HIỆP ĐỊNH
GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ
CHÍNH PHỦ NƯỚC MÔNG CỔ VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU
THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ nước Mông Cổ,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc tránh đánh
thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu
nhập, đã thỏa thuận dưới đây:
ĐIỀU 1. PHẠM VI ÁP DỤNG
Hiệp định này được áp dụng cho các đối tượng là những
đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
ĐIỀU 2. CÁC LOẠI THUẾ BAO GỒM
TRONG HIỆP ĐỊNH
1. Hiệp định này áp dụng đối với các loại thuế do một
Nước ký kết hoặc các cơ quan chính quyền cơ sở, hay chính quyền địa phương của
Nước đó, đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp dụng của các loại thuế đó như
thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng thu nhập, hoặc
những phần của thu nhập, bao gồm các khoản thuế đối với lợi tức từ việc chuyển
nhượng động sản hoặc bất động sản, thuế đánh vào tổng số tiền lương hoặc tiền
công do các xí nghiệp trả cũng như các loại thuế đánh vào phần vốn tăng thêm đều
được coi là các loại thuế đánh vào thu nhập.
3. Những loại thuế hiện hành được áp dụng trong Hiệp
định này là:
a. tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân; (ii) thuế lợi tức; và
(iii) thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài;
(dưới đây được gọi là "thuế Việt Nam");
b. tại Mông Cổ:
(i) thuế thu nhập cá nhân, và (ii) thuế thu nhập
công ty;
(dưới đây được gọi là "thuế Mông Cổ")
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng cho các loại
thuế có tính chất tương tự hay về căn bản giống như các loại thuế được ban hành
sau ngày ký kết Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện
hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau
biết những thay đổi quan trọng trong các luật thuế của từng Nước.
ĐIỀU 3. CÁC ĐỊNH NGHĨA CHUNG
1. Theo Hiệp định này, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi
hỏi một sự giải thích khác:
a. từ "Việt Nam" có nghĩa là nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng theo nghĩa địa lý, từ đó bao gồm toàn bộ
lãnh thổ quốc gia Việt Nam, kể cả lãnh hải Việt Nam và mọi vùng ở ngoài và đi
liền với lãnh hải Việt Nam mà theo luật pháp Việt Nam và phù hợp với luật pháp
quốc tế, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò và khai thác tài
nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển và khối nước ở trên;
b. từ "Mông Cổ" khi dùng theo nghĩa địa
lý, có nghĩa là lãnh thổ Mông Cổ và bất kỳ vùng nào mà tại đó luật thuế Mông Cổ
có hiệu lực áp dụng, và trong phạm vi đó Mông Cổ thực hiện các quyền chủ quyền
khai thác tài nguyên thiên phù hợp với luật quốc tế;
c. thuật ngữ "Nước ký kết" và "Nước
ký kết kia" có nghĩa là Việt Nam hay Mông Cổ tùy theo ngữ cảnh đòi hỏi;
d. thuật ngữ "đối tượng" bao gồm cá nhân,
công ty và bất kỳ tổ chức nhiều đối tượng nào khác;
e. thuật ngữ "công ty" để chỉ các tổ chức
công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty dưới giác độ
thuế;
f. thuật ngữ "xí nghiệp của Nước ký kết"
và "xí nghiệp của Nước ký kết kia" có nghĩa là một xí nghiệp được điều
hành bởi đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một xí nghiệp được điều hành bởi
đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
g. thuật ngữ "các đối tượng mang quốc tịch của
một Nước" có nghĩa:
(i) tất cả các cá nhân mang quốc tịch của một Nước
ký kết; (ii) tất cả các pháp nhân, tổ chức hùn vốn và các hiệp hội có tư cách
được chấp nhận theo các luật có hiệu lực tại một Nước ký kết;
h. thuật ngữ "vận tải quốc tế" có nghĩa
là bất cứ sự vận chuyển nào bằng tàu thủy, máy bay hoặc phương tiện vận tải đường
sắt được thực hiện bởi một xí nghiệp của một Nước ký kết, trừ trường hợp khi
chiếc tàu thủy, máy bay hoặc phương tiện vận tải đường sắt đó chỉ hoạt động giữa
những địa điểm trong Nước ký kết kia;
i. thuật ngữ "nhà chức trách có thẩm quyền"
có nghĩa:
(i) trong trường hợp đối với Việt Nam, là Bộ trưởng
Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính; và
(ii) trong trường hợp đối với Mông Cổ, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại
diện được ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
2. Trong khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp định này,
bất kỳ thuật ngữ nào chưa được định nghĩa trong Hiệp định này sẽ có nghĩa theo
như định nghĩa trong luật của Nước đó đối với các loại thuế mà Hiệp định này áp
dụng, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
ĐIỀU 4. ĐỐI TƯỢNG CƯ TRÚ
1. Theo nghĩa trong Hiệp định này, thuật ngữ
"đối tượng cư trú của một Nước ký kết" có nghĩa là bất cứ đối tượng
nào, mà theo các luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà ở, nơi
cư trú, trụ sở điều hành, địa điểm thành lập hoặc bất cứ tiêu chuẩn nào khác có
tính chất tương tự. Tuy nhiên, từ này không bao gồm bất kỳ một đối tượng nào chịu
thuế tại Nước đó chỉ đối với thu nhập từ các nguồn tại Nước đó.
