BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG
-------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 21-NQ/TW
|
ngày 30 tháng 01
năm 2008
|
NGHỊ QUYẾT
“VỀ TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA”
HỘI NGHỊ LẦN THỨ 6 BCHTW ĐẢNG KHOÁ X
Sau hơn 20 năm đổi
mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ðường lối
đổi mới của Ðảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang
pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và
phát triển. Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế được đổi mới cơ bản
từ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ
yếu sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen hỗn hợp,
trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tạo động lực và điều kiện thuận
lợi cho khai thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội.
Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả
nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân được tự chủ kinh
doanh, cạnh tranh lành mạnh để phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế được đổi
mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất
kinh doanh chuyển sang quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Việc
gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo đạt
nhiều kết quả tích cực.
Tuy
nhiên, quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế
quốc tế của đất nước. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng
bộ và thống nhất. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai còn nhiều vướng mắc.
Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước chưa giải
quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước,
nhất là khi tiến hành cổ phần hóa. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác còn bị phân biệt đối xử. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình
thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt. Tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế còn nhiều, chậm được
khắc phục. Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương còn
mang tính bình quân, chưa bảo đảm đời sống của người hưởng lương, chưa khuyến
khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ thống thuế chưa thực hiện tốt chức
năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư, đổi mới công nghệ,
nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy
nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý còn thấp. Cải cách hành
chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí
vẫn nghiêm trọng. Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội đổi
mới chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo còn thấp. Khoảng cách
giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng ngày càng lớn. Hệ thống an
sinh xã hội còn sơ khai. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội thấp. Nhiều vấn đề
bất cập, bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt.
Những hạn
chế trên có nguyên nhân do việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhận thức
về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế. Công tác lý luận chưa theo kịp
đòi hỏi của thực tiễn. Nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển; sự
chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các thành phần kinh tế và các tầng lớp
dân cư còn cao. Năng lực thể chế hóa và quản lý, tổ chức thực hiện của Nhà nước
còn hạn chế, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc.
Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát thực hiện chính
sách của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, các tổ
chức xã hội, nghề nghiệp còn yếu.
I- MỤC TIÊU VÀ QUAN ÐIỂM
1- Mục
tiêu
Tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát
triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cụ thể:
Từ nay đến
năm 2010, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật bảo đảm cho nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi; phát huy vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh
tế và các loại hình doanh nghiệp; hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng
công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị hiện đại, có năng lực cạnh tranh quốc
tế; đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công; phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất
trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới; giải
quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, bảo đảm
tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; nâng cao hơn hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội.
Giai đoạn
từ năm 2010 - 2020, tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao trình độ phát triển của
nền kinh tế, hoàn thành về cơ bản mục tiêu chung nêu trên.
2- Quan
điểm
- Nhận thức
đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
- Bảo đảm
tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế; giữa các yếu tố thị
trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội;
giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường.
- Chủ động,
tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải quyết các vấn đề lý luận
và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm
vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.
- Kế thừa
có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm
tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Nâng
cao năng lực lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát
huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
II- CHỦ TRƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ÐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1- Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta
Kinh tế
thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển tới trình độ cao
dưới chủ nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với
chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy sức thuyết phục
về việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó các thiết
chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và
sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống của
nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Khuyến khích làm
giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; từng bước làm cho mọi thành viên
xã hội đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường..., giải quyết tốt
các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ xã
hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa
tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật
kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ
nghĩa.
2- Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh
- Hoàn
thiện thể chế về sở hữu
+ Tiếp tục
hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa theo hướng khẳng định sự tồn tại khách quan, lâu dài và khuyến khích sự
phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm
các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế;
xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới, như trí
tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước, khoáng sản...
+ Khẳng định
đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà nước; các quyền của người sử dụng
đất theo các quy định hiện nay của pháp luật được tôn trọng và bảo đảm.
