các quy định cụ thể của Uỷ
ban Nhân dân tỉnh sở tại với sự nhất trí của Bộ Thuỷ sản, Bộ Nội vụ và Bộ Quốc
phòng.
Các lực lượng vũ trang làm nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển nếu được Bộ Quốc phòng cho phép thì được
kết hợp làm kinh tế đánh bắt hải sản ở vùng biển đặc quyền kinh tế của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng phải đăng ký với Bộ Thuỷ sản và do Bộ Thuỷ
sản chỉ đạo, quản lý về sản xuất và kỹ thuật.
b) Sắp xếp, tổ chức lại hệ thống
hậu cần, dịch vụ cho nghề cá. Sắp xếp lại các cơ sở đóng mới và sửa chữa tầu
thuyền của Trung ương và địa phương để cân đối đủ cho nhu cầu đóng và sửa chữa
tầu thuyền hàng năm của cả nước và của mỗi vùng. Sắp xếp lại các cơ sở đông lạnh,
bảo đảm đủ cho việc cung cấp nước đá và chế biến, bảo quản các sản phẩm hải sản
xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Sắp xếp lại các cơ sở cung ứng vật tư, xăng
dầu, lưới sợi, lương thực và hàng hoá tiêu dùng thiết yếu khác nhằm bảo đảm phục
vụ thuận tiện và kịp thời cho các tầu thuyền đánh bắt hải sản. Các cơ sở hậu cần
và dịch vụ này do các công ty và quốc doanh của trung ương và địa phương phụ
trách và được sắp xếp theo hướng trung ương đảm nhận dịch vụ ở những ngư trường
chính, nếu cần vẫn có thể liên kết, liên doanh với các địa phương, địa phương
chủ yếu dịch vụ cho các lực lượng sản xuất của địa phương mình và chi viện một
phần cho tầu thuyền của địa phương bạn khi đến sản xuất ở vùng biển thuộc địa
phương mình quản lý.
Các cơ sở hậu cần, dịch vụ của cả
trung ương và địa phương nói trên đây phải xây dựng ở cả trên bờ, trên đảo và tổ
chức "trạm nổi" trên biển, điều chỉnh giữa nơi thừa và nơi thiếu về
năng lực hậu cần, dịch vụ, để bảo đảm cho các cơ sở hậu cần dịch vụ phát huy hết
công suất thiết kế và phục vụ sản xuất có hiệu quả. Bộ Thuỷ sản và các địa
phương bàn bạc với các ngành tham gia dịch vụ cho nghề cá để tổ chức tốt mạng
lưới hậu cần dịch vụ theo hướng trên đây, bảo đảm sản phẩm đánh bắt được chế biến
ngay, làm cho chất lượng tốt, giá thành hạ.
c) Tổ chức, sắp xếp lại các cơ sở
thu mua, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, Bộ Thuỷ sản và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh
thống nhất chỉ đạo việc tổ chức các công ty và quốc doanh thu mua hải sản. Các
tổ chức thu mua phải được giao nhiệm vụ rõ ràng và bố trí ở cả trên bờ, trên đảo
và trên biển để bảo đảm thu mua đại bộ phận các sản phẩm khai thác được, phương
thức thu mua phải cải tiến, thuận tiện và không gây phiền hà cho người bán, giá
cả phải theo quy định của Nhà nước. Nghiêm cấm việc treo giá, tranh mua, tranh
bán, đầu cơ buôn lậu và nâng giá. Các tầu thuyền khai thác không được thu mua sản
phẩm, kể cả lực lượng vũ trang. Trường hợp các quốc doanh chưa đảm nhận hết, có
thể giao cho đơn vị tập thể làm một phần dịch vụ và thu mua hải sản để chế biến
hoặc đại lý cho Nhà nước, nhưng không được giao cho tư thương làm việc này và
phải được quản lý chặt chẽ.
Mọi tầu thuyền của các đơn vị tập
thể và tư nhân khai thác hải sản trên biển có nghĩa vụ bán sản phẩm cho Nhà nước
ngay tại nơi tầu thuyền mình hoạt động thông qua hợp đồng kinh tế hai chiều và
theo giá quy định của Nhà nước ở khu vực đó. Riêng các tầu thuyền di chuyển có
thể đem toàn bộ hay một phần sản phẩm khai thác được về tiêu dùng ở địa phương
mình, nhưng không được bán cho tư thương, tầu thuyền nước ngoài và bọn buôn lậu
dưới bất cứ hình thức nào.
