HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
187-HĐBT
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 11 năm 1982
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 187-HĐBT NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 1982
VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ HAI CHIỀU
I
Từ năm
1987, sau khi ban hành bản quy định tạm thời của Hội đồng Chính phủ về chế độ hợp
đồng kinh tế hai chiều (số 65-CP ngày 23 tháng 3 năm 1978), nhiều địa phương đã
tích cực thực hiện và đã thu được kết quả rõ rệt. Các địa phương khác mới triển
khai ở một số khu vực lương thực, cây công nghiệp, muối, cá, v.v...
Từ giữa năm 1980 lại đây, việc
thực hiện hợp đồng hai chiều có phần lơi lỏng. Tình hình này do nhiều nguyên
nhân:
1. Lực lượng vật tư, hàng hoá của
Nhà nước giảm sút, việc phân phối lại không bảo đảm cung ứng đến tay người sản
xuất theo đúng hợp đồng đã ký, còn để lọt không ít vào tay bọn đầu cơ, lợi dụng.
Vì vậy, trong cán bộ và quần chúng nảy sinh thái độ chần chừ, không muốn ký hợp
đồng hai chiều.
2. Kế hoạch Nhà nước thường là
chưa được xây dựng từ cơ sở lên, nhiều chỉ tiêu kế hoạch về cung ứng vật tư và
thu mua giao cho địa phương và cơ sở không đồng bộ, không hiện thực. Chính sách
thu mua, giá cả cũng còn một số điểm chưa thật phù hợp.
3. Một số ngành và địa phương
chưa nhận thức đúng ý nghĩa của chế độ hợp đồng hai chiều, chưa quyết tâm thực
hiện. Một số địa phương thiên về cách chỉ đạo mua bán theo cơ thế thị trường
(mua cao bán cao), cho hợp đồng hai chiều là gò bó, không thích hợp. Một số địa
phương khác thì ỷ lại vào chế độ nghĩa vụ về lương thực, thực phẩm.
4. Tổ chức bảo đảm thực hiện từ
trên xuống dưới chưa chuyển biến kịp với yêu cầu của hợp đồng hai chiều. Sự hiệp
đồng giữa các ngành thu mua với các ngành cung ứng vật tư hàng hoá còn nhiều vướng
mắc. Việc tranh mua, tranh bán giữa các tổ chức kinh tế, các ngành, các địa
phương, đã làm rối loạn và thu hẹp thị trường có tổ chức. Bộ máy của huyện chưa
được tăng cường để đủ sức chỉ đạo, tổ chức sự hiệp đồng giữa các tổ chức cung ứng
và các tổ chức thu mua trên địa bàn huyện.
5. Công tác quản lý thị trường bị
buông lỏng, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và đối với
công thương nghiệp ở miền Nam tiến hành chậm đã ảnh hưởng không ít đến việc ký
kết và thực hiện hợp đồng hai chiều.
Các ngành có liên quan và Uỷ ban
nhân dân các cấp cần liên hệ kiểm điểm trong ngành và địa phương mình, có biện
pháp khắc phục khuyết điểm, nhược điểm, đẩy mạnh việc thực hiện chế độ hợp đồng
hai chiều.
Đặc biệt, cần làm tốt công tác
tư tưởng trong cán bộ và quần chúng, làm cho mọi người thông suốt về quan điểm
để có quyết tâm thực hiện.
Cần làm cho mọi người nhận rõ
trong tình hình kinh tế nước ta hiện nay, hợp đồng hai chiều:
1. Là hình thức vận dụng có hiệu
quả các đòn bẩy kinh tế nhằm làm cho Nhà nước nắm được sản phẩm hàng hoá của
kinh tế tập thể và cá thể, đồng thời phục vụ tốt sản xuất.
2. Là phương thức thu mua có lợi
nhất đối với người sản xuất cũng như đối với Nhà nước.
3. Là biện pháp có hiệu lực nhằm
ổn định thị trường và giá cả.
4. Và là phương thức kế hoạch
hoá thích hợp nhất đối với các thành phần kinh tế tập thể và cá thể.
Kinh nghiệm nhiều năm cung ứng vật
tư theo lối bao cấp cho mỗi đơn vị diện tích gieo trồng (và cung ứng hàng tiêu
dùng thiết yếu cũng theo lối bao cấp - theo đầu dân cư) chẳng những không làm
cho Nhà nước nắm chắc được nguồn hàng mà cũng không thúc đẩy người sản xuất cân
nhắc hiệu quả đầu tư, quan tâm đến thâm canh và áp dụng kỹ thuật mới. Mấy năm
qua, áp dụng phương thức thu mua gắn với cung ứng vật tư hàng hoá đã làm chuyển
biến tình hình một cách rõ rệt.
Vật tư hàng hoá của Nhà nước có
hạn thì càng cần phải phân phối một cách có trọng điểm, gắn chặt cung ứng với
thu mua.