+ Hoàn
thiện thể chế về sở hữu nhà nước theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước với
tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò
chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của
Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; thu hẹp và
tiến tới xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, ủy ban nhân
dân đối với tài sản, vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có tài sản, vốn nhà nước.
Tiếp tục đổi mới, củng cố và phát huy vai trò của mô hình công ty đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước.
+ Hoàn
thiện thể chế, quy định rõ, cụ thể về quyền của chủ sở hữu và những người liên
quan đối với các loại tài sản (trí tuệ, tài sản vật chất, tài sản cổ phiếu, tài
sản nợ); bảo hộ các quyền lợi hợp pháp. Ðồng thời, quy định rõ trách nhiệm,
nghĩa vụ của chủ sở hữu và những người liên quan đối với xã hội.
+ Bổ sung
luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sở hữu tập thể,
các tổ hợp tác, hợp tác xã; bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích của các xã viên
đối với tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã.
+ Khuyến
khích liên kết hỗn hợp giữa sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân,
làm cho chế độ cổ phần, sở hữu hỗn hợp trở thành hình thức sở hữu chủ yếu của
các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Sớm ban
hành các quy định pháp lý về quyền sở hữu của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nước
ngoài tại Việt Nam; quy định đối tượng, điều kiện để người nước ngoài có quyền
được mua, được sở hữu nhà ở gắn với quyền sử dụng đất và các tài sản khác tại
Việt Nam.
- Hoàn
thiện thể chế về phân phối
+ Hoàn
thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối
lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển. Các nguồn lực xã hội được
phân bổ theo cơ chế thị trường và theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
của Nhà nước bảo đảm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Tập trung vốn đầu tư
nhà nước phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công quan trọng,
một số ngành sản xuất thiết yếu, then chốt, đóng vai trò chủ đạo và lĩnh vực mà
tư nhân không thể hoặc chưa thể đảm đương được; quan tâm đến các vùng, đối tượng
còn nhiều khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các
vùng, các địa phương.
+ Chính
sách phân phối và phân phối lại phải bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người
lao động và doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động, doanh nghiệp và bảo
đảm lợi ích quốc gia. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt
trong lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm đời sống, ít nhất là ở mức trung bình của
xã hội, cho các đối tượng chính sách. Ðổi mới cơ chế phân bổ chi ngân sách cho
phát triển xã hội, củng cố và mở rộng hơn nữa hệ thống an sinh xã hội. Tiếp tục
hoàn thiện luật pháp về thuế theo hướng vừa bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, vừa khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất, nuôi dưỡng
nguồn thu và thực hiện công bằng xã hội.
- Tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong nền
kinh tế
+ Tiếp tục
đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp lại, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp nhà nước để góp phần giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sửa đổi,
bổ sung cơ chế, chính sách để ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước trong quá
trình cổ phần hóa; nghiên cứu, hoàn thiện chính sách bán cổ phần ưu đãi cho người
lao động để tạo sự gắn bó lâu dài, phát huy quyền làm chủ của người lao động tại
doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp có vốn nhà nước sau
cổ phần hóa. Kiện toàn Tổng công ty Ðầu tư kinh doanh vốn nhà nước để làm tốt
chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Hình thành và quản lý chặt chẽ các tổng công ty và một số tập đoàn kinh tế đa sở
hữu có cổ phần chi phối của Nhà nước ở những lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa
quyết định đối với nền kinh tế. Thu hẹp những lĩnh vực độc quyền nhà nước,
không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp và xóa bỏ bao cấp của
nhà nước cho doanh nghiệp. Tiếp tục thu hút các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần
kinh tế, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần, góp vốn vào các
doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế nhà nước. Ðẩy mạnh việc sắp xếp, chuyển
đổi các nông - lâm trường quốc doanh theo mô hình doanh nghiệp và các mô hình
thích hợp để hoạt động có hiệu quả.