2. Trường hợp theo những quy định tại khoản 1 khi một
cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì thân phận cư trú của cá
nhân đó sẽ được xác định như sau:
a. cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của
Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú. Nếu cá nhân đó có nhà ở thường
trú ở cả hai Nước thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước mà cá
nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của các quyền
lợi chủ yếu);
b. nếu như không thể xác định được Nước mà ở đó cá
nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có nhà ở
thường trú ở cả hai Nước thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước
nơi cá nhân đó thường sống;
c. nếu cá nhân đó thường sống tại cả hai Nước hay
không thường sống tại Nước nào thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của
Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d. nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc tịch của cả
hai Nước hoặc không mang quốc tịch của Nước nào thì các nhà chức trách có thẩm
quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.
3. Trường hợp do những qui định tại khoản 1 khi một
đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết,
lúc đó, đối tượng trên sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước ký kết nơi có địa
điểm thành lập của đối tượng đó.
ĐIỀU 5. CƠ SỞ THƯỜNG TRÚ
1. Theo Hiệp định này, thuật ngữ "cơ sở thường
trú" có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố định mà qua đó xí nghiệp thực hiện
toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ "cơ sở thường trú" chủ yếu
bao gồm:
a. trụ sở điều hành;
b. chi nhánh;
c. văn phòng;
d. nhà máy;
e. xưởng;
f. mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ địa điểm
khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác;
g. nhà kho.
3. Thuật ngữ "cơ sở thường trú" cũng bao
gồm:
a. một địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, công
trình lắp ráp hoặc lắp đặt hay các hoạt động giám sát liên quan đến các địa điểm,
công trình trên nhưng chỉ trong trường hợp địa điểm, công trình hay các hoạt động
đó kéo dài với thời hạn hơn sáu tháng;
b. việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm cả các dịch vụ
tư vấn của một xí nghiệp thông qua những người làm công cho xí nghiệp hay đối
tượng khác được xí nghiệp ủy nhiệm thực hiện việc cung cấp các dịch vụ trên,
nhưng chỉ trong trường hợp những hoạt động mang tính chất nói trên kéo dài
(trong cùng một dự án hay một dự án có liên quan) tại một Nước trong một thời
gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại hơn sáu tháng trong bất kỳ khoảng thời
gian 12 tháng liên tục.
4. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, thuật
ngữ "cơ sở thường trú" sẽ được coi là không bao gồm:
a. việc sử dụng các phương tiện riêng cho mục đích
lưu kho hoặc trưng bày hàng hóa hay tài sản của xí nghiệp;
b. việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của xí
nghiệp chỉ với mục đích lưu kho hoặc trưng bày;
c. việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài sản của xí
nghiệp chỉ với mục đích để cho xí nghiệp khác gia công;
d. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm
mục đích mua hàng hóa hoặc tài sản để thu thập thông tin cho xí nghiệp đó;
e. việc duy trì một cơ sở kinh doanh cố định chỉ với
mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất phụ trợ hoặc chuẩn
bị cho xí nghiệp.
5. Mặc dù có những quy định tại khoản 1 và 2, trường
hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 7 -
hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một xí nghiệp của Nước ký kết kia,
thì xí nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết thứ nhất đối
với bất kỳ hoạt động nào mà đối tượng này thực hiện cho xí nghiệp, nếu đối tượng
đó:
a. có và thường xuyên thực hiện tại Nước đó thẩm
quyền ký kết các hợp đồng đứng tên xí nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối tượng
này chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà những hoạt động
đó nếu thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh cố định sẽ không làm cho cơ sở
kinh doanh cố định đó trở thành một cơ sở thường trú theo những quy định tại
khoản đó; hay
b. không có thẩm quyền trên, nhưng thường xuyên duy
trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa hay tài sản, từ đó đối tượng trên thường
xuyên thực hiện việc giao hàng hóa hay tài sản thay mặt cho xí nghiệp.
6. Mặc dù đã có những quy định trên của Điều này, một
tổ chức bảo hiểm của một Nước ký kết, trừ trường hợp tái bảo hiểm, sẽ được coi
là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu tổ chức bảo hiểm đó thu phí bảo
hiểm trên lãnh thổ của Nước kia hay thực hiện bảo hiểm các rủi ro nằm tại Nước
đó thông qua một đối tượng không phải là đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh
bởi khoản 7.
7. Một xí nghiệp sẽ không được coi là có cơ sở thường
trú ở một Nước ký kết nếu xí nghiệp đó chỉ thực hiện hoạt động kinh doanh tại
Nước đó thông qua một đại lý môi giới, một đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại
lý nào khác có tư cách độc lập, với điều kiện những đối tượng này hoạt động
trong khuôn khổ kinh doanh thông thường của họ. Tuy nhiên khi các hoạt động của
đại lý đó được giành toàn bộ hay hầu hết cho hoạt động đại diện cho xí nghiệp
đó thì đại lý đó sẽ không được coi là đại lý có tư cách độc lập theo nghĩa của
khoản này.
8. Việc một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia hoặc đang tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước kia (có thể
thông qua một cơ sở thường trú hay dưới hình thức khác) sẽ không làm cho bất kỳ
công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
ĐIỀU 6. THU NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp hoặc lâm nghiệp) nằm
tại Nước ký kết kia thì có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ "bất động sản" sẽ có nghĩa
theo như luật của Nước ký kết nơi có bất động sản. Trong mọi trường hợp, thuật
ngữ này sẽ bao gồm cả những phần tài sản phụ kèm theo bất động sản, đàn gia súc
và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền lợi được áp dụng
theo những quy định tại luật chung về điền sản, quyền sử dụng bất động sản và
các quyền được hưởng các khoản thanh toán cố định hay thay đổi dưới dạng tiền
công trả cho việc khai thác hay quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng sản và các
tài nguyên thiên nhiên khác; các tàu thủy, máy bay và phương tiện vận tải đường
sắt không được coi là bất động sản.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng đối với
thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hay sử dụng các loại bất
động sản dưới bất kỳ hình thức nào khác.
