HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
*******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số:
29-CP
|
Hà
Nội, ngày 23 tháng 02 năm 1962
|
NGHỊ ĐỊNH
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI QUY ĐỊNH NHỮNG NGUYÊN TẮC XỬ LÝ
TRONG VIỆC CHẤP HÀNH CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ nghị định số 004-TTg
ngày 04 tháng 01 năm 1960 của Thủ tướng Chính phủ ban hành bản điều lệ tạm thời
về chế độ hội đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và các cơ quan Nhà nước;
Theo đề nghị của ông Chủ tịch Hội đồng Trọng tài trung ương;
Căn cứ nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp thường vụ Hội đồng
Chính phủ ngày 03 tháng 01 năm 1962.
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. –
Nay ban hành, kèm theo nghị định này, bản điều lệ tạm thời quy định những
nguyên tắc xử lý trong việc chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế giữa các cơ quan
Nhà nước, các xí nghiệp quốc doanh và các tổ chức công tư hợp doanh đã làm hạch
toán kinh tế.
Điều 2. – Căn
cứ vào điều lệ tạm thời này, các ông Bộ trưởng Bộ Nội thương, Bộ Ngoại thương,
Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kiến trúc, Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Công nghiệp nhẹ,
các ông Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện, Tổng cục Thủy sản, Tổng cục Lương thực,
Tổng cục Lâm nghiệp, ông Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Hội đồng
trọng tài trung ương và các cơ quan có liên quan để làm điều lệ xử lý trong việc
chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế của ngành và trình Thường vụ Hội đồng Chính
phủ xét duyệt.
Điều 3. - Ông
Chủ tịch Hội đồng trọng tài trung ương chịu trách nhiệm giải thích và quy định
chi tiết thi hành bản điều lệ này.
Điều 4. - Ông
Chủ tịch Hội đồng trọng tài trung ương, các ông Bộ trưởng các Bộ và các ông Tổng
cục trưởng các Tổng cục có liên quan, các ông Chủ tịch Ủy ban hành chính khu,
thành phố, tỉnh chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
|
T.M.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|
ĐIỀU LỆ TẠM THỜI
QUY ĐỊNH NHỮNG NGUYÊN TẮC XỬ LÝ TRONG VIỆC CHẤP HÀNH CHẾ ĐỘ
HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Chương 1:
NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều 1. - Bản
điều lệ tạm thời này đề ra những nguyên tắc làm cơ sở cho việc xử lý các vụ
tranh chấp về từ chối ký kết hợp đồng kinh tế và các vụ vi phạm hợp đồng đã ký
kết, nhằm mục đích:
a) Đề cao tinh thần trách nhiệm,
ý thức tổ chức và kỷ luật của các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước trong việc thực
hiện nghĩa vụ về việc ký kết hợp đồng kinh tế, bảo đảm hoàn thành, và hoàn
thành vượt mức toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước.
b) Tăng cường và phát triển sự hợp
tác xã hội chủ nghĩa giữa các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện
kế hoạch kinh tế quốc dân, chống mọi ý nghĩ và việc làm có tính chất bản vị, cục
bộ, địa phương chủ nghĩa.
c) Đảm bảo thực hiện đầy đủ chế
độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp và cơ quan Nhà nước.
Điều 2. - Việc
xử lý các vụ tranh chấp về từ chối ký kết hợp đồng kinh tế và các vụ vi phạm hợp
đồng kinh tế đã ký kết phải hết sức nghiêm minh, thận trọng. Trong quá trình xử
lý, Hội đồng trọng tài cần chú ý giúp đỡ các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước giải
quyết những khó khăn, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các xí nghiệp và cơ quan hữu
quan thực hiện tốt hợp đồng kinh tế.
Các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước
nào không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ chế độ hợp đồng kinh tế sẽ bị
phạt tiền và phải bồi thường thiệt hại cho bên cùng ký kết; đồng thời tùy lỗi nặng
nhẹ, sẽ bị thi hành kỷ luật về mặt hành chính như phê bình, cảnh cáo, trong trường
hợp nghiêm trọng có thể bị truy tố trước tòa án.