Trước đây, khi chưa gắn mua với
bán xem như một thể chế thì một bộ phận khá lớn vật tư hàng hoá của Nhà nước lọt
vào tay những phần tử đầu cơ, lợi dụng. Ngay trong số nông dân mua được vật tư
hàng hoá của Nhà nước cũng có tình trạng không công bằng, người mua được nhiều
không nhất định là người đã bán nhiều cho Nhà nước và ngược lại. Do chỗ nguyên
tắc phân phối theo lao động bị vi phạm, cho nên đã không kích thích được nông
dân bán sản phẩm cho Nhà nước ngày càng nhiều. Những người vì ý thức nghĩa vụ
mà bán nhiều cho Nhà nước thì không phấn khởi sản xuất vì không được Nhà nước đầu
tư trở lại một cách thích đáng.
Nhà nước mua tuyệt đại bộ phận sản
phẩm hàng hoá của nông, lâm, ngư nghiệp theo giá chỉ đạo và bán vật tư và hàng
tiêu dùng thiết yếu cho người sản xuất cũng theo giá chỉ đạo là nhân tố quyết định
để ổn định thị trường và giá cả, và là một bảo đảm vững chắc cho lợi ích của
người sản xuất tập thể và cá thể cũng như lợi ích của Nhà nước, tránh cho cả
hai bên những thiệt hại do sự biến động của giá cả thị trường gây ra. Kinh nghiệm
của nước ta cũng như của nhiều nước Xã hội chủ nghĩa đều chứng minh rằng đi
theo con đường của thị trường tự do thì nông dân sẽ ngày càng phân hoá, thế lực
tự phát Tư bản chủ nghĩa sẽ ngày càng lấn tới. Gắn việc cung ứng vật tư hàng
hoá với việc thu mua sản phẩm là một biện pháp có hiệu lực nhằm thu hút nông
dân đi vào thị trường có tổ chức, thắt chặt liên minh công nông, thúc đẩy việc
xây dựng quan hệ sản xuất mới Xã hội chủ nghĩa.
Hợp đồng hai chiều một khi được
thực hiện thành nề nếp thường xuyên, bao quát mọi quan hệ trao đổi chủ yếu giữa
Nhà nước và nông dân, giữa công nghiệp và nông nghiệp, thì điều đó cũng có
nghĩa là kế hoạch hoá từ cơ sở (cả sản xuất lẫn lưu thông) được thực hiện.
Một mặt, chúng ta phải thông qua
hợp đồng hai chiều để bảo đảm cả lợi ích của nông dân, cả lợi ích của Nhà nước,
mặt khác, phải không ngừng chăm lo bồi dưỡng cho nông dân ý chí cách mạng, tinh
thần làm chủ tập thể, mà biểu hiện quan trọng là ý thức nghĩa vụ bán nông sản
cho Nhà nước để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá Xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa. Đối với khuynh hướng tự
phát Tư bản chủ nghĩa trong một bộ phân nông dân, phải kiên quyết đấu tranh,
ngăn chặn, bằng giáo dục thuyết phục, và nếu cần thì bằng những biện pháp hành
chính thích hợp. Các biện pháp này phải được tiến hành kết hợp với nhau, hỗ trợ
lẫn nhau, trong đó, biện pháp kinh tế (hợp đồng hai chiều) là biện pháp cơ bản.
Với những ý nghĩa như trên, cần
triển khai phương thức thu mua theo hợp đồng hai chiều trên địa bàn cả nước, đối
với tất cả các sản phẩm chủ yếu của kinh tế tập thể và cá thể, nhanh chóng làm
cho phương thức thu mua này trở thành phương thức chủ yếu để thu mua đồng thời
phục vụ sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dù cho công việc này đòi hỏi phải
khắc phục khá nhiều khó khăn, phức tạp, nhất là về mặt tổ chức thực hiện, cũng
phải quyết tâm làm, không vì những khó khăn đó mà trở lại những cách làm dễ dãi
như buông trôi theo cơ chế thị trường hoặc giao chỉ tiêu nghĩa vụ theo lối hành
chính, mệnh lệnh.
II
Dưới đây là
những chủ trương, biện pháp cụ thể.
A. NỘI DUNG HỢP
ĐỒNG, THỂ THỨC KÝ VÀ THANH TOÁN HỢP ĐỒNG, BIỆN PHÁP XỬ LÝ CÁC VỤ VI PHẠM HỢP ĐỒNG
1. Những loại
hàng đưa vào hợp đồng hai chiều.
a) Về phía
người sản xuất (bao gồm các hợp tác xã sản xuất, tập đoàn sản xuất,
tổ đoàn kết sản xuất và những hộ gia đình xã viên, những hộ nông dân cá thể được
tổ chức lại dưới những hình thức thích hợp để đặt quan hệ hợp đồng kinh tế với
Nhà nước, chủ yếu là thông qua các hợp tác xã mua bán):
- Các loại sản phẩm của kinh tế
tập thể bán cho Nhà nước theo nghĩa vụ, theo kế hoạch hoặc theo hợp đồng.
- Các loại sản phẩm của kinh tế
gia đình xã viên và của kinh tế cá thể mà Nhà nước cần mua, nông dân đăng ký
bán theo hợp đồng hai chiều, thông qua hợp tác xã nông nghiệp hay hợp tác xã
mua bán xã.