4. Những quy định tại khoản 1 và 3 cũng sẽ áp dụng
cho thu nhập từ bất động sản của một xí nghiệp và đối với thu nhập từ bất động
sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập.
ĐIỀU 7. LỢI TỨC DOANH NGHIỆP
1. Các khoản lợi tức của một xí nghiệp của một Nước
ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp xí nghiệp có tiến hành
hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trứ tại Nước
kia. Nếu xí nghiệp hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các khoản lợi tức của
xí nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên phần lợi tức phân bổ
cho:
a. cơ sở thường trú đó;
b. việc bán tại Nước kia những hàng hóa cùng loại
hay tương tự với hàng hóa bán qua cơ sở thường trú; hay
c. các hoạt động kinh doanh khác được thực hiện tại
Nước kia cùng loại hay tương tự với những hoạt động được thực hiện thông qua cơ
sở thường trú.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3, khi một xí
nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có những
khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở đó có thể thu
được, nếu nó là một xí nghiệp riêng, tách biệt cùng tham gia vào các hoạt động
như nhau hay tương tự trong cùng những điều kiện như nhau hay tương tự và có
quan hệ hoàn toàn độc lập với xí nghiệp mà cơ sở đó được coi là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi tức của một cơ sở thường
trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí phát sinh phục vụ cho hoạt
động kinh doanh của cơ sở thường trú này bao gồm cả chi phí điều hành và chi
phí quản lý chung, cho dù chi phí đó phát sinh tại Nước nơi cơ sở thường trú đó
đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên sẽ không cho phép trừ các chi phí bất
kỳ các khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú trả cho (trừ khi là khoản
thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn phòng
nào khác của xí nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản lệ phí hay bất
kỳ khoản thanh toán nào tương tự để sử dụng bằng phát minh hay các quyền khác,
hay dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hay
trả cho công việc quản lý hay dưới hình thức lãi tính trên tiền cho cơ sở thường
trú vay, trừ trường hợp đối với tổ chức ngân hàng. Cũng tương tự, trong khi xác
định lợi tức của cơ sở thường trú sẽ không tính đến các khoản tiền (trừ khi là
khoản thanh toán chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở chính của
xí nghiệp hay bất kỳ văn phòng khác của xí nghiệp, dưới hình thức tiền bản quyền,
các khoản lệ phí hay các khoản thanh toán tương tự để được sử dụng bằng phát
minh hay các quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện
các dịch vụ riêng biệt hay trả cho công việc quản lý, hay dưới hình thức lãi
tính trên tiền cho trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn phòng nào khác của
xí nghiệp vay, trừ trường hợp đối với tổ chức ngân hàng.
4. Không nội dung nào tại Điều n
ày ảnh hưởng đến việc áp dụng bất kỳ luật nào của một
Nước ký kết liên quan đến việc xác định nghĩa vụ nộp thuế của một đối tượng
trong các trường hợp thông tin cung cấp cho nhà chức trách có thẩm quyền của Nước
đó không đủ để có thể xác định các khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường
trú, với điều kiện luật trên sẽ được áp dụng, trong phạm vi thông tin cung cấp
cho nhà chức trách có thẩm quyền cho phép, phù hợp với những nguyên tắc của Điều
này.
5. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn thường xác định
các khoản lợi tức phân bổ cho cơ sở thường trú trên cơ sở phân chia tổng lợi tức
của xí nghiệp thành các phần khác nhau, thì không có nội dung nào tại khoản 2
ngăn cản của Nước ký kết đó xác định lợi tức chịu thuế theo cách phân chia theo
thông lệ đó; tuy nhiên phương pháp phân chia được áp dụng phải đưa ra kết quả
phù hợp với các nguyên tắc tại Điều này.
6. Theo nội dung những khoản trên, các khoản lợi tức
được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng một phương pháp
qua các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để thay đổi phương pháp tính.
7. Khi lợi tức bao gồm các khoản thu nhập được đề
nghị riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều
đó không bị ảnh hưởng bởi những quy định tại Điều này.
ĐIỀU 8. VẬN TẢI BIỂN, VẬN TẢI
HÀNG KHÔNG VÀ ĐƯỜNG SẮT
1. Lợi tức do một xí nghiệp của một Nước ký kết thu
được từ hoạt động của tàu thủy, máy bay và phương tiện vận tải đường sắt trong
vận tải quốc tế sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Những quy định tại khoản 1 cũng sẽ áp dụng cho
các khoản lợi tức thu được từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên doanh hay
một hãng hoạt động quốc tế.
ĐIỀU 9. NHỮNG XÍ NGHIỆP LIÊN KẾT
Khi:
a. một xí nghiệp của một Nước ký kết tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí nghiệp
của Nước ký kết kia; hoặc
b. các đối tượng cùng tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí nghiệp của một Nước ký
kết và vào một xí nghiệp của Nước ký kết kia, và trong cả hai trường hợp, trong
mối quan hệ tài chính và thương mại giữa hai xí nghiệp trên có những điều kiện
được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các xí nghiệp độc lập,
lúc đó mọi khoản lợi tức mà một xí nghiệp có thể thu được nếu không có những điều
kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà xí nghiệp đó không thu được, sẽ vẫn
được một Nước ký kết tính vào các khoản lợi tức của xí nghiệp đó và bị đánh thuế
tương ứng.
