ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
7920/KH-UBND
|
Đắk
Lắk, ngày 06 tháng 10
năm 2017
|
KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TỈNH ĐẮK LẮK NĂM 2018
PHẦN THỨ NHẤT
TÌNH HÌNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2017
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Đánh giá tình hình thực hiện 7
nguyên tắc của Hợp tác xã
a) Nguyên tắc tự nguyện
Các thành viên Hợp tác xã (HTX) đều
tham gia trên tinh thần tự nguyện có đơn xin gia nhập khi có nhu cầu, không có
trường hợp bị ép buộc tham gia dưới mọi hình thức.
b) Nguyên tắc kết nạp rộng rãi
thành viên
Xác định rõ thành viên là cốt lõi, là
đối tác, là khách hàng, là thị trường và là nền tảng để
phát triển bền vững trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế các HTX trên địa
bàn tỉnh đảm bảo tuân thủ nguyên tắc kết nạp rộng rãi thành viên. Thành viên
HTX trên địa bàn tỉnh được kết nạp rộng rãi, đa dạng thành phần, trên cơ sở
tinh thần tự nguyện tham gia, không phân biệt dân tộc, tôn giáo giới tính, vị
thế xã hội.
c) Nguyên tắc quản lý dân chủ
Các HTX trên địa bàn tỉnh nhìn chung
thực hiện tốt nguyên tắc quản lý dân chủ. Các thành viên HTX được bình đẳng
trong quyết định về tổ chức, quản lý điều hành, hoạt động,
chiến lược, kế hoạch phát triển và phân phối... không phụ
thuộc vào trình độ góp vốn, vị trí trong HTX, liên hiệp HTX; có quyền biểu quyết
ngang nhau, được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản
xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy
định của điều lệ.
d) Nguyên tắc tự chủ, tự chịu
trách nhiệm
Các HTX, Liên hiệp HTX tại tỉnh đã nhận
thức đúng vai trò, đảm bảo nguyên tắc tự chủ, tự chịu
trách về việc tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh trước pháp luật.
đ) Nguyên tắc gắn kết về kinh tế
của thành viên
Nhìn chung, các HTX đã thực hiện tốt
nguyên tắc này, các thành viên, HTX thành viên và HTX, Liên hiệp HTX thực hiện
cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định tại điều lệ; thu nhập của các xã
viên được phân phối kịp thời theo vốn góp và điều lệ của HTX.
e) Nguyên tắc giáo dục, đào tạo
và thông tin
Các HTX đã quan tâm, chú trọng nhiều
hơn đến giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho thành viên, hợp tác xã thành viên, cán
bộ quản lý, người lao động thường xuyên cập nhật, thông tin về bản chất, lợi ích
của HTX, Liên hiệp HTX đến các xã viên; thường xuyên quan tâm, phối hợp cử cán
bộ tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn do tỉnh tổ chức theo yêu cầu.
g) Nguyên tắc phát triển cộng đồng
Các HTX chăm lo hơn đến việc phát triển
bền vững cộng đồng thành viên HTX thành viên và hợp tác với nhau nhằm phát triển
phong trào HTX trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên,
các hoạt động nhìn chung chỉ dừng lại ở quy mô cấp tỉnh, đồng thời tính kết nối
giữa các HTX còn chưa cao.
2. Đánh giá dựa trên các chỉ tiêu
về hoạt động sản xuất, kinh doanh của HTX, Liên hiệp HTX và Tổ hợp tác
a) Về số lượng, doanh thu và thu nhập của
HTX, Liên hiệp HTX, Tổ hợp tác
- Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã:
Trong 06 tháng đầu năm 2017, toàn tỉnh thành lập mới được
14 HTX (đạt 87,5% KH). Số HTX giải thể: 14 HTX. Tính đến hết tháng 6 năm 2017, toàn tỉnh có 372 HTX, Liên hiệp HTX (369 HTX và 03
Liên hiệp HTX), trong đó: 178 HTX nông nghiệp, 58 HTX công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp, 37 HTX vận tải, 47 HTX thương mại - dịch vụ, 37 HTX xây dựng và 12
Quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó, có khoảng 120 HTX ngừng hoạt động, chỉ còn tồn
tại hình thức (chưa tiến hành thủ tục giải thể).
Doanh thu bình quân của một HTX ước
thực hiện 6 tháng đầu năm 2017 là 1.200 triệu đồng/năm (đạt mục tiêu kế hoạch),
lợi nhuận bình quân: 185 triệu đồng/HTX, doanh thu của HTX với thành viên khoảng
150 triệu đồng/năm, thu nhập bình quân của người lao động: 29 triệu đồng/năm. Vốn điều lệ bình quân của 01 HTX: 1.500 triệu đồng; vốn hoạt động bình
quân 01 HTX: 2.500 triệu đồng.
- Về Tổ hợp tác (THT): Trong 06 tháng đầu năm
2017, thành lập mới được khoảng 100 THT, cùng với sự chấm dứt tồn tại của các
THT sau khi hoàn thành hợp đồng hợp tác, đến nay toàn tỉnh có 5.000 THT. Ước đến
cuối năm 2017, số THT có khoảng 5.000 tổ (số tổ thành lập mới tương đương với số
tổ giải thể sau khi hoàn thành hợp đồng hợp tác). Thu nhập bình quân của thành
viên THT: 22 triệu đồng/người/năm.
b) Về thành viên, lao động của HTX, Liên hiệp HTX, THT
Tổng số thành viên HTX ước đến hết
năm 2017 là 58.500 người, tổng số lao động trong HTX ước đến hết năm 2017 là
9.500 lao động (trong đó số lao động thường xuyên mới là 2.000 lao động, số lao
động là thành viên HTX là 7.500 lao động). THT đang hoạt động đã thu hút khoảng
hơn 60.000 thành viên lao động, trong đó loại hình tổ liên kết và vay vốn, tổ
tín dụng tiết kiệm chiếm đến 90% thành viên, lao động.
c) Về trình độ cán bộ quản lý HTX, Liên hiệp HTX, THT
Toàn tỉnh hiện có khoảng 1.800 cán bộ
quản lý, kế toán, nghiệp vụ làm việc tại các HTX. Phần lớn các HTX thiếu cán bộ
có năng lực quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh, cán bộ HTX có trình độ sơ
cấp, trung cấp khoảng 25%; cao đẳng, đại học khoảng 55%, số
còn lại chưa qua các lớp đào tạo. Do đó hoạt động của không ít HTX còn lúng túng, kế hoạch sản xuất kinh doanh không phù hợp chưa xây dựng được
chiến lược kinh doanh trung và dài hạn.
Cán bộ quản lý trong HTX, THT có
trình độ cao đẳng, đại học trong thời gian qua đã có bước cải thiện nhưng chưa
nhiều, chủ yếu là cán bộ của HTX cử đi đào tạo, rất ít người
có trình độ cao đẳng, đại học tự nguyện tham gia quản lý HTX do chính sách thu
hút lao động có trình độ về quản lý, khoa học kỹ thuật đến làm việc tại HTX
chưa được triển khai.
Đa số cán bộ các HTX trong lĩnh vực nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thương mại và dịch vụ chưa qua đào tạo về chuyên
môn và chuyên ngành. Đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực này thường
xuyên thay đổi, do vậy việc tổ chức bồi dưỡng, tập huấn
thường xuyên cho lĩnh vực này là rất cần thiết, qua các lớp bồi dưỡng, tập huấn
HTX đã nắm bắt được thông tin, kiến thức, nghiệp vụ để áp dụng vào việc quản lý
và điều hành HTX, tạo điều kiện cho HTX ngày càng phát triển và kinh doanh đạt
hiệu quả cao.
II. ĐÁNH GIÁ THEO
LĨNH VỰC
1. Lĩnh vực nông nghiệp
Đến hết tháng 6/2017, toàn tỉnh có
178 HTX nông nghiệp (chiếm gần 50% tổng số HTX toàn tỉnh), thu hút trên 7.900
thành viên tham gia; thu nhập bình quân của thành viên HTX là 28,8 triệu đồng/năm.
Nhiều HTX nông nghiệp đã từng bước đổi
mới phương thức sản xuất theo hướng kinh doanh tổng hợp, kết hợp giữa dịch vụ với
sản xuất, chế biến, kinh doanh nông sản, phát triển các
ngành nghề, nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của thành viên và các hộ nông dân;
giúp hộ thành viên tiếp cận với tiến bộ khoa học, kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao, tiêu
biểu trong lĩnh vực này là: HTX 714 huyện Ea Kar đang triển khai dự án xây dựng
trạm xăng dầu phục vụ cho các hộ thành viên và các hộ dân trong địa bàn; HTX dịch
vụ nông nghiệp công bằng Ea Kmát Hòa Đông, huyện Krông Pắc;
HTX nông nghiệp công bằng Ea Kiết, huyện Cư M’gar đầu tư chế biến cà phê bột chất
lượng cao, bước đầu mới sản xuất ở quy mô nhỏ tuy trong giai đoạn thăm dò thị
trường nhưng đã được khách hàng đánh giá cao về chất lượng
sản phẩm; HTX mác ca Tân Định, huyện Krông Năng đã nghiên cứu và áp dụng thành
công dây chuyền chế biến mac ca sấy tách vỏ, hiện nay HTX
đang tiến hành đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tập thể và chất lượng an toàn vệ sinh
thực phẩm do HTX sản xuất; HTX nông nghiệp sản xuất thu mua chế biến và tiêu thụ
ca cao huyện Ea Kar, HTX nông nghiệp dịch vụ Thành Đạt huyện
Ea Kar, HTX nông nghiệp kinh doanh tổng hợp Cư Né huyện
Krông Buk đang triển khai các bước tập huấn, hướng dẫn quy trình cho thành viên
để chuẩn bị cho đợt đánh giá cấp chứng nhận FLO (Thương mại công bằng) cho sản
phẩm của HTX.
2. Lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp
Đến hết tháng
6/2017, toàn tỉnh có 58 HTX công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, chiếm 16% tổng
số HTX toàn tỉnh, thu hút 9.500 thành viên tham gia giải
quyết việc làm cho 3.900 lao động.
Các HTX công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh khá đa dạng, như: Mây tre đan, dệt thổ cẩm,
sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí chế biến gỗ, mỹ nghệ, điện nước..., xây dựng thành các làng nghề. Mô hình HTX
mây tre đan, dệt thổ cẩm đã góp phần
giải quyết được nhiều việc làm phát triển và duy trì ngành
nghề, văn hóa truyền thống ở địa phương. Một số HTX chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tham gia hội chợ triển lãm,
maketing để tìm kiếm, mở rộng thị trường, mở thêm ngành nghề kinh doanh mới
như: HTX điện - nước M’Đrắk kinh doanh điện nay đã chuyển sang kinh doanh đa
ngành nghề; HTX Tiến Nam huyện M’Đrắk đầu tư nhiều tỷ đồng để trồng rừng và chế
biến gỗ; HTX dệt thổ cẩm Tơng Bông thành phố Buôn Ma Thuột kết nối với doanh nghiệp để làm dịch vụ du lịch.
3. Lĩnh vực vận tải
Đến hết tháng 6/2017, toàn tỉnh có có
37 HTX vận tải, chiếm 10% tổng số HTX toàn tỉnh, thu hút 2.725 thành viên tham gia, giải quyết việc làm cho 2.000
lao động.
Đa số HTX vận tải có sự phát triển cả
về quy mô và chất lượng phục vụ; khai thác tối đa luồng tuyến, vận chuyển khoảng
70% khối lượng hàng hóa và 55% số lượng hành khách trong tỉnh.
Một số HTX đã đầu tư hàng chục tỷ đồng để xây dựng bến bãi, dịch vụ xăng dầu,
điểm dừng nghỉ, mua mới phương tiện, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu phục vụ của hành khách; thành lập doanh nghiệp trực thuộc, mở rộng
phạm vi hoạt động, đầu tư kinh doanh ra ngoài tỉnh; kinh doanh chợ; tham gia
vào hoạt động vệ sinh môi trường như: HTX Quyết Thắng huyện Krông Pắc; HTX vận
tải Cư Mil huyện Ea Súp; HTX vận tải Thành Công thị xã Buôn Hồ; HTX vận tải
Krông Năng.
4. Lĩnh vực xây dựng
Đến hết tháng 6/2017, toàn tỉnh có 37
HTX xây dựng, chiếm khoảng 10% tổng số HTX toàn tỉnh, thu hút 2.646 thành viên.
Các HTX xây dựng đã tập hợp các thành
viên là người lao động có tay nghề để thi công, tu sửa các công trình có quy mô
nhỏ và vừa của địa phương, như trụ sở làm việc của phường, xã, trường học, cầu
cống nông thôn... Các HTX xây dựng hoạt động không ổn định, số HTX ngừng hoạt động
chiếm tỷ lệ cao (khoảng 69%) do nguồn vốn hoạt động ít, trang thiết bị không đủ
để đấu thầu, trúng thầu các dự án.
5. Lĩnh vực thương mại - dịch vụ
Đến hết tháng 6/2017, toàn tỉnh có 47
HTX thương mại - dịch vụ, chiếm 13% tổng số HTX toàn tỉnh, thu hút 2.300 thành
viên tham gia, giải quyết việc làm cho khoảng 2.200 lao động.
Các HTX lĩnh vực này chủ yếu kinh
doanh mua bán các loại hàng hóa nông sản, phân bón, xăng dầu, giết mổ gia súc,
dịch vụ du lịch với quy mô nhỏ. Tuy nhiên, cũng có HTX trên cơ sở cung ứng dịch
vụ, thu mua sản phẩm đã liên minh được với nhiều hộ nông dân sản xuất cà phê bền
vững và một số HTX kinh doanh chợ, HTX dịch vụ du lịch hoạt động khá hiệu quả;
điển hình như: HTX cà phê Thủy Tiến - Ea H’Leo; HTX kinh doanh chợ Buôn Trap;
Xí nghiệp (HTX) thương mại và dịch vụ Hoàng Lộc - thành phố Buôn Ma Thuột.
6. Quỹ tín dụng nhân dân
Đến hết tháng 6/2017, toàn tỉnh có 12
Quỹ tín dụng nhân dân đang hoạt động. Các chỉ tiêu cơ bản về hoạt động (tổng
nguồn vốn hoạt động, số thành viên, dư nợ cho vay) của Quỹ tín dụng nhân dân
hàng năm đều tăng trưởng khá, kết quả kinh doanh có lãi (trừ 01 đơn vị mới
thành lập năm 2016). Hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân đã góp phần thúc đẩy
kinh tế phát triển và hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi, góp phần tích cực
trong việc giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo tại địa phương.
Các Quỹ tín dụng nhân dân trên địa
bàn đã đáp ứng được các quy định về tỷ lệ an toàn vốn, các
tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước; hoàn thành phương án xử lý, đáp ứng được điều kiện
về tỷ lệ nhận tiền gửi của thành viên, về việc góp vốn của thành viên vượt tỷ lệ
quy định và địa bàn hoạt động các xã liền kề. Kết quả hoạt động đến 31/7/2017:
Tổng số thành viên đạt 25.938 thành viên, tăng 447 thành viên so với cuối năm
2016; tổng nguồn vốn hoạt động đạt 1.660 tỷ đồng, tăng 8,9% so với cuối năm 2016; dư nợ cho vay đạt 1.458 tỷ đồng, tăng 12,3% so với cuối năm
2016; nợ xấu 1,19 tỷ đồng, chiếm 0,08%/tổng dư nợ.
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ
1. Kết quả triển khai Luật và các
văn bản hướng dẫn
Để các chủ
trương, chính sách, pháp luật về HTX đi vào cuộc sống, UBND tỉnh đã ban
hành hoặc đề xuất Tỉnh ủy, HĐND tỉnh ban hành các Nghị quyết,
Chương trình hành động trong đó cụ thể hóa nhiệm vụ của các cấp, ngành có liên quan đến kinh tế tập thể. UBND tỉnh giao nhiệm vụ cho UBND cấp huyện, Liên
minh HTX tỉnh và các Sở, ngành liên quan thực hiện việc triển
khai Luật và các văn bản hướng dẫn bằng nhiều hình thức
phong phú.
Trong năm 2017, tỉnh tiếp tục tập
trung triển khai Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐND ngày 30/8/2016 của HĐND tỉnh về phát
triển kinh tế tập thể tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2016-2020; Quyết định số
3521/QĐ-UBND ngày 24/11/2016 của UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch thực hiện
Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐND và Kế hoạch số 6692/KH-UBND ngày 24/8/2016 của
UBND tỉnh về phát triển kinh tế tập thể năm 2017 của tỉnh Đắk Lắk. Trên cơ sở Kế
hoạch phát triển kinh tế tập thể năm 2017 của tỉnh, UBND cấp huyện và một số Sở
chuyên ngành liên quan đều đã ban hành kế hoạch phát triển kinh tế tập thể năm
2017 của ngành, địa phương mình, trong đó cụ thể hóa
mục tiêu, nhiệm vụ và huy động nguồn lực phát triển kinh tế tập thể trong năm.
Ngoài ra, nhằm triển khai thực hiện
có hiệu quả các chương trình, kế hoạch về đổi mới, phát triển các HTX nông nghiệp;
trong năm 2017, căn cứ hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch thực hiện phong trào thi đua đổi mới, phát triển
các HTX nông nghiệp theo Luật HTX 2012, góp phần thực hiện tái cơ cấu ngành
nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới (Quyết định số 1194/QĐ-UBND ngày
22/5/2017 về việc ban hành Kế hoạch); đồng thời, thành lập Ban chỉ đạo phong
trào tại Quyết định số 1971/QĐ-UBND ngày 28/7/2017 của UBND tỉnh. Theo đó,
phong trào thi đua được tổ chức từ năm 2017-2020, có tổ chức đánh giá thực hiện
hàng năm và giữa kỳ theo đúng quy định.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về kinh tế tập thể tiếp tục được tỉnh quan tâm triển khai thực hiện có hiệu
quả. Trong năm 2017, Liên minh HTX tỉnh đã phối hợp Đài PTTH tỉnh xây dựng các
chuyên mục, phóng sự về kinh tế tập thể; phối hợp với Hội nông dân, Hội Liên hiệp
phụ nữ tỉnh và Tỉnh đoàn tổ chức 03 lớp tập huấn về kinh tế tập thể cho các
đoàn viên và hội viên; phát hành 2 tập tin “Kinh tế Hợp tác xã - Doanh nghiệp vừa
và nhỏ” với số lượng trên 9000 bản để phục vụ cho công tác
tuyên truyền.
2. Công tác quản lý nhà nước về
kinh tế tập thể
Công tác quản lý nhà nước đối với
kinh tế tập thể ngày càng được quan tâm. UBND tỉnh đã kiện toàn Ban Chỉ đạo
Phát triển kinh tế Hợp tác xã của tỉnh do 01 đồng chí phó Chủ tịch UBND tỉnh
làm Trưởng ban và các đồng chí lãnh đạo các Sở, ngành có liên quan làm thành
viên để chỉ đạo việc đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả kinh tế tập thể; ban hành Quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo Phát triển kinh
tế HTX của tỉnh tại Quyết định số 1283/QĐ-UBND ngày 04/7/2013, đồng thời thành
lập Tổ chuyên viên giúp việc và ban hành Quy chế hoạt động để triển khai có hiệu
quả công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh.