+ Tiếp tục đổi mới,
phát triển hợp tác xã và tổ hợp tác theo cơ chế thị trường, phù hợp với các
nguyên tắc : tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng.
Khuyến khích tăng vốn góp, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ
không chia trong hợp tác xã; phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã đa dạng, sản
xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các tổ chức kinh
tế tập thể tiếp cận các nguồn vốn; đào tạo cán bộ quản lý, lao động; trợ giúp kỹ
thuật và chuyển giao công nghệ; hỗ trợ phát triển thị trường, tham gia các
chương trình xúc tiến thương mại, các dự án đầu tư của Nhà nước.
+ Thực hiện nghiêm túc,
nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp,
không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế; khuyến khích phát triển
các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước vào các lĩnh vực mà pháp luật
không cấm; tạo điều kiện để các doanh nghiệp của tư nhân tiếp cận các nguồn lực
của Nhà nước trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng. Khuyến khích các doanh nghiệp
tư nhân liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nhà nước, bán cổ phần cho người
lao động tại doanh nghiệp. Ðồng thời, tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước đối với kinh tế tư nhân để các doanh nghiệp tư nhân tuân thủ đầy đủ
các quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước.
Nhà nước có chính sách
khuyến khích, hỗ trợ phát triển các trang trại, hộ sản xuất kinh doanh, đặc biệt
trong nông nghiệp và ở khu vực nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi để các trang trại và
hộ sản xuất kinh doanh góp vốn phát triển theo hình thức hợp tác xã, công ty cổ
phần hoặc trở thành doanh nghiệp tư nhân và các loại hình kinh doanh khác thích
hợp.
+ Tăng cường đầu tư và
đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập phát triển
mạnh mẽ, có hiệu quả. Nhà nước bằng hình thức tổ chức đấu thầu, đơn đặt hàng và
có chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư phát triển các đơn vị sự nghiệp cung ứng dịch vụ
công; tạo môi trường thuận lợi, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh cho các đơn vị
sự nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hình thành và phát triển. Căn cứ vào điều
kiện cụ thể, Nhà nước quy định các loại hình dịch vụ, các đối tượng xã hội được
Nhà nước đài thọ toàn phần hoặc một phần, còn lại phải thanh toán chi phí theo
nguyên tắc thị trường. Trên cơ sở đó, các đơn vị cung ứng dịch vụ công lập hoặc
ngoài công lập thực hiện cung ứng dịch vụ diện nhà nước đài thọ theo hình thức
hợp đồng. Thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp
về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và về tài chính trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao.
3-
Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ
các loại thị trường
- Tiếp tục hoàn thiện
thể chế về giá, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Thực hiện
nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Tăng cường
vai trò của Nhà nước trong việc bình ổn giá bằng các biện pháp kinh tế vĩ mô và
sử dụng nguồn lực kinh tế của Nhà nước, giảm tối đa các can thiệp hành chính
trong quản lý giá. Hoàn thiện khung pháp lý cho ký kết, thực hiện hợp đồng;
không hình sự hóa các tranh chấp dân sự trong hoạt động kinh tế. Hoàn thiện thể
chế giám sát, điều tiết thị trường và xúc tiến thương mại, đầu tư, giải quyết
tranh chấp phù hợp với kinh tế thị trường và các cam kết quốc tế; tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao lòng tin của xã hội đối với pháp luật và
các cơ quan tư pháp.
- Ða dạng hóa các loại
thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng văn minh, hiện đại, chú trọng phát triển
thị trường dịch vụ. Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho các thị trường này. Thực
hiện tự do hóa thương mại và đầu tư phù hợp với các cam kết quốc tế. Phát triển
các phương thức giao dịch thị trường hiện đại, nhất là với hàng hóa nông sản và
vật tư nông nghiệp để ổn định giá, giảm bớt rủi ro cho người sản xuất và người
tiêu dùng. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về giá đối với một số ít hàng
hóa, dịch vụ độc quyền, bảo đảm tuân thủ yêu cầu của cơ chế thị trường và các
cam kết quốc tế. Xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn
thực phẩm, môi trường. Tăng cường kiểm tra chất lượng hàng hóa và dịch vụ, nhất
là những hàng hóa, dịch vụ liên quan trực tiếp đến sức khỏe của người dân. Xử
lý nghiêm minh các sai phạm.