ĐIỀU 10. TIỀN LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ phần đó cũng
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú, và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực
hưởng tiền lãi cổ phần thì thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm
tổng số tiền lãi cổ phần.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới việc đánh thuế
công ty đối với khoản lợi tức dùng để chia tiền lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ "tiền lãi cổ phần" được sử dụng
trong Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần, hoặc các quyền lợi khác, không
kể các khoản nợ, được hưởng lợi tức, cũng như thu nhập từ các quyền lợi công ty
khác cùng chịu sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần
theo các luật của Nước nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết
kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú, thông qua một cơ sở
thường trú nằm tại Nước đó, hay tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá
nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước kia, và quyền nắm giữ cổ
phần nhờ đó được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế đến cơ sở thường
trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp nêu trên các quy định tại Điều
7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết nhận được thu nhập hay lợi tức từ Nước ký kết kia thì Nước kia có thể
không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do công ty này trả, trừ
trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các khoản tiền lãi cổ phần được
trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định tại Nước
ký kết kia, đồng thời Nước ký kết kia cũng không buộc các khoản lợi tức không
chia của công ty trên phải chịu thuế đối với những khoản lợi tức không chia của
công ty, cho dù những khoản tiền lãi cổ phần được chia hoặc các khoản lợi tức
không chia bao gồm toàn bộ hay một phần các khoản lợi tức hoặc thu nhập phát
sinh tại Nước kia.
ĐIỀU 11. LÃI TỪ TIỀN CHO VAY
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết
và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
2. Tuy nhiên, khoản tiền lãi này cũng có thể bị
đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo luật pháp của Nước đó,
nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng khoản tiền lãi này thì mức thuế
được tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số khoản lãi tiền cho vay.
3. Mặc dù đã có quy định tại khoản 2, lãi từ tiền
cho vay phát sinh:
a. tại Việt Nam và được trả cho Chính phủ, một cơ
quan chính quyền cơ sở hay một chính quyền địa phương của Mông Cổ hay trả cho
Ngân hàng Trung ương Mông Cổ hay Ngân hàng phát triển và Thương mại Mông Cổ sẽ
được miễn thuế Việt Nam.
b. tại Mông Cổ và được trả cho Chính phủ, một cơ
quan chính quyền địa phương của Việt Nam hay trả cho Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam sẽ được miễn thuế Mông Cổ.
4. Thuật ngữ "lãi từ tiền cho vay" dùng ở
Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có hay
không được bảo đảm bằng thế chấp nhưng không có quyền được hưởng lợi tức của
người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của Chính phủ và thu
nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, bao gồm cả tiền thưởng và giải
thưởng đi liền với các chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó.
Tiền phạt thanh toán chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho vay theo nội
dung của Điều này.
5. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không được áp
dụng nếu đối tượng thực hưởng lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư trú tại một
Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi phát sinh
các khoản lãi từ tiền cho vay, thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia hoặc
thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở
cố định nằm tại Nước kia và khoản nợ có các khoản tiền lãi được trả có sự liên
hệ thực tế với: (a) cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó; hoặc (b) các hoạt động
kinh doanh nêu tại điểm (c) khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp như vậy các quy định
tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy tường trường hợp, sẽ được áp dụng.
6. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là phát sinh tại
một Nước ký kết khi người trả chính là Nhà nước đó, cơ quan chính quyền cơ sở,
chính quyền địa phương hoặc đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng
trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một cơ sở cố định liên
quan đến các khoản lãi này, và khoản tiền lãi đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở
cố định đó chịu thì dù đối tượng đó có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết
hay không, khoản tiền lãi này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường
trú hay cơ sở cố định đó đóng.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả lãi và đối tượng thực hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các đối
tượng khác, khoản lãi tiền cho vay liên quan đến khoản nợ phải trả tiền lãi, vượt
quá khoản tiền có thể đã được thỏa thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực
hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các Quy định của điều này sẽ chỉ
áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc biệt
trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo luật của
từng Nước ký kết có xem xét thích đáng tới các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 12. TIỀN BẢN QUYỀN
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một Nước ký kết và
được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có
thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật của Nước này,
nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng tiền bản quyền, thì mức thuế
được tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền.
3. Thuật ngữ "tiền bản quyền" được sử dụng
trong Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất kỳ dạng nào được trả cho
việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bản quyền tác giả của một tác phẩm văn học,
nghệ thuật hay khoa học, kể cả phim điện ảnh hoặc các loại phim hay các loại
băng dùng trong phát thanh và truyền hình, bằng phát minh, nhãn hiệu thương mại,
thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, hay trả cho việc sử
dụng, hay quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa học, hay trả
cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương mại hoặc khoa học.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng
nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh ở Nước ký kết kia nơi có khoản tiền
bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước kia, hoặc tiến
hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố
định nằm tại Nước kia, và quyền hay tài sản có các khoản tiền bản quyền được trả
có sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó, hoặc (b)
những hoạt động kinh doanh ghi tại điểm (c) khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp
như vậy các quy định của Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát sinh tại một
Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền chính là Nhà nước đó, cơ quan
chính quyền cơ sở, chính quyền địa phương hoặc là đối tượng cư trú của Nước đó.