Chương 2:
TRÁCH NHIỆM KÝ KẾT VÀ THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Điều 3. – Sau
khi chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước hàng năm hay kế hoạch Nhà nước dài hạn được Hội
đồng Chính phủ thông qua, các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước phải tiến hành ký kết
ngay các loại hợp đồng kinh tế.
Trì hoãn ký kết hợp đồng, từ chối
ký kết hợp đồng hoặc không thực hiện đầy đủ hợp đồng đã ký kết đều bị coi là vi
phạm kỷ luật của chế độ hợp đồng kinh tế.
Điều 4. - Kể
từ ngày chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước được Chính phủ thông qua, thời hạn phải hoàn
thành việc ký kết các loại hợp đồng kinh tế quy định như sau:
- Tối đa 30 ngày đối với loại hợp
đồng kinh tế về nguyên tắc.
- Trong 60 ngày và chậm nhất
không quá 90 ngày đối với loại hợp đồng kinh tế cụ thể của cả năm.
Điều 5. - Một
hợp đồng kinh tế phải có đủ các điều kiện sau đây mới coi là hợp lệ:
a) Phải phù hợp với chỉ tiêu kế
hoạch Nhà nước hoặc chỉ tiêu trong kế hoạch của mỗi Bộ, khu, thành phố, tỉnh đã
được Chính phủ thông qua.
b) Không được trái với luật lệ
Nhà nước.
c) Nội dung hợp đồng kinh tế và
thẩm quyền ký kết hợp đồng này phải theo đúng điều 6 và điều 7 của bản điều lệ
tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành theo nghị định số 004-TTg ngày 04
tháng 01 năm 1960 và các điều khoản khác đã quy định trong các thể lệ hợp đồng
về mua bán, vận tải và xây dựng cơ bản.
d) Hợp đồng kinh tế phải viết cụ
thể, rõ ràng, không được tẩy, những điểm xóa hoặc chữa lại phải được hai bên ký
kết hợp đồng thỏa thuận và xác nhận.
Điều 6. –
Trong trường hợp mà hợp đồng kinh tế không hợp lệ được đưa ra khiếu nại, thì Hội
đồng trọng tài vẫn xử lý, đồng thời có thái độ thích đáng đối với cả đôi bên đã
ký hợp đồng không theo đúng quy định của Nhà nước.
Điều 7. - Trường
hợp sau đây bị coi là từ chối ký kết hợp đồng kinh tế: bên đề nghị ký đã trực
tiếp thương lượng hoặc gửi cho bên kia một bản dự thảo hợp đồng để chuẩn bị việc
ký kết, mà bên nhận được đề nghị đã chính thức trả lời không ký, hoặc đưa ra những
điều kiện không chính đáng để lảng tránh, hoặc trì hoãn việc ký kết, hoặc đã
quá hạn phải ký kết như đã quy định ở điều 4 của bản điều lệ này mà vẫn im lặng
không trả lời.
Điều 8. – Trong
thời hạn 10 ngày kể từ ngày biết được thái độ của bên từ chối ký, bên đề nghị
ký phải báo cáo lên Hội đồng trọng tài có thẩm quyền, Hội đồng trọng tài này,
căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, căn cứ vào thể lệ đã ban hành và tình
hình thực tế của đôi bên, giúp đỡ cho hai bên có thể thỏa thuận để ký kết. Nếu
hai bên không thỏa thuận ký kết, thì Hội đồng trọng tài có quyền quyết định nội
dung mà hai bên phải ký kết.
Sau khi đã có quyết định của Hội
đồng trọng tài, mà một bên vẫn không chịu ký hợp đồng thì:
- Quyết định của Hội đồng trọng
tài có giá trị pháp lý như một bản hợp đồng đã ký kết, cả hai bên đương sự có
trách nhiệm thi hành.
- Bên từ chối ký hợp đồng phải
hoàn toàn chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc từ chối của mình gây ra.