- Cả hai loại sản phẩm nói trên,
tuy không có kế hoạch trước, nhưng đến thời vụ thu mua, nông dân muốn bán cho
Nhà nước theo điều kiện của hợp đồng hai chiều thì Nhà nước cũng chấp thuận.
b) Về
phía các tổ chức thu mua của Nhà nước.
Nhà nước đưa vào hợp đồng hai
chiều các loại tư liệu sản xuất, lương thực, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng
thiết yếu và các loại dịch vụ kỹ thuật (như cày bừa máy, bơm nước, xay xát,
phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng và gia súc, thiết kế và thi công các công
trình xây dựng v.v...)
Tư liệu sản xuất: đối với
phân bón, xăng dầu, thuốc trừ sâu, về nguyên tắc, không phân phối (bán) nhất loạt
cho mỗi đơn vị diện tích gieo trồng theo định mức kinh tế kỹ thuật như trước
đây, mà phân phối theo đầu tấn sản phẩm bán cho Nhà nước. (Ngành nông nghiệp vẫn
hướng dẫn, chỉ đạo nông dân gieo trồng theo các định mức kinh tế kỹ thuật cần
thiết, nhưng để có được những vật tư kỹ thuật theo các định mức ấy, người sản
xuất phải thông qua hợp đồng hai chiều ký với các tổ chức thu mua).
- Phân bón hoá học (đạm, lân,
ka-li), vôi, phân hữu cơ (ở những vành đai quanh thành phố).
- Thuốc trừ sâu, ngoài những loại
thuốc đặc trị dành để sử dụng tập trung chống sâu rầy, dịch bệnh đột xuất xảy
ra, do cơ quan chuyên môn quản lý, còn những loại thuốc thông dụng đều đưa vào
hợp đồng theo yêu cầu thực tế của sản xuất từng loại cây trồng. Cần triển khai
rộng rãi hình thức tiên tiến hơn, các trạm bảo vệ thực vật nhận khoán việc trừ
sâu bệnh cho cả một vùng và đến vụ thu hoạch, được thanh toán bằng sản phẩm.
Ở một số vùng trồng cây lương thực
nhưng sản xuất chỉ bảo đảm đủ ăn với mức thấp, được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố xác nhận, thì Nhà nước dành một phần phân bón, thuốc trừ sâu để bán (theo
giá chỉ đạo) mà không yêu cầu mua lại lương thực; mức bán không quá 50kg SA
tiêu chuẩn cho 1 hécta gieo trồng lương thực. Số vật tư dành cho nhu cầu này phải
được kế hoạch hoá riêng, tách khỏi quỹ vật tư dành cho thu mua.
- Xăng dầu chủ yếu phân phối cho
các trạm và tổ hợp máy kéo và máy nông nghiệp, các trạm bơm, các cơ sở xay xát,
chế biến (quốc doanh và tập thể) để ký hợp đồng cung ứng dịch vụ với các đơn vị
sản xuất nông nghiệp, lấy công bằng hiện vật (lúa hay nông sản khác). Chỉ cung ứng
trực tiếp theo hợp đồng hai chiều cho những đơn vị và người sản xuất có máy riêng
dùng trong sản xuất và chế biến sản phẩm, đến mùa thu hoạch sẽ trả bằng hiện vật.
Trường hợp nông dân yêu cầu, Nhà nước cũng có thể phân phối trực tiếp cho họ số
xăng dầu dùng để cày ruộng, để họ tự mình trao số xăng dầu này cho tổ hợp máy
kéo nào làm đất cho họ.
Ngoài những vật tư chủ yếu nêu
trên, còn đưa vào hợp đồng các loại hạt giống, cây giống, con giống, thức ăn
gia súc (để mua lợn), than để sản xuất gạch ngói hay sấy sản phẩm.
Đối với các ngành sản xuất khác,
đưa vào hợp đồng các loại tư liệu sản xuất chuyên dùng cho từng ngành, nghề.
Lương thực
chỉ cung ứng cho những nơi không sản xuất lương thực hoặc thiếu lương thực
(những vùng chuyên trồng rau, chuyên trồng cây công nghiệp, người làm nghề cá,
nghề muối v.v...). Không cung ứng theo nhân khẩu mà theo đầu tấn sản phẩm bán
cho Nhà nước. Mức cung ứng tối đa không vượt quá nhu cầu tiêu dùng của bản thân
người lao động và gia đình họ.
Vật liệu xây dựng bao gồm
gỗ, xi-măng, sắt thép, gạch, ngói, chất lợp (phibrô xi-măng, tôn múi...), cấu
kiện bê-tông đúc sẵn, v.v... Mở rộng hình thức thầu xây dựng theo lối chìa khoá
trao tay ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, nông dân thanh toán bằng sản phẩm
(về việc này, cần ký hợp đồng dài hạn).