Công tác kiện toàn bộ máy quản lý, bố
trí cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách thời gian qua đã được củng
cố, song so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế tập thể thì
bộ máy quản lý nhà nước còn nhiều bất cập trong triển khai và thực hiện nhiệm vụ.
Đến nay, toàn tỉnh mới có 03 Sở, ngành thành lập bộ phận
chuyên theo dõi về kinh tế tập thể, còn lại các huyện, thị xã, thành phố phần lớn là cán bộ kiêm nhiệm nên thời gian đầu tư cho lĩnh vực kinh tế tập
thể còn hạn chế. Việc bố trí những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa được quan tâm,
sự phân công nhiệm vụ chưa cụ thể.
UBND các huyện, thị xã, thành phố đã
phân công một đồng chí lãnh đạo UBND phụ trách chỉ đạo về kinh tế tập thể; giao
cho Phòng Tài chính - Kế hoạch tham mưu giúp UBND cấp huyện quản lý chung về kinh
tế tập thể; các phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kinh tế và Hạ tầng
theo dõi kinh tế tập thể theo chuyên
ngành. Tình trạng chung ở các huyện là sự phân công theo dõi về kinh tế tập thể
còn phân tán, thiếu sự phối hợp chặt chẽ trong điều hành thực hiện; nhiều địa
phương để cho kinh tế tập thể phát triển tự phát, thiếu định hướng, vẫn còn tình trạng vừa buông lỏng, vừa can thiệp sâu của chính quyền vào
hoạt động của HTX. Một số ít chính quyền cấp xã còn chỉ đạo các hoạt động của
HTX, nhất là hoạt động về tài chính, nhân sự.
Công tác thành lập, kiện toàn bộ máy
và bố trí cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể ở các
cấp tuy đã được quan tâm, nhưng chưa đạt được yêu cầu nhiệm vụ. Ở cấp tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thành lập cơ quan
chuyên trách (Chi cục Phát triển nông thôn) và một số Sở, ngành phân công cán bộ
kiêm nhiệm theo dõi về HTX hoạt động trong ngành, lĩnh vực của mình (Sở Công
Thương, Sở Giao thông vận tải, Sở Xây dựng). Các huyện, thị xã, thành phố chưa
có cán bộ chuyên trách chỉ bố trí cán bộ
kiêm nhiệm theo dõi về kinh tế tập thể. Ở cấp xã chưa bố
trí cán bộ bán chuyên trách theo dõi kinh tế tập thể.
Công tác quản lý THT thực hiện chưa tốt,
rất ít THT đăng ký và chứng thực hợp đồng hợp tác tại UBND cấp xã, nên các cấp, các ngành trong tỉnh chưa kịp
thời nắm bắt số lượng THT biến động qua các năm. Việc thống kê, đánh giá số liệu
phục vụ công tác quản lý, hỗ trợ cho THT gặp rất nhiều khó khăn.
Để khắc phục tình trạng trên, UBND tỉnh
đã ban hành Quyết định số 05/2016/QĐ-UBND ngày 22/2/2016 về việc ban hành Quy
chế phối hợp quản lý HTX, THT trên địa bàn tỉnh, làm cơ sở để các cấp, các
ngành trong tỉnh triển khai thực hiện một cách đồng bộ, hiệu quả, theo quy định
của pháp luật. Qua thời gian triển khai thực hiện, đã từng bước khắc phục các bất
cập, khó khăn trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể trong thời
gian qua.
3. Kết quả triển khai chính sách hỗ
trợ, ưu đãi HTX
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh, thực hiện Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày
11/7/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển
HTX, Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015-2020, tỉnh đã triển khai nhiều
chính sách hỗ trợ dành cho các HTX. Theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày
16/8/2016 và Quyết định số 12/2017/QĐ-TTg ngày 22/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ
thì một phần nguồn vốn để thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển HTX theo
Quyết định số 2261/QĐ-TTg được lồng ghép trong Chương trình Mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới, nhằm thực hiện tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất trong
Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. Căn cứ tinh thần
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh tiếp tục triển khai các chính sách đã thực
hiện trước đây, đồng thời bổ sung, lồng ghép các nguồn hỗ trợ theo quy định, đảm
bảo các chính sách được áp dụng đồng bộ và mang lại hiệu quả cao nhất cho đối
tượng tiếp nhận. Kết quả triển khai một số chính sách cụ thể như sau:
a) Thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực
Trong 6 tháng đầu
năm 2017, tỉnh đã tổ chức 11 lớp tập huấn, 01 đoàn thực tế
sau lớp học cho cho trên 500 học viên là các cán bộ, thành viên HTX với tổng
kinh phí 560 triệu đồng (nguồn Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới là 350 triệu, còn lại 222 triệu từ nguồn Dự án VnSAT và nguồn ngân
sách tỉnh). Dự kiến 6 tháng cuối năm 2017, sẽ tiếp tục tổ chức thêm 03 lớp tập
huấn với tổng kinh phí 300 triệu đồng (nguồn vốn Trung
ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới).
Như vậy, ước đến cuối năm 2017, tỉnh
triển khai được 14 lớp tập huấn cho gần 700 lượt cán bộ HTX, tổng kinh phí thực
hiện hoạt động là 872 triệu đồng.
b) Thực hiện chính sách xúc tiến
thương mại, mở rộng thị trường
Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại
đối với HTX chưa nhiều, mức hỗ trợ còn thấp, chưa thực sự thu hút HTX tham gia.
Trong khi đó, hầu hết các HTX chưa quan tâm đúng mức đối với hoạt động xúc tiến
thương mại hoặc có quan tâm nhưng do hạn chế về tài chính nên chỉ trông chờ vào
sự hỗ trợ của Nhà nước. Do ngân sách địa phương còn khó
khăn nên việc thực hiện chính sách hỗ trợ hoạt động xúc tiến
thương mại cho các HTX, Liên hiệp HTX trong 6 tháng đầu năm 2017 không thực hiện
được.
c) Chính sách ứng dụng khoa học, kỹ thuật về công nghệ mới
Việc hỗ trợ đào tạo nâng cao tay nghề,
ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật là hết sức thiết thực đối với
các HTX, nhưng số lượng được hỗ trợ còn rất ít; việc phổ biến thông tin khoa học
công nghệ đến các HTX cũng còn nhiều hạn chế. Trong năm 2017, có 08 HTX được hỗ
trợ máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, đổi mới công nghệ với tổng kinh phí hỗ
trợ là 780 triệu đồng (150 triệu từ nguồn Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới, 630 triệu từ nguồn ngân sách tỉnh).
Bên cạnh đó, Liên minh HTX tỉnh tiếp
tục phối hợp cùng với các ban chuyên môn của Liên minh HTX Việt Nam xây dựng,
triển khai Đề án xây dựng mô hình HTX kiểu mới gắn với chuỗi giá trị cà phê bền vững tại HTX nông nghiệp dịch vụ công bằng
Ea Kiết huyện Cư M’gar và Đề án xây dựng xây dựng mô hình HTX kiểu mới gắn với
chuỗi giá trị ca cao bền vững tại HTX nông nghiệp sản xuất thu mua, chế biến và
tiêu thụ ca cao huyện Ea Kar để trình Liên minh HTX Việt Nam phê duyệt và hỗ trợ.
Phối hợp với Ban quan hệ quốc tế (Liên minh HTX Việt Nam) và tổ chức thương mại
công bằng Châu Á Thái Bình Dương (NAPP) triển khai dự án “hỗ trợ thành lập HTX
trồng và sản xuất ca cao tại tỉnh Đắk Lắk theo tiêu chuẩn Fairtrade”. Trong 6
tháng đầu năm 2017 đã tổ chức được 03 lớp tập huấn về nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm ca cao; nâng cao hiệu quả tiêu thụ và xúc tiến sản phẩm ca cao,
nâng cao hiệu quả quản lý tài chính HTX; tiếp tục triển khai Kế hoạch thực hiện
dự án “Cải thiện sinh kế cho người nghèo và người
dân tộc thiểu số thông qua sản xuất cà phê bền vững
và tiếp cận thị trường hướng tới người nghèo” trên địa
bàn tỉnh.
d) Chính sách tiếp cận vốn và
Quỹ hỗ trợ phát triển HTX
Năm 2017, ngân sách tỉnh cấp bổ sung
nguồn vốn cho Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX tỉnh 2 tỷ đồng. Đến nay, nguồn vốn của
Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX tỉnh là 11 tỷ đồng (tích lũy từ năm 2007 và từ lãi suất
vốn vay, đóng góp của đơn vị thành viên vay vốn). Quỹ đang giải ngân cho 26 HTX
vay; mức cho vay nhiều nhất 700 triệu đồng/dự án/HTX; thời hạn cho vay tối đa
là 03 năm. Riêng năm 2017, ước hoàn tất thủ tục cho 08 HTX vay vốn với tổng số
vốn vay là 02 tỷ đồng.
