HỘI ĐỒNG CHÍNH
PHỦ
********
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 86-CP
|
Hà Nội, ngày 06
tháng 5 năm 1975
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 86/CP NGÀY 6 THÁNG 5 NĂM 1975 VỀ
NGHĨA VỤ BÁN THỊT LỢN CHO NHÀ NƯỚC VÀ GIÁ THU MUA THỊT LỢN.
Để thúc đẩy chăn nuôi lợn phát
triển có kế hoạch, cân đối với trồng trọt và mau chóng trở thành một ngành sản
xuất chính trong nông nghiệp; khuyến khích các hợp tác xã nông nghiệp và các hộ
nông dân mở rộng chăn nuôi, cung cấp ngày càng nhiều thịt lợn cho Nhà nước, để
vừa bảo đảm nhu cầu đời sống của nhân dân thành thị và khu công nghiệp, vừa bảo
đảm nhu cầu đời sống của nông dân, đồng thời tạo ra nguồn phân bón phục vụ thâm
canh tăng năng suất cây trồng;
Để kết hợp một cách đúng đắn lợi
ích của Nhà nước và lợi ích của hợp tác xã nông nghiệp, của hộ nông dân, thực
hiện chính sách huy động công bằng hợp lý, làm cho nông dân hiểu rõ nghĩa vụ và
quyền lợi của mình, yên tâm phấn khởi sản xuất; đồng thời để tăng cường các
hình thức quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và nông dân, mở rộng thị trường có tổ
chức nhanh chóng xoá bỏ thị trường tự do về thịt lợn.
Hội đồng Chính phủ quyết định bổ
sung, sửa đổi một số điểm trong Nghị quyết số 136-C P ngày 5-8-1969 và Nghị quyết
số 227 /CP ngày 13 tháng 12 năm 1972 cuả Hội đồng Chính phủ về chăn nuôi và thu
mua lợn như sau:
1- Chế độ nghĩa
vụ bán thịt lợn cho Nhà nước.
Tất cả các hợp tác xã nông nghiệp
và hộ nông dân đều có nghĩa vụ bán cho Nhà nước theo giá chỉ đạo của Nhà nước một
lượng thịt hơi được định mức cụ thể đối với từng hợp tác xã nông nghiệp và hộ
nông dân, căn cứ vào nguồn thức ăn dành cho chăn nuôi lợn: ruộng đất dành để
chăn nuôi (đất 5% của hợp tác xã, đất 5% dành cho kinh tế phụ gia đình), 2%
lương thực dành để hỗ trợ chăn nuôi của các hộ nông dân, 50% sản lượng hoa màu
không đưa vào cân đối lương thực, lương thực ăn chia...
Đối với các hợp tác xã nông nghiệp,
mức nghĩa vụ được xác định theo diện tích ruộng đất dành cho chăn nuôi:
- Mỗi hécta ruộng năng suất dưới
4 tấn phải bàn 460 kg thịt lợn hơi;
- Mội hécta ruộng năng suất từ 4
tấn đến 5 tấn phải bán từ 561 đến 560 kg thịt lợn hơi;
- Một hécta ruộng năng suất từ 4
tấn trên 6 tấn phải bán từ 701 đến 800 kg thịt lợn hơi;
Đối với các hộ nông dân, mức
nghĩa vụ được tính theo nguồn thức ăn dành cho chăn nuôi: lương thực do sử dụng
đất 5% kinh tế phụ gia đình đem lại, phụ phẩm do phần lương thực được ăn chia
và lương thực do hợp tác xã trích quỹ lương thực 2% để cung cấp hỗ trợ chăn
nuôi gia đình. Do nguồn thức ăn dành cho chăn nuôi của các hộ nông dân có khác
nhau, nên mức nghĩa vụ bán thịt lợn cho Nhà nước cũng khác nhau; mức tối thiểu
mỗi hộ nông dân phải bán nghĩa vụ cho Nhà nước trong một năm là 25 kg thịt lợn
hơi (tính theo khả năng tối thiểu mỗi hộ nông dân cũng nuôi được 1 con lợn), nếu
bằng những nguồn thức ăn trên mà có khả năng nuôi được 2 con hay hơn thì sẽ
giao thêm mức một cách hợp lý, có xét đến sự cố gắng của người chăn nuôi.
Đối với các tỉnh miền núi (và một
số huyện ở trung du được coi như ở miền núi) mức nghĩa vụ của hộ nông dân bán
cho Nhà nước căn cứ vào số lao động mà xác định; mỗi lao động một năm phải bán
nghĩa vụ cho Nhà nước ít nhất 20kg thịt lợn hơi.
Giá mua thịt lợn hơi của hợp tác
xã tính trên cơ sở huy động khoảng 50% sản lượng, quy định là 2,00đ/1 kg (giá
cũ là 1,75đ).