Hàng tiêu dùng, trừ thuốc
bệnh, giấy học sinh, muối, những loại hàng nhật dụng thông thường và những loại
hàng Nhà nước chủ trương bán bình thường hoặc bán theo giá cao ở các cửa hàng,
còn các loại hàng thiết yếu khác đều có thể đưa vào hợp đồng hai chiều dưới
hình thức trao đổi theo tỷ lệ do Nhà nước quy định, hoặc dưới hình thức gắn mua
với bán theo giá chỉ đạo của Nhà nước. Danh mục các loại hàng này tuỳ theo nhu
cầu của từng vùng mà định. Ở những nơi nông dân chưa có nhu cầu nhiều về vật tư
nông nghiệp (vì chưa dùng nhiều phân bón hoá học, tự làm đất bằng phương tiện của
mình và dựa vào nước trời là chính) thì vật tư xây dựng và hàng tiêu dùng có
vai trò đặc biệt quan trọng.
Điều quan trọng là ở chỗ tổ chức
phân phối như thế nào để các loại hàng này thực sự đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
người mua, mà không biến thành đối tượng đầu cơ, tích trữ, mua đi bán lại. Hợp
tác xã mua bán xã cần được củng cố để đảm đương nhiệm vụ này. Hàng năm, các
ngành thu mua phải tìm hiểu, xác định nhu cầu của người sản xuất ở từng vùng để
có kế hoạch chuẩn bị lực lượng hàng hoá thích hợp, bao gồm cả hàng trung ương
đưa về và hàng do địa phương khai thác.
Đối với những mặt hàng quý, hiếm,
không đủ để bán theo đầu tấn sản phẩm, thì dành để bán thưởng cho những người
thực hiện tốt kế hoạch bán sản phẩm cho Nhà nước.
Dựa vào phương hướng phân phối
các loại vật tư, hàng hoá trên đây, các ngành, các địa phương xác định danh mục
cụ thể những vật tư, hàng hoá dành cho thu mua từng loại sản phẩm.
2. Căn cứ vào
yêu cầu thực tế của sản xuất theo những định mức kinh tế kỹ thuật do các ngành
quản lý sản xuất đề ra, và căn cứ vào khả năng cung ứng của Nhà nước trong thời
gian tới, Hội đồng Bộ trưởng ban hành kèm theo bảng định mức vật tư hàng hoá
cung ứng theo đầu tấn sản phẩm bán cho Nhà nước. Bảng định mức này mới chỉ đề cập
đến một số nông sản chủ yếu. Định mức cung ứng vật tư hàng hoá áp dụng cho các
sản phẩm khác như sản phẩm nghề cá, nghề rừng, nghề muối v.v... do các Bộ chủ
quản nghiên cứu trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành. Những định mức này là cơ sở
cho việc kế hoạch hoá quỹ vật tư hàng hoá dành cho thu mua. Các ngành chủ quản
và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố có thể vận dụng những định mức này cho
phù hợp với tình hình cụ thể ở từng địa phương, nhưng không được làm đảo lộn những
quan hệ tỷ lệ cơ bản do Hội đồng Bộ trưởng quy định. Đối với những sản phẩm đòi
hỏi chất lượng cao như hạt giống, sản phẩm để xuất khẩu... thì tuỳ theo chất lượng
sản phẩm và những điều kiện canh tác cần thiết để đảm bảo chất lượng ấy mà quy
định cho phù hợp; song, phải bảo đảm giữ được quan hệ thích đáng với những sản
phẩm cùng loại, không được dùng vật tư hàng hoá để nâng giá thu mua một cách biến
tướng.
Hàng năm, khi Nhà nước giao chỉ
tiêu kế hoạch thu mua cho các ngành, các địa phương thì đồng thời cũng giao chỉ
tiêu về quỹ vật tư hàng hoá dành cho thu mua (có ghi rõ phần dành để mua trong
kế hoạch, trong mức nghĩa vụ ổn định và phần dành để mua ngoài kế hoạch, ngoài
nghĩa vụ). Tổ chức nào có trách nhiệm thu mua loại sản phẩm gì thì tổ chức ấy
được giao kế hoạch quỹ vật tư hàng hoá dành cho thu mua loại sản phẩm ấy. Tỉnh,
thành phố cũng như thế đối với huyện.
Để bảo đảm có vật tư hàng hoá
trao đổi, các ngành có trách nhiệm ở trung ương phải căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch
Nhà nước, ra sức phấn đấu tạo nguồn hàng và tổ chức vận chuyển, phân phối về
các địa phương theo kế hoạch đã định, phục vụ kịp thời cho sản xuất và thu mua.
Ngoài nguồn hàng trung ương phân phối về, các tỉnh, thành phố và quận, huyện,
thị xã phải ra sức khai thác tiềm năng của địa phương, làm phong phú thêm quỹ vật
tư hàng hoá dành cho thu mua.
Phải tổ chức và quản lý thật chặt
chẽ vật tư hàng hoá của Nhà nước, chống ăn cắp, móc ngoặc, để thất thoát ra
ngoài, bảo đảm phân phối đúng mục đích, đúng đối tượng, kịp thời vụ, đến tay
người sản xuất có quan hệ hợp đồng với Nhà nước.