đ) Chính sách thành lập mới
HTX, Liên hiệp HTX:
Tính đến hết tháng 6/2017, tỉnh có 14
HTX thành lập mới, ước hết năm 2017 thành lập mới 40 HTX. Năm 2017, ngân sách tỉnh
bố trí 135 triệu đồng để hỗ trợ sáng lập viên HTX thành lập mới. Trong 6 tháng
đầu năm 2017, đã hỗ trợ cho 12 HTX thành lập mới, mỗi HTX được hỗ trợ tối đa 10
triệu đồng. Do nguồn vốn còn nhiều khó khăn, việc bố trí kinh phí để thực hiện
hỗ trợ còn chưa đáp ứng so với nhu cầu; ước đến cuối năm 2017, chỉ hỗ trợ được
15/40 HTX thành lập mới (đạt 37,5% so với nhu cầu).
e) Chính sách hỗ trợ đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng
Việc hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho
các HTX nông nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014. Tuy nhiên, đến ngày 10/6/2016, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn mới ban hành Thông tư số 15/2016/TT-BNNPTNT hướng dẫn điều
kiện và tiêu chí thụ hưởng hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đối với hợp
tác xã nông nghiệp và tiêu chí thụ hưởng hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đối với HTX nông nghiệp. Đồng thời, hiện nay, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư vẫn chưa ban hành Thông tư hướng dẫn quy trình, hồ sơ thủ tục đề
nghị hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đối với HTX nông nghiệp theo Quyết
định số 2261/QĐ-TTg. Do đó, việc triển khai chính sách còn chưa kịp thời. Ngoài
ra, căn cứ Đề án hỗ trợ phát triển HTX tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2016 - 2020 (Quyết
định số 3164/QĐ-UBND ngày 30/11/2015 của UBND tỉnh Đắk Lắk),
tỉnh có kiến nghị ngân sách Trung ương hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
giai đoạn 2016 - 2020 là 55.519 triệu đồng. Tuy nhiên, đến nay ngân sách Trung
ương vẫn chưa hỗ trợ cho các HTX. Một số rất ít HTX được hỗ trợ đầu tư kết cấu
hạ tầng từ một số dự án, chương trình hỗ trợ khác.
g) Chính sách giao đất, cho
thuê đất
UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tài nguyên và
Môi trường, UBND cấp huyện thực hiện nghiêm túc chính sách đất đai đối với HTX;
trong quy hoạch của địa phương phải chú ý đến quỹ đất để thực hiện chính sách đất
đai đối với HTX; tạo điều kiện thuận lợi để HTX được giao đất, cho thuê đất xây dựng trụ sở, xưởng
chế biến, nhà kho, sân phơi, đất sản xuất, đất trồng rừng.
Đến hết tháng 6/2017 toàn tỉnh đã thực hiện việc giao đất,
cho thuê đất cho 59 HTX, với tổng diện tích hơn 420 ha; trong đó, 30 HTX được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Việc giao đất, cho thuê đất, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã tạo điều kiện cho các HTX chủ động trong sử dụng
đất đai, đầu tư xây dựng tổ chức sản xuất kinh doanh ổn định.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều HTX đến nay chưa có đất để xây dựng
trụ sở làm việc; số HTX có đất để xây dựng nhà kho sân phơi, xưởng chế biến
nông sản chiếm tỷ lệ thấp.
h) Chính sách ưu đãi về tín dụng
Đối với các THT, HTX, Liên hiệp HTX
xã trên địa bàn nông thôn hoặc tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trong
lĩnh vực nông nghiệp, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ tín dụng để phục vụ hoạt
động sản xuất kinh doanh theo quy định tại Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày
09/6/2015 của Chính phủ: Mức cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản tối đa 1 tỷ đồng; lãi suất cho vay được ưu đãi theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Đến ngày 31/7/2017, dư nợ
cho vay kinh tế tập thể đạt 112,71 tỷ đồng, chiếm 1,53% tổng
dư nợ cho vay toàn địa bàn, tăng 5,54% so với cuối năm 2016. Trong đó, dư nợ
cho vay ngắn hạn đạt 80,02 tỷ đồng, chiếm 71,0% dư nợ cho
vay kinh tế tập thể, tăng 3,84% so với cuối năm 2016; dư nợ cho vay trung, dài
hạn đạt 32 69 tỷ đồng, chiếm 29,0% dư nợ cho vay kinh tế tập thể, tăng 9,93% so
với cuối năm 2016.
Mặc dù, các ngân hàng thương mại trên
địa bàn đã tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX vay vốn để sản
xuất kinh doanh nhưng kết quả cho vay chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu do các hợp tác xã trên địa bàn chưa đáp
ứng được các tiêu chí về tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh để được ưu
đãi lãi suất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Các HTX không có tài sản đảm
bảo (hoặc có nhưng không đầy đủ tính pháp lý) để thực hiện giao dịch bảo đảm;
quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh manh mún, phương án sản xuất kinh doanh
thiếu khả thi; cơ cấu tổ chức, hoạt động và cơ chế tài chính còn thiếu chặt chẽ,
năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế....
4. Kết quả đăng ký lại, chuyển
đổi Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã
Tổng số HTX thành lập trước ngày
01/7/2013 trên địa bàn tỉnh là 275 HTX (gồm 33 HTX đăng ký tại Phòng Đăng ký
kinh doanh/Sở Kế hoạch và Đầu tư và 242 HTX đăng ký tại
UBND các huyện, thị xã, thành phố). Trong đó, số HTX hoạt động chưa phù hợp với
quy định và cần phải đăng ký lại hoặc chuyển đổi sang loại hình tổ chức khác
theo quy định của Luật HTX năm 2012 là 175 HTX.
Tính đến thời điểm 01/7/2017, có 161
HTX đã đăng ký lại hoạt động theo Luật HTX năm 2012 (đạt 92 % số HTX phải đăng
ký lại hoặc chuyển đổi). Ước đến cuối năm 2017, tỉnh còn 14 HTX chưa thực hiện
việc đăng ký lại theo Luật HTX năm 2012; số HTX này đang được các địa phương tập
trung tư vấn giải quyết các vướng mắc để sớm củng cố lại tổ chức, đăng ký lại
hoạt động theo đúng quy định.
IV. NHỮNG THUẬN LỢI,
KHÓ KHĂN VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Thuận lợi
Trong thời gian qua, hoạt động sản xuất
kinh doanh của các HTX ngày càng đa dạng, một số HTX tiếp tục tăng vốn điều lệ và
mở rộng ngành nghề hướng đến dịch vụ phục vụ thành viên và cộng đồng như: Vệ
sinh môi trường, dịch vụ kinh doanh chợ, chế biến và tiêu thụ nông sản, cung cấp
cây con giống, từ đó giúp cho HTX kinh doanh hiệu quả hơn, tạo việc làm, tăng
thu nhập cho thành viên HTX. HTX thành lập mới đã chú trọng đến phương án sản
xuất kinh doanh và mục tiêu hoạt động; điều lệ HTX đã được xây dựng trên cơ sở
thảo luận dân chủ của các thành viên, đáp ứng các nguyên tắc của HTX theo quy định
của Luật HTX năm 2012; bộ máy quản lý HTX ngày càng được hoàn thiện, cán bộ
chuyên môn, nghiệp vụ của HTX đã được quan tâm đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn. Công tác phát triển kinh tế tập thể đã được các cấp ủy Đảng và
Chính quyền địa phương quan tâm. Hiện nay, các đơn vị, địa phương đang thực hiện
đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, chương trình
xây dựng nông thôn mới. Chất lượng hoạt động của các HTX đã được cải thiện đáng
kể, vai trò của các HTX ngày càng được đổi mới, nâng cao, giải quyết được công
ăn việc làm, góp phần nâng cao thu nhập cho các thành viên, hỗ trợ kinh tế hộ
phát triển góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xóa đói
giảm nghèo trên địa bàn.
Các HTX đã thực hiện một số dịch vụ
nhằm hỗ trợ sản xuất cho các hộ thành viên như: Cung ứng vật tư nông nghiệp,
chuyển giao khoa học công nghệ, thực hiện bao tiêu sản phẩm cho thành viên và
người lao động. Bên cạnh việc phục vụ nhân dân trên địa
bàn về các dịch vụ nông - lâm nghiệp, một số HTX đã chủ động liên kết với các
doanh nghiệp để tổ chức tiêu thụ sản phẩm cho hộ thành viên, phát triển ngành
nghề nông thôn.
Các HTX đã từng bước củng cố, tổ chức
hoạt động theo Luật HTX năm 2012, thu hút ngày càng nhiều
thành viên tham gia, quy mô HTX từng bước được mở rộng, có sở vật chất được đầu
tư; nhiều HTX đã đầu tư đổi mới trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật; chất
lượng sản phẩm và dịch vụ của HTX ngày càng được nâng cao.
2. Khó khăn
a) Về mặt nội tại
Vẫn còn nhiều HTX chưa thực hiện đầy đủ
quy định của Luật HTX và hoạt động theo đúng bản chất HTX; đa số HTX không tổ
chức đại hội thành viên thường niên, đại hội nhiệm kỳ theo đúng quy định; còn
có một số HTX, nhất là trong lĩnh vực xây dựng, thương mại, dịch vụ, thực chất
hoạt động theo tính chất doanh nghiệp, số lượng thành viên trong HTX chỉ là
hình thức.
Hiệu quả hoạt động kinh tế của các
HTX chưa cao, số HTX kinh doanh có lãi tăng nhưng còn ở mức thấp và không ổn định.
Thu nhập của thành viên và người lao động tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn ở mức
thấp nên không thu hút được lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao vào
làm việc tại HTX.
Phần lớn các HTX thiếu cán bộ có năng
lực quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh. Cán bộ HTX có trình độ cao đẳng,
đại học chỉ chiếm 20,63%, sơ cấp và trung cấp chiếm 56%, số còn lại chưa qua
đào tạo. Do đó, hoạt động của không ít HTX hết sức lúng
túng, kế hoạch sản xuất kinh doanh không phù hợp, không xây dựng được chiến lược
kinh doanh trung và dài hạn.
Đa số các HTX có quy mô nhỏ, cơ sở vật
chất và trình độ kỹ thuật lạc hậu, vốn góp của xã viên vào HTX ở mức thấp, nhất
là các HTX nông nghiệp; thiếu tài sản thế chấp và uy tín trong quan hệ, nên rất
khó vay vốn ở các ngân hàng thương mại. Bản thân HTX cũng
không huy động được vốn của xã viên, làm cho đa số HTX luôn trong tình trạng thiếu vốn, thậm chí có những HTX phải ngừng hoạt động hoặc giải thể.