- Phát huy tốt hơn vai
trò điều hành thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước như một ngân hàng trung
ương hiện đại, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Từng bước mở
cửa thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng phù hợp với cam kết quốc tế. Tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, thực hiện tốt việc cổ phần hóa các ngân
hàng thương mại nhà nước, thu hút được các đối tác chiến lược, song Nhà nước giữ
cổ phần chi phối, áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế để nâng cao năng lực
cạnh tranh và vai trò chủ đạo của các ngân hàng này. Ðổi mới hoạt động thanh
tra, giám sát; phát triển các công cụ dự báo, phòng ngừa rủi ro, bảo đảm an
toàn hệ thống ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống luật
pháp, cơ chế, chính sách cho hoạt động và phát triển lành mạnh của thị trường
chứng khoán, làm cho thị trường chứng khoán ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong huy động vốn cho đầu tư phát triển. Ðưa các giao dịch chứng khoán phi tập
trung vào phạm vi quản lý, kiểm soát của Nhà nước. Tăng tính minh bạch của thị
trường. Chống các giao dịch phi pháp, các hành vi rửa tiền, nhiễu loạn thị trường.
Nâng cao năng lực dự báo, có biện pháp phòng ngừa tình trạng rút vốn hàng loạt,
ảnh hưởng xấu đến kinh tế vĩ mô. Mở rộng từng bước quyền mua cổ phiếu của nhà đầu
tư nước ngoài và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam giao dịch trên thị
trường chứng khoán quốc tế.
Phát triển đa dạng và
nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm. Tạo điều kiện phát triển các doanh
nghiệp bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế trong nước, khuyến khích hợp tác
và liên kết giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thực hiện lộ trình mở
cửa thị trường bảo hiểm theo cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Quan tâm hơn nữa
đến các dịch vụ bảo hiểm đối với con người và hàng nông sản. Nâng cao hiệu quả
và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với thị trường bảo hiểm.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách để các quyền về đất đai và bất động sản được
vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản xuất kinh
doanh. Xác định rõ quyền sử dụng đất là một loại hàng hóa đặc biệt, được định
giá theo cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước. Ban hành
chính sách định giá bảo đảm hài hòa quyền lợi của người sử dụng đất, của nhà đầu
tư và của Nhà nước trong quá trình giải tỏa, thu hồi đất. Khuyến khích những tổ
chức, cá nhân bị thu hồi đất tham gia góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào các dự
án đầu tư, kinh doanh. Có chính sách giải quyết tốt vấn đề đất ở, nhà ở, việc
làm cho người bị thu hồi đất. Ðưa giá trị quyền sử dụng đất vào danh mục tài sản
của mọi tổ chức, cá nhân được giao quyền sử dụng đất, kể cả các cơ quan nhà nước.
Tạo quỹ đất của Nhà nước phục vụ các mục tiêu công ích, thực hiện chính sách xã
hội và hỗ trợ việc điều tiết thị trường đất đai, hỗ trợ tái định cư trong quá
trình giải phóng mặt bằng. Nhà nước chủ động tham gia thị trường bất động sản với
tư cách là chủ sở hữu đất đai và nhiều bất động sản trên đất.