3. Về cách
ký hợp đồng, thanh toán hợp đồng, xử lý những vụ vi phạm hợp đồng.
a) Dưới sự
chỉ đạo tập trung thống nhất của Uỷ ban nhân dân huyện, đại diện có thẩm quyền
của các tổ chức thu mua trực tiếp ký hợp đồng hai chiều (gồm phần cung ứng vật
tư hàng hoá và phần thu mua) với đại diện có thẩm quyền của các hợp tác xã sản
xuất, tập đoàn sản xuất, tổ đoàn kết sản xuất, hoặc hợp tác xã mua bán xã. Đại
diện các tổ chức cung ứng vật tư, hàng hoá và vận tải ký hợp đồng kinh tế với tổ
chức thu mua để cùng nhau bảo đảm thực hiện đúng các hợp đồng hai chiều đã ký với
người sản xuất.
Phải tuỳ tình hình cụ thể của từng
nơi mà lựa chọn hình thức hợp đồng thích hợp.
- Ở những nơi đã có hợp tác xã
và tập đoàn sản xuất thì các tổ chức này đứng ra ký hợp đồng bán các sản phẩm của
kinh tế tập thể. Hợp đồng ký cho cả năm, có chia ra từng vụ, và ký trước khi bắt
tay vào sản xuất. Đối với sản phẩm của kinh tế gia đình xã viên hay của các hộ
nông dân cá thể, nếu hợp tác xã hay tập đoàn sản xuất có thể thu gom được thì
cũng đưa luôn vào hợp đồng. Nếu không thì tổ chức thu mua của Nhà nước phải ký
hợp đồng với hợp tác xã mua bán xã, uỷ thác cho tổ chức này đứng ra thu gom rồi
trao đổi với Nhà nước.
- Ở những nơi Nhà nước đã giao mức
nghĩa vụ ổn định trong 5 năm cho các đơn vị sản xuất thì cơ quan thu mua ký hợp
đồng dài hạn để ổn định mức cung ứng tư liệu sản xuất cho người sản xuất. Để
mua phần sản phẩm ngoài nghĩa vụ, hai bên ký hợp đồng bổ sung hàng năm hay từng
vụ (Nhà nước cung ứng thêm tư liệu sản xuất, vật liệu xây dựng và hàng tiêu
dùng tương ứng với số sản phẩm bán thêm).
- Trong tình hình vật tư hàng
hoá của Nhà nước chưa dồi dào, nông dân thì có nhiều nông sản hàng hoá, cần vận
động nông dân ký hợp đồng dài hạn, nông dân giao sản phẩm trước, Nhà nước thanh
toán một phần hợp đồng bằng vật tư hàng hoá, phần còn lại sẽ thanh toán tiếp
vào các năm sau.
- Ở những nơi quan hệ sản xuất mới
chưa được xây dựng vững chắc, trình độ kế hoạch hoá còn thấp, năng lực cán bộ
huyện, xã có hạn, nếu xét chưa có điều kiện ký hợp đồng cho cả năm hoặc hợp đồng
dài hạn thì ký hợp đồng từng vụ, về một số sản phẩm quan trọng, và cũng chỉ tập
trung làm ở những xã, ấp có nhiều sản phẩm hàng hoá. Nơi nào không kịp ký hợp đồng
từ đầu vụ sản xuất thì đến khi thu hoạch, tạm thời có thể dùng hình thức trực
tiếp trao đổi vật tư hàng hoá lấy sản phẩm, theo những điều kiện quy định cho hợp
đồng hai chiều ở địa phương.
- Đối với những sản phẩm ngoài hợp
đồng hoặc ở những nơi sản xuất lẻ tẻ, thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã
mua bán thông qua mua bán bình thường, mua đứt bán đoạn theo giá thoả thuận mà
nắm hàng.
b) Để gắn chặt việc cung ứng vật
tư hàng hoá với việc thu mua, về nguyên tắc, tổ chức thu mua đứng ra ký hợp đồng
hai chiều phải nắm được các vật tư hàng hoá đưa vào hợp đồng để bảo đảm cung ứng
cho người sản xuất theo đúng hợp đồng đã ký. Trừ một vài ngành vừa làm nhiệm vụ
trực tiếp cung ứng các loại tư liệu sản xuất chuyên dùng vừa trực tiếp thu mua
sản phẩm như thuỷ sản, lâm nghiệp, các ngành thu mua khác, nói chung, chỉ nắm vật
tư hàng hoá trên chỉ tiêu kế hoạch, quyết định việc phân phối cho các cơ sở sản
xuất theo hợp đồng, còn vật tư hàng hoá thì vẫn do các tổ chức chuyên doanh nắm
và tổ chức việc cung ứng đến người sản xuất theo kế hoạch phân phối cụ thể của
các tổ chức thu mua. Không nên biến tổ chức thu mua thành một tổ chức kinh
doanh tổng hợp cả mua lẫn bán đủ mọi thứ.