Nội dung hoạt động của các HTX và THT
chưa đa dạng, mới chỉ dừng lại ở một số hoạt động dịch vụ cung ứng đầu vào và đầu
ra cho quá trình sản xuất của hộ xã viên, chưa mở rộng đến đối tượng là các hộ
nông dân trên địa bàn; hoạt động sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa cạnh tranh được với
các thành phần kinh tế khác. Ngành nghề sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế
tập thể còn bị bó hẹp, chưa khơi dậy được khả năng đầu tư của toàn xã hội, chưa
có định hướng cho kinh tế tập thể phát triển ở những vùng
sâu, vùng xa và vùng khó khăn, số HTX tồn tại hình thức, tồn tại trên danh
nghĩa chưa được giải quyết dứt điểm còn nhiều.
Nhìn chung, HTX chưa thể hiện rõ nét
vai trò và vị trí trong nền kinh tế, hiệu quả kinh doanh còn thấp, chưa chứng
minh tính ưu việt so với các loại hình doanh nghiệp khác; còn nhiều khó khăn, hạn
chế trong hoạt động như: Quy mô HTX nhỏ, năng lực tài chính yếu, khả năng cạnh
tranh thấp do vốn tự có ít nguồn nhân lực hạn chế, khả năng bổ sung vốn thấp, hạn
chế về nghiệp vụ; nhiều HTX hoạt động hình thức, mang tính
gia đình; sự liên kết trong sản xuất kinh doanh giữa thành viên với HTX và giữa
thành viên với nhau chưa chặt chẽ.
b) Về luật pháp, cơ chế, chính sách đối với khu vực kinh tế tập thể
Một số chính sách hỗ trợ được ban
hành chậm, chưa kịp thời, chưa đồng bộ và còn chồng chéo,
chưa nhất quán; một số chính sách chưa khả thi; tác động chưa đạt hiệu quả cao;
được quy định tại nhiều văn bản do nhiều cơ quan ban hành tại nhiều thời điểm
khác nhau; thực hiện thiếu kiên quyết, chưa nghiêm; thiếu
kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thi hành Luật HTX và các chính sách hỗ trợ
phát triển hợp tác xã; năng lực của nhiều HTX còn yếu trong tiếp cận và thực hiện
chính sách hỗ trợ. Một số chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với HTX, THT như đất
đai, tín dụng..., chưa mang lại hiệu quả cao hoặc hiệu quả chưa cao.
Một số chính sách chưa sát với nhu cầu
và tình hình thực tế như: Chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX, THT
thì mức kinh phí hỗ trợ cho học viên tham gia học tập là quá thấp và còn chưa
công bằng; chính sách hỗ trợ thành lập mới HTX, THT chưa kịp thời.
c) Về công tác quản lý nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, các tổ
chức cơ sở đảng đối với khu vực kinh tế tập thể
Tình trạng chung ở các huyện là sự
phân công theo dõi về kinh tế tập thể còn phân tán, thiếu sự phối hợp chặt chẽ
trong điều hành thực hiện; nhiều địa phương để cho kinh tế tập thể phát triển tự
phát, thiếu định hướng, vẫn còn tình trạng vừa buông lỏng, vừa can thiệp sâu của
chính quyền vào hoạt động của HTX. Một số ít cấp ủy, chính quyền cấp xã còn chỉ
đạo các hoạt động của HTX, nhất là hoạt động về tài chính, nhân sự.
Một số chính quyền cấp cơ sở do thiếu
cập nhật kiến thức, pháp luật HTX nên đã gây nhiều trở ngại cho các sáng lập
viên, cán bộ HTX khi giao dịch, đăng ký thành lập hoặc thay đổi nội dung đăng
ký kinh doanh cho HTX.
Một số Sở, ngành, UBND cấp huyện chưa
quan tâm đúng mức đối với việc triển khai chương trình của Tỉnh ủy, nghị quyết
của HĐND tỉnh và sự lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện của UBND tỉnh đối với
công tác phát triển kinh tế tập thể.
Những cơ chế, chính sách chưa phù hợp,
hoặc chưa được triển khai để thực hiện đồng bộ, hoặc những
khó khăn do cơ quan có thẩm quyền gây nên đã tạo tâm lý không tốt đối với khu vực
kinh tế tập thể, làm cho một số HTX phải chuyển mô hình hoạt động sang hình thức
kinh tế khác như doanh nghiệp, hộ kinh doanh. Việc khắc phục những yếu kém của khu vực kinh tế tập thể, cũng như trong chỉ đạo điều hành của
cấp ủy, chính quyền địa phương và các Sở, ngành còn chưa thể hiện được tính
tích cực, chưa đủ làm chuyển biến căn bản về nhận thức, chưa tạo ra sự thống nhất
giữa nhận thức và hành động theo yêu cầu đề ra.
Công tác thành lập, kiện toàn bộ máy
và bố trí cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể ở các cấp tuy đã được quan
tâm, nhưng chưa đạt được yêu cầu nhiệm vụ.
Công tác quản lý THT thực hiện chưa tốt,
rất ít THT đăng ký và chứng thực hợp đồng hợp tác tại UBND cấp xã, nên các cấp,
các ngành trong tỉnh chưa kịp thời nắm bắt số lượng THT biến
động qua các năm. Việc thống kê, đánh giá số liệu phục vụ công tác quản lý, hỗ
trợ cho THT gặp rất nhiều khó khăn.
3. Nguyên nhân của hạn chế
a) Về chủ quan
Kinh phí thực hiện các chính sách hỗ
trợ phát triển HTX còn rất hạn chế, chủ yếu dựa vào hỗ trợ từ ngân sách Trung
ương, tỉnh; các huyện, thị xã, thành phố chưa quan tâm bố trí kinh phí để thực
hiện các chính sách hỗ trợ phát triển HTX theo quy định.
Nhiều HTX chưa chủ động xác định được
phương hướng sản xuất, kinh doanh phù hợp khả năng, điều kiện thực tế của mình;
sản phẩm của HTX còn đơn điệu, sức cạnh tranh trên thị trường còn yếu.
Đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật còn
bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ, thiếu kiến thức về chuyên môn, chưa chủ động học
tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ; cán bộ quản lý và xã viên chưa thật sự toàn
tâm, toàn ý xây dựng HTX. Các HTX chưa có kế hoạch thu hút được nguồn nhân lực
trẻ, được đào tạo chính quy nên việc quản lý hoạt động trong HTX chưa được đổi
mới. Tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước vẫn còn tồn tại
trong tư duy, suy nghĩ của không ít cán bộ HTX, xã viên và nhân dân.
Thành viên HTX đa phần là nông dân, đời
sống còn gặp rất nhiều khó khăn nên việc huy động sự đóng góp vật chất, trí tuệ
để xây dựng, phát triển HTX còn hạn chế, chuyển đổi công
nghệ và ngành nghề phù hợp với sự phát triển của thị trường chậm. Quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh của HTX trên địa bàn tỉnh còn ở mức
nhỏ, hàng hóa dịch vụ thiếu tính cạnh tranh, sản xuất kinh doanh của đa phần
các HTX còn yếu kém, năng lực tài chính còn hạn chế.
Việc triển khai quán triệt các chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế tập thể chưa được
quan tâm một cách toàn diện và đồng bộ. Công tác quản lý nhà nước đối với kinh
tế tập thể ở nhiều ngành, nhiều địa phương còn chưa được coi trọng hoặc buông lỏng;
Nhiều địa phương hàng năm không tổng kết đánh giá và xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể.
Một số địa phương chưa thực sự quan
tâm đến việc hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, như việc: Vẫn còn tình trạng cán bộ, chính quyền địa phương can thiệp vào việc điều
hành sản xuất kinh doanh của HTX. Một số chính quyền cấp cơ sở do không am hiểu pháp luật HTX nên đã gây nhiều trở ngại cho các sáng lập viên, cán bộ
HTX khi giao dịch, cũng như khi đăng ký thành lập, đăng ký thay đổi nội dung
đăng ký kinh doanh cho HTX.
b) Về khách quan
Một số cơ chế chính sách của Trung ương
ban hành chậm được cụ thể hóa hoặc chưa sát với yêu cầu của thực tiễn nên chưa
khuyến khích được các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tham gia vào thành lập hoặc
đầu tư liên doanh, liên kết với HTX.
Mặt bằng kinh tế chung, kinh tế hộ và
trình độ dân trí của tỉnh còn thấp làm cho khả năng hợp tác, quy mô góp vốn ban
đầu khi hình thành và quá trình quản lý, điều hành hoạt động của HTX bị hạn chế.
Đa số các HTX thiếu vốn sản xuất,
kinh doanh nhưng việc vay vốn đòi hỏi phải có tài sản thế chấp,
trong khi đó hầu hết các HTX không có tài sản có giá trị để thế chấp.
Tình hình suy thoái kinh tế, lạm phát tăng nhanh, giá cả nguyên nhiên vật liệu
đầu vào cho sản xuất kinh doanh tăng cao, tác động trực tiếp
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của kinh tế tập thể, nhất là các lĩnh vực xây
dựng, vận tải.