Hoàn thiện chính sách
thuế đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, đất được giao nhưng không đưa
vào sử dụng theo cam kết và các trường hợp sở hữu, sử dụng nhà, đất vượt quá hạn
mức quy định, ngăn chặn những cơn sốt giá do đầu cơ bất động sản, đặc biệt là đất
đai. Nhà nước khuyến khích đầu tư xây dựng quỹ đất phục vụ di dân tái định cư,
quỹ nhà ở xã hội để cho thuê hoặc bán theo quy định của pháp luật. Có chính
sách giải quyết vấn đề nhà ở ổn định lâu dài cho lao động ở các khu, cụm công
nghiệp, khu kinh tế. Kiểm soát chặt chẽ và áp dụng cơ chế thị trường đối với việc
chuyển đổi đất công và tài sản công trên đất thành hàng hóa bất động sản. Hiện
đại hóa hệ thống quản lý hồ sơ địa chính, bất động sản. Phát triển đồng bộ các
dịch vụ tư vấn pháp luật, công chứng, thẩm định, đấu giá, đăng ký giao dịch...
tạo môi trường thuận lợi, an toàn cho các giao dịch trên thị trường đất đai, bất
động sản. Xây dựng cơ chế tài phán để giải quyết những khiếu nại liên quan đến
đất đai.
Xây dựng, công khai hóa
và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đã được
phê duyệt. Quản lý chặt chẽ quỹ đất sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia về lâu dài. Bảo đảm lợi ích thỏa đáng và công bằng giữa các nhà đầu
tư phát triển bất động sản, các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất và của
Nhà nước.
- Tiếp tục hoàn thiện
luật pháp, chính sách về tiền lương, tiền công. Tiền lương phải được coi là giá
cả sức lao động, được hình thành theo quy luật thị trường, dựa trên cung - cầu
về sức lao động, chất lượng, cường độ lao động và mức độ cạnh tranh việc làm.
Thực hiện tốt, phấn đấu rút ngắn lộ trình điều chỉnh tiền lương và trợ cấp xã hội
giai đoạn 2008 - 2012 đi đôi với kiểm soát lạm phát để bảo đảm thu nhập thực tế
ngày càng tăng cho người hưởng lương. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ, tay nghề của người lao động; khuyến khích khu vực tư nhân, doanh nghiệp
tham gia dạy nghề thông qua các ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo giáo
viên, đầu tư hỗ trợ cơ sở hạ tầng, v.v... Hoàn thiện luật pháp, chính sách cho
hoạt động và phát triển thị trường lao động, đổi mới tổ chức và hoạt động của
các trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước; khuyến khích tổ chức các hội chợ
việc làm; phát triển các tổ chức dịch vụ tư vấn, sàn giao dịch, giới thiệu việc
làm tư nhân đi đôi với tăng cường quản lý, kiểm soát của Nhà nước, ngăn chặn
các hành vi lừa đảo và các hiện tượng tiêu cực khác. Nâng cao chất lượng và hiệu
quả xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động có trình độ cao. Tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp trong nước thu hút và
sử dụng lao động nước ngoài có trình độ chuyên môn cao.
Áp dụng phổ biến chế độ
hợp đồng lao động, kể cả trong các đơn vị sự nghiệp công lập và khu vực kinh tế
nhà nước. Ðưa thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể thành quy định bắt
buộc; tăng cường sự tham gia của đại diện người lao động và người sử dụng lao động
vào hoạch định chính sách, kế hoạch phát triển thị trường lao động. Tăng cường
sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với thị trường lao động. Nâng cao hiệu
lực và hiệu quả hoạt động của các tòa lao động, xử lý tốt các trường hợp tranh
chấp, bảo đảm lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động.
- Xây dựng đồng bộ luật
pháp, cơ chế, chính sách quản lý và hỗ trợ phát triển các tổ chức nghiên cứu, ứng
dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ và nâng cao năng lực công nghệ của doanh
nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp đổi mới, nhập khẩu và ứng dụng công nghệ mới,
công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm
Luật Sở hữu trí tuệ.
Phát triển các dịch vụ
thiết kế, đo lường, đánh giá, thẩm định, giám định chất lượng, thông tin, môi
giới, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý về sở hữu trí tuệ theo hướng xã hội
hóa. Ðổi mới đồng bộ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị
trường. Hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý
thị trường công nghệ.