Tuy nhiên, khi một đối tượng trả tiền bản quyền, là hay không là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một cơ sở
cố định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh và tiền bản
quyền đó do cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản quyền
này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hay cơ sở cố định
đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối tượng
khác, khoản tiền bản quyền được trả đối với việc sử dụng, quyền hoặc thông tin,
vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền và đối tượng thực
hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ
chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ trên. Trong
trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ chỉ bị đánh thuế theo luật của từng Nước
ký kết có xem xét thích đáng đến các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 13. PHÍ DỊCH VỤ KỸ THUẬT
1. Phí dịch vụ kỹ thuật phát sinh tại một Nước ký kết
và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại
Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản phí dịch vụ kỹ thuật này cũng
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh và theo các luật của Nước đó,
nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng khoản phí dịch vụ này thì thuế
được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số khoản phí dịch vụ kỹ
thuật.
3. Thuật ngữ "phí dịch vụ kỹ thuật" được
dùng ở Điều này có nghĩa là các khoản tiền dưới bất kỳ dạng nào trả cho một đối
tượng, trừ trường hợp trả cho người làm thuê của đối tượng trả tiền, có liên hệ
tới các hoạt động dịch vụ có tính chất kỹ thuật, quản lý hoặc tư vấn.
4. Các quy định của khoản 1 và 2 Điều này sẽ không áp
dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản phí dịch vụ kỹ thuật là một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
nơi các khoản phí dịch vụ kỹ thuật phát sinh thông qua một cơ sở thường trú đặt
tại Nước kia, hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập
thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước kia, và các khoản phí dịch vụ kỹ thuật
có sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú do hay cơ sở cố định đó, hoặc
(b) những hoạt động kinh doanh ghi tại điểm (c) khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp
như vậy các quy định của Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Các khoản phí dịch vụ kỹ thuật sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả phí chính là Nhà nước đó, một cơ
quan chính quyền cơ sở, chính quyền địa phương của Nước đó, hoặc một đối tượng
cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả phí dịch vụ kỹ thuật, là hay
không là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở
thường trú hay một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả phí dịch vụ kỹ
thuật đã phát sinh, và khoản phí dịch vụ kỹ thuật do cơ sở thường trú hay cơ sở
cố định đó chịu thì khoản phí dịch vụ kỹ thuật như vậy sẽ được coi là phát sinh
ở Nước ký kết nơi đặt cơ sở thường trú hay cơ sở cố định.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả 2 đối tượng trên với các đối tượng
khác, khoản phí dịch vụ kỹ thuật được trả, vì bất cứ lý do gì, vượt quá khoản
tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng khi không có mối
quan hệ đặc biệt này, các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản
phí dịch vụ kỹ thuật khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp như vậy,
phần thanh toán vượt sẽ vẫn bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết, có
xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 14. LỢI TỨC TỪ CHUYỂN NHƯỢNG
TÀI SẢN
1. Lợi tức thu được từ việc chuyển nhượng bất động
sản, như đã nêu tại Điều 6, có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi có bất động
sản đó.
2. Những khoản lợi tức từ việc chuyển nhượng động sản
là một phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một xí nghiệp của
một Nước ký kết này có tại Nước ký kết kia hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định
của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để tiến hành
hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập kể cả lợi tức từ việc chuyển nhượng cơ sở thường
trú đó (riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ xí nghiệp) hoặc cơ sở cố
định đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Lợi tức thu được từ việc chuyển nhượng các tàu
thủy, máy bay hoặc phương tiện vận tải đường sắt do một xí nghiệp của một Nước
ký kết điều hành trong hoạt động vận tải quốc tế hay lợi tức từ việc chuyển nhượng
động sản gắn liền với hoạt động của các tàu thủy, máy bay hoặc phương tiện vận
tải đường sắt đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi xí nghiệp là đối tượng
cư trú.
4. Lợi tức do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ việc chuyển nhượng các cổ phần hay các quyền lợi khác của một
công ty mà tài sản của công ty đó bao gồm toàn bộ hay chủ yếu là bất động sản nằm
tại Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
5. Lợi tức thu được từ việc chuyển nhượng bất kỳ
tài sản nào khác với tài sản được nêu tại các khoản 1, 2, 3 và 4 sẽ chỉ bị đánh
thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
ĐIỀU 15. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ
NHÂN ĐỘC LẬP
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hay các hoạt động khác có tính
chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ những trường hợp sau đây, thu
nhập đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia:
a. Nếu đối tượng cư trú đó thường xuyên có tại Nước
ký kết kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động trên; trong trường hợp
đó chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước
ký kết kia; hay
b. Nếu đối tượng đó có mặt tại Nước ký kết kia
trong khoảng thời gian đến hay vượt quá 183 ngày trong giai đoạn 12 tháng liên
tục có liên quan; trong trường hợp đó chỉ phần thu nhập thu được từ các hoạt động
của đối tượng đó được thực hiện tại Nước kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ "dịch vụ ngành nghề" bao gồm
chủ yếu những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hay giảng dạy
mang tính chất độc lập cũng như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, bác
sĩ, luật sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
ĐIỀU 16. HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ CÁ
NHÂN PHỤ THUỘC
1. Thể theo các quy định tại Điều 17, 19 và 20 các
khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao tương tự khác do một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ bị đánh
thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng đó được thực hiện tại Nước ký
kết kia. Nếu công việc lao động được thực hiện như vậy, số tiền thu được từ lao
động đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản 1, tiền công
do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công tại
Nước ký kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a. đối tượng nhận tiền công có mặt tại Nước ký kết
kia trong một thời gian hoặc nhiều thời gian gộp lại không quá 183 ngày trong bất
kỳ giai đoạn mười hai tháng liên tục có liên quan, và
b. chủ lao động hay đối tượng đại diện chủ lao động
trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước kia, và
c. số tiền công không phải phát sinh tại một cơ sở
thường trú hoặc một cơ sở cố định mà đối tượng chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, tiền
công từ lao động làm trên tàu thủy, máy bay hoặc phương tiện vận tải đường sắt
do một xí nghiệp của một Nước ký kết điều hành trong vận tải quốc tế sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó.