Giá thưởng tăng trọng lợn từ 40
kg trở lên và giá khuyến khích chăn nuôi ở các vành đai thực phẩm vẫn giữ như
cũ.
Nay bãi bỏ giá thời vụ mua lợn
sau Tết âm lịch.
2- Ổn định
nghĩa vụ bán thịt lợn cho Nhà nước
Mức nghĩa vụ bán thịt lợn cho
Nhà nước được ổn định trong thời gian 3 năm kể từ năm 1975.
3- Miễn làm
nghĩa vụ
Những hộ nông dân không có khả
năng chăn nuôi sẽ được xét miễn làm nghĩa vụ. Số hộ được miễn ở mỗi xã không
quá 10% tổng số hộ nông dân; đối với các xã diện tích ruộng đất bình quân theo
đầu người thấp, số hộ được miễn cũng không quá 15%.
Việc xét miễn làm nghĩa vụ do Uỷ
ban hành chính xã và Ban quản trị hợp tác xã đề nghị, Uỷ ban hành chính huyện
quyết định.
Các hợp tác xã khai hoang được
miễn làm nghĩa vụ bán thịt lợn cho Nhà nước trong 3 năm đầu; trong thời gian
này, nếu hợp tác xã có lợn bán cho Nhà nước thì Nhà nước sẽ mua theo giá ngoài
nghĩa vụ.
4- Sử dụng phần
thịt lợn còn lại sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ bán thịt lợn cho Nhà nước.
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ bán
thịt lợn cho Nhà nước, phần thịt còn lại để tiêu dùng hợp tác xã và hộ nông dân
có thể bán thêm ngoài nghĩa vụ cho nhà nước. Số thịt bán ngoài nghĩa vụ này sẽ
được Nhà nước trả giá khuyến khích thêm 50% (2đ+1đ = 3đ) và được bàn thưởng cho
một số mì, ngô hay thức ăn gia súc khác quy ra ngang 1 kg thóc cho mỗi kg thịt
lợn hơi.
5- Quản lý thị
trường thịt lợn
Ở các thành phố, thị xã, thị trấn
và những vùng vành đai thực phẩm phải xoá bỏ thị trường tự do về thịt lợn cũng
như về những sản phẩm chế biến từ thịt lợn. ở những nơi này, mậu dịch quốc
doanh phải vươn lên thu mua toàn bộ thịt lợn; phần mua theo nghĩa vụ dành để
bán cung cấp, phần mua ngoài nghĩa vụ có thể bán lại cho nông dân khi họ cần
mua lại theo giá. Nhà nước đã mua của họ, cộng thuế sát sinh và phí kinh doanh.
Mức bán lại cho nông dân không được cao hơn mức họ đã bán ngoài nghĩa vụ cho
Nhà nước.
Phấn đấu trong một thời gian ngắn
mở rộng phương thức này ra khắp các tỉnh đồng bằng và trung du. Riêng đối với
những vùng nông thôn hẻo lánh hay các thôn bản miền núi thì người sản xuất sau
khi hoàn thành nghĩa vụ bán cho Nhà nước, nếu còn thịt lợn mà không thoả thuận
bán theo giá khuyến khích thì có thể trực tiếp bán cho người tiêu dùng trong
thôn bản nhưng phải đóng thuế sát sinh. Trường hợp đem ra chợ bán thì phải nộp
thuế buôn chuyến và phải tuân theo các chế độ quản lý thị trường.
Cấm tư nhân làm nghề buôn bán thịt.
6- Xử lý những
trường hợp vi phạm chế độ nghĩa vụ bán thịt lợn cho Nhà nước
Những hợp tác xã nông nghiệp và
hộ nông dân không hoàn thành nghĩa vụ bán thịt lợn cho Nhà nước trong năm, xét
có lý do chính đáng, thì năm sau phải làm nghĩa vụ cả 2 năm cộng lại. Nếu có thịt
lợn không bán theo nghĩa vụ cho Nhà nước lại đem bán ra thị trường thị phải xử
lý theo những quy định trongh Điều 6 của chỉ thị số 146-TTg ngày 5-6-1974 của
Thủ tướng Chính phủ.
7- Đối với những
người chăn nuôi lợn đực và lợn nái
Hợp tác xã nông nghiệp phải quan
tâm giải quyết thức ăn cho những hộ nông dân nuôi lợn nái, lợn đực giống, bán lợn
giống cho hợp tác xã bằng cách trích quỹ lương thực 2% dành để hỗ trợ chăn nuôi
gia đình và 50% sản lượng hoa màu không đưa vào cân đối lương thực như đã nói
rõ trong nghị quyết số 163/C P ngày 5-8-1969 của Hội đồng Chính phủ. Đối với những
hợp tác xã không tự túc được lợn giống trong xã phải mua lợn giống ở các xã
khác thì hợp tác xã phải thương lượng ký hợp đồng thu mua lợn giống với các hợp
tác xã khác để có giống tốt cung cấp cho hợp tác xã và hộ nông dân; trong trường
hợp này hợp tác xã mua giống phải trích quỹ lương thực dành cho chăn nuôi của hợp
tác xã mình để hỗ trợ cho hợp tác xã có lợn giống cung cấp.