Điều 9. - Đối
tượng xử lý của Hội đồng trọng tài là các xí nghiệp quốc doanh, các cơ quan Nhà
nước (kể cả Quân đội), và các tổ chức công tư hợp doanh đã thực hiện hạch toán
kinh tế.
Điều 10. - Những
hành động sau đây bị coi là vi phạm hợp đồng kinh tế:
a) Không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ các điều khoản đã ký kết.
b) Từ chối điều chỉnh hợp đồng
sau khi Nhà nước đã chính thức điều chỉnh chỉ tiêu kế hoạch.
c) Tự ý điều chỉnh hay hủy bỏ hợp
đồng không có sự thương lượng trước giữa hai bên và chưa được Hội đồng trọng
tài của ngành hay hai Hội đồng trọng tài hai bên hoặc Hội đồng trọng tài trung
ương duyệt y.
Điều 11. - Bên
vi phạm hợp đồng có thể không phải chịu trách nhiệm hoặc được châm chước về
trách nhiệm trong những trường hợp sau đây:
- Gặp thiên tai hoặc trở lực
khách quan không thể khắc phục nổi.
- Có chỉ thị của cơ quan cấp
trên sau khi thỏa thuận với cơ quan chủ quản bên kia.
Gặp các trường hợp nói trên, trước
khi xử lý, Hội đồng trọng tài cần xét điều kiện cụ thể của từng trường hợp để
giải quyết cho thích đáng.
Điều 12. - Nếu
việc vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết giữa hai bên do một xí nghiệp hoặc cơ
quan Nhà nước thứ ba gây nên, thì bên vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết vẫn phải
chịu trách nhiệm chính với bên cùng ký kết. Nhưng khi xét xử Hội đồng trọng tài
cần lưu ý đến sự liên quan này để xử lý được thích đáng.
Điều 13. - Đối
với những vụ vi phạm hợp đồng kinh tế phát hiện trong khi đang thực hiện hợp đồng,
thì bên bị thiệt hại có thể khiếu nại ngay trong thời hạn là một tháng kể từ
ngày bị vi phạm.
Thời hạn khiếu nại có chung là 3
tháng kể từ ngày hết hạn thực hiện hợp đồng.
Điều 14. - Trong
khi xử lý, Hội đồng trọng tài phải căn cứ vào:
- Các điều khoản cụ thể đã được
hai bên thỏa thuận và ghi vào hợp đồng.
- Các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước
hay kế hoạch của Bộ, khu, thành phố, tỉnh đã chính thức ban hành.
- Các chủ trương chính sách của
Đảng và Chính phủ, các luật lệ của Nhà nước.
Chương 3:
NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP
XỬ LÝ
Điều 15. - Đối
với những vụ vi phạm hợp đồng kinh tế, Hội đồng trọng tài có thể xử lý theo hai
biện pháp: biện pháp tài chính và biện pháp hành chính.
a) Biện pháp tài chính:
1. Đã vi phạm hợp đồng thì đều bị
phạt bằng tiền,
2. Vì vi phạm hợp đồng mà gây ra
thiệt hại thực tế, thì phải bồi thường bằng tiền số thiệt hại đó cho bên cùng
ký kết.
3. Không được trả tiền phạt hay
tiền bồi thường bằng cách trừ nợ lẫn nhau.
b) Biện
pháp hành chính:
1. Hội đồng trọng tài có quyền đề
nghị cơ quan có thẩm quyền phê bình, cảnh cáo các xí nghiệp, cơ quan vi phạm hợp
đồng kinh tế đã ký.
2. Đối với những cán bộ vì thiếu
tinh thần trách nhiệm nên không thực hiện được hợp đồng kinh tế đã ký, và những
cán bộ, công nhân phạm sai lầm hoặc có hành động gian dối để xảy ra việc vi phạm
hợp đồng, thì Hội đồng trọng tài có quyền đề nghị với cấp có thẩm quyền thi
hành kỷ luật như cảnh cáo, cách chức, truy tố trước tòa án, và tùy lỗi nặng nhẹ,
tùy mức độ thiệt hại, bắt bồi thường bằng tiền.