ĐIỀU 17. THÙ LAO CHO GIÁM ĐỐC
Các khoản thù lao cho giám đốc và các khoản thanh
toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được với tư
cách là thành viên của ban giám đốc hay của một tổ chức tương tự của một công
ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
ĐIỀU 18. NGHỆ SĨ VÀ VẬN ĐỘNG
VIÊN
1. Mặc dù có những quy định tại Điều 15 và 16, thu
nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được với tư cách người biểu
diễn như diễn viên sân khấu, điện ảnh, phát thanh hay truyền hình, hoặc nhạc
công, hoặc với tư cách là vận động viên, từ những hoạt động cá nhân của mình thực
hiện tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các hoạt động
trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không được trả
cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một đối tượng khác
thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt động
trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù có những quy định tại
Điều 7, 15 và 16.
3. Mặc dù đã có những quy định tại khoản 1 và 2,
thu nhập do người trình diễn hay vận động viên là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết thu được từ các hoạt động trình diễn tại Nước ký kết kia theo chương
trình trao đổi văn hóa giữa hai Chính phủ của cả hai Nước ký kết sẽ được miễn
thuế tại Nước ký kết kia.
ĐIỀU 19. TIỀN LƯƠNG HƯU
1. Thể theo các quy định tại khoản 2 Điều 20, tiền
lương hưu và các khoản tiền công tương tự được trả cho một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết do các công việc đã làm trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước
đó.
2. Mặc dù đã có quy định tại khoản 1, tiền lương
hưu hoặc các khoản tiền tương tự khác do Chính phủ của một Nước ký kết hay cơ
quan chính quyền cơ sở hay chính quyền địa phương của Nước đó trả theo một
chương trình của Nhà nước là một phần của hệ thống bảo hiểm xã hội của Nước ký
kết đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
ĐIỀU 20. PHỤC VỤ CHÍNH PHỦ
1. a. Tiền công lao động, trừ tiền lương hưu, do một
Nước ký kết hoặc một cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của
Nước đó trả cho một cá nhân đối với các công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc
chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước đó.
b. Tuy nhiên khoản tiền công lao động này sẽ chỉ bị
đánh thuế ở Nước ký kết kia nếu công việc phục vụ này được thực hiện tại Nước
kia và nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời:
(i) là đối tượng mang quốc tịch của Nước kia; hoặc
(ii) không trở thành đối tượng cư trú của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện
những công việc trên.
2. a. Bất kỳ khoản tiền lương hưu nào do một Nước
ký kết hoặc một cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước
đó hoặc do các quỹ của những cơ quan này lập ra trả cho một cá nhân đối với các
công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc các cơ quan chính quyền cơ sở hay chính quyền
địa phương tại Nước đó sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước đó.
b. Tuy nhiên khoản tiền lương hưu này sẽ chỉ bị
đánh thuế ở Nước ký kết kia nếu cá nhân này vừa là đối tượng cư trú, vừa là đối
tượng mang quốc tịch của Nước kia.
3. Các quy định của Điều 16, 17 và 19 sẽ áp dụng đối
với những khoản tiền công lao động và lương hưu đối với các công việc phục vụ
liên quan đến hoạt động kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký kết hoặc cơ
quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó.
ĐIỀU 21. SINH VIÊN
1. Một sinh viên, thực tập sinh hay học viên học
nghề là người ngay trước khi đến một Nước ký kết đã và đang là một đối tượng cư
trú của Nước ký kết kia và là người hiện đang có mặt tại Nước thứ nhất chỉ với mục
đích học tập, đào tạo sẽ được miễn thuế tại Nước thứ nhất đối với các khoản tiền
hay thu nhập dưới đây do người sinh viên, thực tập sinh hay học viên đó nhận được
hay thu được để trang trải chi phí sinh hoạt, học tập hay đào tạo:
a. khoản tiền thu được từ các nguồn ở ngoài Nước ký
kết đó để trang trải chi phí sinh hoạt, học tập, nghiên cứu hay đào tạo, và
b. các khoản trợ cấp, học bổng hay giải thưởng do
Chính phủ hay một tổ chức khoa học, giáo dục, văn học hay tổ chức phi lợi nhuận
trao tặng.
2. Mặc dù đã có quy định của Điều 15 và 16 tiền
công trả cho các dịch vụ do một sinh viên, thực tập sinh hay học viên thực hiện
tại một Nước ký kết sẽ không bị đánh thuế tại Nước đó, với điều kiện các hoạt động
dịch vụ như vậy có liên hệ đến việc học tập hay đào tạo của người sinh viên, thực
tập sinh hay học viên đó.