PHẦN THỨ HAI
KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2018
I. NỘI DUNG KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2018
1. Dự báo những thuận lợi và khó
khăn
a) Thuận lợi
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương
5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể,
khu vực kinh tế tập thể tiếp tục có những chuyển biến tích
cực. Nhiều HTX mới được thành lập, hoạt động đa dạng về ngành nghề, lĩnh
vực; số THT tiếp tục tăng. Nhiều HTX được củng cố, đổi mới về tổ chức và hoạt động, trong đó xuất hiện một số điển hình tiên
tiến, hỗ trợ tốt hơn kinh tế hộ thành viên, tạo việc làm
và thu nhập thường xuyên cho người lao động. Liên kết giữa các HTX với nhau và
với các tổ chức kinh tế khác bước đầu có sự phát triển. Các tổ chức kinh tế tập
thể đã từng bước khẳng định là nhân tố quan trọng góp phần
bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở và sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Các Sở, ngành, địa phương đã bám sát
nhiệm vụ của Tỉnh ủy, HĐND UBND tỉnh
giao để xây dựng chương trình hành động,
kế hoạch thực hiện. Nhận thức của đa số cấp ủy đảng và cán bộ, đảng viên và
nhân dân về vị trí, vai trò của kinh tế tập thể từng bước được nâng lên. Mặt trận,
các tổ chức đoàn thể và Liên minh HTX tỉnh đã có sự phối hợp triển khai tuyên
truyền, vận động phát triển tổ hợp tác, HTX. Công tác lãnh
đạo của cấp ủy đảng, sự chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền đối với kinh
tế tập thể có sự chuyển biến tích cực hơn.
Cùng với các thành phần kinh tế khác,
mô hình HTX kiểu mới đang từng bước thể hiện vị trí, vai trò trong phát triển
kinh tế xã hội. Hoạt động của HTX và các THT đã có những đóng góp quan trọng
vào phát triển kinh tế nông thôn thu nhập của thành viên và người lao động ổn định,
góp phần thực hiện hiệu quả tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất trong xây dựng
nông thôn mới.
b) Khó khăn
Kinh tế tập thể của tỉnh vẫn còn nhiều
yếu kém, chậm được khắc phục như: Quy mô nhỏ, cơ sở vật chất và trình độ kỹ thuật lạc hậu; chưa đẩy mạnh các
hình thức liên kết nên tính cạnh tranh chưa cao; phần lớn các HTX thiếu cán bộ
có năng lực.
Việc triển khai các chính sách đối với
HTX, THT còn nhiều bất cập. Công tác tuyên truyền, vận động phát triển kinh tế
tập thể chưa được các ngành, địa phương quan tâm đúng mức. Hình ảnh của HTX kiểu
cũ vẫn còn tác động đến tâm lý xã hội nên chưa động viên, thu hút được nhiều
thành phần, nhiều đối tượng tham gia HTX.
Các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp
luôn gặp nhiều khó khăn do bị tác động của yếu tố thời tiết, nguy cơ dịch bệnh
đối với cây trồng, vật nuôi; thị trường đầu ra không ổn định, thiếu định hướng,
hỗ trợ.
Việc triển khai các chính sách hỗ trợ
kinh tế tập thể còn nhiều bất cập do ngân sách thực hiện hạn hẹp, phụ thuộc vào
nguồn hỗ trợ của Trung ương, ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ
phát triển kinh tế tập thể.
2. Định hướng chung về phát triển
kinh tế tập thể
a) Lĩnh vực nông nghiệp
Tập trung củng cố các HTX yếu kém, những
HTX ngừng hoạt động trong thời gian dài không còn khả năng củng cố thì xử lý giải
thể (hoặc phá sản) theo quy định của pháp luật. Củng cố, phát triển HTX, THT để
hoàn thành tiêu chí về hình thức tổ chức sản xuất trong Chương trình xây dựng
nông thôn mới. Phát triển HTX theo hướng cung cấp tối đa các dịch vụ cho thành
viên, kết hợp sản xuất - dịch vụ - tín dụng nội bộ; liên kết với các doanh nghiệp
để tạo ra các vùng sản xuất có đầu ra ổn định, như HTX trồng cà phê, HTX trồng
ca cao...; HTX sản xuất gắn với chế biến và dịch vụ tiêu thụ sản phẩm cho hộ
thành viên. Các HTX từng bước hợp tác, liên kết hình thành Liên hiệp HTX để hỗ
trợ nhau về vốn, kỹ thuật và cung ứng vật tư, nguyên liệu cho sản xuất. Tạo điều
kiện hỗ trợ HTX liên kết, hình thành chuỗi giá trị các sản phẩm nông nghiệp như
cà phê ca cao…, để nâng cao chất lượng,
giá trị của sản phẩm, đáp ứng yêu cầu đề ra.
Phát triển HTX gắn với phát triển
kinh tế trang trại, phát triển làng nghề; hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ, kinh tế
trang trại phát triển; gắn với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn; phát triển HTX gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến
để phát triển theo chiều sâu, tạo ra các sản phẩm “sạch” cho xã hội, sản phẩm
có giá trị và đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu; sản xuất nông nghiệp đi đối với
phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm và nuôi trồng thủy sản, phát triển nông
lâm nghiệp kết hợp.
Chú trọng phát triển các HTX, THT
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phát triển HTX gắn với chuyển đổi cơ cấu
ngành nghề, cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa có giá trị
kinh tế cao.
b) Lĩnh vực công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp
Phát triển các HTX phù hợp với quy hoạch
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chung của tỉnh; củng cố các HTX hoạt
động sản xuất theo nghề truyền thống, gắn với xây dựng làng nghề, nhằm tạo nhiều
việc làm cho lao động tại chỗ; tạo cơ hội cho thanh niên nông thôn, nhất là con
em đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận
với khoa học kỹ thuật và làm quen với sản xuất hàng hóa sản xuất công nghiệp.
Xây dựng các HTX có quy mô phù hợp với
khả năng tài chính và trình độ quản lý, đồng thời chú trọng
công tác đầu tư mở rộng, đổi mới trang thiết bị, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ sản xuất tiên tiến để tạo ra các sản phẩm có chất lượng và tính
cạnh tranh cao.
c) Lĩnh vực giao thông vận tải
Củng cố các HTX
vận tải hiện có, đáp ứng đủ điều kiện để được cấp giấy phép kinh doanh vận tải.
Không ngừng đổi mới phương tiện để nâng cao chất lượng các dịch vụ, đáp ứng nhu
cầu đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng. Tăng cường công tác quản lý, điều
hành để hoạt động theo đúng quy định của pháp luật, hạn chế tối đa rủi ro, tai
nạn; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong điều hành, giám sát; đầu tư xây dựng
bến bãi đáp ứng các quy định của ngành; mở rộng dịch vụ hỗ trợ, đáp ứng nhu cầu
của thành viên để thu hút ngày càng nhiều các chủ phương tiện vận tải tham gia
vào HTX.
d) Lĩnh vực xây dựng
Phát triển HTX xây dựng theo hướng vừa kinh doanh xây lắp vừa tạo việc làm,
trong đó chú trọng phát triển nguồn lực của HTX để nâng cao năng lực thi công,
đủ khả năng đảm nhận các công trình xây dựng có quy mô ngày càng lớn hơn.
Đẩy mạnh liên kết giữa các HTX để hỗ trợ
nhau về lao động, kỹ thuật, nguồn vốn, máy móc thiết bị.
đ) Lĩnh vực thương mại - dịch vụ
Củng cố các HTX hiện có. Tổ chức các
HTX thương mại vùng nông thôn vùng kinh tế khó khăn của tỉnh với quy mô nhỏ và
vừa, hoạt động chủ yếu là cung cấp dịch vụ sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm của thành viên, kinh tế hộ. Tổ chức và phát triển các loại
hình HTX quản lý kinh doanh chợ, HTX dịch vụ du lịch, HTX dịch vụ vệ sinh môi
trường.
e) Lĩnh vực Quỹ tín dụng nhân
dân
Các Quỹ tín dụng nhân dân trên địa
bàn tỉnh tiếp tục tái cơ cấu hoạt động theo phương án cơ cấu lại Quỹ tín dụng
nhân dân đã được Giám đốc Ngân hàng Nhà nước tỉnh phê duyệt. Trong đó tập trung
thực hiện các giải pháp tăng vốn điều lệ, tăng nguồn vốn huy động để đáp ứng cơ
bản nhu cầu vốn đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành viên; xây dựng
giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, kiểm soát, kiềm chế nợ xấu
gia tăng; kiện toàn bộ máy quản trị, điều hành. Đồng thời, tiếp tục thực hiện
phương án xử lý đảm bảo đáp ứng về địa bàn hoạt động, thành viên, tỷ lệ tổng mức
nhận tiền gửi của thành viên và tổng mức cho vay vốn đối với thành viên theo quy
định hiện hành.
Thành lập mới Quỹ tín dụng nhân dân ở
những nơi có nhu cầu và hội đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật; chú
trọng thành lập ở địa bàn nông nghiệp, nông thôn nơi chưa có Quỹ tín dụng nhân
dân.
3. Mục tiêu tổng quát
- Đẩy mạnh việc củng cố và phát triển
các loại hình kinh tế hợp tác trong các ngành, lĩnh vực
kinh tế trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc, giá trị HTX và các quy định của pháp luật. Khuyến khích thành lập HTX liên kết giữa các trang trại có
cùng ngành nghề và địa bàn; xây dựng mối liên kết giữa các THT, HTX với doanh
nghiệp, nhằm hỗ trợ nhau trong sản xuất, mở rộng quy mô, hạn chế rủi ro và nâng
cao hiệu quả kinh doanh. Tạo sự chuyển biến tích cực trong kinh tế tập thể, góp
phần xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần của xã viên và cộng đồng dân cư.
- Phát triển mạnh THT trong mọi lĩnh
vực, ngành nghề phù hợp năng lực quản lý của các thành viên; chú ý phát triển
THT ở vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
để THT phát triển thành HTX, liên kết với HTX, tham gia các dự án của HTX và
các tổ chức kinh tế khác.