Trường hợp vi phạm hợp đồng kinh
tế cụ thể thì áp dụng cả hai biện pháp: tài chính và hành chính; trường hợp vi
phạm hợp đồng kinh tế về nguyên tắc, thì chỉ áp dụng biện pháp hành chính.
Điều 16. – Hội
đồng trọng tài căn cứ vào mức độ cố gắng và mức độ tương trợ hợp tác xã chủ
nghĩa của bên vi phạm, mức độ thiệt hại của việc vi phạm hợp đồng, và tỷ lệ so
sánh giữa sự thiệt hại và giá trị của hợp đồng, và vào số vốn lưu động của hai
bên, để quyết định mức phạt và mức bồi thường một cách thích đáng.
Điều 17. - Số
tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại được trích ở quỹ lưu thông của xí nghiệp
hay cơ quan vi phạm hợp đồng kinh tế, và phải hạch toán vào giá thành thực tế của
sảm phẩm làm ra. Cuối năm khi xét đến quỹ xí nghiệp, cơ quan có thẩm quyền của
các Bộ và các địa phương sẽ căn cứ vào mức độ sai lầm và tổng số tiền phạt vì
vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký của đơn vị trực thuộc, để quy định tỷ lệ khấu trừ
ở quỹ xí nghiệp mà đơn vị đó được hưởng. Tỷ lệ khấu trừ này không được quá 50%
quỹ xí nghiệp.
Cơ quan, xí nghiệp bị thiệt hại
hợp đồng kinh tế được thu hai khoản tiền phạt và tiền bồi thường để bù đắp sự
thiệt hại; số tiền còn thừa phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
Điều 18. - Thời
hạn phải trả tiền phạt hay tiền bồi thường thiệt hại vì vi phạm hợp đồng kinh tế
là một tháng kể từ ngày có quyết định của Hội đồng trọng tài.
Chương 4:
THỦ TỤC XỬ LÝ
Điều 19. - Hội
đồng trọng tài xử lý khi:
- Có đơn khiếu nại của một bên
ký hợp đồng.
- Có đơn khiếu nại hoặc đề nghị
của cơ quan cấp trên của một trong hai bên ký kết hợp đồng.
- Bản thân Hội đồng trọng tài
phát hiện vấn đề,
- Hội đồng trọng tài trung ương
chỉ thị.
Điều 20. - Trước
khi gửi đơn khiếu nại lên Hội đồng trọng tài có thẩm quyền, bên bị thiệt hại phải
trực tiếp thương lượng với bên vi phạm trên tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa.
Hội đồng trọng tài chỉ nhận đơn khiếu nại và đưa ra xét xử khi đã có biên bản về
việc thương lượng giữa hai bên để giải quyết nhưng không có kết quả.
Điều 21. - Đơn
khiếu nại phải phản ảnh trung thực sự việc, nêu rõ nguyên nhân của việc vi phạm
hợp đồng và yêu cầu giải quyết, đồng thời phải kèm theo đầy đủ hồ sơ như: bản
sao hợp đồng, biên bản các cuộc họp thương lượng, giấy tờ và các chứng từ cần
thiết…
Đơn khiếu nại gửi lên Hội đồng
trọng tài có thẩm quyền phải theo đúng thời gian đã quy định cho việc khiếu nại.
Nếu bên vi phạm hợp đồng gửi đơn khiếu nại chậm quá hạn đã định nhưng có lý do
chính đáng, thì Hội đồng trọng tài cũng có thể chấp nhận đơn và đưa ra xét xử.
Điều 22. - Kể
từ sau ngày nhận đơn khiếu nại, Hội đồng trọng tài phải tiến hành xét xử trong
vòng 20 ngày. Trong từng vụ khiếu nại, nếu Hội đồng trọng tài nhận thấy không
thể giải quyết được trong thời hạn quy định trên, thì phải báo cáo lên Hội đồng
trọng tài trung ương xin gia hạn, nhưng không được xin gia hạn quá hai lần.