Riêng đối với một số xí nghiệp
chế biến nông sản và một số tổ chức xuất khẩu có điều kiện nắm những tư liệu sản
xuất chủ yếu để trực tiếp đầu tư cho một số vùng sản xuất tập trung, trên một số
địa bàn tương đối gọn, thì có thể vừa làm nhiệm vụ thu mua, vừa nhận vật tư
hàng hoá của các tổ chức cung ứng cấp I để trực tiếp tổ chức vận chuyển, bảo quản
và phân phối đến tay người sản xuất.
c) Để giúp các hợp tác xã, các tập
đoàn sản xuất có điều kiện triển khai sản xuất kịp thời vụ, loại trừ tệ cho vay
lãi nặng ở nông thôn, Nhà nước thi hành chính sách cho vay vốn để mua vật tư hoặc
ứng trước vật tư, đến vụ thu hoạch mới thanh toán bằng hiện vật, theo mấy cách
sau đây:
- Ngân hàng trực tiếp cho những
đơn vị sản xuất tập thể có tài khoản ở ngân hàng vay vốn để thanh toán cho các
cơ quan cung ứng vật tư, các trạm máy kéo, trạm bơm... Sau khi thu hoạch, hợp
tác xã bán sản phẩm cho cơ quan thu mua và thanh toán tay ba giữa hợp tác xã, cơ
quan thu mua và Ngân hàng.
- Trường hợp đơn vị sản xuất
không có tài khoản ở Ngân hàng thì Ngân hàng cho cơ quan thu mua vay vốn để mua
vật tư, ứng trước cho đơn vị sản xuất.
- Các trạm máy kéo, trạm bơm,
các xí nghiệp hay tổ hợp xay xát, chế biến có ký hợp đồng cung ứng dịch vụ với
các cơ sở sản xuất, nói chung không lấy công bằng tiền mặt mà đến mùa lấy công
bằng hiện vật; toàn bộ số hiện vật này do cơ quan thu mua nhận và thanh toán bằng
tiền theo giá chỉ đạo cho xí nghiệp. Ngân hàng ứng vốn cho xí nghiệp để bảo đảm
các chi phí sản xuất và trả lương công nhân. Đến vụ thu hoạch, xí nghiệp kết hợp
với các cơ quan thu mua để thu hồi nợ, thanh toán tay ba giữa xí nghiệp, cơ
quan thu mua và Ngân hàng.
d) Về thanh toán hợp đồng, xử
lý các vụ vi phạm hợp đồng.
- Việc thanh
toán hợp đồng phải tiến hành cuối mỗi vụ thu mua, chú trọng cả hai mặt giá trị
và hiện vật. Mọi vật tư hàng hoá mua và bán đều theo giá chỉ đạo của Nhà nước
và thanh toán tiền cho chủ hàng. Riêng về hiện vật thì tổ chức thu mua phải đứng
ra thanh toán với bên ký hợp đồng. Bên nào giao thiếu thì phải ghi nợ để giao
tiếp vào vụ sau.
- Bên nào vi phạm hợp đồng thì
bên ấy phải chịu trách nhiệm vật chất theo quy định của điều lệ về chế độ hợp đồng
kinh tế ban hành theo Nghị định số 54-CP ngày 10-3-1975 của Hội đồng Chính phủ.
Đối với các vụ
tranh chấp và vi phạm hợp đồng, nếu các bên hữu quan không cùng nhau thoả thuận
được thì báo cáo với Uỷ ban nhân dân huyện xử lý.
Đối với những vụ vi phạm cần xử phạt
nặng về kinh tế thì Uỷ ban nhân dân huyện chuyển hồ sơ đến trọng tài kinh tế tỉnh,
thành phố.
B. TỔ CHỨC
CHỈ ĐẠO VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
Để bảo đảm chế độ hợp đồng hai
chiều, cần chấn chỉnh tổ chức chỉ đạo và tổ chức thực hiện theo hướng:
- Gắn cho được hai khâu cung ứng
và thu mua từ trung ương đến cơ sở, mà huyện là cấp thực hiện có vai trò đặc biệt
quan trọng. Tổ chức nào có trách nhiệm thu mua, tổ chức đó phải nắm được quỹ vật
tư hàng hoá dành cho thu mua để có cơ sở ký kết và thực hiện hợp đồng. Vật tư
hàng hoá nằm trong quỹ thu mua (theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước) dù do bất cứ
ngành nào kinh doanh (bán buôn, bán lẻ) đều phải phục tùng sự điều động và phân
phối của tổ chức thu mua được giao quỹ vật tư hàng hoá đó.
- Điều chỉnh sự phân công giữa
các ngành thu mua cho hợp lý nhằm giảm bớt đầu mối giao dịch với các hợp tác xã
và nông dân, tránh tình trạng cùng một mặt hàng ở cùng một địa bàn lại do nhiều
tổ chức của Nhà nước thu mua. Thực hiện rộng rãi việc ngành nọ đại lý mua cho
ngành kia, hợp tác xã mua bán xã nhận uỷ thác mua cho các tổ chức quốc doanh.
- Tôn trọng sự phân công chuyên
môn của các ngành và các tổ chức kinh doanh, đồng thời phát huy vai trò chỉ đạo
tập trung thống nhất, điều hoà phối hợp của Uỷ ban nhân dân các cấp, nhất là cấp
huyện, nhằm bảo đảm thực hiện đúng những cam kết của các tổ chức kinh tế Nhà nước
với những người sản xuất tập thể và cá thể.