2. Bảo vệ nguồn lợi, bảo vệ sản
xuất và an ninh vùng biển.
Để bảo vệ cho nguồn lợi hải sản
phát triển phong phú và lâu dài, khai thác một cách có hiệu quả tài nguyên của
đất nước, mọi tầu thuyền đánh bắt phải tuân theo các quy trình kỹ thuật do Bộ
Thuỷ sản ban hành. Cấm tất cả các tổ chức và cá nhân sử dụng các chất hoá học,
chất nổ và điện để giết hại hàng loạt hải sản; cấm dùng các loại lưới có kích
thước mắt lưới quá nhỏ để đánh bắt các loài hải sản chưa đủ quy cỡ; không dùng
các loại tầu thuyền, nhất là tầu thuyền có mã lực lớn để đánh bắt hải sản ở
vùng nước nông và sát gần bờ; không được đánh bắt các loài hải sản trong thời kỳ
đi đẻ và đánh bắt ở các bãi cá đẻ.
Để đảm bảo duy trì trật tự, an
ninh chính trị trên biển, Bộ Thuỷ sản và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh chỉ đạo các
đơn vị trực thuộc và các cấp huyện, xã phải làm tốt các việc quản lý chặt chẽ
lao động và tầu thuyền làm nhiệm vụ khai thác hải sản của các quốc doanh, các hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất và ngư dân cá thể thuộc phạm vi mình phụ trách; biên
chế các lực lượng này thành các đơn vị tự vệ theo từng địa phương hoặc từng đơn
vị sản xuất, tổ chức các lực lượng này sản xuất theo loại nghề và trong phạm vi
vùng biển đã đăng ký, có kế hoạch phối hợp và thường xuyên thông báo cho các lực
lượng của Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh ở vùng đó biết
về tình hình hoạt động của các tầu thuyền đánh cá của địa phương mình, đơn vị
mình, giáo dục ngư dân và cán bộ, công nhân viên các quốc doanh về trách nhiệm
và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
Các lực lượng sản xuất, thu mua
trên biển có trách nhiệm phối hợp với các lực lượng vũ trang để bảo vệ chủ quyền,
giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn trên biển, phát hiện, ngăn chặt, bắt
giữ kịp thời các tầu thuyền nước ngoài vi phạm hải phận của ta, bọn gián điệp
biệt kích xâm nhập, bọn vượt biển trốn đi nước ngoài và bọn buôn lậu. Những người
có nghi vấn về chính trị và những người có hành vi về mua bán lậu không được đi
đánh bắt, thu mua, chế biến hải sản trên biển.
Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ chỉ đạo
Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ tư lệnh Biên phòng, Bộ Chỉ huy quân sự địa phương và
các lực lượng an ninh dưới quyền mình phụ trách có kế hoạch hợp đồng, trang bị
vũ khí quản lý và huấn luyện chiến đấu cho các hải đoàn, hải đội của ngành Thuỷ
sản làm nhiệm vụ sản xuất trên biển, để các đơn vị này tham gia vào việc bảo vệ
ngư trường, lãnh hải, bảo vệ sản xuất, chống lại các âm mưu phá hoại của địch.
Tổng cục Bưu điện giúp đỡ ngành
thuỷ sản xây dựng hệ thống thông tin liên lạc và báo bão, để việc chỉ huy và chỉ
đạo sản xuất trên biển được nhanh nhạy, chính xác và kịp thời, đồng thời phục vụ
chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu có hiệu quả.
Các vấn đề về tổ chức chỉ huy,
thông tin, thông báo tình hình, ký tín hiệu và hiệp đồng trên biển... để bảo vệ
an ninh và quốc phòng do Bộ Tư lệnh Hải quân hướng dẫn thực hiện theo Quyết định
số 13-HĐBT ngày 11-2-1986 của Hội đồng Bộ trưởng về tăng cường bảo vệ chủ quyền
và an ninh các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam.