ĐIỀU 22. GIÁO VIÊN, GIÁO SƯ VÀ
NHÀ NGHIÊN CỨU
1. Một cá nhân, người đang hoặc ngay trước khi sang
một Nước ký kết đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại
Nước thứ nhất chỉ với mục đích giảng dạy, thuyết trình, hay tiến hành nghiên cứu
tại một trường đại học, cao đẳng, trường phổ thông hay các cơ sở giáo dục hay
các viện nghiên cứu khoa học được Chính phủ của Nước ký kết thứ nhất công nhận
sẽ được miễn thuế tại Nước thứ nhất đối với khoản tiền công trả cho việc giảng
dạy, thuyết trình hoặc nghiên cứu đó trong thời hạn 2 năm kể từ ngày đầu tiên
cá nhân đó đến Nước ký kết thứ nhất.
2. Điều này sẽ áp dụng đối với thu nhập từ việc
nghiên cứu nếu việc nghiên cứu đó do một cá nhân thực hiện phục vụ cho lợi ích
công và ngay từ ban đầu không phục vụ cho lợi ích của một hay một số đối tượng
tư nhân khác.
ĐIỀU 23. THU NHẬP KHÁC
1. Những khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến tại những Điều
trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Những quy định tại khoản 1 sẽ không áp dụng đối
với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại khoản 2 Điều 6,
nếu đối tượng nhận thu nhập là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có tiến
hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú nằm
tại Nước kia hay thực hiện tại Nước kia những hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập
thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền lợi hay tài sản liên quan đến
số thu nhập được chi trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hay cơ sở cố
định như trên. Trong trường hợp như vậy những quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15,
tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
3. Mặc dù đã có quy định tại khoản 1 và 2, những
khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết chưa được đề cập tại
những Điều trên của Hiệp định này và phát sinh tại Nước ký kết kia cũng có thể
bị đánh thuế tại Nước kia.
ĐIỀU 24. CÁC BIỆN PHÁP XÓA BỎ
VIỆC ĐÁNH THUẾ HAI LẦN
Việc đánh thuế hai lần sẽ được xóa bỏ như sau:
a. Trường hợp một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết nhận được các khoản thu nhập từ Nước ký kết kia thì số thuế phải nộp tại Nước
ký kết kia phù hợp với các quy định của Hiệp định này có thể được trừ vào số
thuế mà đối tượng cư trú đó phải nộp tại Nước ký kết thứ nhất. Tuy nhiên, số
thuế được trừ sẽ không vượt quá số thuế tại Nước ký kết thứ nhất được tính trên
thu nhập đó phù hợp với các luật thuế và quy định về thuế của Nước ký kết đó.
b. Theo quy định về việc khấu trừ thuế tại một Nước
ký kết được nêu tại điểm a. Điều này, số thuế phải nộp tại Nước ký kết kia sẽ
bao gồm bất kỳ số thuế nào được miễn hay giảm theo luật pháp trong nước của Nước
ký kết kia.
ĐIỀU 25. KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Những đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết
sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ hình thức thuế nào hay bất kỳ yêu
cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với hay nặng hơn hình thức thuế và
các yêu cầu liên quan hiện đang và có thể áp dụng cho các đối tượng mang quốc tịch
của Nước kia trong những hoàn cảnh như nhau.
2. Hình thức thuế áp dụng đối với một cơ sở thường
trú của một xí nghiệp của một Nước ký kết đặt tại Nước ký kết kia sẽ không kém
thuận lợi hơn hình thức thuế áp dụng đối với các xí nghiệp của Nước kia cùng thực
hiện những hoạt động tương tự. Quy định này sẽ không được giải thích là buộc một
Nước ký kết phải cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia được hưởng các khoản
miễn thu cá nhân, miễn thuế và giảm thuế căn cứ vào tư cách dân sự hay trách
nhiệm gia đình mà Nước đó cho đối tượng cư trú tại Nước mình được hưởng.
3. Các quy định tại khoản 2 Điều này sẽ không áp dụng
đối với thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của Việt Nam và không áp dụng đối với
các loại thuế Việt Nam liên quan tới các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
4. Không có nội dung nào tại Điều này sẽ được giải
thích là buộc từng Nước ký kết cho các cá nhân không phải là đối tượng cư trú của
Nước đó được hưởng bất kỳ các khoản miễn thu hay các khoản miễn thuế và giảm
thuế cá nhân trong khi tính thuế mà Nước đó cho các cá nhân là đối tượng cư trú
của Nước đó được hưởng.
5. Mặc dù đã có các quy định của Điều này, trong thời
gian Việt Nam tiếp tục cấp giấy phép cho các nhà đầu tư theo Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, trong đó quy định chi tiết hình thức thuế nhà đầu tư phải nộp
thì việc áp dụng hình thức thuế đó sẽ không bị coi là vi phạm các quy định tại
khoản 2 Điều này.
6. Những quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng cho
các loại thuế thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này.
ĐIỀU 26. CÁC THỦ TỤC THỎA THUẬN
SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của nhà chức trách có thẩm quyền
của một hay cả hai Nước ký kết làm cho hay sẽ làm cho đối tượng đó phải nộp thuế
không đúng theo những quy định của Hiệp định này, lúc đó đối tượng này có thể
giải trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết
nơi đối tượng đó đang cư trú, mặc dù trong các luật trong nước của hai Nước ký
kết đã quy định những chế độ xử lý khiếu nại. Trường hợp đó phải được giải
trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo đầu tiên dẫn đến hình thức thuế
áp dụng không phù hợp với những quy định tại Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như
việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó không thể đi đến một
giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết
kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục
đích tránh đánh thuế không phù hợp với nội dung của Hiệp định. Mọi thỏa thuận đạt
được sẽ được thực hiện không căn cứ vào những giới hạn thời gian ghi trong luật
trong nước của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ cố gắng cùng giải quyết mọi khó khăn hay vướng mắc nảy sinh trong quá trình
áp dụng Hiệp định này. Hai bên cũng có thể trao đổi với nhau nhằm xóa bỏ việc
đánh thuế hai lần trong những trường hợp chưa được quy định trong Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
có thể trực tiếp thông báo cho nhau với mục đích nhằm đạt được một thỏa thuận
theo nội dung của những khoản trên đây. Các nhà chức trách có thẩm quyền sẽ
trao đổi để phát triển các thủ tục, điều kiện, biện pháp và kỹ thuật song
phương thích hợp để thực hiện thủ tục thỏa thuận song phương được quy định tại Điều
này.