- Tập trung củng cố và nâng cao năng
lực, hiệu quả hoạt động của các HTX hiện có, bảo đảm các nguyên tắc, giá trị
HTX và các quy định của pháp luật. Tuyên truyền và phát triển các loại hình HTX
trên các địa bàn, trong đó chú trọng và phát triển mô hình HTX kiểu mới, HTX
trong nông nghiệp, HTX vùng đồng bào dân tộc thiểu số gắn
với duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống.
- Phát triển kinh tế tập thể rộng khắp
trên các địa bàn, trên các lĩnh vực khác nhau, với quy mô phù hợp với năng lực
quản lý điều hành và nguồn vốn của các đối tượng tham gia HTX, THT, gắn việc
phát triển HTX, THT với xây dựng nông thôn mới.
4. Một số mục tiêu cụ thể
- Hoàn tất việc chuyển đổi, đăng ký lại
các HTX trên địa bàn tỉnh theo Luật HTX 2012;
- Thành lập mới 40 HTX, 01 Liên hiệp
HTX trở lên. Đến hết năm 2018 toàn tỉnh có trên 360 HTX,
04 liên hiệp HTX;
- Kinh tế tập thể (HTX, THT) thu hút khoảng
100.000 thành viên tham gia; trực tiếp và gián tiếp tạo việc
làm cho khoảng 80.000 lao động;
- 90% số hộ nông dân trên địa bàn
nông thôn có tham gia kinh tế tập thể hoặc có sử dụng các dịch vụ của THT, HTX;
- Doanh thu bình quân: 1.200 triệu đồng
đối với HTX; 120 triệu đồng đối với THT;
- Thu nhập bình quân của thành viên
HTX: 29 triệu đồng/người/năm; thành viên THT: 22 triệu đồng/người/năm;
- Tỷ lệ cán bộ HTX đạt trình độ sơ, trung cấp 70%; đạt trình độ cao đẳng, đại học: 30%;
- Nâng tỷ lệ HTX hoạt động khá giỏi
lên trên 60%, giảm số HTX yếu kém xuống dưới 10%, số HTX làm ăn ổn định và có
lãi từ 85 - 90%; thu nhập của xã viên tăng 15%/năm;
- Phấn đấu đóng góp của kinh tế tập
thể năm 2018 vào GDP của tỉnh bình quân từ 13% trở lên (kể cả đóng góp của kinh
tế hộ thành viên);
- Xây dựng ít nhất 06 mô hình HTX điển
hình tiên tiến và cá nhân điển hình trong phạm vi huyện, thị xã, thành phố và
ngành;
- 80% trở lên cán bộ quản lý của HTX
được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức quản lý điều hành HTX;
- Ổn định và tổ chức hoạt động hiệu
quả hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về kinh tế tập thể từ tỉnh đến cơ sở.
5. Các giải pháp phát triển kinh tế
tập thể năm 2018
a) Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về kinh tế tập thể
- Liên minh HTX tỉnh phối hợp với các
Sở, ngành, UBND các cấp tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tạo nhận thức
đầy đủ sâu rộng hơn về phát triển Hợp tác xã kiểu mới. Đặc
biệt sẽ chú trọng hỗ trợ thành lập và nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình
HTX kiểu mới tại các xã điểm sắp về đích trong lộ trình xây dựng nông thôn mới
của tỉnh.
- Các cơ quan báo chí, Đài Phát thanh
và Truyền hình tỉnh, Liên minh HTX tỉnh; các Sở, ngành, UBND các cấp; các tổ chức
đoàn thể tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch
tuyên truyền phát triển kinh tế tập thể; trong đó tập trung tuyên truyền
làm rõ vai trò, vị thế, hình ảnh và những đóng góp của thành phần kinh tế tập
thể trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; làm cho mọi người
thấy được bản chất, giá trị của thành phần kinh tế tập thể trong cộng đồng, xã
hội; giúp cho cán bộ, thành viên, người lao động trong HTX nắm bắt được chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với thành phần kinh tế tập
thể; tiếp tục tuyên truyền, phổ biến Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/02/2013 của Bộ
Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TW5 (khóa IX) về kinh tế tập
thể, Luật HTX năm 2012 và Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật HTX.
b) Tổ chức triển khai thực hiện chính sách
hỗ trợ, ưu đãi phát triển HTX theo Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn
2015 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
- Xây dựng và triển khai thực hiện có
hiệu quả các chính sách hỗ trợ đối với HTX,THT, bao gồm: Tuyên truyền
phát triển kinh tế tập thể; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; xúc tiến thương
mại, mở rộng thị trường; ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ
mới; tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; tạo điều kiện tham gia
các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội; thành lập mới HTX, đăng ký lại HTX; xây dựng mô hình HTX điển
hình tiên tiến.
- Thực hiện chính sách ưu đãi đối với
HTX: Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật về thuế;
ưu đãi về lệ phí đăng ký HTX theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.
- Đối với HTX hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, ngoài việc được hưởng chính sách hỗ trợ,
ưu đãi nêu trên cần có hỗ trợ, ưu đãi sau: Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng;
giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động theo quy định của pháp luật về đất
đai; ưu đãi về tín dụng, vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh;
đăng ký xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa tập thể cho một số sản phẩm của
HTX; hỗ trợ ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý điều hành HTX (trong công tác kế toán của HTX, thiết lập trang
thông tin điện tử cho HTX...)
- Căn cứ tổng kinh phí dự kiến nêu tại
Quyết định số 3521/QĐ-UBND ngày 24/11/2016 của UBND tỉnh về
ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số
02/2016/NQ-HĐND ngày 30/8/2016 của HĐND tỉnh về phát triển kinh tế tập thể tỉnh
Đắk Lắk giai đoạn 2016-2020 và tình hình thực tế tại địa phương; dự kiến ngân
sách để thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể năm 2018 của
tỉnh như sau:
Đơn vị
tính: Triệu đồng
STT
|
Nội
dung hỗ trợ
|
Tổng
NS
|
NS
tỉnh
|
NSTW
|
Cơ
quan chủ trì thực hiện
|
1
|
Thành lập mới THT, HTX
|
200
|
200
|
|
Liên minh HTX tỉnh
|
2
|
Bồi dưỡng, tập huấn cán bộ HTX
|
840
|
|
840
|
Liên minh HTX tỉnh,
Sở NN và PTNT
|
3
|
Triển khai Kế hoạch thí điểm mô
hình đưa cán bộ trẻ về làm việc ở HTX nông nghiệp
|
350
|
|
350
|
Liên minh HTX tỉnh,
Sở NN và PTNT
|
4
|
Đào tạo đại học, cao đẳng
|
300
|
|
300
|
Liên minh HTX tỉnh
|
5
|
Hỗ trợ công tác tuyên truyền
|
350
|
350
|
|
Liên minh HTX tỉnh
|
6
|
Hỗ trợ Quỹ hỗ trợ phát triển HTX
|
2.000
|
2.000
|
|
Liên minh HTX tỉnh
|
7
|
Xây dựng, nhân rộng mô hình HTX điển
hình
|
1.000
|
500
|
500
|
Liên minh HTX tỉnh,
Sở NN và PTNT
|
8
|
Hỗ trợ xúc tiến thương mại
|
200
|
200
|
|
Sở Công Thương,
LM HTX tỉnh.
|
9
|
Hỗ trợ ứng dụng đổi mới công nghệ,
khuyến nông, khuyến công
|
800
|
|
800
|
Sở KH và CN,
Sở Công Thương,
Liên minh HTX tỉnh
|
10
|
Hỗ trợ HTX đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng
|
2.000
|
|
2.000
|
Liên minh HTX tỉnh,
Sở NN và PTNT
|
11
|
Hỗ trợ HTX NN vùng đồng bào dân tộc
thiểu số
|
200
|
200
|
|
Liên minh HTX tỉnh,
Sở NN và PTNT
|
12
|
Hỗ trợ đăng ký
xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa tập thể cho một số sản phẩm của HTX
|
200
|
200
|
|
Liên minh HTX tỉnh
|
13
|
Xử lý các HTX yếu kém, tồn tại hình
thức (giải thể bắt buộc)
|
500
|
500
|
|
UBND các huyện, thị xã, thành phố
|
|
Tổng
cộng
|
8.940
|
4.150
|
4.790
|
|
c) Nâng cao hiệu quả hoạt động
của khu vực kinh tế tập thể
- Sở Nội vụ tiếp tục tham mưu, đôn đốc
các cấp, ngành thực hiện việc củng cố tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động
của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể theo tinh
thần Chỉ thị số 22/2003/CT-TTg, ngày 03/10/2003 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp
tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX về kinh tế tập thể và Quyết định số 272/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ.
- Sở Nông nghiệp và PTNT chủ trì, phối
hợp với các Sở, ban, ngành liên quan và UBND các huyện, thị
xã, thành phố tham mưu triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số
2545/QĐ-UBND ngày 28/10/2014 của UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch đổi mới,
phát triển các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp tỉnh Đắk Lắk
giai đoạn 2015-2020.
- UBND cấp huyện và các Sở, ngành có
liên quan phải bố trí biên chế chuyên trách làm công tác theo dõi, hỗ trợ, tham
mưu cho cấp ủy, chính quyền thực hiện tốt việc quản lý nhà
nước đối với kinh tế tập thể; phân công một đồng chí lãnh đạo phụ trách công
tác này. Ở cấp xã phải bố trí cán bộ bán chuyên trách theo
dõi phát triển kinh tế tập thể và phân công một đồng chí Phó Chủ tịch UBND cấp
xã phụ trách công tác này.
- Các Sở, ngành có liên quan, UBND cấp
huyện, cấp xã thường xuyên quan tâm củng cố các HTX hiện
có, tổ chức giới thiệu gương HTX điển hình hoặc giới thiệu mô hình HTX làm ăn
có hiệu quả; giải thể dứt điểm các HTX tồn tại hình thức; coi trọng cán bộ và bộ
máy quản lý HTX.