3. Tổ chức
thực hiện.
a) Việc tổ chức sắp xếp lại các
lực lượng đánh bắt và cơ sở hậu cần dịch vụ, thu mua, chế biến hải sản phải
quán triệt theo tinh thần các Nghị quyết 6, 7, 8, 9 và Nghị quyết 10 của Ban Chấp
hành Trung ương, chuyển mạnh sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, củng cố và chấn chỉnh lại các cơ sở yếu kém, chuyển hướng sản xuất hoặc
giải thể những cơ sở làm ăn không có hiệu quả và thua lỗ kéo dài, sắp xếp bộ
máy cho gọn nhẹ, giảm bớt đầu mối phòng, ban và số cán bộ, nhân viên gián tiếp,
tăng cường mạnh cho các bộ phận trực tiếp sản xuất cả về số lượng và chất lượng
cán bộ, công nhân.
b) Để việc tổ chức lại sản xuất
trên các ngư trường đem lại kết quả tốt, ở mỗi ngư trường chính có nhiều tầu
thuyền của nhiều địa phương đến đánh bắt, được thành lập một ban chỉ đạo chung
để giúp Bộ thuỷ sản và cấp uỷ, chính quyền địa phương chỉ đạo, điều hoà và quản
lý sản xuất. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng giao cho Bộ thuỷ sản thống nhất với
các địa phương và các ngành có liên quan để quy định chức năng, nhiệm vụ và ra
quyết định thành lập các ban chỉ đạo ở từng ngư trường, theo từng mùa vụ hàng
năm. ở những ngư trường quan trọng, Ban chỉ đạo chung cần có một đồng chí Thứ
trưởng Bộ Thuỷ sản tham gia (làm thử ở ngư trường Tây và Đông Nam bộ).
c) Để đóng góp vào việc quản lý,
sửa chữa và xây dựng các cơ sở hậu cần dịch vụ cho nghề cá ở từng địa phương và
chi cho Ban chỉ đạo sản xuất ở các ngư trường chính hoạt động hàng năm, tạm thời
cho phép Sở thuỷ sản các tỉnh Kiên Giang, Minh Hải và Thuận Hải được thu của
các tầu thuyền địa phương khác di chuyển đến đánh bắt hải sản ở vùng biển thuộc
địa phương mình quản lý một khoản phí thuê cảng không quá 1,5% giá trị tổng sản
lượng do tầu thuyển đó khai thác được. Số tiền này các Sở Thuỷ sản phải nộp vào
ngân sách của địa phương để chi cho các mục nói trên và do Uỷ ban Nhân dân cấp
tỉnh địa phương đó quyết định. Đối với các ngư trường ở tỉnh khác giao cho Bộ
thuỷ sản căn cứ tình hình cụ thể để quy định cho phù hợp.
d) Bộ Thuỷ sản chịu trách nhiệm
phối hợp cùng với các địa phương, các ngành có liên quan và Văn phòng Hội đồng
Bộ trưởng để ban hành các thể lệ, quy định và thông tư hướng dẫn thực hiện Quyết
định này.
Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành
phố, đặc khu, sau khi thống nhất với Bộ Thuỷ sản và các ngành có liên quan, có
trách nhiệm ban hành các quy định cho từng vùng ngư trường thuộc địa phương
mình quản lý; những quy định của địa phương không được trái với quy định của Bộ
Thuỷ sản và các ngành Trung ương.
Bộ Thuỷ sản và Uỷ ban Nhân dân
các tỉnh có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục và phổ biến Quyết định này đến tận
đơn vị tầu thuyền và ngư dân, để mọi người thông suốt và chấp hành đầy đủ.
Các Bộ Quốc phòng, Nội vụ và các
ngành có liên quan theo chức năng của mình, phối hợp với Bộ Thuỷ sản và Uỷ ban
Nhân dân các tỉnh kiểm tra, đôn đốc và tổ chức thực hiện Quyết định này.
Quyết định này áp dụng cho mọi lực
lượng sản xuất trên các ngư trường thuộc vùng biển đặc quyền của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đối với các tầu thuyền nước ngoài có quy định
riêng), và có hiệu lực kể từ ngày ký. Những đơn vị và cá nhân làm tốt sẽ được
khen thưởng kịp thời, đơn vị cá nhân nào vi phạm sẽ tuỳ theo lỗi nặng, nhẹ mà Bộ
Thuỷ sản và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh xử lý bằng các biện pháp hành chính - kinh
tế theo pháp luật hiện hành.
Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản, Thủ trưởng
các ngành có liên quan và Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu
trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.