- Tuân thủ nguyên tắc
bù đắp đủ chi phí để tái tạo và mở rộng quy mô cung ứng dịch vụ công với chất
lượng ngày càng cao. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa,
thể dục, thể thao, đặc biệt là cho những vùng nghèo, người nghèo, bảo đảm những
dịch vụ cơ bản cho nhân dân. Ðồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa, vận dụng hợp lý những
mặt tích cực của cơ chế thị trường. Nhà nước có chính sách ưu đãi về đất đai,
thuế, tín dụng khuyến khích và huy động các thành phần kinh tế trong và ngoài
nước, các nguồn lực khác phát triển mạnh các dịch vụ công về số lượng và nâng
cao chất lượng, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng ngày càng tăng của nhân
dân.
Cùng với việc tăng đầu
tư, Nhà nước xác định rõ các tiêu chuẩn, tiêu chí mà các đơn vị cung ứng dịch vụ
phải tuân theo, các mức dịch vụ cơ bản Nhà nước phải bảo đảm cho nhân dân, nhất
là cho người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách để bảo đảm quyền của
nhân dân được học tập, chăm sóc sức khỏe phù hợp với trình độ phát triển của đất
nước. Thực hiện cơ chế Nhà nước đặt mua từ các nhà cung cấp dịch vụ theo chất
lượng và chi phí chuẩn, tạo cạnh tranh giữa các đơn vị cung ứng thuộc mọi thành
phần kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách và tăng cường
quản lý của Nhà nước, giám sát của các tổ chức xã hội để hạn chế các mặt trái của
cơ chế thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm. Từng bước mở rộng và cải thiện hệ
thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu đa dạng của mọi tầng lớp
trong xã hội, nhất là của nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo.
4-
Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường
- Tiếp tục thực hiện chủ
trương, chính sách khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm
nghèo, vươn lên no ấm, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc
và căn cứ cách mạng trước đây. Chính sách giảm nghèo không chỉ nhằm mục tiêu ổn
định mà còn tạo động lực cho sự phát triển. Tạo điều kiện để mọi công dân nắm bắt
được cơ hội làm ăn, nâng cao thu nhập và đời sống, được hưởng thành quả chung của
phát triển. Tập trung đầu tư phát triển kinh tế, xã hội ở một số vùng trọng điểm
có tỷ lệ hộ nghèo cao; phấn đấu từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa
các đối tượng, các vùng, không để chênh lệch này trở thành vấn đề xã hội bức
xúc. Ðưa mục tiêu giảm nghèo vào nội dung chiến lược, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội chung của cả nước, của từng địa phương. Tăng cường sự hỗ trợ của
Nhà nước, của cộng đồng xã hội cho người nghèo, giúp người nghèo giảm bớt khó
khăn, vươn lên thoát nghèo, đồng thời khắc phục tư tưởng ỷ lại, bao cấp, trông
chờ vào Nhà nước.
- Xây dựng hệ thống bảo
hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng các hình thức bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự
nguyện; bổ sung, sửa đổi các chế độ bảo hiểm xã hội còn bất hợp lý, bảo đảm quyền
lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội; tách bảo hiểm xã hội đối với khu vực
hành chính nhà nước ra khỏi khu vực doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các lĩnh
vực khác. Ðiều chỉnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội theo cơ chế tạo nguồn,
độc lập tương đối với chính sách tiền lương, giảm dần phần hỗ trợ từ ngân sách
nhà nước; từng bước cải thiện đời sống của người về hưu theo trình độ phát triển
của nền kinh tế.
- Phát triển đa dạng
các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận
để chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng theo tinh thần xã hội
hóa với sự hỗ trợ một phần của Nhà nước, bảo đảm cho các đối tượng bảo trợ xã hội
có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng, tự vươn lên. Tạo cơ hội
cho các đối tượng bảo trợ xã hội, trước hết là người còn khả năng lao động, tiếp
cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu, cơ hội giáo dục, đào tạo, dạy
nghề, việc làm, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, văn hóa, thể thao. Sửa đổi, bổ sung
chế độ trợ cấp xã hội dựa trên cơ sở tăng mức sống tối thiểu của toàn xã hội.