ĐIỀU 27. TRAO ĐỔI THÔNG TIN
1. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc triển khai thực hiện những
quy định của Hiệp định này hay của các luật trong nước của hai Nước ký kết liên
quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng sao cho việc đánh thuế theo các
luật trong nước sẽ không trái với Hiệp định này đặc biệt là trao đổi thông tin
nhằm ngăn chặn hoặc phát hiện việc trốn lậu các loại thuế đó. Mọi thông tin do
một Nước ký kết nhận được sẽ được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo luật
trong nước của Nước này và thông tin đó chỉ được cung cấp cho các đối tượng hay
các cơ quan chức trách (bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên
quan đến việc tính toán, thu, cưỡng chế hay truy tố hoặc xác định các khiếu nại
liên quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng. Các đối tượng hoặc các cơ
quan chức trách này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu trên.
Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp các thông tin này trong quá
trình tố tụng công khai của tòa án hay trong các quyết định của tòa án.
2. Không có những trường hợp nào những quy định tại
khoản 1 được giải thích là buộc nhà chức trách có thẩm quyền của một Nước ký kết
có nghĩa vụ:
a. thực hiện các biện pháp hành chính khác với luật
pháp hay thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hay của Nước ký kết
kia;
b. cung cấp những thông tin không thể tiết lộ được
theo các luật hay theo như quá trình quản lý hành chính thông thường của Nước
ký kết đó hay của Nước ký kết kia;
c. cung cấp những thông tin có thể làm tiết lộ bí mật
về mậu dịch, kinh doanh, công nghiệp, thương mại hay bí mật nghề nghiệp hoặc
các phương thức kinh doanh, hoặc cung cấp những thông tin mà việc tiết lộ chúng
có thể trái với chính sách nhà nước.
ĐIỀU 28. CÁC VIÊN CHỨC NGOẠI
GIAO VÀ LÃNH SỰ
Những nội dung trong Hiệp định này sẽ không ảnh hưởng
đến những ưu đãi về thuế dành cho các viên chức ngoại giao hoặc viên chức lãnh
sự theo những nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế hay những quy định trong
các Hiệp định đặc biệt.
ĐIỀU 29. HIỆU LỰC
1. Từng Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau bằng văn
bản qua đường ngoại giao việc hoàn thành các thủ tục cần thiết theo luật của Nước
mình để đưa Hiệp định này vào hiệu lực. Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày
nhận được thông báo sau cùng.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi hành tại hai Nước
ký kết:
a. đối với các loại thuế khấu trừ tại nguồn, thu
trên các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1
của năm dương lịch tiếp sau năm Hiệp định có hiệu lực, và trong các năm dương lịch
tiếp theo;
b. đối với các loại thuế khác thu trên thu nhập, lợi
tức hay lợi tức chuyển nhượng tài sản phát sinh trong các năm dương lịch bắt đầu
vào ngày hoặc sau ngày 1 tháng 1 của năm dương lịch tiếp sau năm Hiệp định có
hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp theo.
ĐIỀU 30. KẾT THÚC
Hiệp định này sẽ vẫn còn hiệu lực cho tới khi một
trong hai Nước ký kết tuyên bố kết thúc. Từng Nước ký kết thông qua các đường
ngoại giao có thể kết thúc Hiệp định bằng cách gửi cho Nước ký kết kia văn bản
thông báo kết thúc Hiệp định ít nhất sáu tháng trước khi kết thúc bất kỳ năm
dương lịch nào bắt đầu từ sau thời hạn năm năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.
Trong trường hợp như vậy, Hiệp định sẽ chấm dứt hiệu lực thi hành tại hai Nước
ký kết:
a. đối với các loại thuế khấu trừ tại nguồn, thu
trên các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả kể từ ngày 1 tháng 1 của năm
dương lịch tiếp sau năm gửi thông báo kết thúc Hiệp định, và trong các năm
dương lịch tiếp theo;
b. đối với các loại thuế khác thu trên thu nhập, lợi
tức hay lợi tức chuyển nhượng tài sản phát sinh trong năm dương lịch tiếp sau
năm gửi thông báo kết thúc Hiệp định, và trong các năm dương lịch tiếp theo.
ĐỂ LÀM BẰNG những người được ủy quyền dưới đây của
từng Chính phủ đã ký vào Hiệp định này.
Hiệp định làm thành hai bản tại Ulan Bator ngày 9
tháng 5 năm 1996 mỗi bản gồm tiếng Việt, tiếng Mông Cổ và tiếng Anh, tất cả các
văn bản đều có giá trị ngang nhau. Trường hợp có sự khác nhau trong việc giải
thích, văn bản tiếng Anh sẽ có giá trị quyết định.
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(Đã ký)
|
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ NƯỚC MÔNG CỔ
(Đã ký)
|
Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 11/10/1996.