Điều 23. - Thủ
tục xét xử các vụ vi phạm hợp đồng kinh tế hay từ chối ký kết hợp đồng kinh tế
quy định như sau:
a) Chỉ có Chủ tịch, Phó chủ tịch
hoặc một Ủy viên Hội đồng trọng tài được Chủ tịch Hội đồng trọng tài ủy nhiệm mới
có quyền chủ tọa các phiên họp xử lý.
b) Trong khi xét xử, hai bên
đương sự đều phải có mặt. Sau khi đã có giấy triệu tập của Hội đồng trọng tài, nếu
một bên vắng mặt không có lý do chính đáng, thì Hội đồng trọng tài vẫn có quyền
xét xử và quyết định, và bên vắng mặt vẫn phải chấp hành quyết định đó.
c) Đại diện của hai bên đương sự
và đại diện của cơ quan có liên quan được triệu tập phải là cán bộ phụ trách có
thẩm quyền.
d) Đại diện của mỗi bên có nhiệm
vụ trình bày ý kiến, làm sáng tỏ sự việc để việc xét xử được đúng đắn.
Điều 24. - Quyết
định của Hội đồng trọng tài phải viết thành văn bản, nội dung gồm:
- Phần tóm tắt sự việc,
- Phần phân tích sự việc,
- Phần kết luận và xử lý.
Bản quyết định ấy phải có chữ ký
của Chủ tịch phiên họp Hội đồng trọng tài và đóng dấu.
Trong thời hạn ba ngày sau phiên
họp xử lý, quyết định của Hội đồng trọng tài các cấp Bộ, khu, thành phố, tỉnh
phải gửi đến:
- Các xí nghiệp, cơ quan đương sự,
- Cơ quan chủ quản các xí nghiệp,
cơ quan đương sự để theo dõi và đôn đốc cấp dưới thi hành,
- Cơ quan Tài chính, Ngân hàng hữu
quan để thi hành biện pháp xử lý về mặt tài chính.
- Hội đồng trọng tài trung ương
để báo cáo.
Điều 25. - Quyết
định của Hội đồng trọng tài có hiệu lực pháp lý.
Hai bên đương sự phải chấp hành
ngay và nghiêm chỉnh quyết định của Hội đồng trọng tài.
Bên nào không chấp hành ngay và
nghiêm chỉnh phải chịu kỷ luật về hành chính hoặc có thể bị truy tố trước tòa
án.
Nếu thấy quyết định của Hội đồng
trọng tài Bộ, khu, thành phố, tỉnh không đúng, xí nghiệp hay cơ quan đương sự
có quyền khiếu nại lên Hội đồng trọng tài trung ương. Trong khi chờ đợi quyết định
của Hội đồng trọng tài trung ương, các bên có liên quan vẫn phải chấp hành quyết
định của Hội đồng trọng tài đã xét xử.
Thời gian khiếu nại lên Hội đồng
trọng tài trung ương là một tháng kể từ ngày Chủ tịch Hội đồng trọng tài cấp Bộ,
hay khu, thành phố, tỉnh ký quyết định.
Điều 26. - Căn
cứ vào đề nghị của các tổ chức hữu quan, hoặc theo đơn khiếu nại của một bên ký
kết hợp đồng, hoặc theo sự phát hiện của mình, sau khi thẩm tra, Hội đồng trọng
tài trung ương có thể chỉ thị tạm hoãn thi hành quyết định của Hội đồng trọng
tài cấp dưới và đưa vụ tranh chấp ra xét lại.
Điều 27. - Trong
quá trình khiếu nại lên Hội đồng trọng tài và sau khi Hội đồng trọng tài đã quyết
định mức phạt và bồi thường, hai bên ký kết hợp đồng kinh tế vẫn có nhiệm vụ tiếp
tục thực hiện hợp đồng và ký kết, trừ khi hợp đồng mất hiệu lực vì có quyết định
mới của Hội đồng trọng tài có thẩm quyền.