1. Về phân
công thu mua giữa các ngành.
- Ngành lương thực mua
lương thực và nhập kho thóc thuế nông nghiệp. Ngành tài chính chịu trách nhiệm
thu thuế nông nghiệp và nợ thuế nông nghiệp.
- Nội thương và ngoại thương
mua các loại nông sản để tiêu dùng trong nước và xuất khẩu theo sự phân công cụ
thể về mặt hàng và về địa bàn do hai Bộ thoả thuận. Đối với những mặt hàng liên
quan đến phạm vi kinh doanh của một Bộ khác thì hai Bộ bàn thêm với Bộ đó để
quy định cụ thể.
- Y tế mua dược liệu (trừ
hồi, quế vẫn do ngoại thương mua và giao lại một phần cho y tế theo chỉ tiêu kế
hoạch Nhà nước).
- Các xí nghiệp và liên hiệp
xí nghiệp (công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm) mua nguyên liệu ở những
vùng sản xuất tập trung được quy hoạch làm vùng nguyên liệu cho xí nghiệp.
- Lâm nghiệp mua các loại
lâm sản chính (gỗ, củi, tre, nứa, nhựa thông, cánh kiến ...), còn những loại
khác do ngoại thương, nội thương, y tế, công nghiệp nhẹ trực tiếp mua dưới sự
kiểm soát và hướng dẫn của ngành lâm nghiệp.
- Nông nghiệp mua các loại
hạt giống, cây giống, con giống. Riêng về tơ tằm, trước nay vẫn do ngành nông
nghiệp mua để giao cho ngoại thương xuất khẩu thì nay giao cho các tỉnh, thành
phố mua để xuất khẩu. Những thứ không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thì sử dụng tại địa
phương.
- Thuỷ sản mua các loại hải
sản ở những nơi mà ngành thuỷ sản nhận trách nhiệm mua. Ở những nơi khác, nội
thương mua. Nội thương trực tiếp nhận các loại hải sản chế biến của các tổ chức
thu mua cơ sở của ngành thuỷ sản tại nơi phát luồng bán buôn (không qua bất cứ
một khâu trung gian nào khác) để phân phối bán buôn và bán lẻ. Bộ Thuỷ sản tiếp
tục tổ chức vận chuyển và cung cấp cá tươi cho Hà nội và cho quân đội.
- Ở những nơi đã có Chi cục muối
(Nghệ Tĩnh, Hà Nam Ninh) thì Chi cục muối tổ chức thu mua ở đồng muối giao cho
ngành nội thương, công nghiệp hoá chất... tại các điểm giao nhận ở nơi sản xuất.
Tại các đồng muối khác, ngành nội thương trực tiếp mua và tổ chức bán buôn, bán
lẻ.
- Các tổ chức kinh tế quốc doanh
và hợp tác xã chỉ được thu mua trong phạm vi những mặt hàng và những địa bàn được
phân công và phải chịu sự kiểm soát của Uỷ ban nhân dân và cơ quan quản lý hành
chính thương nghiệp các cấp về mặt chấp hành các chính sách của Nhà nước về thu
mua, giá cả và quản lý thị trường.
2. Về tổ chức
chỉ đạo:
- Ở trung ương, Thường vụ Hội đồng
Bộ trưởng phân công đồng chí Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách phân phối
lưu thông trực tiếp chỉ đạo công tác hợp đồng hai chiều (bao gồm cả việc thống
nhất quản lý và điều động quỹ vật tư hàng hoá dành cho thu mua).
Tất cả các Bộ, Tổng cục có liên
quan đến thu mua và cung ứng theo hợp đồng hai chiều phải phân công một đồng
chí thứ trưởng phụ trách công tác này.
- Ở cấp tỉnh, thành phố, Uỷ ban
nhân dân chỉ đạo công tác này gắn liền với chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch
Nhà nước ở địa phương. Cần phân công đồng chí phó chủ tịch phụ trách phân phối
lưu thông trực tiếp chỉ đạo.
- Ở cấp huyện, Uỷ ban nhân dân
huyện chỉ đạo toàn diện công tác hợp đồng kinh tế hai chiều trên địa bàn huyện.
Cần phân công đồng chí phó chủ tịch phụ trách phân phối lưu thông trực tiếp chỉ
đạo. Ban thương nghiệp - vật tư - đời sống phối hợp chặt chẽ với Ban kế hoạch
và ban nông nghiệp huyện, giúp Uỷ ban chỉ đạo việc ký kết và thực hiện hợp đồng,
gắn chặt ba khâu sản xuất, cung ứng và thu mua.
- Ở xã, Uỷ ban nhân dân xã chịu
trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện hợp đồng hai chiều trong
phạm vị xã, kịp thời phát hiện với huyện những khó khăn, mắc mứu để huyện xử
lý.
3. Về tổ
chức bảo đảm thực hiện.
Các tổ chức cung ứng và thu mua
trên địa bàn huyện cần được chấn chỉnh và tăng cường theo hướng gom bớt đầu mối
lại.