Các hộ chăn nuôi lợn đực giống
được miễn làm nghĩa vụ bán thịt lợn cho Nhà nước. Các hộ chăn nuôi lợn nái phải
làm nghĩa vụ bán lợn giống thay nghĩa vụ bán thịt lợn cho Nhà nước, theo thể thức
do Uỷ ban hành chính Tỉnh, thành phố quy định cụ thể.
Hợp tác xã cần giúp đỡ thêm thức
ăn bằng cách trích quỹ lương thực 2% và 5% sản lượng hoa màu không đưa vào cân
đối để những người chăn nuôi lợn đực và lợn nái có thể nuôi thêm lợn thịt để có
thịt lợn ăn
8- Gia công
lương thực thu mua thịt lợn
Tạm thời duy trì phương thức gia
công nuôi lợn thịt ở các vành đai thực phẩm và đối với những đối tượng không phải
làm nghĩa vụ bán thịt lợn cho Nhà nước (công nhân viên chức, dân cư thành thị,
nông dân chuyên trồng rau, trồng cây công nghiệp...) theo công thức: cứ mỗi kg
thịt lợn hơi bán cho Nhà nước, người chăn nuôi được trả 2 đồng và được mua theo
giá cung cấp ngô, mì, hay thức ăn gia súc quy ra ngang 4 kg thóc.
9- Đối với các
nông trường và lâm trường quốc doanh
Những nông trường quốc doanh được
giao chỉ tiêu kế hoạch chăn nuôi lợn phải sản xuất lương thực để chăn nuôi, phải
giao nộp lợn cho Nhà nước theo như đã quy định trong Thông tư số 384-TTg ngày 30-8-1961
của Thủ tướng Chính phủ.
Năm tháng sau, kể từ khi ban
hành nghị quyết này, Nhà nước sẽ không cung cấp thịt lợn cho cán bộ, công nhân
viên của các nông trường và lâm trường quốc doanh; các nông trường quốc doanh;
các nông trường và lâm trường quốc doanh có nhiệm vụ tổ chức ngay việc chăn
nuôi để tự túc cung cấp thịt lợn cho công nhân viên trong nông trường, lâm trường.
10- Hợp đồng
thu mua thịt lợn
Áp dụng phưong pháp thu mua theo
hợp đồng 2 chiều: người chăn nuôi bán thịt lợn cho Nhà nước; Nhà nước thu mua
thịt lợn, bán thưởng lương thực và cung cấp giống (nếu có) cho người chăn nuôi.
Hợp đồng phải ghi rõ nghĩa vụ cuả cả 2 bên và ghi rõ phần mua bán trong nghĩa vụ
và ngoài nghĩa vụ, phần để lại tiêu dùng. (Bộ Nội thương quy định mẫu hợp đồng,
thể thức mua toàn bộ và bán lại cho người chăn nuôi phần thịt họ muốn để lại
tiêu dùng).
11- Tổ chức thực
hiện chính sách
Chính sách giao nghĩa vụ bán thịt
lợn cho Nhà nước là một chính sách thể hiện tinh thần công nông liên minh, đòi
hỏi phải được tổ chức thực hiện một cách chu đáo, đồng bộ.
Trước hết phải tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp. Cán bộ, đảng viên phải nắm vững chính
sách, gương mẫu thực hiện và tuyên truyền giải thích chính sách sâu rộng trong
quần chúng, động viên quần chúng nghiêm chỉnh thi hành chính sách.
Uỷ ban hành chính Tỉnh, thành phố
cần căn cứ vào mức nghĩa vụ của Hội đồng Chính phủ giao cho các tỉnh, thành phố
trong bản phụ lục kèm theo, và căn cứ điều kiện kinh tế cụ thể của địa phương để
giao mức nghĩa vụ cho từng huyện và hướng dẫn Uỷ ban hành chính huyện giao mức
nghĩa vụ cho từng hợp tác xã. Mức giao cho hợp tác xã bao gồm cả mức nghĩa vụ của
hợp tác xã và mức nghĩa vụ của các hộ nông dân thuộc phạm vi quản lý của hợp
tác xã. Mức nghĩa vụ của các hộ nông dân cá thể do Uỷ ban hành chính xã giao.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước,Uỷ ban
Nông nghiệp Trung ương, Bộ Nội thương phải khẩn trương ban hành thông tư liên Bộ
để hướng dẫn cụ thể việc thi hành nghị quyết này và cử cán bộ xuống giúp các tỉnh
tổ chức thực hiện tốt việc giao nghĩa vụ cho các huyện, các hợp tác xã.