Thực hiện các chương trình mục tiêu hướng ưu tiên vào đối tượng bảo trợ xã hội.
- Tiếp tục hoàn thiện
luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường, giám sát chặt chẽ việc thực hiện;
phòng ngừa, ngăn chặn, không để phát sinh thêm các ô nhiễm mới, xử lý triệt để
những điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; có chế tài đủ mạnh đối với các trường
hợp vi phạm. Bảo vệ môi trường phải được coi trọng ngay từ đầu và trong suốt
quá trình xây dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Có kế hoạch
phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai; xây dựng kế hoạch ứng phó và giảm nhẹ
tác động tiêu cực do sự biến đổi khí hậu.
5- Hoàn thiện thể chế
nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh
tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội,
nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
- Ðảng tăng cường chỉ đạo
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn
mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là những nội dung
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Coi trọng đổi mới tư
duy, công tác tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường
lối, các chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội của Ðảng;
lãnh đạo quá trình tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Ðổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đặc biệt là cán bộ trong
lĩnh vực xây dựng và thực thi thể chế kinh tế. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các tổ chức đảng, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy
đảng các cấp phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
- Ðổi mới, nâng cao vai
trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với những yêu cầu của quá
trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh
tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Vận dụng và phát huy mặt tích cực, hạn chế,
ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường và tiếp tục tạo ra những tiền đề, điều
kiện để nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðổi mới mạnh mẽ
hơn phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước. Coi trọng và làm tốt công tác xây
dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, sử dụng có hiệu quả các công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô, bảo đảm những
cân đối lớn của nền kinh tế, kiềm chế lạm phát; phát triển lành mạnh của các thị
trường tài chính, tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm; ngăn ngừa và xử lý kịp thời
những biến động xấu đối với ổn định kinh tế vĩ mô; phát triển các lĩnh vực xã hội,
gắn thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội với phát triển kinh tế, bảo vệ môi
trường; tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp; giữ vững an ninh, quốc phòng, ổn định
chính trị - xã hội cho sự phát triển đất nước. Chuyển giao những công việc Nhà
nước không nhất thiết phải làm cho các tổ chức xã hội; tinh giản bộ máy nhà nước,
tập trung nguồn lực vào một số lĩnh vực quan trọng nhất trong phát triển kinh tế,
xã hội.
- Nâng cao vai trò của
các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp
và của nhân dân trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo điều kiện
để các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề
nghiệp và nhân dân tham gia có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi và
giám sát thực hiện luật pháp, các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế -
xã hội.
III-
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Ðảng đoàn Quốc hội,
Ban cán sự đảng Chính phủ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực
thuộc Trung ương và các tỉnh ủy, thành ủy quán triệt Nghị quyết này trong đảng
viên, cán bộ, công chức, xây dựng chương trình, kế hoạch hành động và triển
khai thực hiện Nghị quyết trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình.
2- Căn cứ vào Nghị quyết
này và Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Ðảng, tổ chức đảng các cấp cần nghiên cứu, xác định rõ và cụ thể nội dung
lãnh đạo kinh tế của Ðảng ở cấp mình, nhất là trong xây dựng và chỉ đạo thực hiện
chiến lược phát triển cũng như các chủ trương, chính sách lớn về kinh tế - xã hội.
3- Văn phòng Trung ương
Ðảng chủ trì, phối hợp với các ban của Ðảng, các tổ chức đảng theo chức năng,
làm tốt công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ
Chính trị, Ban Bí thư tình hình thực hiện Nghị quyết.
|
TỔNG BÍ THƯ
Nông Đức Mạnh
|