Những ngành có khối lượng thu
mua không lớn, không thường xuyên (hoặc ở những nơi có khối lượng thu mua không
lớn, không thường xuyên) thì không nên tổ chức trạm thu mua đến huyện mà uỷ
thác cho công ty thương nghiệp huyện làm đại lý mua cho mình.
Các tổ chức cung ứng, thu mua,
tài chính, ngân hàng và giao thông vận tải ở huyện cần phối hợp chặt chẽ để bố
trí hợp lý mạng lưới các cửa hàng và trạm thuận tiện cho việc thực hiện hợp đồng
hai chiều.
Tất cả các địa phương cần phải củng
cố và phát triển mạng lưới hợp tác xã mua bán xã, tận dụng mạng lưới này làm đại
lý bán và nhận uỷ thác mua cho quốc doanh các sản phẩm của kinh tế gia đình xã
viên và của kinh tế cá thể.
Hội đồng Bộ trưởng yêu cầu các Bộ,
Tổng cục, các Uỷ ban Nhà nước có liên quan và Uỷ ban nhân dân các cấp nghiên cứu
kỹ nghị quyết này và có kế hoạch triển khai càng sớm càng tốt việc ký hợp đồng
hai chiều đối với tất cả các loại nông, lâm, thuỷ sản chủ yếu.
Các quyết định trước đây trái với
Nghị quyết này đều bãi bỏ.
định mức vật tư, hàng hoá cung ứng cho một tấn sản phẩm bán
cho nhà nước.
(Ban
hành kèm theo Nghị quyết số 187-HĐBT ngày 22-11-1982 của Hội đồng Bộ trưởng)
- Đơn vị tính vật tư, hàng hoá :
kilôgam
- A: các tỉnh miền Bắc
- B: các tỉnh miền Nam
Sản
phẩm bán cho Nhà nước (tấn)
|
Phân
đạm
(SA)
|
Phân lân
|
Phân
Ka-li
|
Thuốc
trừ
sâu
|
Xăng
dầu
(B)
|
Than
|
Đường
|
Lương
thực
(2)
|
Ghi chú
|
1. Lúa (1)
|
400
|
120
|
|
|
|
|
|
|
Thêm
|
2. Ngô
|
200
|
60
|
|
|
|
|
|
|
công
|
3. Đậu nành
|
100
|
A:
600
|
|
A:
10
|
50
|
|
|
|
cày
|
|
|
B:
350
|
|
B:
20
|
|
|
|
|
bừa
|
4. Đậu xanh
|
100
|
|
|
20
|
60
|
|
|
|
bằng
|
5. Lạc vỏ
|
80
|
A:
300
|
100
|
20
|
40
|
|
|
|
máy
|
|
|
B:
100
|
|
|
|
|
|
|
và
|
6. Mía
|
10
|
5
|
4
|
0,3
|
0,8
|
|
|
|
thuỷ
|
7. Đay bẹ
|
180
|
120
|
|
|
|
|
|
|
lợi
phí
|
8. Cói
|
70
|
45
|
|
|
|
|
2
|
|
trên
1
|
9. Thuốc lá (lá)
|
160
|
|
200
|
7
|
150
|
5000
|
|
|
hécta
|
10. Thuốc lào
|
500
|
|
|
12
|
|
|
20
|
|
gieo
|
11. Chè búp tươi
|
120
|
120
|
60
|
6
|
A:
2
|
|
|
|
trồng
|
|
|
|
|
|
B:
12
|
|
|
|
|
12. Dứa
|
75
|
50
|
50
|
6
|
30
|
|
|
|
|
13. Chuối
|
100
|
|
30
|
|
|
|
|
|
|
14. Dầu dừa
|
450
|
|
450
|
|
|
|
|
|
|
15. Tơ tằm
|
12000
|
6000
|
3000
|
20
|
350
(dầu hoả)
|
|
|
|
|
(1) Nhu cầu về chủng loại và số lượng
vật tư nông nghiệp và dịch vụ kỹ thuật cho cây lúa ở mỗi vùng không giống nhau.
Vì vậy, có thể định mức cung ứng vật tư theo yêu cầu thực tế của mỗi vùng, mỗi
hợp tác xã, miễn sao bảo đảm những quan hệ tỷ lệ cơ bản sau đây:
- 1 kg u-rê
|
=
|
3 kg lúa.
|
- 1 kg phân lân
|
=
|
1 kg lúa.
|
- 1 lít xăng
|
=
|
4 kg lúa.
|
- 1 lít đi-ê-den
|
=
|
3kg lúa.
|
- Công cày bừa bằng máy 1
hécta
|
=
|
200 kg lúa.
|
(2) Lương thực chỉ cung ứng cho
những vùng thiếu hoặc không có lương thực, vì vậy không quy định định mức chung
cho các vùng về từng mặt hàng nông sản.
Các ngành thu mua kết hợp với Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố tính cân đối lương thực cho từng vùng, rồi dựa vào
chỉ tiêu thu mua mà tính ra số lương thực cần cung ứng cho mỗi đầu tấn sản phẩm
bán cho Nhà nước.