- Cân đối, bố trí ngân sách đạt mức
Nghị quyết HĐND tỉnh đã ban hành để thể hiện các chính sách hỗ trợ đối với HTX,
THT, đặc biệt là các HTX nông nghiệp, HTX vùng sâu, vùng xa và vùng đồng bào
dân tộc thiểu số.
d) Tăng cường công tác quản lý
nhà nước về kinh tế tập thể
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp trong công tác phát triển kinh tế
tập thể; nâng cao trách nhiệm của các Sở, ngành trong triển khai thực hiện công
tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể.
- Kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu
quả hoạt động hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể từ tỉnh đến
huyện, thị xã, thành phố và cơ sở.
- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
trách nhiệm, quyền hạn và cơ chế phối hợp của các các sở,
ban, ngành, đoàn thể, UBND cấp huyện và cấp xã trong phát triển và quản lý kinh
tế tập thể.
- Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập
thể.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát, theo dõi, hỗ trợ, tư vấn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật
về kinh tế tập thể.
- Cân đối, bố trí ngân sách thỏa
đáng để thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với HTX, THT.
- Phát huy vai trò của các thành viên
Ban chỉ đạo Phát triển kinh tế Hợp tác xã và các ủy viên Ban chấp hành Liên
minh HTX tỉnh; chủ động và tích cực phối hợp giữa các
ngành, địa phương để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể.
đ) Huy động các lực lượng xã hội,
các tổ chức đoàn thể trong nước và quốc tế
tham gia thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể
- Liên minh HTX tỉnh thực hiện được
chức năng phối hợp với các Sở, ngành, địa phương tham mưu về phát triển kinh tế
tập thể; phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, các cấp, các ngành, các
tổ chức đoàn thể tuyên truyền các quan điểm, chủ trương, đường lối, định hướng
của Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể;
thực hiện các hoạt động tư vấn hỗ trợ, tổ chức đào tạo, tập huấn về kinh tế tập
thể cho cán bộ xã, phường, thị trấn, cán bộ thôn, buôn, cán bộ quản lý HTX,
THT; tham gia củng cố HTX yếu kém, xây dựng các mô hình HTX điển hình tiên tiến...
- Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh và các tổ
chức thành viên của Mặt trận triển khai Nghị quyết liên tịch về công tác tuyên
truyền, vận động phát triển HTX, THT nhằm thu hút nhiều hội viên đã tự nguyện
tham gia thành lập HTX, THT để tổ chức sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế
gia đình và tham gia các hoạt động xã hội. Thông qua các HTX, các hội viên đã vận
động nhân dân tham gia xây dựng các quỹ đến ơn đáp nghĩa, quỹ vì người nghèo, kết
nghĩa với buôn đồng bào dân tộc thiểu số...
- Tỉnh đoàn Đắk Lắk tiếp tục quan tâm
công tác đào tạo, tổ chức các khóa tập huấn về kinh tế tập thể để các cán bộ
đoàn tiếp cận triển khai cho đoàn viên thanh niên thực hiện; chỉ đạo thực hiện
việc xây dựng và nhân rộng mô hình tiên tiến của thanh niên làm kinh tế HTX,
THT, để các đoàn viên, thanh niên học tập triển khai kinh tế tập thể; triển
khai Chương trình phát triển kinh tế tập thể trong đoàn viên, thanh niên giai đoạn
2016 - 2020; tiếp tục triển khai các chương trình phối hợp về phát triển kinh tế
tập thể với các đơn vị đã ký kết.
- Liên minh HTX tỉnh, Sở Kế hoạch và
Đầu tư và các Sở, ban, ngành, đơn vị liên quan tiếp tục tăng cường hội nhập
kinh tế quốc tế, phát triển hợp tác quốc tế về kinh tế tập thể, chủ động tìm kiếm các đối tác, các tổ chức tài trợ nước ngoài để
hỗ trợ HTX trong
quá trình đổi mới, củng cố phát triển và nâng cao hiệu quả
hoạt động của HTX.
II. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
1. UBND các huyện, thị xã, thành phố
kịp thời xây dựng và ban hành Kế hoạch phát triển kinh tế
tập thể năm 2018 trong đó xác định rõ mục tiêu, giải pháp
phát triển HTX, THT, nâng cao chất lượng hoạt động của HTX, củng cố HTX và đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện kế
hoạch; khẩn trương xử lý các HTX tồn
tại hình thức, ngừng hoạt động không còn khả năng củng cố.
2. Các Sở: Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Tài chính, Giao thông vận tải, Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư, Nội
vụ; Liên minh HTX tỉnh và các đơn vị liên quan tiếp tục
nghiên cứu, đề xuất các giải pháp, cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy kinh tế tập thể trong thời gian tới, để UBND tỉnh xem xét, quyết định.
Đồng thời, nghiên cứu lồng ghép, triển
khai thực hiện các chính sách của Trung ương và địa phương đối với kinh tế tập
thể, để phát triển kinh tế tập thể một cách bền vững.
3. Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng
Liên minh Hợp tác xã tỉnh và các Sở, ngành liên quan thường xuyên theo dõi, đôn
đốc các huyện, thị xã, thành phố tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với
HTX; tiếp tục giúp Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, thị xã (cấp huyện) có
giải pháp củng cố HTX yếu kém, xử lý tồn tại hình thức, ngừng
hoạt động trong thời gian dài không còn khả năng củng cố.
4. Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với
Sở Kế hoạch và Đầu tư, Liên minh HTX tỉnh và các Sở, ngành có liên quan tham mưu
cân đối vốn hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể,
trong đó ưu tiên nguồn vốn để bố trí cho Quỹ Hỗ trợ hợp
tác xã tỉnh theo theo Kế hoạch đề ra.
5. Ban Chỉ đạo Phát triển kinh tế Hợp
tác xã tỉnh có trách nhiệm giúp UBND tỉnh
chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện các chương trình, kế hoạch của Tỉnh ủy,
nghị quyết của HĐND tỉnh, theo quy chế hoạt động ban hành kèm theo Quyết định số
1283/QĐ-UBND ngày 05/7/2013 của UBND tỉnh.
6. Liên minh Hợp tác xã tỉnh chủ trì,
phối hợp với các Sở, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện tổ chức tuyên truyền, phổ
biến chủ trương, chính sách, pháp luật có liên quan đến kinh tế tập thể; theo
dõi tình hình hoạt động của các tổ hợp tác, HTX; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập
huấn cán bộ HTX, tổ hợp tác; xây dựng mô hình HTX điển
hình tiên tiến, mô hình HTX gắn với chuỗi sản xuất các sản phẩm nông sản chủ lực
của tỉnh; hỗ trợ thành lập mới HTX; phối hợp hỗ trợ xúc tiến
thương mại, xây dựng nhãn hiệu, xây dựng cơ sở hạ tầng; tổ chức các hoạt động
tư vấn, hỗ trợ đối với THT, HTX. Tiếp tục duy trì và phát triển quy mô của Quỹ
Hỗ trợ phát triển HTX tỉnh; đảm bảo hiệu quả và bảo toàn nguồn vốn của Nhà nước
Trên cơ sở Kế hoạch của UBND tỉnh, Thủ
trưởng các Sở, ngành, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố triển khai xây
dựng kế hoạch, chương trình, chính sách và các giải pháp thúc đẩy phát triển
kinh tế tập thể của ngành và địa phương mình; định kỳ hàng quý gửi về Sở Kế hoạch
và Đầu tư, Liên minh Hợp tác xã tỉnh để tổng hợp báo cáo UBND tỉnh./.
Nơi nhận:
- Văn phòng
Chính phủ; (để báo cáo)
- Bộ KH&ĐT; (để báo cáo)
- Liên minh HTX Việt Nam; (để
báo cáo)
- TT Tỉnh ủy, TT HĐND tỉnh; (để báo cáo)
- Ủy ban MTTQVN tỉnh;
- CT, PCT UBND tỉnh;
- Ban KTNS-HĐND tỉnh;
- Văn phòng Tỉnh ủy;
- Thành viên BCĐ PTHT HTX tỉnh;
- Đảng ủy khối DN tỉnh;
- Tỉnh Đoàn Đắk Lắk;
- Các Sở: KH&ĐT, TC, NN&PTNT, CT, XD, Nội vụ, KH&CN, GTVT,
LĐ-TB&XH;
- Liên minh HTX tỉnh;
- Cục Thuế tỉnh;
- Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh;
- Đài PTTH tỉnh, Báo Đắk Lắk;
- UBND các huyện, thị xã, tp;
- Lãnh đạo VP UBND tỉnh;
- Các phòng: TH, NNMT, CN;
- Lưu VT, KT (Q.50b)
|
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Y Giang Gry Niê Knơng
|
PHỤ LỤC 1
BIỂU TỰ ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN 7
NGUYÊN TẮC CỦA HỢP TÁC XÃ
(Kèm theo Kế hoạch số 7920/KH-UBND
ngày 06/10/2017 của UBND tỉnh Đắk Lắk)
STT
|
Nội
dung nguyên tắc
|
Tự
đánh giá
|
1
|
Nguyên tắc tự nguyện
|
5
|
2
|
Nguyên tắc kết nạp rộng rãi thành
viên
|
5
|
3
|
Nguyên tắc quản lý dân chủ
|
4
|
4
|
Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách
nhiệm
|
5
|
5
|
Nguyên tắc gắn kết về kinh tế của
thành viên
|
4
|
6
|
Nguyên tắc giáo dục, đào tạo và
thông tin
|
4
|
7
|
Nguyên tắc phát triển cộng đồng
|
3
|
Đánh giá theo thang điểm tăng dần từ 1-5
điểm: thấp nhất là 1 điểm, cao nhất là 5 điểm